Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tư Duy Là Tồn Tại

Phương pháp 6 Chiếc Mũ Tư Duy

Tư Duy Là Tồn Tại

Tư duy song song trong phương pháp tư duy 6 chiếc mũ đã nhanh chóng thay thế cho cách thức tư duy tranh luận trên toàn thế giới.

Phương pháp tư duy này ảnh hướng sâu sắc từ những quản trị viên cao cấp của các tập đoàn hàng đầu thế giới như Siemens, NTT, Prudential (US) cho đến những đứa trẻ còn ngồi trên ghế nhà trưởng.

Dưới đây là một số dẫn chứng cụ thể: Đội dự án đa quốc gia của tập đoàn hàng đầu (ABB) từng mất 30 ngày hội họp để đưa ra một quyết định.

Sau khi họ áp dụng lối tư duy đồng thuận, thời gian rút xuống chỉ còn hai ngày. Một nghiên cứu viên làm việc tại phòng thí nghiệm hàng đầu của tập đoàn IBM đã nói.

Đôi lúc họ bỏ qua những yếu tố có thể đưa đến sự thay đổi, không thể tạo ra những đột phá thật sự và không chuẩn bị những kế hoạch dự phòng cần thiết cho những rủi ro có thể gặp.

Sáu Chiếc Mũ Tư Duy Khi Người Ta Tư Duy – As a Man Thinketh Tư Duy Như Einstein

Ngoài ra, những người đã quen giải quyết vấn đề một cách khoa học có thể sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo hoặc giải quyết vấn đề dựa trên trực giác của họ.

Nếu đánh giá một vấn đề bằng phương pháp Sáu Chiếc Mũ Tư Duy, bạn có thể giải quyết nó dựa trên tất cả các góc nhìn đã đề cập. Bạn sẽ kết hợp được cả tham vọng, kỹ năng thực hành, sự nhạy cảm, sáng tạo và khả năng lập kế hoạch dự phòng tốt trong việc ra quyết định và hoạch định.

Thư viện Sách Mới trân trọng gửi đến bạn đọc cuốn sách Tư Duy Là Tồn Tại của tác giả Edward de Bono.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

