Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa (K. G. Paustovsky)

K.G. Paustovski (31/5/1892- 14/7/1968) là nhà văn Nga rất nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ẩn đằng sau vẻ băng giá bên ngoài, Konxtantin Paustovski sở hữu một tâm hồn Nga tuyệt đẹp với trái tim cháy rực lửa yêu thương. Ông biết rung cảm sâu sắc với cảnh đẹp thiên nhiên và sự hồn hậu của những con người không chỉ của nước Nga mà cả những nơi ông đã đi qua.

Hai tập truyện ngắn Bông hồng vàng và Bình minh mưa của Paustovsky mang đến cho độc giả những cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng, một thế giới thanh bình yên ả trước thế chiến thứ II, thế giới của những con người nước Nga bình dị, đôn hậu và lóng lánh chất thơ. Những truyện ngắn như: Tuyết, Chiếc nhẫn bằng thép, Bức điện, Trái tim nhút nhát… được Paustovski diễn đạt bằng lối văn chương giản đơn, dịu dàng như con trẻ, tác giả đã thể hiện được những tình cảm dung dị nhất: tình cảm giữa cha mẹ với con, tình yêu đôi lứa, tình làng nghĩa xóm… của con người nước Nga những năm đầu thế kỷ trước.

Bông hồng vàng và bình minh mưa khiến bạn đọc phải giật mình và tự hỏi: thật sự trên đời này vẫn còn những câu chuyện kỳ diệu như thế? Thông qua tác phẩm, Paustovski nhắc nhở chúng ta về những điều đẹp đẽ, những niềm hạnh phúc nhỏ nhắn mà chúng ta đã bỏ quên hay xem như xa xỉ trong cuộc sống vội vã của mình.

***

Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tìm mua: Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa TiKi Lazada Shopee

Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ.

Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili:

- Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi.

Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong.

Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva - tôi đã gặp Paustovsky.

Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng...

Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky.

Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn.

Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị..., tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy.

Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn.

°°°

Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev.

Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát.

Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư".

Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác.

Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911.

Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn thành phố này từ đấy.

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva.

Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye.

Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau".

Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin... Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư.

Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời.

Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau".

Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng".

Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm...

Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều.

Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết".

Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ.

Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống[2].

Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa PDF của tác giả K. G. Paustovsky nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nửa Tháng Trong Miền Thất Sơn (Nguyễn Văn Hầu)
Cổ nhân nói “Sơn bất tại cao, hữu tiên tất linh” - Núi không cần cao, có tiên thì linh. Có thể nói ngoài địa thế được thiên nhiên ưu đãi thì bóng dáng những “ông đạo” và giai thoại ly kỳ của họ đã làm cho vùng Thất Sơn của Châu Đốc, An Giang trở thành linh địa. Du ngoạn non Sam Ngày trước đọc “Nửa tháng trong miền Thất Sơn” của Nguyễn Văn Hầu thấy tả cảnh vào Thất Sơn thật là trần ai, phải lặn lội qua vô số kênh rạch như Cần Thảo, Cây Dương, Vịnh Tre… chằng chịt. Còn bây giờ, đường vào núi Sam nói riêng và cả vùng Thất Sơn huyền bí nói chung đều được khai thông lên tới đỉnh. Từ thị xã Châu Đốc vào đến chân núi Sam chỉ 5km với con đường trải nhựa thẳng băng, đen nhánh, bóng loáng như dải lụa Tân Châu. Hai bên bờ là đồng lúa bát ngát, thi thoảng ẩn hiện vài ngôi chùa theo phái Tiểu thừa. Núi Sam là ngọn núi gần nhất, có hình một chú sam biển khổng lồ. So với các rặng núi hùng vĩ ở miền Trung, miền Bắc, núi Sam chỉ đáng gọi là một ngọn đồi vì chỉ cao khoảng trên dưới 240m (có chỗ nói 228m hoặc 310m…). Nhưng “ngọn đồi” này mang cả một di sản với nhiều di tích văn hóa lịch sử nổi tiếng cấp quốc gia như miếu Bà Chúa Xứ, Tây An cổ tự, Sơn lăng Thoại Ngọc Hầu, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, chùa Hang cùng bao thắng cảnh khác. Núi Sam có tên chữ là Vĩnh Tế Sơn do Vua Minh Mạng ban cho lấy tên của bà Châu Thị Tế - chánh thất của Thoại Ngọc Hầu, khi ông chỉ huy đào xong con kênh nối liền từ Châu Đốc đến tận Hà Tiên từ năm 1819 đến 1824. Trước đó, núi Sam là vùng đất trọng yếu của quân thứ An Giang đạo (tương đương cấp quân khu ngày nay) vì địa thế hiểm trở, giáp biên giới Campuchia, từ trên đỉnh có thể bao quát cả vùng Châu Đốc. Tìm mua: Nửa Tháng Trong Miền Thất Sơn TiKi Lazada Shopee Trong bia Vĩnh Tế Sơn, Thoại Ngọc Hầu có nói: “Địa giới Châu Đốc xưa kia là khu vực của Phiên man, nhờ triều đình khai thác cõi Nam, mới cho đất ấy nhập vào bản đồ… Phía sau đồn có núi, mà lời tục thường quen gọi núi Sam. Nơi đây chầm ao, rừng rú mênh mông rậm rạp… Đến nay, ánh sáng sớm sương tan, bóng chiều tà ráng rọi, cây rậm rạp khoe xanh, cỏ là đà phô thắm. Bụi sạch trên đường, lên cao ngắm nghía, dòng sông trải lụa, khách đi qua buông chèo nhàn ngoạn, tay trỏ non xanh cùng nói với nhau: Đây là núi Vĩnh Tế, do vua ban tên đó!…”.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nửa Tháng Trong Miền Thất Sơn PDF của tác giả Nguyễn Văn Hầu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nợ Tình - Hồ Biểu Chánh (Hồ Biểu Chánh)
Con người có khi buồn mà cũng có khi vui, chẳng khác nào Trời có bữa mưa mà cũng có bữa nắng. Cây cỏ nhờ có mưa rồi có nắng mới sởn sơ tươi tốt mà kết quả đơm hoa. Con người có buồn rồi có vui thay đổi mới ẩn nhẫn mà sống lâu, chớ bắt buồn luôn luôn hoài, Trời lại sợ người ta say mê dâm dật mà chết yểu, rồi thành ma thành quỉ càng hại hơn nữa. Có lẽ vì định luật như vậy nên một lúc nọ bầu Trời đương thanh bạch tình cờ mây đen giăng mù mịt, mặt biển đương lặng trang thình lình nổi sóng gió ồ ào. Con người dầu buồn dầu vui mà thấy quang cảnh đổi thay bất ngờ thì ai cũng giựt mình, ngơ ngẩn, rồi phần nhiều chộn rộn lăng xăng, đầu nầy tìm chỗ đặng ẩn thân, đầu nọ vạch đường cho tiện bước. Hạng thanh niên tân tiến khắp trên địa cầu đều bị hoàn cảnh lôi cuốn, nên tinh thần rộn rực, tâm chí lung lay, bởi vậy nhiều người ở chung trong một nhà mà cũng hết đồng ý đồng tình, huống chi sống khắp nơi ngoài bốn biển làm sao mà được nhứt tâm nhứt đức. Giữa lúc xôn xao chen lấn, dầu hay dầu dở nào ai có chịu nhịn chịu thua. Mỗi người đều lo vạch đường vạch lối mà đi cho hạp với chí hướng của mình, từ Đông qua Tây đâu đó đều chăm nom bươi móc sách xưa truyện mới mà dọ xem ý tứ của tiền nhơn đặng noi theo, bởi vậy nhiều học thuyết lạ lùng, nhiều chủ nghĩa kỳ quái mới phát hiện ra lổ xổ như nấm mọc trong rừng, như mạ gieo ngoài ruộng. Đọc tiểu thuyết TỪ HÔN (viết và xuất bản năm 1937, nhà xuất bản LỬA HỒNG tái bản năm 1952) nhiều bạn đã thấy lúc đó ở Sàigòn gần chợ Thái Bình, có ba cậu thanh niên học thức ở chung một nhà, mà một cậu thì thờ chủ nghĩa “Vô vi vô tự “, một cậu lại bày chủ nghĩa “Tự trọng tự cao”, còn một cậu giản dị nên theo chủ nghĩa “Vô khả vô bất khả”. Ở chỗ khác còn có nhiều chủ nghĩa khác nữa, nào là “Xã hội nhơn sanh”, nào là “Gia đình dân tộc”, nào là “Túng dục tự tứ”, nào là “An mạng lạc thiên “, nào là “Bác ái từ bi”, nào là “Xá sanh thủ nghĩa”có đủ thứ hết, không thể kể cho xiết. Tìm mua: Nợ Tình - Hồ Biểu Chánh TiKi Lazada Shopee Hôm nay chúng tôi tọc mạch giới thiệu với các bạn một cậu thanh niên trí thức khác. Cậu nầy cũng sống đồng thời với ba cậu trong quyển tiểu thuyết TỪ HÔN. Cậu nầy cũng ở gần đó, ở bên phía Vĩnh Hội, ngang chợ Cầu Kho. Vì bổn tánh lạc quan nhưng khiêm nhượng nên cậu lấy hai chữ “Thứ Tiên” mà đặt bút hiệu. Cậu Thứ Tiên nghe người ta tuyên bố chủ nghĩa nầy chủ nghĩa nọ lăng xăng, cậu trề môi mà nói thiên hạ khéo bày đặt cho rộn ràng, họ cải trời, họ vong bổn, nên họ mới đi sái đường lạc lối. Theo ý cậu thì trên đời chẳng có chủ nghĩa nào cao quí, đáng phụng thờ cho bằng chủ nghĩa “Ái Tình”. Chủ nghĩa Ái tình là một chủ nghĩa thiên nhiên kỳ cựu, chủ nghĩa của tạo hóa đặt ra từ khi mới có loài người phát hiện trong thế gian. Sở dĩ tạo hóa đặt ra chủ nghĩa ấy là vì tạo hóa phân định có âm có dương, có đàn bà có đàn ông, có cái có đực, có mái có trống, trên mặt địa cầu tức thị phải có ái tình để cho muôn loài thương yêu nhau đặng sống chung cho êm ấm, đặng sanh sản thêm cho đông đảo mà giúp đỡ cậy nhờ nhau. Cậu cảm thấy cái chủ nghĩa thiêng liêng của tạo hóa đó là chủ nghĩa cần thiết của loài người hơn các chủ nghĩa khác hết thảy. Tại con người có tánh hẩng hờ, thứ gì mà được thưởng thức hằng ngày thì hay khinh thường, rồi lại thêm nhàm chán. Hơn nữa cái đẹp mà trải qua nhiều đời, lớp thì bị nhơn tâm biến chuyển, lớp thì tấn hoá đẩy đưa, vẻ đẹp lần lần phải lợt phai. Bởi vậy Ái tình là cây trụ cốt thiên nhiên của xã hội loài người, là cơ động lực mạnh mẽ của nhơn sanh chủng tộc mà bị người ta quên lửng, không được người phụng thờ quí trọng nữa, nó mới lạc mất chánh nghĩa thiêng liêng của nó. Mãi đến thế kỹ hai mươi nầy người ta lại còn khinh thị Ái tình đến nỗi xem Ái tình là một thứ tình tồi tệ là một chứng bịnh hiểm nguy. Người ta dẫn tích vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ, mà dạy con em phải xa lánh Ái tình, nói rằng nó sẽ làm cho