Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Hoang Dã

Một kị sĩ dưới cái lạnh âm hai mươi lăm độ giữa thảo nguyên mênh mông. Một cô gái điếm giữa căn phòng khách sạn vắng. Sáu đứa trẻ trong một container tại kho hàng bỏ hoang. Một phụ nữ dưới đáy hố khai thác sỏi. Một giáo sư điểu học bên ngoài căn lều giữa mùa dzüüd khủng khiếp. Họ đều không còn sống khi được tìm ra. Họ được phát hiện gần như cùng thời điểm. Các cuộc điều tra đưa Yeruldelgger cùng cộng sự đến với lãnh thổ nhiều quốc gia, khiến câu chuyện mở ra một hướng hoàn toàn khác Sau Công lý thảo nguyên, Ian Manook lại gói gọn những phong cảnh, tập tục, ẩm thực và cả những bí mật của một vùng đất xưa nay vẫn luôn bí ẩn với thế giới vào trong một cuốn “đại” trinh thám, nơi ông một lần nữa tái khẳng định tài năng trong việc xây dựng các tình tiết và soi chiếu sâu sắc vào nhiều vấn đề của xã hội hiện đại. Giải thưởng Saint-Pacôme cho thể loại trinh thám năm 2015. *** Bộ sách Yeruldelgger gồm có: Công Lý Thảo Nguyên Thời Hoang Dã ... *** Ian Manook (tên thật là Patrick Manoukian) sinh ngày 13/8/1949 tại Meudon, Pháp. Sau khi tốt nghiệp Luật châu Âu và Khoa học chính trị thuộc Đại học Sorbonne và Học viện Báo chí Pháp, ông làm phóng viên độc lập, biên tập viên và nhà văn.Ông là người ưa thích du lịch, và đã đi rất nhiều nơi: Mỹ, Canada, Ấn Độ, Kathmandu, Iceland, Belize, Braxin,…Trong sự nghiệp viết văn, ông đã được nhận giải Gulli 2012 cho tiểu thuyết Anh em Bertignac. Công lý thảo nguyên là tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của Patrick Manoukian, được viết dưới bút danh Ian Manook, đã đạt nhiều giải thưởng danh giá: SNCF, Elle Polar, Quais du polar (năm 2014) và Audiolib 2015,… và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   ***   …và đặt tay lên cò súng. Rụt cổ trong chiếc áo choàng lót lông có mũ, thanh tra Oyun cố gắng tìm hiểu tổng thể mọi việc. Cô ngồi xổm trên lớp tuyết lạo xạo và cúi xuống để nhìn cho rõ hơn. Cái lạnh rạch đứt hai bên đồng tử của cô, còn không khí giá buốt như cào xoang mũi mỗi lần hít vào. Cảm giác chẳng khác gì đang hít phải những mảnh thủy tinh vỡ. Xung quanh cô, thêm một dzüüd[^b1] khủng khiếp nữa bao trùm lên thảo nguyên trắng xóa. Đây là năm thứ ba liên tiếp nỗi bất hạnh trắng giáng xuống đất nước này. Những mùa đông lạnh giá vùng cực dài dằng dặc nối tiếp bằng những mùa hè nóng hừng hực quá ngắn ngủi. Những cơn bão tuyết kéo dài nhiều ngày khiến người ta không thể nhìn thấy cả căn lều, lạc lối để rồi đứng chết cóng khi chỉ cách lều có một mét. Rồi đến những ngày bầu trời xanh như sơn mài bị xuyên thủng bởi vầng dương nhỏ xíu trắng bệch chiếu lên một vùng đất đông cứng trong băng. Oyun không có chút ký ức nào về những dzüüd như thế trong tuổi thơ của mình. Lần đầu tiên cô còn nhớ là mùa đông năm 2001. Một mùa đông khắc nghiệt và kéo dài tới mức bảy triệu gia súc đã chết trên toàn quốc. Cô nhớ như in trong ký ức hình ảnh hàng nghìn người du mục, mới vài tháng trước còn đầy kiêu hãnh và cứng cỏi, bị đẩy dạt về thành phố để ăn xin và chết trong im lặng, rét cóng dưới cống ngầm ở Oulan-Bator. Đàn ông mất hết ngựa, phụ nữ mất hết bò và dê, trẻ con thì mất hết cừu non, thậm chí cả lũ cún con. Mùa đông năm đó đã cướp đi nhiều sinh mạng ở Mông Cổ hơn cả mấy chiếc máy bay đâm vào tòa tháp đôi ở Manhattan. Và trong hai năm tiếp theo, những dzüüd khác đã tàn sát nốt những gì còn lại của đàn gia súc yếu ớt. Đã từng có những nỗi bất hạnh đen, những mùa hè nóng như thiêu làm mặt đất nứt nẻ bị nung cháy đến tận tầng sâu, lẫn những nỗi bất hạnh trắng khi mà tuyết trùm kín thảo nguyên dưới một lớp vỏ băng giá. Hai nỗi bất hạnh khiến lũ gia súc bị bỏ mặc suốt mùa đông. Những con vật tản mát đi tìm thức ăn, lạc đàn, rồi chết vì đói và lạnh. Chỉ tới mùa xuân người ta mới tìm thấy hàng nghìn cái xác gầy trơ xương, bị tuyết làm chín cả da lẫn thịt. Thậm chí là hàng triệu, khi một dzüüd hội tụ trong nó nỗi bất hạnh còn lớn hơn cả hai nỗi bất hạnh đen và trắng. Đống xác nhỏ là chỗ nhô lên duy nhất trong bán kính nhiều kilômét thảo nguyên xung quanh. Oyun tự hỏi điều gì có thể lý giải sự hiện diện của nó, nhưng tránh tìm câu trả lời ở phía chân trời. Không khí lạnh căm khiến đường viền của những chỏm núi trở nên rõ nét tới mức mắt cô nhức như bị xé. Cô tập trung vào đám xác chất đống. Người lính lái chiếc xe bọc thép cổ lỗ từ thời Liên Xô xuống khỏi buồng lái chiếc AT-L cũ kỹ rồi đi tới bên cô. Cô nghe thấy tiếng cửa đóng sập lại, đanh gọn như tiếng một thân cây rỗng bị gãy, rồi tiếng lạo xạo đều đều của tuyết bị ép lún xuống dưới đôi bốt anh ta đi. Không nói một lời, anh ta ngồi xổm cạnh cô, đưa cho cô một cái ca sắt tây rồi lấy bình giữ nhiệt từ trong cái áo vạt dài truyền thống chần bông. “Ở trên cùng là một con bò Tây Tạng thuần hóa, cái này thì chắc rồi!” người lái xe xác nhận. “Một con bò Tây Tạng thuần hóa hoặc một con bò lai,” Oyun chỉnh lại. “Người du mục ở đây chỉ có bò lai. Hiếm khi có bò Tây Tạng hoang dã.” “Hoặc một con bò lai,” người lái xe nhượng bộ trong lúc xoay nắp chiếc bình giữ nhiệt giữa hai bàn tay đeo găng lót lông cừu to tướng. Anh ta tự rót cho mình một ca trà bơ nóng bỏng trước khi mời Oyun một ca. Là bò thuần hay bò lai, điều đó cũng chẳng làm thay đổi gì nhiều. Cái xác bị phanh bụng của con vật phủ lên những cái xác khác. Băng bện thành những lọn lấp lánh các đốm sương giá trên bộ lông và trong bụng con vật. Con vật phủ phục, bốn chân xoạc ra, nom thật ghê tởm, phủ phần ruột gan đóng băng lên những thứ nằm dưới bụng nó. Ít nhất cũng không có mùi gì. Vào mùa hè, khi nhiệt độ ở cùng địa điểm lên tới hơn bốn mươi độ, đống xác chết này hẳn đã phả ra mùi xú uế không thể nào chịu nổi. Không khí lạnh giá khử trùng cho mọi thứ, kể cả nỗi kinh hoàng. Người lái xe cúi xuống để nhìn qua những rẻ sườn bị gãy của con vật, rồi lách một bàn tay vào giữa khối phủ tạng cứng đơ, rắn chắc… “Bò cái!” anh ta nói. “Đây là con cái.” “Cũng chả quan trọng!” Oyun vừa thở dài vừa bấu chặt ngón tay vào ca trà. “Thế còn bên dưới?” “Bên dưới là một con ngựa,” người lái xe nói không chút do dự. Có thể nhận ra điều đó nhờ những chiếc móng đóng vào bốn cái chân bị bẻ trật khớp nằm lẫn lộn với chân của con bò Tây Tạng. Phần thân con vật mà Oyun nhìn thấy có vẻ đã bị gãy ở lưng. Xác một con bò cái Tây Tạng bị phanh bụng phủ lên xác bị đánh gãy của một con ngựa, trong điều kiện âm hai mươi lăm độ và ở cách Oulan-Bator năm trăm kilômét, đây không hẳn là cuộc điều tra thuộc đội cảnh sát hình sự. Có lẽ cô sẵn sàng để lại vụ này cho cảnh sát địa phương. Thế nhưng lại còn cái chân đó. Một cái chân đi ủng, bàn chân vẫn còn mắc vào bàn đạp thúc ngựa, trồi ra giữa phần lưng đóng băng của con ngựa chết và cái bụng mở phanh của con bò Tây Tạng. “Đó là người kỵ sĩ,” anh lính giải thích. “Tôi hơi nghi ngờ chuyện đó,” Oyun đáp, hai bên hông đột nhiên đau buốt vì giá lạnh và mệt mỏi. “Vấn đề là tìm xem anh ta làm gì ở đó!” “Anh ta đã ở trên lưng ngựa,” người lính nhận xét. “Phải, và bây giờ anh ta ở dưới con bò!” nữ thanh tra bực bội. “Ta đã có manh mối gì về việc đây có thể là ai chưa?” “Chưa,” người lính trả lời. “Ta mới chỉ có mỗi cái chân.” “Và anh đã không tìm cách kéo anh ta ra để tìm kiếm manh mối sao?” “Tôi là quân nhân,” người lính bật ra cụt lủn. Oyun quay đầu nhìn anh ta chằm chằm không chút e dè. Yeruldelgger đã kể với cô về những người du mục trở thành viên chức nhà nước. Mọi điều tạo nên phẩm chất của người du mục cũng chính là hạn chế của người viên chức. Nhất là nếu anh ta lại là quân nhân. “Dẫu sao cũng có thể thử tìm hiểu xem người này là ai, phải không?” Oyun quỳ gối xuống tuyết mà không chờ câu trả lời, rồi nắm lấy chiếc ủng mà băng giá đã gắn chặt phần da vào bàn đạp. Cô cố kéo cái chân của xác chết ra nhưng không ăn thua. Cẳng chân, cứng đơ như một thân cây hóa thạch, không nhúc nhích lấy một li. Cô liền chống người tạo thành đồn bẩy, tì vai vào xác con bò, và trong lúc thực hiện hành động của mình, cô bắt gặp ánh mắt người lính. Anh ta không có vẻ tán thành việc cô làm. “Sao hả?” cô bực bội, thở hổn hển vì gắng sức. Cô vã mồ hôi dưới lớp áo khoác, trong khi hai lá phổi của cô như bị băng giá phủ kín từ bên trong. Cô không trong tâm trạng có thể chịu đựng vẻ uể oải cam chịu của người lính. “Không nên làm thế,” anh ta lẩm bẩm chê trách. “À vậy hả? Thế sao lại không?” nữ thanh tra vừa đáp lại vừa kéo cái chân như một tên tù khổ sai đẩy mái chèo. “Vì băng giá.” “Bởi vì anh tin là nó…” Có thứ gì đó gãy rắc và Oyun ngã bật ra sau trong tiếng lạo xạo của tuyết bị đè bẹp. Khi cô nhổm dậy, khuôn mặt bị giá lạnh cứa vào, Oyun giật mình kinh hãi vội ném ngay cái cẳng chân ra xa. “Tôi từng thấy những mùa dzüüd làm thân bạch dương bị đóng băng tới tận lõi khiến chúng trở nên giòn như thủy tinh,” người lính giải thích. “Thế nên một cái chân…” “Tôi không tin chuyện đó!” Oyun vừa lẩm bẩm vừa nhặt cái chân đóng băng cứng giơ lên. Cả xương lẫn da thịt bị bẻ gãy ngang đùi, cũng như phần vải của ống quần. Nó không còn chút đặc tính nào của một cái chân người. “Ít nhất tôi cũng có thứ để yêu cầu xét nghiệm ADN…” Cô nhìn lần cuối đống xác chết nhỏ, ngẫm nghĩ một lát, rồi ra hiệu bảo anh lính lại gần. “Theo anh, chúng ta có thể chằng một sợi xích vòng quanh rồi dùng xe của anh kéo bật cả đống này lên được không?” “Cô sẽ làm gãy con ngựa và có thể là cả người kỵ sĩ nữa…” “Chúng ta không thể để anh ta lại đó suốt mùa đông được! Sớm muộn gì lũ thú ăn xác chết cũng tìm tới.” “Cô có thể nán lại hai ngày không?” “Ở đây á?” Oyun thốt lên. “Ở chỗ tôi, tại đồn.” “Làm thế sẽ giúp công việc của tôi tiến triển như thế nào?” “Nếu cô muốn mang ba cái xác của cô về, cần rã đông chúng, và tôi biết phải làm thế nào.” “Phải, tôi cũng đã nghĩ tới chuyện đó,” Oyun đáp. “Chúng ta có thể đốt lửa xung quanh…” “Chúng sẽ không trụ được qua đêm đâu. Ở đồn có một chiếc lều cũ do những người du mục bỏ lại sau một mùa dzüüd. Chúng ta sẽ quây lều xung quanh đống xác. Rồi đốt hai hay ba lò than bên trong, và tôi có hai chiếc máy sưởi điện nhỏ. Tất cả sẽ tan chảy trong hai mươi bốn giờ. Cô có thể ra về với trọn vẹn anh chàng gãy chân của cô.” “Này, nói năng tôn trọng một chút!” Oyun cắt ngang. “Đó là một nạn nhân.” “Tôi đâu phải người đã bẻ giò anh ta!” người lính nói đùa. “Đồng ý. Nhưng dù sao cũng tôn trọng anh ta. Tôi đủ hối tiếc về những gì mình đã gây ra cho anh ta rồi.” “Cô không phải hối tiếc đâu, cô em. Cô giúp anh ta chán vạn ra rồi!” “À thế sao?” “Phải. Tổ tiên chúng tôi nghĩ rằng phải bẻ xương người chết để linh hồn họ có thể