TRUNG DUNG TÂN KHẢO - NHÂN TỬ NGUYỄN VĂN THỌ
Trung Dung (中庸 ) là một trong bốn cuốn của bộ Tứ Thư. Ba quyển còn lại là Đại Học (大學 ), Luận Ngữ (論語 ), Mạnh Tử(孟子 ). Trung Dung (中庸 ) là một trong bốn cuốn của bộ Tứ Thư. Ba quyển còn lại là Đại Học (大學 ), Luận Ngữ (論語 ), Mạnh Tử(孟子 ).Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra  trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Mục đích của sách Trung Dung là biểu thị rằng theo Trung Đạo có thể giúp chúng ta đạt được một trình độ cao của đạo đức. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân. Sách Trung Dung chia làm hai phần: Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi. Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung dung. Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra  trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Mục đích của sách Trung Dung là biểu thị rằng theo Trung Đạo có thể giúp chúng ta đạt được một trình độ cao của đạo đức.Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.Sách Trung Dung chia làm hai phần:Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi.Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung dung.Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
ẤU HỌC KHẢI MÔNG - THẾ-TẢI TRƯƠNG MINH KÝ (1893)
 LỜI KHUYÊNLàm người đi học phải cho thông,Nghĩa lý đông tây nam bắc đồng,Diễn dịch rõ ràng coi dễ hiểu,Khuyên đoàn sỉ tử khá gia công. ĐẶNG-QUẤC-THOẠI.Văn pháp, lục thơ, điển cố, thôngKể mười người một, tới nên đồng,Yên trên trị dưới, ai không chịu?Vậy thảo là hay, phải gắn công.Thế tải TRƯƠNG-MINH-KÝ.Ngoài năm kinh có Hiếu kinh thông,Dạy dỗ người trong đạo nghĩa đồng,Song phải nhớ thời, Phu tử trước,Mới hay công diễn rất nên công.ĐẶNG-THÚC-LIÊN.
THUẬT NGỮ HUYỀN HỌC - TRẦN VĂN KHÁ
Huyền là một thuật ngữ được đặt ra để gọi tên cho những hiện tượng nằm ngoài phạm vi hiểu biết bình thường hoặc khoa học hiện tại không thể giải thích hay đo lường được. Khác với một số sự tồn tại giả định ví dụ như vật chất tối hay năng lượng tối, những hiện tượng siêu linh không phù hợp với thế giới như đã được hiểu thông qua quan sát thực nghiệm kết hợp với phương pháp khoa học.Hàng ngàn Thuật Ngữ liên quan đến hiện tượng huyền bí được tìm thấy trong văn hoá, văn học dân gian, và những hồi ức của các đối tượng cá nhân sẽ được liệt kê đầy đủ trong cuốn sách này, qua đó giúp cho bạn đọc muốn tìm hiểu về bộ môn Huyền Học sẽ có trong tay công cụ tra cứu tuyệt vời nhất.
MINH TÂM BỬU GIÁM - TRƯƠNG VĨNH KÝ (1924)
Các sách Minh Tâm Bảo Giám lưu hành rộng rãi ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam trước đây phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch (người ta không nhắc tên người biên soạn nữa có lẽ vì tác giả thực thụ chính là những người phát biểu ý kiến đã được trích dẫn). Người dùng sách ngày nay nên hiểu rằng bản gốc của Thu Quát chỉ còn ý nghĩa lịch sử, còn ý nghĩa văn hóa thì thuộc về bản Vạn Lịch ra đời sau bản Thu Quát ngót hai trăm năm.  Bản Vạn Lịch tuy chỉ nhiều hơn 1 thiên nhưng nội dung lại gấp đôi bản Thu Quát và chắc chắn là nó không cộng vào đó toàn văn bản Thu Quát. Các sách Minh Tâm Bảo Giám lưu hành rộng rãi ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam trước đây phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch (người ta không nhắc tên người biên soạn nữa có lẽ vì tác giả thực thụ chính là những người phát biểu ý kiến đã được trích dẫn). Người dùng sách ngày nay nên hiểu rằng bản gốc của Thu Quát chỉ còn ý nghĩa lịch sử, còn ý nghĩa văn hóa thì thuộc về bản Vạn Lịch ra đời sau bản Thu Quát ngót hai trăm năm.  Bản Vạn Lịch tuy chỉ nhiều hơn 1 thiên nhưng nội dung lại gấp đôi bản Thu Quát và chắc chắn là nó không cộng vào đó toàn văn bản Thu Quát.Hán học du nhập Việt Nam từ thời nội thuộc nhà Hán (179 trước Công Nguyên). Các triều đại kế tiếp của Trung Quốc đều duy trì ý thức vun đắp cho nền văn hóa và chính trị khu vực bằng tinh thần "đồng văn". Do đó, sách vở Trung Quốc lưu hành ở Việt Nam không thua kém gì ở Trung Quốc nhờ sự qua lại khá thường xuyên của giới ngoại giao và giới doanh nhân hai nước. Tuy nhiên, sách Minh Tâm Bảo Giám có mặt nhan nhản trong dân gian hầu hết lại là sách chép tay gia truyền của những gia thục chứ các nhà xuất bản địa phương không hề tham gia phát hành, khắc in như đối với các sách khác - Phần lớn các ông Ðồ lại thường dạy theo trí nhớ thành thử thử ít đảm bảo tính chính xác, thống nhất của văn bản. Tựu trung các sách ấy thuộc hai dòng chính: - Dòng 1: Sách gồm 20 thiên (từ thiên Kế thiện đến thiên Phụ hạnh). Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm mắc". - Dòng 2: Sách không chia thiên, chỉ rút những câu dễ hiểu ở cuốn trên, tổng số chữ chỉ còn phân nửa. Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm rẻ" Cả hai sách ấy đều tập hợp những danh ngôn dạy đạo làm người, rất nhiều câu trong đó đã đi sâu vào cuộc sống đến mức người không hề học chữ Hán cũng vẫn nhắc đúng được nguyên văn. Sách Minh Tâm Bảo Giám đã được Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) dịch ra Việt ngữ từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Ðoàn Mạnh Hy, Nguyễn Quốc Ðoan, vv... dựa vào những văn bản khác nhau nhưng đều có điểm chung là nguyên tác vốn từng được nhiều thế hệ thuộc lòng trước khi nó được giới dịch thuật chiếu cố (trong khi đại đa số dịch phẩm trên thị trường lại thường nhằm ý đồ giới thiệu những danh tác chưa được nhiều người biết đến nguyên bản). - Dòng 1: Sách gồm 20 thiên (từ thiên Kế thiện đến thiên Phụ hạnh). Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm mắc".- Dòng 2: Sách không chia thiên, chỉ rút những câu dễ hiểu ở cuốn trên, tổng số chữ chỉ còn phân nửa. Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm rẻ"Cả hai sách ấy đều tập hợp những danh ngôn dạy đạo làm người, rất nhiều câu trong đó đã đi sâu vào cuộc sống đến mức người không hề học chữ Hán cũng vẫn nhắc đúng được nguyên văn.Sách Minh Tâm Bảo Giám đã được Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) dịch ra Việt ngữ từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Ðoàn Mạnh Hy, Nguyễn Quốc Ðoan, vv... dựa vào những văn bản khác nhau nhưng đều có điểm chung là nguyên tác vốn từng được nhiều thế hệ thuộc lòng trước khi nó được giới dịch thuật chiếu cố (trong khi đại đa số dịch phẩm trên thị trường lại thường nhằm ý đồ giới thiệu những danh tác chưa được nhiều người biết đến nguyên bản).MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)