người ta mất nước, sập nhà, nhơ danh, táng mạng. Bây giờ còn có mấy người nhảm nhí hoặc tham lam họ cậy Ái tình mà lừa gạt để họ thỏa mãn nhục dục hay là họ mưu lợi cầu danh mà thôi. Tại như vậy mà Ái tình là một mối tình cao cả, đáng tôn sùng, bị người đời làm lạc nghĩa nó hóa ra thấp hèn, rồi chịu khinh bỉ. Đã biết con người đến tuổi nào và thuộc bực nào cũng có mang Ái tình ngấm ngầm trong thâm tâm, nhưng vì thiên hạ cho Ái tình là tật xấu xa, hoặc bịnh nguy hiểm, bởi vậy ai cũng giấu diếm, nhiều khi lửa Ái tình hừng hực trong lòng mà cũng không dám hở môi hay mở miệng. Cậu Thứ Tiên không phải có óc thủ cựu hay là ý muốn lập dị, nên trái với thiên hạ, cậu xướng lên làm tông đồ cho chủ nghĩa Ái tình không đúng nghĩa, làm cho tình cao thượng hoá ra tình thấp hèn nên cậu cương quyết phải định nghĩa Ái tình lại cho chánh đáng cho hạp với ý của Tạo hóa. Cậu hăng hái hiến thân để phá tan thành kiến tồi tệ làm cho Ái tình lem luốc thấp hèn và nâng đở Ái tình mà đặt lên lại địa vị tối cao, dầu phải thất công tốn của bao nhiêu cậu cũng không nệ.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hồ Biểu Chánh":Chúa Tàu Kim QuyTại TôiĐỗ Nương Nương Báo OánHai Thà Cưới VợHai Khối TìnhKẻ Làm Người ChịuChị Đào, Chị LýNợ ĐờiHạnh Phúc Lối NàoAi Làm ĐượcÝ Và TìnhCười GượngVợ Già Chồng TrẻTỉnh MộngĐóa Hoa TànLời Thề Trước MiễuLòng Dạ Ðàn BàMẹ Ghẻ Con GhẻVì Nghĩa Vì TìnhCon Nhà GiàuCon Nhà NghèoTơ Hồng Vương VấnSống Thác Với TìnhĐoạn TìnhĂn Theo Thuở, Ở Theo ThờiTiền Bạc Bạc TiềnÔng CửTừ HônThiệt Giả Giả ThiệtNgười Thất ChíÁi Tình MiếuCay Đắng Mùi ĐờiCha Con Nghĩa NặngNam Cực Tinh HuyNặng Gánh Cang ThườngChút Phận Linh ĐinhBức Thư Hối HậnCư KỉnhLạc Đường - Hồ Biểu ChánhNgọn Cỏ Gió ĐùaNợ Tình - Hồ Biểu ChánhTân Phong Nữ SĩThầy Chung Trúng SốThầy Thông NgônĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nợ Tình - Hồ Biểu Chánh PDF của tác giả Hồ Biểu Chánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nợ Tình - Hồ Biểu Chánh (Hồ Biểu Chánh)
Con người có khi buồn mà cũng có khi vui, chẳng khác nào Trời có bữa mưa mà cũng có bữa nắng. Cây cỏ nhờ có mưa rồi có nắng mới sởn sơ tươi tốt mà kết quả đơm hoa. Con người có buồn rồi có vui thay đổi mới ẩn nhẫn mà sống lâu, chớ bắt buồn luôn luôn hoài, Trời lại sợ người ta say mê dâm dật mà chết yểu, rồi thành ma thành quỉ càng hại hơn nữa. Có lẽ vì định luật như vậy nên một lúc nọ bầu Trời đương thanh bạch tình cờ mây đen giăng mù mịt, mặt biển đương lặng trang thình lình nổi sóng gió ồ ào. Con người dầu buồn dầu vui mà thấy quang cảnh đổi thay bất ngờ thì ai cũng giựt mình, ngơ ngẩn, rồi phần nhiều chộn rộn lăng xăng, đầu nầy tìm chỗ đặng ẩn thân, đầu nọ vạch đường cho tiện bước. Hạng thanh niên tân tiến khắp trên địa cầu đều bị hoàn cảnh lôi cuốn, nên tinh thần rộn rực, tâm chí lung lay, bởi vậy nhiều người ở chung trong một nhà mà cũng hết đồng ý đồng tình, huống chi sống khắp nơi ngoài bốn biển làm sao mà được nhứt tâm nhứt đức. Giữa lúc xôn xao chen lấn, dầu hay dầu dở nào ai có chịu nhịn chịu thua. Mỗi người đều lo vạch đường vạch lối mà đi cho hạp với chí hướng của mình, từ Đông qua Tây đâu đó đều chăm nom bươi móc sách xưa truyện mới mà dọ xem ý tứ của tiền nhơn đặng noi theo, bởi vậy nhiều học thuyết lạ lùng, nhiều chủ nghĩa kỳ quái mới phát hiện ra lổ xổ như nấm mọc trong rừng, như mạ gieo ngoài ruộng. Đọc tiểu thuyết TỪ HÔN (viết và xuất bản năm 1937, nhà xuất bản LỬA HỒNG tái bản năm 1952) nhiều bạn đã thấy lúc đó ở Sàigòn gần chợ Thái Bình, có ba cậu thanh niên học thức ở chung một nhà, mà một cậu thì thờ chủ nghĩa “Vô vi vô tự “, một cậu lại bày chủ nghĩa “Tự trọng tự cao”, còn một cậu giản dị nên theo chủ nghĩa “Vô khả vô bất khả”. Ở chỗ khác còn có nhiều chủ nghĩa khác nữa, nào là “Xã hội nhơn sanh”, nào là “Gia đình dân tộc”, nào là “Túng dục tự tứ”, nào là “An mạng lạc thiên “, nào là “Bác ái từ bi”, nào là “Xá sanh thủ nghĩa”có đủ thứ hết, không thể kể cho xiết. Tìm mua: Nợ Tình - Hồ Biểu Chánh TiKi Lazada Shopee Hôm nay chúng tôi tọc mạch giới thiệu với các bạn một cậu thanh niên trí thức khác. Cậu nầy cũng sống đồng thời với ba cậu trong quyển tiểu thuyết TỪ HÔN. Cậu nầy cũng ở gần đó, ở bên phía Vĩnh Hội, ngang chợ Cầu Kho. Vì bổn tánh lạc quan nhưng khiêm nhượng nên cậu lấy hai chữ “Thứ Tiên” mà đặt bút hiệu. Cậu Thứ Tiên nghe người ta tuyên bố chủ nghĩa nầy chủ nghĩa nọ lăng xăng, cậu trề môi mà nói thiên hạ khéo bày đặt cho rộn ràng, họ cải trời, họ vong bổn, nên họ mới đi sái đường lạc lối. Theo ý cậu thì trên đời chẳng có chủ nghĩa nào cao quí, đáng phụng thờ cho bằng chủ nghĩa “Ái Tình”. Chủ nghĩa Ái tình là một chủ nghĩa thiên nhiên kỳ cựu, chủ nghĩa của tạo hóa đặt ra từ khi mới có loài người phát hiện trong thế gian. Sở dĩ tạo hóa đặt ra chủ nghĩa ấy là vì tạo hóa phân định có âm có dương, có đàn bà có đàn ông, có cái có đực, có mái có trống, trên mặt địa cầu tức thị phải có ái tình để cho muôn loài thương yêu nhau đặng sống chung cho êm ấm, đặng sanh sản thêm cho đông đảo mà giúp đỡ cậy nhờ nhau. Cậu cảm thấy cái chủ nghĩa thiêng liêng của tạo hóa đó là chủ nghĩa cần thiết của loài người hơn các chủ nghĩa khác hết thảy. Tại con người có tánh hẩng hờ, thứ gì mà được thưởng thức hằng ngày thì hay khinh thường, rồi lại thêm nhàm chán. Hơn nữa cái đẹp mà trải qua nhiều đời, lớp thì bị nhơn tâm biến chuyển, lớp thì tấn hoá đẩy đưa, vẻ đẹp lần lần phải lợt phai. Bởi vậy Ái tình là cây trụ cốt thiên nhiên của xã hội loài người, là cơ động lực mạnh mẽ của nhơn sanh chủng tộc mà bị người ta quên lửng, không được người phụng thờ quí trọng nữa, nó mới lạc mất chánh nghĩa thiêng liêng của nó. Mãi đến thế kỹ hai mươi nầy người ta lại còn khinh thị Ái tình đến nỗi xem Ái tình là một thứ tình tồi tệ là một chứng bịnh hiểm nguy. Người ta dẫn tích vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ, mà dạy con em phải xa lánh Ái tình, nói rằng nó sẽ làm cho người ta mất nước, sập nhà, nhơ danh, táng mạng. Bây giờ còn có mấy người nhảm nhí hoặc tham lam họ cậy Ái tình mà lừa gạt để họ thỏa mãn nhục dục hay là họ mưu lợi cầu danh mà thôi. Tại như vậy mà Ái tình là một mối tình cao cả, đáng tôn sùng, bị người đời làm lạc nghĩa nó hóa ra thấp hèn, rồi chịu khinh bỉ. Đã biết con người đến tuổi nào và thuộc bực nào cũng có mang Ái tình ngấm ngầm trong thâm tâm, nhưng vì thiên hạ cho Ái tình là tật xấu xa, hoặc bịnh nguy hiểm, bởi vậy ai cũng giấu diếm, nhiều khi lửa Ái tình hừng hực trong lòng mà cũng không dám hở môi hay mở miệng. Cậu Thứ Tiên không phải có óc thủ cựu hay là ý muốn lập dị, nên trái với thiên hạ, cậu xướng lên làm tông đồ cho chủ nghĩa Ái tình không đúng nghĩa, làm cho tình cao thượng hoá ra tình thấp hèn nên cậu cương quyết phải định nghĩa Ái tình lại cho chánh đáng cho hạp với ý của Tạo hóa. Cậu hăng hái hiến thân để phá tan thành kiến tồi tệ làm cho Ái tình lem luốc thấp hèn và nâng đở Ái tình mà đặt lên lại địa vị tối cao, dầu phải thất công tốn của bao nhiêu cậu cũng không nệ.