thoát ra. Họ để người chết ngoài thảo nguyên mà không chôn cất để cho thú hoang tới gặm xương và giải phóng linh hồn những người này.” Oyun chợt nhớ Yeruldelgger từng kể cho cô nghe điều tương tự. Cô cũng nhớ lại tất cả những gì ông đã dạy cô về việc tôn trọng lều du mục. “Nhất trí về chiếc lều, nhưng đừng xúc phạm các linh hồn từng sống trong đó.” “Cô đừng có lo. Các linh hồn đã rời khỏi căn lều này từ lâu rồi. Hơn nữa chúng ta sẽ không bít kín các khe. Chúng ta chỉ phủ kín nó bằng mái lều lớn thôi. Linh hồn người xưa trú ẩn trong lớp dạ. Chúng ta sẽ không quấy quả họ.” “Được,” Oyun đáp, cô bắt đầu thấy có cảm tình với anh chàng quân nhân ngày càng ít chất quân nhân và nhiều chất du mục này. “Tôi sẽ quay lại cùng anh. Tôi nợ nạn nhân cụt chân khốn khố này điều đó.” Trước khi quay trở lại chiếc xe bọc thép, cô đưa mắt nhìn đống xác lần cuối, và người lính đoán ra điều cô đang nghĩ. “Tôi từng thấy lũ bò Tây Tạng nhảy chồm lên như dê bất chấp trọng lượng của chúng. Người ta nghĩ chúng lờ đờ và điềm đạm, nhưng nếu bị săn đuổi, chúng có thể trở nên nhanh nhẹn và hung hãn. Người kỵ sĩ có thể đã đuổi theo con bò cái để bắt nó về chuồng. Có thể con ngựa của anh ta đã trượt chân, và thế là trong cơn hốt hoảng, con bò cái đã nhảy chồm tới đè lên anh ta trước khi anh ta kịp nhảy khỏi ngựa.” “Và làm gãy lưng con ngựa sao?” “Một con bò cái to có thể nặng tới ba trăm kí lô.” “Nhưng nếu vậy thì vì sao con bò cái lại bị phanh bụng ra?” “Chúng ta không biết người kỵ sĩ ở bên dưới là người như thế nào. Có khi anh ta có một cây urga. Có thể là cây sào buộc thòng lọng đã gãy trong cú ngã và con bò cái bị xuyên thủng bụng chăng?”   Mời các bạn đón đọc Thời Hoang Dã của tác giả Ian Manook & Lê Đình Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đứng Vững Đến Cùng - Ghêóocghi Xviriđốp
Kế hoạch tiêu diệt Hitler của Tình báo Xôviết Trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Cơ quan tình báo Xôviết đã tổ chức rất nhiều chiến dịch nhằm tiêu diệt các tướng lĩnh, sĩ quan quân đội,cũng như các quan chức cao cấp của đảng và chính phủ phát xít. Tuy vậy, đối tượng chính trong nhiều kế hoạch của tình báo Xôviết là tên trùm phát xít Adolf Hitler… Ý tưởng tiến hành một chiến dịch đặc biệt nhằm tiêu diệt Hitler đã được điện Kremli đưa ra ngay từ mùa thu năm 1941, khi bộ máy quân sự khổng lồ của Đức đang rầm rộ tiến về phía Moskva. Do giới lãnh đạo Xôviết khi đó đã không loại trừ khả năng Thủ đô Moskva bị chiếm, Cơ quan Dân ủy nội vụ Liên Xô (NKVD) - tiền thân của KGB - đã được lệnh chuẩn bị cho việc bước vào hoạt động bí mật cũng như lên kế hoạch đặt mìn tại những cơ sở chính quyền và kinh tế hàng đầu của Thủ đô. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, chỉ huy Phòng 2 của NKVD là Sudoplatov đã đặt ra một nhiệm vụ quan trọng cho các chiến sĩ tình báo dự kiến sẽ ở lại hoạt động bí mật: trong trường hợp Moskva rơi vào tay quân thù và Hitler tới đây, cần phải tổ chức kế hoạch tiêu diệt hắn. Sudoplatov đã kể về kế hoạch này: “Beria chỉ thị cho chúng tôi phải tổ chức một mạng lưới tình báo tại thành phố trong trường hợp bị quân Đức chiếm đóng. Tại Moskva, chúng tôi đã triển khai đến 3 mạng lưới hoạt động độc lập với nhau. Chỉ huy một nhóm là người bạn cũ của tôi từ Ukraina - Thiếu tá Drozdov. Để chuẩn bị cho hoạt động bí mật, anh được tạo vỏ bọc từ trước là Cục phó Cục Dược phẩm Moskva. Nếu Moskva bị chiếm, Drozdov sẽ tìm cách cung cấp thuốc cho Bộ chỉ huy quân Đức để giành được sự tin cậy của chúng. Chỉ huy