Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tư Duy Pháp Lý Của Luật Sư
Quyển sách này là phiên bản mới của quyển Tài ba của luật sư xuất bản năm 2010 và tái bản hai lần sau đó. Đó là kết quả của những góp ý từ độc giả, của kinh nghiệm tác giả thu thập được qua các lớp học được tổ chức tại Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh cũng như sự tìm tòi và học hỏi của bản thân trong suốt 5 năm qua. Cũng như sách trước, quyển sách này được viết cho các luật sư mới bước chân vào nghề.  Tựa quyển sách nêu bật một điều kiện tri thức của luật sư, điều mà họ phải có khi hành nghề. Đó là công cụ của họ, giống như người nông dân phải có cuốc. Tư duy pháp lý của luật sư bắt nguồn từ khả năng phân tích của họ và kết quả của nó là các lập luận trình bày cho người khác. Luật sư phải giỏi phân tích vì trong nghề nghiệp của mình, họ phải đương đầu với các sự kiện hay các thực tại nhất định của cuộc sống. Khách hàng không đem một văn bản luật đến cho luật sư mà là một vụ tranh chấp, một vấn đề pháp lý cần có câu trả lời. Đáp ứng cho khách hàng, luật sư phải phân tích vụ việc và đề ra giải pháp phù hợp luật lệ. Vậy trước hết, luật sư biết cách tư duy pháp lý là để phục vụ mình!  Trong một vụ tranh chấp được xét xử ở tòa thì luôn luôn có hai bên. Luật sư của nguyên đơn nộp lý lẽ lên tòa để khởi kiện thay cho thân chủ. Họ khởi đầu một vụ kiện. Ở đó chống đỡ cho thân chủ – bị đơn – là một luật sư khác. Họ giúp kết thúc vụ án. Biết tư duy pháp lý, cả hai nghiên cứu vụ việc một cách “toàn diện, đầy đủ và khách quan”. Do vậy họ sẽ đóng góp nhiều lý lẽ để tòa án xem xét trong quá trình tố tụng. Chính luật sư của nguyên đơn sẽ làm cho công việc ban đầu của thẩm phán thành dễ dàng hay rắc rối. Như thế, tư duy pháp lý của luật sư đóng góp đáng kể cho tòa án.  Trong một vụ tư vấn, luật sư chỉ có đối tác, hiển hiện đâu đó. Tư duy pháp lý giúp họ phân tích vụ việc để thấy trọng tâm, bản chất của nó, hầu đề nghị cách thực hiện đúng và nhanh. Được như vậy là vì sự phân tích trong tư duy pháp lý đòi hỏi luật sư phải có kiến thức.  Tư duy pháp lý trình bày ở đây là một phương pháp, một “cái cuốc”. Nó sẽ giúp các luật sư mới vào nghề, khi chịu học và được chỉ bảo thêm, thì không bao lâu có thể một mình đảm nhận công việc. Ở đây, tác giả cố gắng trình bày phương pháp một cách rõ ràng và tỉ mỉ. Điều đó làm cho quyển sách này khác với các quyển trước có cùng nội dung. Và để cho quyển sách không dày quá, chỉ có một số vụ án mới được thêm vào.  So với quyển sách đầu tiên xuất bản năm 2003, đến quyển năm 2015 này, thời gian đã đủ dài để độc giả quen thuộc với phương pháp trong sách, vốn được du nhập từ nước ngoài và đã được “địa phương hóa”. Tất nhiên cố gắng đó đã không thể là một thành quả nếu không có Nhà xuất bản Trẻ làm ... “bà đỡ” trong thời gian đã nêu cũng như sự giúp đỡ của các bạn bè thân thiết. Dẫu sao, quyển sách này vẫn còn những khiếm khuyết. Lời nói đầu xin được ngưng ở đây với câu: Xin quý độc giả tha thứ và chỉ giáo về những khiếm khuyết, vốn không thể tránh được do sự bất toàn của con người.  Nguyễn Ngọc Bích Tháng 3 năm 2015 *** Đối tượng của quyển sách này là luật sư đang tập sự trong một đoàn luật sư. Nó giúp bạn “kiếm tiền từ thân chủ”. Bởi thế bạn nào còn đang là sinh viên hay học viên, tức đang phải “kiếm điểm từ thầy dạy” thì nên hỏi ý kiến các thầy của mình trước khi dùng.  Bạn có thể hỏi tôi là: Khi học ở Học viện Tư pháp, tôi đã được dạy và đọc nhiều về các kỹ năng của luật sư, vậy TDPL dạy thêm kỹ năng gì? Tôi xin trả lời là đi tìm các câu hỏi pháp lý (legal issue) nằm trong một vụ tranh chấp. Nó đi xa hơn và sâu hơn quá trình nghiên cứu một vụ án mà bạn đã học ở Học viện Tư pháp, vốn được khái quát như sau1:  i. Nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án; ii. Đọc lướt qua toàn bộ hồ sơ; iii. Ghi chép các sự kiện chính theo ngày tháng, theo nội dung sự việc, theo sự kiện;  1 “Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ kiện dân sự”; (Hà Nội: Học viện Tư pháp; NXB Công  an Nhân dân, 2007); t.289.  