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hồ Biểu Chánh":Chúa Tàu Kim QuyTại TôiĐỗ Nương Nương Báo OánHai Thà Cưới VợHai Khối TìnhKẻ Làm Người ChịuChị Đào, Chị LýNợ ĐờiHạnh Phúc Lối NàoAi Làm ĐượcÝ Và TìnhCười GượngVợ Già Chồng TrẻTỉnh MộngĐóa Hoa TànLời Thề Trước MiễuLòng Dạ Ðàn BàMẹ Ghẻ Con GhẻVì Nghĩa Vì TìnhCon Nhà GiàuCon Nhà NghèoTơ Hồng Vương VấnSống Thác Với TìnhĐoạn TìnhĂn Theo Thuở, Ở Theo ThờiTiền Bạc Bạc TiềnÔng CửTừ HônThiệt Giả Giả ThiệtNgười Thất ChíÁi Tình MiếuCay Đắng Mùi ĐờiCha Con Nghĩa NặngNam Cực Tinh HuyNặng Gánh Cang ThườngChút Phận Linh ĐinhBức Thư Hối HậnCư KỉnhLạc Đường - Hồ Biểu ChánhNgọn Cỏ Gió ĐùaNợ Tình - Hồ Biểu ChánhTân Phong Nữ SĩThầy Chung Trúng SốThầy Thông NgônĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nợ Tình - Hồ Biểu Chánh PDF của tác giả Hồ Biểu Chánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Những Đồng Tiền Siết Máu (Lê Văn Trương)
Năm ấy, tôi hai mươi bảy. Trong sáu năm nay nghĩa là từ ngày tôi từ giã cái nghề công chức và lấy vợ tôi đã sống trong cuộc đời phiêu lưu mà mỗi cuộc mạo hiểm lại làm cho con người của tôi dầy dạn thêm lên một chút. Cũng lại vui đời yêu đời, tin mình, tin người thêm lên một chút nữa. Mỗi lần tôi thắt cái dây lưng đạn trước khi ra đi, vợ tôi lại đặt nhẹ bàn tay lên cái bao súng: - Cẩn thận nhé, mình nhé. Rồi nhìn tôi, nghẹn ngào: - Mình đi độ bao nhiêu lâu hở mình? Tìm mua: Những Đồng Tiền Siết Máu TiKi Lazada Shopee Tôi hiểu cái nhìn ấy, cho nên tôi không trả lời cái câu nhà tôi hỏi, mà tôi trả lời ngay vào cái chỗ lòng nhà tôi mong ước nhưng không dám nói ra: - Anh đi một lần này nữa thôi. Nhà tôi nắm chặt tay tôi từ từ đặt lên trên ngực: - Đúng nhé, mình nhé. Nhà ta thế này cũng là thừa ăn rồi mà. Tôi tuổi ngựa. Lại có lẽ đẻ vào giờ “thiên sát” cho nên tâm hồn bị hung tinh quấy rối, tôi chỉ có thể quan niệm hạnh phúc ở trên lưng ngựa, và hình dung đã sống trong nhịp nhàng của bốn chiếc vó câu. Các ông bố phương Nam bảo rằng: “Thằng ấy có máu giang hồ”. Mà người phương Tây thì cho là: “Tôi có quỷ sứ trong người”. Còn tôi thì lúc nào tôi cũng giẫy lên như đỉa phải vôi. Tôi mạo hiểm lần đầu có lẽ vì miếng ăn. Tôi không muốn cho cái cô bé ngu dại đã đi yêu thằng con trai ở trong thằng con trai nghèo nhất phải hối hận về sự kén chọn của mình. Lần đầu, tôi mạo hiểm để làm giàu. Nhưng đã giàu rồi, tôi muốn giàu thêm cũng có, tôi thích mạo hiểm cũng có. Một tí khó khăn, một tí vất vả, một tí nguy nan đối với cuộc đời trẻ trung cũng như một tí rượu mạnh đối với cơ thể. Nó quất, nó vụt, nó làm nẩy điện lòng. Nó làm cho ta nhận thấy rằng ta đã sống.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Lê Văn Trương":Người Anh CảTrường ĐờiMột Lương Tâm Trong Sương MùNhững Đồng Tiền Siết MáuĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Những Đồng Tiền Siết Máu PDF của tác giả Lê Văn Trương nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.