Fedoseev của Ban Phản gián NKVD đảm trách việc chuẩn bị hoạt động bí mật và nhân sự cho các hoạt động tình báo phá hoại. Nhóm thứ ba hoạt động độc lập, có nhiệm vụ tiêu diệt Hitler và các quan chức cao cấp của hắn, nếu chúng xuất hiện tại Moskva. Chiến dịch này được giao cho nhạc sĩ Knipper (anh của điệp viên nổi tiếng Olga Chekhova). Lãnh đạo nhóm này là Fedotov, chỉ huy Tổng cục Phản gián của NKVD”. Mặc dù quân Đức bị đánh bật ngay tại cửa ngõ Moskva, nhưng các chỉ huy Phòng 2 của NKVD (vào năm 1942 đổi thành Phòng 4 phụ trách trinh sát phá hoại) không từ bỏ ý định tiêu diệt Hitler. Sau khi theo dõi rất chặt chẽ việc đi lại của hắn, các chiến sĩ tình báo đã xác định được, từ nửa cuối tháng 7 - 10/1942, Hitler thường có mặt tại Ban Tham mưu dã chiến Verwolf gần Vinnisia. Chính tại đây, hắn đã trực tiếp chỉ đạo các hoạt động tác chiến, trong khi theo định kỳ thỉnh thoảng bay về Berlin hay khu dinh thự Bertgof tại xứ Bavaria. Nhưng chiến dịch này cuối cùng đã phải từ bỏ, do trong suốt năm 1943, Hitler chỉ tới Verwolf có đúng một lần và không ở lại lâu. Kế hoạch ngay trên đất Đức Những sự kiện chính sau đó không diễn ra tại Vinisia, mà ngay tại nước Đức. Chính tại đây, theo dự tính của Sudoplatov và chỉ huy phó Eitingon của ông, cần phải tổ chức một chiến dịch tiêu diệt tên trùm phát xít Hitler. Họ cho rằng phải cử tới Đức một điệp viên để trực tiếp tổ chức chiến dịch ám sát mà không gây cho Gestapo phải nghi ngờ. Nhân vật được chọn chính là Igor Miclashevski. Miclashevski sinh năm 1918 trong gia đình nữ nghệ sĩ nổi tiếng Avgust Miclashevskaia (từng có thời được nhà thơ Sergey Esenhin yêu say đắm). Chị chồng của Avgust là Inna đã lấy một nghệ sĩ có tên Bliumental-Tamarin. Mùa thu năm 1941, khi quân Đức tiến sát tới Moskva, Bliumental-Tamarin đã đầu hàng và đi theo chúng và được sử dụng cho các chiến dịch tuyên truyền - bằng việc lên đài phát thanh kêu gọi các chiến sĩ Hồng quân đầu hàng. Ngoài ra, Bliumental-Tamarin còn dàn dựng một loạt các chương trình xuyên tạc những cuộc họp của Bộ Chính trị, trong đó trực tiếp lồng tiếng của Stalin. Theo khẳng định của Đại tá Victor Baranov, Stalin đã rất tức giận khi lần đầu nghe những chương trình của Bliumental-Tamarin. Ông đã dùng bút chì đỏ (dấu hiệu của mệnh lệnh đặc biệt quan trọng) để viết một chỉ thị: “Đồng chí Beria - cần áp dụng mọi biện pháp loại bỏ ngay tên phản bội này cũng như cả đài phát thanh”. Tuy nhiên, việc hoàn thành nhiệm vụ của Stalin trở nên rất khó khăn do quân Đức vào cuối năm 1941 đã đưa Bliumental-Tamarin về Berlin. Tại đó, hắn lại tiếp tục làm công cụ tuyên truyền trên đài phát thanh. Tương kế tựu kế, Sudoplatov đã quyết định lợi dụng sự phản bội của Bliumental-Tamarin để cài cắm điệp viên của mình vào Đức. Igor Miclashevski được giao nhiệm vụ thực hiện kế hoạch này. Đầu năm 1942, Miclashevski được lệnh tới mặt trận phía Tây dưới sự hộ tống của một đơn vị đặc biệt do Đại tá Lomidze chỉ huy. Vào một trận chiến lúc nửa đêm, anh chạy sang phía quân Đức và tuyên bố, từ lâu đã tìm kiếm cơ hội để đầu hàng. Ban đầu, bọn Đức không tin những lời khai của Miclashevski. Miclashevski đã phải trải qua rất nhiều thủ đoạn kiểm tra của Cơ quan Phản gián Đức - bị giam chung phòng với những kẻ khiêu khích và thậm chí có lần bị đưa đi xử bắn giả. Nhưng Miclashevski đã vượt qua được mọi thử thách. Đến năm 1942, anh được trả tự do và gia nhập vào Quân đoàn Phương Đông của Đức. Khi Bliumental-Tamarin được tin cậu cháu trai của mình đã chạy sang phía