iv. Sắp xếp và nghiên cứu các chứng cứ; v. Suy nghĩ về phương hướng để tìm ra giải pháp giải quyết vụ án có lợi  cho khách hàng của mình.  Để thực hiện công việc ấy, tôi chia quyển sách này ra làm bốn phần:  • Phần một: Giới thiệu với bạn về TDPL và đưa ra các điều kiện bạn phải có, hay phải thay đổi so với trước kia để có thể có TDPL. Tốt nghiệp trường luật xong bạn chưa có khả năng TDPL để làm luật sư; vì trường luật đào tạo bạn làm cán bộ pháp chế (tức là soạn luật để cho người khác áp dụng, và giám sát việc thực hiện luật). Bạn sẽ biết về điều này rõ hơn khi đọc Chương 2 của Phần này.  • Phần hai: Trình bày cách TDPL; gồm phương pháp thực hiện; các vụ án để bạn... luyện chưởng và biết tính chất của các CHPL.  • Phần ba: Đưa ra một số vụ án để các bạn tập làm một mình hầu kiểm tra mức độ sử dụng TDPL.  • Phần bốn: Một số bài đọc thêm để bạn mở rộng kiến thức.  Điều tôi chú trọng trong quyển sách là thu thập các sự kiện, vụ việc để phân tích. Chúng xuất phát từ thực tế, do tôi thu thập từ các bài của báo chí và các bản án của các tòa án khác nhau. Tuy nhiên, tôi không ghi lại các nguồn, số bản án, số báo... vì tôi muốn các bạn chỉ quan tâm đến các sự kiện hay vụ việc có thật để bạn có dữ kiện phân tích; và xin nhấn mạnh, không có một mục đích nào khác. Như đã nói ở Lời nói đầu, số vụ án trong sách này không tăng nhiều so với sách cũ; vì tôi sợ quyển sách sẽ dày như... từ điển, khó cầm. Vấn đề là đi vào chất lượng.  Đây là sách “dạy nghề”, không phải sách nghiên cứu. Ngoài ra vì “cái cuốc” mà bạn muốn trang bị cho mình vốn trừu tượng, nên nhiều khi tôi phải nhấn mạnh, làm cho nó rõ ra bằng hình minh họa, và lặp đi lặp lại ở nhiều chỗ. Việc này giống như cầm tay chỉ việc. Mong bạn không khó chịu vì cứ phải nghe đi nghe lại mãi.  Để đền cho bạn, tôi có nhờ một đồng nghiệp vẽ minh họa ở vài chỗ. Tự nhận họa sĩ tay ngang, người vẽ tên là Huỳnh Thị Kim Hồng.      Mời các bạn đón đọc Tư Duy Pháp Lý Của Luật Sư của tác giả Nguyễn Ngọc Bích.
Nghiệp Tình Yêu
Geshe Michael Roach đã viết cuốn sách Năng đoạn Kim cương. Nó được đặt theo tên của một bộ kinh nổi tiếng giải thích về nghiệp cùng khía cạnh kém quan trọng hơn của nó, đó là khái niệm “không” trong Phật giáo. Nó đã trở thành cuốn sách kinh doanh bán chạy trên khắp thế giới, được dịch ra khoảng 25 thứ tiếng, và được hàng triệu người đón nhận; nổi tiếng nhất là bản tiếng Trung và nó đã giúp nhiều người đạt được tự do tài chính. Từ đó, mọi người bắt đầu mời ông đến nói chuyện về cuốn sách. Kể từ khi cuốn sách ra đời, Geshe cùng các đồng nghiệp tại Học viện Năng đoạn Kim cương đã tiến hành các buổi hội thảo kinh doanh và khóa tu cho hàng ngàn người thuộc nhiều quốc gia. Trong những chương trình này, họ thường tổ chức những buổi thảo luận nhỏ có tên là “Trí tuệ cho cuộc sống hàng ngày,” và ở đó, những người tham gia sẽ có cơ hội đặt các câu hỏi có liên quan đến công ty cũng như sự nghiệp của họ. Một hôm, trong một chương trình ở Trung Quốc, một người phụ nữ đã hỏi rằng liệu Geshe có thể trả lời một câu hỏi không liên quan đến kinh doanh mà về mối quan hệ của cô với chồng được không. Liệu các Nguyên tắc Năng đoạn Kim cương – các nguyên tắc về hạt giống nghiệp – có áp dụng được vào cuộc sống gia đình không? Geshe trả lời rằng, tất nhiên là được; rằng những hạt giống nghiệp trong tâm chúng ta, chịu trách nhiệm cho tất cả mọi thứ và tất cả mọi người xung quanh chúng ta. Đột nhiên, như thể một con đập vừa bị vỡ, mọi người bắt đầu đưa ra những câu hỏi mà từ lâu bị dồn nén về những vấn đề tế nhị nhất liên quan đến mối quan hệ của họ với người bạn đời của mình. Lúc đó, ông nhận ra rằng quan tâm đến các nhu cầu tâm linh – cũng như các nhu cầu cơm áo gạo tiền – không thôi là chưa đủ. Những mối quan hệ thân mật có lẽ chính là nguồn hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời; và chúng cũng có thể trở thành nguồn đau khổ lớn nhất. Nếu chúng ta muốn hạnh phúc, và nếu chúng ta muốn thế giới hạnh phúc, thì chúng ta phải giải quyết vấn đề về mối quan hệ này! Đáng ngạc nhiên là Phật giáo có rất nhiều lời khuyên dành cho chúng ta về mối quan hệ của chúng ta với người bạn đời. Có hàng ngàn quyển sách vô giá, chứa đựng mọi kiến thức về nguồn gốc của mọi sự vật trong cuộc sống của chúng ta, kể cả thông tin về người bạn đời của chúng ta. Chúng là những giáo lý về hạt giống nghiệp. Ngoài ra còn có một bí quyết khác, có tên là Đạo Kim cương, xuất hiện từ hàng ngàn năm trước. Nó cung cấp cho chúng ta những phương cách mới vô cùng độc đáo để gắn kết với người bạn đời của mình và cùng với họ đạt được những đỉnh cao tuyệt đẹp không gì có thể so sánh được. Để đủ tiêu chuẩn viết một cuốn sách về Nghiệp tình yêu, Geshe cảm thấy rằng mình là người may mắn nhất so với những nhà sư đồng đạo vì ông ã trải qua nhiều mối quan hệ trước khi trở thành một nhà sư (phần lớn người Tây Tạng vào tu viện trong độ tuổi từ 7 đến 12). Ngài biết phụ nữ như thế nào – biết những niềm vui mà một mối quan hệ đem lại, cũng như những nỗi đau khổ tột cùng của tình yêu mang lại. Chính bố mẹ ngài Geshe cũng đã phải trải qua một cuộc li dị đầy tổn thương, một sự kết hợp tồi tệ giữa việc yêu nhau nhưng không thể ở cạnh nhau. Và ông nghĩ điều quan trọng nhất là ông đã có một mối quan hệ mà ông cho là thần thánh – ở đó ông biết được sơ qua về mối liên hệ giữa Đức Phật và bà Tilottama, giữa Dante và Beatrice. Trong những năm sau đó, Geshe đã làm vững mạnh thêm trải nghiệm này và đạt được một sự hiểu biết sâu hơn về nó, thông qua hàng ngàn giờ học các giáo lý dưới chân 12 vị thầy vĩ đại của Tây Tạng. Gehse đã được trao cánh cửa bí mật để đi vào những phương pháp tương tác với người bạn đời, và ông đã dành nhiều năm để dịch cũng như nghiên cứu hàng ngàn trang văn bản cổ nói về những phương pháp này. Geshe đã nghiêm túc thử làm theo các phương pháp này và đôi khi thu hút sự chú ý không mong muốn của báo chí cũng như sự giận dữ của giới chức tu viện vì một vài người trong số đó cho rằng những kiến thức này không thể được chia sẻ cho đại chúng. Nhưng ông tin rằng có một thế giới hoàn hảo, ông tin rằng chúng ta có thể, cùng nhau tạo ra nó, và ông tin rằng nó bắt đầu và kết thúc bằng một mối quan hệ hoàn hảo – bằng sự hiểu biết về các mối quan hệ giữa các cặp đôi. Vì vậy, Geshe muốn chia sẻ với bạn những gì ông đã học được để giúp bạn cải thiện mối quan hệ của riêng bạn. Qua nhiều năm, hàng ngàn người từ gần như tất cả mọi nơi trên thế giới đã hỏi Geshe những câu hỏi về những mối quan hệ của họ. Ngài đã chọn lọc ra 100 câu hỏi phổ biến nhất và trả lời chúng ở đây dựa theo tri thức và trí tuệ cổ xưa của Tây Tạng, kèm theo lời chúc tốt lành đến từ trái tim lạt-ma của ngài. Hy vọng nó sẽ giúp được bạn và con người hoàn hảo kia trong cuộc đời bạn. *** Chúng ta đều biết đến câu nói “Gieo nhân nào gặt quả ấy”. Nếu bạn còn mơ hồ về nhân và quả cũng như làm thế nào để gặt được trái ngọt, hãy đến với cuốn sách Nghiệp tình yêu, cách các hạt giống nghiệp hoạt động, bản chất của chúng và cách chúng ta sử dụng các hạt giống để tạo nên cuộc đời như mong muốn càng trở nên rõ ràng. Với nhiều người, khi nghe nói đến chữ nghiệp, họ sẽ cảm thấy người nói là kẻ tâm linh và có chút gì đó không thực tế. Nhưng cuốn sách đã chỉ ra rằng thực chất mọi việc xảy ra với ta đều đến từ bên trong ta, đến từ những việc ta làm, những điều ta nghĩ trong quá khứ. Với 100 câu hỏi nằm trong các mảng nội dụng như tìm kiếm, gắn bó, tình yêu, sự tin tưởng, chung thủy, sống chung, tình dục, giao tiếp, sự an toàn, vui vẻ, một cái nhìn vào tương lai, những đứa con,… đến từ chính những người tác giả từng gặp, ông đã đưa ra những lời giải đáp, và dẫn dắt, hướng dẫn từng người cách giải quyết vấn đề của mình. Những thắc mắc của họ cũng chính là những băn khoăn của rất nhiều người. Trong 100 câu hỏi ấy, bạn chắc chắn sẽ bắt gặp được hoàn cảnh của mình và nhờ cách tác giả chỉ dẫn, bạn có thể tự mình xử lí vấn đề. Chúng ta sẽ dừng oán trách, sẽ ý thức về những việc phải làm, biết cách gieo những hạt giống tốt, và biết cách dừng việc khuếch tán những hạt giống xấu cho cuộc đời mình. Bạn sẽ được biết về Bốn Bước Starbuck, về thiền café, Bốn quy luật nghiệp và nhiều điều thú vị khác nằm trong cuốn sách này. Có rất nhiều nội dung khác nhau trong quyển sách này như tôi đã đề cập ở trên. Khi đọc cuốn sách hãy bắt đầu bằng những câu hỏi đầu tiên để hiểu thế nào là hạt giống, nghiệp và các bước thực hiện. Đến khi bạn nắm được cách thức mọi thứ trong cuốn sách “vận hành”, bạn có thể đi thẳng đến với những nội dung mà mình quan tâm. Chẳng hạn bạn có vấn đề về sự gắn bó với người mình yêu thương, hãy mở trang sách đó và đọc những câu hỏi trong ấy để tìm ra hướng đi cho mình. Sẽ thật khó nếu ta đi qua lần lượt từng trang, vì vậy để cuốn sách thật sự hữu ích, hãy nắm những điều cơ bản, sau đó tìm đến đúng vấn đề bạn cần. Và bạn sẽ thấy, cuốn sách sẽ luôn đưa ra cho bạn được câu trả lời bất cứ khi nào bạn muốn. Tuy nói về tình yêu, nhưng những gì thu lại từ cuốn sách có thể áp dụng cho rất nhiều mối quan hệ khác, với nhiều tình huống khác nhau mà không phải là người yêu, là chồng/vợ mình (cũng hời đó chứ, đây được gọi là học 1 biết 10 chăng) Ủa, vậy rồi ai mà viết về nghiệp và hạt giống vậy? Đó là Geshe Michael Roach. Michael Roach (sinh ngày 17 tháng 12 năm 1952) là một giáo viên phi truyền thống của Phật giáo Tây Tạng. Là một nhà sư theo phái Gelugpa, ông là người Mỹ đầu tiên nhận bằng Geshe tại Tu viện Sera ở Tây Tạng (wikipedia). Geshe là danh hiệu dùng để phong cho một vị đã hoàn tất khóa huấn luyện dài hạn về triết học, giống như một người đạt được học vị Tiến sĩ của Tây Tạng chuyên ngành nghiên cứu Phật giáo. Ông cũng vô cùng nổi tiếng về thuyết năng đoạn kim cương của mình trong kinh doanh (trong trường hợp bạn hứng thú thì có khóa học Năng đoạn kim cương). Qua tìm hiểu có thể thấy có rất nhiều tranh cãi trong vai trò nhà sư Phật giáo của ông như ông vẫn để tóc dài và chung sống cùng một người phụ nữ (hi vọng điều này sẽ không ảnh hưởng đến cách bạn cảm nhận cuốn sách) Đây không phải là cuốn sách dành cho ai thích những gì nhẹ nhàng, giải trí. Khi đọc nó, bạn sẽ thấy như mình không thể đọc được hết cuốn sách ngay lập tức, bởi vì có thể sau mỗi câu hỏi bạn có thể sẽ phải dừng lại và ngẫm nghĩ để thật sự hiểu và nắm bắt được nó. Với tôi, cuốn sách giống một cuốn cẩm nang, để những khi cảm thấy đầu óc tràn ngập trong suy nghĩ, tôi mở ra, tìm đọc các câu hỏi và tìm thấy lối đi cho mình. Nhờ cuốn sách này, tôi trở nên tự tin hơn vì cảm thấy làm chủ được cuộc sống, không còn tìm kiếm giải pháp ở đâu xa ngoài chính mình, không cần trông chờ ai đó đến giải cứu mình nữa. Tôi đã thử áp dụng các hạt giống nghiệp, và kết quả tuyệt vời hơn những gì tôi cho đi. Tôi nghĩ rằng đây là một cuốn sách nên đọc, đặc biệt khi bạn cảm thấy mình đang nhận quá nhiều điều tồi tệ, thì rất có thể rằng đó là do bạn đã gieo chúng lúc trước và giờ chúng xuất hiện trên chính bạn. Và nếu bạn đang có cuộc sống tuyệt vời thì bạn sẽ biết mình đang gieo những hạt giống tốt đẹp và biết cách khuếch tán chúng lên. Một cuốn sách hay là khi bạn đọc nó vào đúng thời điểm nhận thức, sóng của bạn cùng rung một tần số với cuốn sách ấy. Chúc bạn có thời gian vui vẻ bên cuốn sách!                                                       Ngồi xuống, tĩnh lặng và thả mình vào trang giấy                                            _Mindful_Review Mời các bạn đón đọc Nghiệp Tình Yêu của tác giả Geshe Michael Roach.