quân Đức, ngay lập tức hắn tới gặp và đưa về Berlin. Tại đó, Miclashevski được gia nhập Ủy ban nước Nga nhưng ít tham gia hoạt động chính trị. Anh chỉ tỏ vẻ ham mê môn quyền Anh hơn cả. Khi đã hợp thức hóa được tại Berlin, Miclashevski báo về trung tâm về việc đã sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ. Chẳng bao lâu, một nhóm ba điệp viên có kinh nghiệm từ Nam Tư được cử tới Berlin. Cả ba người này trong quá khứ đều là những sĩ quan trong quân đội Bạch vệ và có nhiều kỹ năng hoạt động bí mật và phá hoại. Chính những người này dưới sự chỉ huy của Miclashevski - theo ý định của Sudoplatov - sẽ bắt tay vào việc chuẩn bị mưu sát Hitler. Thông qua Nữ hoàng điện ảnh của Hitler Để có thể xâm nhập sâu vào đội ngũ thân cận xung quanh Hitler, Miclashevski đã tìm cách liên hệ với diễn viên Olga Chekhova. Chekhova tới Đức vào năm 1922 và nhanh chóng đạt được những thành công rực rỡ trong điện ảnh. Trong một báo cáo vào tháng 11/1945, chỉ huy Phòng 4 NKVD, Thiếu tướng Utenkhin đã viết: “Vào năm 1922, Olga Chekhova đã ra nước ngoài để học về nghệ thuật điện ảnh trước khi định cư tại Đức. Cô đã trở thành diễn viên nổi tiếng, đóng trong rất nhiều bộ phim tại Đức, Pháp, Áo, Tiệp Khắc và cả ở Hollywood. Vào năm 1936, Olga còn nhận được danh hiệu nghệ sĩ quốc gia của Đức”. Trên thực tế, “nữ hoàng điện ảnh phát xít” là một điệp viên Xôviết và là một người bạn gái rất thân cận của Eva Braun, người tình của Hitler. Trong hồi ký của mình, Sudoplatov đã viết về điều này: “Nữ nghệ sĩ nổi tiếng Olga Chekhova (là vợ cũ của cháu nhà văn nổi tiếng Tsekhov) thông qua họ hàng của mình tại Zakavkaz đã liên hệ với Beria. Bà thường xuyên có những mối quan hệ tiếp xúc với NKVD. Chúng tôi đã có một kế hoạch tiêu diệt Hitler, theo đó Radzivill (một điệp viên gốc Ba Lan) và Olga Chekhova cần phải tạo điều kiện cho người của chúng ta tiếp cận được với Hitler”. Đến giữa năm 1942, việc bắt mối Miclashevski và Chekhova hoàn tất. Miclashevski đã gửi về Moskva một bức điện báo cáo rằng, khó có thể sử dụng được nữ diễn viên này vào việc tiêu diệt Hitler. Tuy nhiên, trong một báo cáo khác, Miclashevski nói về triển vọng mưu sát Goerin, nhưng tình báo Xôviết không quan tâm đến khả năng này. Đến năm 1943, Miclashevski nhận được mệnh lệnh bất ngờ từ trung tâm, yêu cầu ngừng ngay chiến dịch tổ chức tiêu diệt Hitler. Mệnh lệnh có lẽ được Stalin trực tiếp đưa ra. Về nguyên nhân này, Sudoplatov có giải thích như sau: “Stalin lo ngại rằng, nếu chỉ riêng Hitler bị tiêu diệt, các quan chức cao cấp khác trong chính quyền và giới quân sự phát xít sẽ tìm cách ký một hiệp ước hòa bình riêng với các nước đồng minh mà không có sự tham gia của Liên Xô. Sudoplatov đã thực thi ngay chỉ thị của Stalin, cho dù đã hoàn tất kế hoạch. Đến năm 1944, Sudoplatov lại nêu ra vấn đề trên nhưng vẫn nhận được sự từ chối. Kết quả là kế hoạch tiêu diệt Hitler không được thực hiện, cho dù theo khẳng định của Sudoplatov, chiến dịch do Miclashevski đã lên kế hoạch triển khai hoàn toàn có đủ mọi cơ hội để thành công. Cần nói thêm về số phận của nhân vật chính Miclashevski. Cuối năm 1944, anh sang Pháp và gia nhập đội ngũ lực lượng kháng chiến rồi bị thương tại đây. Cuối năm 1945, anh trở về Moskva, được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ và tiếp tục sự nghiệp thể thao của mình Thái Quân (theo Spy World) Sự thật lịch sử là như vậy, còn bây giờ là chuyện về nhân vật Miclashevski! Mời các bạn đón đọc Đứng Vững Đến Cùng của tác giả Ghêóocghi Xviriđốp.