Bạn Không Thông Minh Lắm Đâu
Hiệu ứng Dunning-Kruger Bạn Vẫn Tưởng Bạn có thể dự đoán được chính xác khả năng của mình ở mọi tình huống. Sự ThậT Là Về cơ bản thì bạn khá kém trong việc đánh giá khả năng của bản thân và độ khó của những công việc phức tạp. Hãy tưởng tượng rằng bạn chơi rất giỏi một trò nào đó. Trò nào cũng được - cờ vua, Street Fighter1, bài poker - không quan trọng. Bạn thường xuyên chơi trò này với lũ bạn và lúc nào cũng thắng. Bạn cảm thấy mình thật giỏi, và bạn tin rằng mình có thể giành chiến thắng ở một giải đấu nếu có cơ hội. Vậy là bạn lên mạng tìm xem giải đấu khu vực sẽ diễn ra ở đâu và khi nào. Bạn trả phí tham gia và rồi bị hạ đo ván ngay trong hiệp đầu tiên. Hóa ra là bạn không giỏi lắm đâu. Bạn cứ nghĩ rằng mình thuộc dạng đỉnh của đỉnh, nhưng mà thực chất bạn chỉ là một tay ngang thôi. Đây được gọi là hiệu ứng Dunning-Kruger, và nó là một phần cơ bản trong bản chất của con người. Hãy thử nghĩ về những ngôi sao Youtube mới nổi trong mấy năm gần đây - những người múa máy một cách vụng về với các loại vũ khí, hoặc là hát chẳng bao giờ đúng tông cả. Những màn trình diễn này thường rất tệ. Không phải họ cố tình dùng bản thân để mua vui cho người khác đâu. Trình độ của họ thực sự tệ, và chắc hẳn bạn cũng thắc mắc là tại sao lại có người có thể tự đặt mình lên một sân khấu toàn cầu với những màn trình diễn đáng xấu hổ như vậy. Vấn đề nằm ở chỗ họ không tưởng tượng được là công chúng toàn cầu có thể khắt khe và đòi hỏi cao hơn so với lượng khán giả nhỏ bé họ vốn đã quen thuộc là bạn bè, gia đình và những người đồng cấp. Như nhà triết học Bertrand Russell đã từng phải than thở: “Trong thế giới hiện đại ngày nay thì những kẻ khờ khạo luôn tự tin hết mức trong khi những người khôn ngoan thì lại luôn nghi ngờ.” Hiệu ứng Dunning-Kruger là lý do tại sao mà những chương trình như America’s Got Talent1 hay American Idol2 có thể diễn ra. Ở trong phòng karaoke với lũ bạn, bạn có thể là người hát hay nhất. Nhưng để đối chọi với các thí sinh trong cả một quốc gia? Khó lắm. *** Nói cho vuông thì sách chỉ đáng 3.5* thôi, nhưng vì là sách mượn mà người mượn còn chưa đọc nên mình dúi thêm cho 0.5 * nữa, gọi là Tô có ghi công :sss Cuốn sách trình bày về các hiện tượng tâm lý thường gặp (ai hay theo dõi page “10 sự thật thú vị” trên facebook thỉnh thoảng sẽ gặp những bài tương tự và vừa hay, admin của trang cũng đang PR cho cuốn này :))) Chắc do đã đọc nhiều bài viết về lĩnh vực này nên mình không choáng ngợp đến mức sững sờ về nội dung sách :sss Dù vậy, có một cuốn sách tổng hợp lại và Việt hóa triệt để các thuật ngữ tiếng Anh (hay Đức kiểu Baader-Meinhof = thiên kiến xác nhận) thì cũng tiện cho tra cứu và chấn chỉnh bản thân mỗi khi lên cơn vĩ cuồng :3 Đọc xong dễ nảy sinh ham muốn lôi người khác ra test và nghiêm túc tập ngồi thiền, vì rõ ràng, với một tâm trí quá náo động dẫn tới quá tải như tâm trí người phương Tây thì không có gì lạ nếu nó mắc chứng này tật nọ. Giờ đến phần bình xét :sss 1. Hình thức sách =)))) Cái bìa như muốn gào vào mặt độc giả: Bạn không biết chữ như bạn tưởng đâuuuuu :/ và ngoài ra, người đọc có thể gặp chứng mù màu đột xuất :3 Sách dày nhưng đóng keo ở gáy hơi mỏng nên chưa gì đã bị gãy gáy :
Đức Tự Chủ
Nếu con người tự nhiên hoàn toàn thì không cần bàn vấn đề tự chủ. Song, tiếc chút là con người tự nhiên không hoàn toàn. Những yếu tố căn bản cấu thành bản chất người như lý chí, ý chí, bản năng thường hoạt động không đồng hợp. Lý trí dùng khai quang chân lý lại hay bị ý chí lôi cuốn: Lấy hư làm thực. Ý chí có đối tượng đặc biệt là hạnh phúc, lại nhiều lần bị bản năng chi phối quyến rũ: Lấy dữ làm lành. Có hai lực lượng chính và tà ác liệt tranh đấu thường xuyên trong mỗi con người. Ta cần có một năng lực đanh thép để tự hướng về con đường chính. Ai trong chúng ta cũng tự nhiên ưa ăn nhiều, ưa ở không, ưa kiêu ngạo, ưa bón kiết, ưa dâm tà… Epicure nói trong mỗi người có một (con heo). Nhưng kỳ thực chẳng những có một (con heo) mà nhiều (con vật) khác tà ác, thúc đẩy con người đi sai đường lối, định mạng mình. Phải làm sao chế ngự được mình, hoàn toàn làm chủ lấy mình, nói năng, hoạt động do huấn luyện ý thức của mình thì mới đi vững trên nẻo chính, mới mong xây cho cuộc đời một chân giá trị trường cửu. Cái bí quyết của thành công, cái miếng nghề của hạnh phúc, cái chìa khóa giá trị đời ta, thưa bạn là Đức tự chủ. Có nó ta có thể có tất cả. Không có nó ta chắc chắn sẽ không làm nên được việc gì. Thành công được không? Một người trong bất cứ công việc chi hễ vui làm, buồn thôi. Thành công được đại sự không? Kẻ không ép mình chịu khó thu hoạch những thành công nhỏ-nhỏ. Hạnh phúc được không? Một con người gặp trở lực, gặp sầu buồn thì bi quan ngập đời sống, thối chí và bỏ ăn bỏ ngủ. Giá trị bao nhiêu? Con người gặp nghịch ý chút là mắt trợn dọc, miệng la rùm và chân nhảy đong đỏng. Thưa bạn! Vậy cần thiết bạn phải lo cho mình có đức tự chủ để thành công. Bạn phải làm sao bạn chỉ nói những gì bạn tự ý muốn và không làm những gì mình muốn không làm. Bạn phải đặt cho bộ thần kinh bạn một dây cương chế ngự nó và bắt nó ngoan ngoãn tuân lệnh ý chí trui rèn rất già của bạn. Về mặt tiêu cực bạn phải coi như dịch tả1 những tật nói xàm xạp, tật múa tay chân cách vô lý, tật háo động không cần, tật vụt chạc, tật đa tình, đa cảm, đa xúc, tật hay than thân trách phận, bàn chuyện tâm phúc vô ích, tật náo động tâm thần, phiêu lưu trong biển tưởng tượng, mộng mơ vô bờ bến, tật thả hồn trong những tư tưởng hắc ám, dâm ô, bi quan, sầu tủi, hối tiếc, nản lòng… Về mặt tích cực bạn hãy thinh lặng, thinh lặng ít nói đã đành mà thinh lặng trong hành động nữa. Cử động điềm đạm. Hoạt động khi cần thôi, làm gì cũng chỉnh đạt, chu đáo. Có ý chí gang thép. Ưa trầm lặng suy nghĩ, cân đo, dè dặt. Ăn chịu đau khổ. Tìm trong đau khổ, cô đơn nguồn hứng thú. Không tư tưởng chi cần thiết, thì để tâm thần tịnh không. Dùng ý chí hướng dẫn não tưởng tượng cho có chừng mực. Thường thả hồn lên giới tư tưởng, siêu thiêng trong sạch. Nuôi óc bằng những ý tưởng bác ai, hi sinh, lạc quan, ưa đời, hi vọng, kiên nhẫn… Để giúp bạn tự chủ, để tập những điều khuyên trên, chúng tôi viết phỏng quyển sách này. Gọi là viết phỏng song nhiều chỗ trong nguyên văn chúng tôi đích xác. Và dù phiên dịch hay phỏng dịch chúng tôi bao giờ cũng lột hết đại ý của tác giả và trình bày theo tinh thần tiếng mẹ. Chỗ nào tác giả lập lại hay nói không hay, không cần [thì] chúng tôi miễn dịch để thêm vô chút ít riêng những gì bổ ích cho cuộc rèn luyện tâm hồn bạn. Làm công việc này, chúng tôi nhớ trước hết là giới nam và nữ thanh niên. Chúng tôi xin cung hiến riêng cho quí bạn. Chúng tôi trông cậy quyển sách này mỗi bạn đều có nó bên mình để tự luyện tinh thần tự chủ. Chân trời tương lai của bạn sẽ rực rỡ ánh sáng thành công, hạnh phúc, hay âm u những thất bại, khốn nguy, là do bạn có cái chìa khóa và biết sử dụng chìa khóa này [hay] không. Chúng tôi đã trộn tâm tưởng mình với tâm tưởng tác giả để cung hiến bạn mấy giòng chân thành sau đây. Xin bạn chịu khó đọc kỹ lưỡng, suy nghĩ, học thuộc lòng những qui tắc và thực tập những bài chúng tôi chỉ. Sau một tháng áp dụng các phương pháp trong sách này bạn sẽ thấy đời bạn đổi mới cách lạ. Bạn sẽ nghe trong người bạn cường dũng. Bạn sẽ ảnh hưởng bao kẻ xung quanh và ai giao tiếp bạn cũng nhận rằng mình đang bị lôi cuốn, thu phục bởi một dũng lực khác thường. Chúc Bạn mau đoạt kết quả mỹ hảo, như ý, và thân mến chào bạn.   