Cái Chết Trên Chấm Phạt Đền - Vaxlap Phonprext
Phơrăng Píchle - một trong những cầu thủ xuất sắc nhất của câu lạc bộ Côlônhơ bị giết trong khi đang thi đấu. Người ta tìm ra nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh là một mũi kim tẩm độc cực mạnh được ghim vào mũi giày. Nhưng ai đã giết Píchle và giết với mục đích gì? Vụ án đang trong vòng điều tra thì thêm một người nữa bị sát hại. Một mối quan hệ giữa hai vụ giết người và vụ án bị mất cắp tài liệu mật ở Viện Nghiên cứu khoa học Giao thông chuyên về ôtô được xác lập. Bằng sự cố gắng và chuyên môn nghề nghiệp của mình, các trinh sát đã tìm ra được sự thật và kẻ gây án đã phải đền tội... *** Thứ Tư sau, tôi và thiếu tá lại xem đá bóng. Cuộc đấu giữa hai đội “Xpác-ta” và “Xla-vi-a” hòa 0-0, nhưng cả hai đều thấy thỏa mãn. Tôi muốn về nhà, vì tôi vẫn chưa có dịp ngủ bù cho thật bõ, những Gô-mô-la mời tôi về nhà ông uống cà-phê. Ông đặt lên bàn một chai cô-nhắc. Tôi vẫn có ý chờ xem ông muốn nói gì. Cuối cùng, không kiên nhẫn nổi, tôi đành hỏi trước. Ông nói: - Tôi có ba lý do để chúc mừng cậu! Thứ nhất các bạn cùng nhóm, sau khi đã tỏ ra rất bí mật, đã thông báo cho tôi biết rằng mùa thu này cậu sẽ lấy vợ! thứ hai là: ngày hôm nay tôi nhận được quyết định của Bộ thăng cấp cho cậu trước thời hạn. Và, cuối cùng, điều thứ ba, cũng đáng để uống mừng: tôi muốn giao cho cậu một vụ án mới. Sáng mai, anh em ở phòng điều tra hình sự sẽ đến. Việc xảy ra là, ở trong rừng Mơ-krô-vrat, ngày hôm kia mới tìm thấy một xác đàn ông không có một giấy tờ tùy thân nào. Chỉ có một chi tiết dưới lớp chì hàn răng bị sâu, lại phát hiện được mấy tấm ảnh cực bé, nhét rất khéo vào đó... Lại phải đến cậu ra tay thôi... Tôi uống rượu, mà cảm thấy vị cô-nhắc sao mà đắng và lợ quá, cứ y như vị xà-phòng! Mời các bạn đón đọc Cái Chết Trên Chấm Phạt Đền của tác giả Vaxlap Phonprext.
Văn Phòng Thám Tử Số 1 Dành Cho Các Quý Bà - Alexander McCall Smith
Những cô con gái của Wayward. Những ông chồng mất tích. Những đối tác hào hoa, đa tình. Nếu bạn gặp vấn đề rắc rối, thì hãy đến thăm Precious Ramostswe, nữ thám tử tư xinh đẹp và duy nhất ở Botswana. Những phương pháp điều tra của cô ấy có thể không theo lối cổ truyền, phong cách của cô ấy không giống như quý bà Marple, nhưng cô ấy có sự nhiệt tình, trí thông minh, khả năng trực giác khôn ngoan, và sự trợ giúp đắc lực của J. L. B. Makekoni. Precious sẽ cần tất cả điều đó khi cô bắt đầu lần theo dấu vết của một đứa trẻ mất tích, vụ án đã cuốn nữ anh hùng của chúng ta vào một loạt những tình huống kỳ lạ và cực kì nguy hiểm… “Tôi đã bị say mê bởi nhân vật Precious Ramotswe và sự hài hước tinh tế trong văn phong của Alexander McCall Smith, sự khêu gợi khéo léo của ông về một Anthony Minghella văn hóa. “Có một cái gì đó lôi cuốn tuyệt diệu trong phong cách mà Alexander McCall Smith viết về cuộc sống hàng ngày ở Botswana… Thật khó để đánh giá về một nhà văn đương thời hơn là trực tiếp đọc tác phẩm của ông. Những tiểu thuyết của ông cũng vô cùng hài hước: Tôi phát hiện ra rằng mình không thể không cười khi nghĩ về văn chương của ông” Craig Brown, Mail on Sunday. *** Alexander McCall Smith, sinh 1948 ở Zimbabwe (châu Phi), cho tới gần đây vẫn còn giảng về luật y tế ở ĐHTH Edinburgh và là cố vấn của Chính phủ Anh. Vì sao một giáo sư người Anh lại nảy ra ý tưởng viết về một nữ thám tử người châu Phi ở Botswana? Đơn