HOÀNG XUÂN VIỆT Sài Gòn, cuối đông 1954 *** 1. Bạn! Trong đời sống bạn có muốn thành công mọi việc không? Bạn có mong ước sự thành công dưới mọi hình thức, thứ thành công chính đáng, duy nhất, mà người lương thiện có thể tìm được chăng? Chắc chắn bạn ước mong, bạn muốn cách cương quyết. Vậy thì xin bạn hãy rất mực chú ý đọc và học quyển sách này. Chúng tôi hân hạnh tặng nó cùng tất cả những ai có tham vọng cao cả, thiện dụng những phú bẩm cá biệt của mình và những hoàn cảnh để canh tân địa vị, để tự hoàn thiện về đường tân đức và gây xung quanh mình ảnh hưởng tốt đẹp. Viết quyển sách này chúng tôi không có tham vọng làm văn, mà chỉ với mục đích cung hiến độc giả một Phương pháp Thực Hành và rõ rệt đảm bảo chắc chắn cho độc giả mọi thành công. Quả thực trong mấy trang này, chúng tôi xin trân trọng tặng chiếc chìa khóa, giúp bạn mở dần dần các cánh cửa khác nhau của thành công. Sau cùng nhờ chìa khóa này bạn được vào tận lâu đài bí nhiệm của thành công và hạnh phúc; không có chìa khóa này, bạn sẽ nhu nhược chôn vùi trọn kiếp đời sống mình trong đám quần chúng vô số những kẻ xoàng xoàng, thất bại của cuộc sống. 2. Chiếc chìa khóa nhiệm lạ này, thưa bạn! tức là Đức Tự Chủ Bạn hãy làm chủ lấy bạn. Bạn sẽ sử dụng có lợi nhất những năng lực mà nhân tính đã đặt định để bạn dùng mà bạn bỏ không; bạn sẽ ứng dụng có kết quả khả quan những hoàn cảnh; bạn sẽ trong một chừng mực nào đó chế ngự những hiện tượng mà không để bị chúng lôi cuốn, quản trị bạn. Hãy khắc ấn sâu vào tâm não bạn quyết định này là không tự chủ bạn sẽ không thành tựu được công việc gì cả. Bạn nên trầm nghĩ một chút. Những phú bẩm tinh thần minh suốt nhất không đảm bảo đủ cho bạn thành công. Bạn coi những kẻ đồng đăng bạn xưa bây giờ làm gì, những kẻ thuộc hạng có thiên phú dồi dào nhất phần nhiều người ta thất vọng; họ vất vơ sống cách đáng tiếc khi bao nhiêu kẻ khác xem ra ít tài năng hơn mà đã xây dựng cho mình những địa vị rực rỡ. Tại sao thế? Tại họ thiếu nghị lực cần thiết chứ gì. Khởi thắng là thứ bông hoa khó trồng, không phải đất nào cũng hợp; nó cần có ánh sáng mặt trời ý chí để rực nở nữa. Những cuộc thành công vĩ đại đâu phải chỉ vì số may. Ở dương thế này, mọi người không lúc này thì lúc khác đều gặp cơ hội thuận tiện, kẻ tự chủ nhanh chóng chụp lấy thời cơ, kẻ bạc nhược vì bỏ qua cơ hội nên chính sự yếu đuối của họ gây khó cho họ chớ không phải số phận. Thời vận là con chim hay đổi tính, nếu nó đáp cánh sát bạn, bạn phải lo chụp, bằng không nó vụt bay mất. Vậy xin bạn đừng bảo thất bại là con đẻ của bạc mệnh. Giữa bao nhiêu khó khăn bạn hãy anh dũng tranh đấu; sau cùng bạn sẽ chiến thắng mọi trở lực. Vật không động lực, sống bấp bênh như lục bình mặc tà ác cuốn lôi. Mỗi giờ phút bất động khiến cho tình thế nó thêm nguy ngập. 2. Nếu bạn muốn cảm thấy cách xâu xa sự cần thiết tự chủ thì hãy để vài phút hồi tưởng dĩ vãng của mình, bạn hãy nghiệm xét lịch sử đời tư mình Các công việc bạn có thịnh hành như bạn nguyện vọng không? Bạn học tập có tiến triển khả quan chăng? Tài năng bạn có gây ảnh hưởng gì trong xã hội không? Đời sống tinh thần và tâm đức của bạn có được nâng đỡ đúng cùng lý tưởng cao cả mà bạn thấy thì có những ước vọng tốt đẹp chăng? Nếu thành tâm tự xét, bạn sẽ mau mắn nhìn nhận sự canh tân thêm cho tình trạng mình và có thể hoàn toàn đổi lối cho nó nữa. Bạn đã không biết lợi dụng cơ hội thuận tiện này, lầm lẫn trong quyết định kia, đã thiếu tinh thần tiếp tục trong hoàn cảnh nọ. Và bạn cũng đã lùi bước trước một cuộc tiến nào đó không kém quan hệ. Bạn à! Tại sao bạn lại hành động thế ấy? Tôi bói đúng bạn trả lời sao. Bạn để mình bị lôi cuốn bởi một cơn bồng bột vô nghĩa, hoặc bởi một sức giục nóng nảy. Có khi bạn không thể chế ngự tính nhút nhát, hay mà bạn tâm tính tự tỷ mà bạn cảm [thấy] rất khổ đau trong những giờ phút mệt mỏi, thất bại. Lần khác bạn vụt nói một tiếng chua chát, cười nhạo, tuy có thể tha thứ được, song đã khiến bạn gieo ác cảm tai hại rất mực cho sự thành công. Còn nữa, nhiều lắm, nhiều lần bạn hành động theo dục tính thúc đẩy mà bất chấp tiếng nói của lý trí. Bạn không phải là một người tự chủ mà biến thành một con người máy, biến thành cái lò xo hễ động là bung… Con người muốn có giá trị, thưa bạn, đâu thể vậy được mà phải quản trị óc tưởng tượng, bộ thần kinh mình và hành động theo trí tuệ ý chí.   4. Trong quyển sách bé con này bạn sẽ tìm gặp một phương pháp luyện tự chủ trong một thời gian ngắn PHƯƠNG PHÁP cực kỳ đơn giản. Chúng tôi cố gắng gạn lọc bớt những lý thuyết hay bàn cãi không đưa dẫn trực tiếp đến thực hành. Phương pháp cực kỳ hiệu nghiệm.–Bạn cứ thí nghiệm những điều chúng tôi chỉ đi. Kinh nghiệm riêng sẽ chứng cùng bạn những điều chúng tôi nói là sự thật. Phương pháp để theo.–Nó chỉ đòi buộc vài sự cố gắng cần thiết. Bạn sẽ thấy dễ dàng thực hiện nó vì chúng tôi trình bày rõ ràng và bạn thực hiện nó mà cảm thấy hứng thú. Thực hành nó bạn mê say như mê say một môn thể thao chớ không phải nghe mình bị áp bức bởi luật lệ. Nó tăng dần những việc bạn cần luyện tập để từ từ làm chủ lấy mình mà khỏi phải Ép mình cực nhọc. Leo lên lầu một nhà cao tầng bằng thang máy êm ái, dễ leo hơn là một cây thang bắt dựng đứng khiến ta leo suýt cúp cổ. Cũng thế ấy mỗi ngày bạn sẽ cảm thấy bạn chắc chắn thành công trong việc tự chủ bằng những phương pháp hiệu nghiệm. Bạn hãy: Quen tưởng nhiều về những đức tính mà chúng tôi vừa chỉ cho bạn. Suy nghĩ kỹ rồi bạn sẽ tự bảo rằng: “Quả là một phương pháp siêu vượt các phương pháp khác giống vậy gặp trong những sách viết lộn xộn, đọc nát óc và đòi buộc nhiều việc mà ý chí còn non mềm không dễ gì thực hiện được”. Vậy bạn nên tín nhiệm hoàn toàn và theo sát từng điểm những lời khuyên của chúng tôi. Nếu bạn trung thành thực tập các lời khuyên ấy, thì bạn sẽ nhận thấy rõ ràng con người bạn ngày càng thay đổi dũng cường tốt đẹp.   5. Làm sao bạn dùng quyển sách này Bạn hãy đọc chậm, đọc chậm từng chương. Đọc và tiêu hóa xong các điều viết trong chương trước, rồi hễ qua chương sau. Muốn thành công trong việc tự chủ bạn đừng hấp tấp. Nhất là bạn đừng cẩu thả những việc luyện tập mà chúng tôi chỉ định. Chúng cấu thành một thứ thao luyện tâm linh và bạn sẽ được những kết quả khả quan bằng một sự thúc đẩy tinh thần. Khi mà bạn cảm nhận có tấn tới chút gì thì bạn dùng sự tấn tới ấy ám thị mình. Bạn sẽ chạy mau trong sự cải hóa đời mình. Bạn hãy tự nói những lời này hay là những lời giống vậy. “Chắc chắn là tôi cải tân tôi. Tôi mới tự kiểm soát mình trong một việc khó mà trước kia tôi không làm được. Tôi trở thành một con người cương dũng vì tôi biết sử dụng ý chí tôi. Tôi không để những lực lượng tâm linh tôi không sinh lợi ích gì và tôi dùng tất cả năng lượng, khí lực của tiềm thức tôi. Dồi rèn phú bẫm của tôi như vậy, mỗi ngày tôi làm chủ lấy tôi. Thế là tôi đã khởi sự chiếm đoạt lý tưởng của tôi và trở thành người mà tôi mơ ước trở thành”. 6. Khi bạn đã ngẫm nghiền xong những tư tưởng chứa đựng trong chương nói đầu này thì bạn hãy nghiên cứu những trang sau. Bấy giờ là bạn đã tiêm nhiễm tận đáy lòng phương pháp rồi vậy Bạn nhắm thành công à? Bạn sẽ thành công mau hay không tùy bạn trung thành cùng không trong việc thi hành phương pháp chúng tôi chỉ cho bạn. Mời các bạn đón đọc Đức Tự Chủ của tác giả Hoàng Xuân Việt.