giản là vì McCall Smith có thời gian giảng dạy ở Botswana và sau đó ông thường xuyên đến đất nước nguyên là thuộc địa Anh này. Một lần ở đó, ông thấy một phụ nữ mang một con gà sang biếu nhà hàng xóm. Ông bị ấn tượng bởi sự vui tính, nồng hậu và dí dỏm của người phụ nữ phốp pháp ấy tới mức kể từ đó, hình ảnh chị cứ ám ảnh ông hoài, khiến ông thầy cần phải viết về chị. 50 tuổi mới bắt đầu có tác phẩm gây chú ý, giờ đây sau 10 năm, giáo sư luật Alexander McCall Smith đã trở thành một trong những nhà văn ăn khách nhất thế giới. Riêng 9 cuốn tiểu thuyết của ông về nữ thám tử châu Phi Mma Ramotswe đã bán được 25 triệu bản ở 42 nước. Loạt tác phẩm này còn được đạo diễn đoạt giải Oscar A. Minghella (Bệnh nhân người Anh) chuyển thể thành phim. Năm 1998, cuốn tiểu thuyết đầu tiên về nhân vật nữ thông minh và đôn hậu ấy ra đời, mở đầu cho 8 cuốn tiếp theo. Thành công thật khủng khiếp: Cho tới nay bộ sách đã bán được 25 triệu bản và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Câu chuyện của McCall Smith cũng khá đơn giản: Precious Ramotswe, một phụ nữ thích giúp đỡ người khác, một ngày nọ bỗng nảy ra ý định thành lập hãng thám tử nữ đầu tiên ở Botswana, mang tên "No.1 Ladies Detective Agency". Chẳng bao lâu sau, hãng nhận được nhiều hợp đồng tới mức khiến Mma (Bà) Ramotswe phải nhận thêm Grace Makutsi vào làm nữ trợ lý. Họ có lúc phải lần theo những ông chồng ngoại tình, khi thì phải tìm ra những đứa trẻ bị bắt cóc hoặc phá những vụ án tống tiền. Những vụ khác: Bác sĩ Lugeba có gian lận tiền khám bệnh hay không? Chồng chưa cưới của Grace Makutsi đã bị lầm đường lạc lối? Điều gì bí ẩn trong khu bảo tồn động vật hoang dã Mokolodi? Tóm lại, toàn những vụ rất đời thường, không hề có đổ máu hay rùng rợn. Thế nhưng chúng vô cùng lôi cuốn, đặc biệt là thông qua nhân vật nữ thám tử Mma Ramotswe. Mỗi khi đọc xong một câu chuyện về Mma Ramotswe, người ta lại có cảm giác sảng khoái, dường như sự dí dỏm của câu chuyện đã “lây” được niềm vui sang người đọc. Bản thân McCall Smith từng nói, văn học cần phải làm cho cuộc đời vui vẻ hơn, ít nhất là nhẹ nhàng hơn. Nhờ bộ truyện Mma Ramotswe, ngành du lịch Botswana trở nên phát đạt. Rất nhiều độc giả sau khi đọc tác phẩm của McCall Smith có nhu cầu đến tìm hiểu thêm về đất nước thanh bình và thân thiện hiện chỉ có 1,6 triệu dân này. Ở đó thậm chí người ta lập ra những “tour Mma Ramotswe”, đi qua những địa điểm du lịch có dính dáng đến nhân vật chính trong tiểu thuyết. TT&VH Online Mời các bạn đón đọc Văn Phòng Thám Tử Số 1 Dành Cho Các Quý Bà của tác giả Alexander McCall Smith.
Bóng Chim Câu Trên Sóng Biển Maiami - Daniel Chavarria
Bóng Chim Câu Trên Sóng Biển Maiami có được 3 mặt thành công: nội dung thú vị, văn phong/ngôn ngữ phong phú, và sử dụng khéo léo những biện pháp kỹ thuật. Cuốn truyện trinh thám phi thường này lấy đề tài chính là sự thâm nhập của CIA vào Cuba để phá hoại nền công nghiệp cam chanh của Cuba. Tác giả đã đưa chúng ta vào thế giới phức tạp của những cuộc đấu tranh chống gián điệp phá hoại, và tác giả đã thành công rõ ràng. *** Daniel Chavarría là một nhà văn và nhà cách mạng người Uruguay, sống ở Cuba từ những năm 1960  và giành giải thưởng Văn học quốc gia Cuba năm 2011, tác giả các tiểu thuyết nổi tiếng như Joy, Adios Muchachos.   Mời các bạn đón đọc  Bóng Chim Câu Trên Sóng Biển Maiami của tác giả Daniel Chavarria.