Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Và Chúa Đã Tạo Ra Đàn Bà

"Và Chúa đã tạo ra đàn bà, nhưng quỷ dữ đã tạo nên B.B." – đó là câu quảng bá quen thuộc về bộ phim năm 1956 của đạo diễn Roger Vadim. Điện ảnh đã tạo ra hiện tượng nhục cảm khiêu khích với B.B – Brigitte Bardot – như biểu tượng của thế hệ "Làn sóng Mới" những năm hậu chiến ở châu Âu. B.B đã trở thành liều thuốc độc ngọt ngào hạ gục mọi trái tim đàn ông thế giới. Câu chuyện không thể đặc trưng hơn cho một thế hệ nổi loạn bằng vẻ tự nhiên tươi mát đến choáng váng, chống lại những luân lý và định kiến bảo thủ của một xã hội cũ kỹ. Câu chuyện kể về Juliette Hardy, một cô gái mồ côi khao khát tình yêu, nhưng vấp phải những rào cản định kiến xã hội và những người đàn ông không mấy thực tâm đối xử tốt với cô. Nhưng chính sự hoang dại tự nhiên của cô làm tất thảy không yên ổn với sự đạo đức giả của họ. Như một bài ca lãng mạn không chút bi ai xoa dịu những chấn thương tâm lý, câu chuyện thể hiện truyền thống ái tình hoan lạc rất Pháp. Người ta đã so sánh Bardot với nàng tiên cá cất tiếng hát bằng ánh mắt và diễn xuất tự nhiên trời phú. Giai điệu mà đạo diễn Vadim tạo nên qua Bardot đã định cư trong đầu óc thời đại, bài ca đã dụ được đám kiểm duyệt thời đó va vào những thành vách ẩn sau sương mù và đập vỡ vĩnh viễn cái vỏ nghiêm cẩn của điện ảnh tránh né tình dục. Bộ phim gây nên tranh cãi liệu có phải chính sự đơn giản của cốt truyện lại là đất để cho Vadim khai thác được vẻ đẹp diễn như không diễn của B.B. Sự tinh quái của nhà làm phim nằm ở chỗ không nhọc công biện giải cho vấn đề đạo đức, trưng ra một cô gái đẹp làm sững sờ tất thảy – vốn chẳng xa lạ gì trong kho tàng nghệ thuật nước Pháp, nhưng khác với Victor Hugo cho Esmeralda bị tử hình trong câu chuyện thời Trung cổ thì Juliette Hardy đã được tôn vinh ngầm qua những góc quay đầy khoái cảm của Vadim. Với lối kể hấp dẫn, người đọc vẫn có thể cảm nhận được sức nóng của câu chuyện trên từng câu chữ và những hình ảnh đẹp về B.B in kèm trong cuốn sách. *** Simone Colette là bút danh của Sidonie-Gabrielle Colette - nữ tiểu thuyết gia người Pháp (28.1.1873 – 3.8.1954). Bà nổi tiếng về quyển tiểu thuyết Gigi, mà Alan Jay Lerner và Frederick Loewe đã dựa vào để viết cuốn phim và nhạc kịch mang cùng tên Colette là con gái của viên sĩ quan nghỉ hưu Jules-Joseph Colette và vợ là Adèle Eugénie Sidonie "Sido" Colette (nhũ danh Landoy). Colette sinh tại Saint-Sauveur-en-Puisaye, Yonne, vùng Bourgogne-Franche-Comté của Pháp. Bà học dương cầm từ khi còn nhỏ và đậu bằng tiểu học với điểm cao về môn toán và chính tả. Năm 1906, Colette bỏ ông chồng Gauthier-Villars không chung thủy, tới sống chung với nhà văn nữ người Mỹ Natalie Clifford Barney. Hai người có mối quan hệ tình ái ngắn, và họ giữ tình bạn suốt đời. Colette vào làm việc ở các phòng nhạc Paris, dưới sự bảo trợ của nữ hầu tước Mathilde de Morny, biệt danh Missy, hai người có một mối quan hệ đồng tính lãng mạn. Năm 1907, Colette và Morny cùng diễn xuất trong một vở kịch câm tựa đề Rêve d'Égypte (Giấc mộng Ai Cập) ở Moulin Rouge. Nụ hôn trên sân khấu của họ gần như gây ra một cuộc náo loạn, đến nỗi người ta phải gọi cảnh sát tới để lập lại trật tự. Do vụ bê bối này, buổi trình diễn tiếp theo của vở Rêve d'Égypte đã bị cấm, và họ đã không có thể sống chung với nhau một cách công khai, mặc dù mối quan hệ của họ vẫn tiếp tục trong 5 năm.[9] Trong thời gian này, Colette cũng có quan hệ tình dục khác giới Bà là viện sĩ của Viện hàn lâm Hoàng gia Bỉ về Ngôn ngữ và Văn học Pháp (1935) Nữ thành viên thứ nhì của Hội văn học Goncourt (1945) Chủ tịch Hội văn học Goncourt (1949) Bắc Đẩu Bội tinh hạng Chevalier (1920) Bắc Đẩu Bội tinh hạng Grand Officier (1953) Bà là người phụ nữ đầu tiên được cử hành lễ quốc táng ở Pháp và được mai táng ở Nghĩa trang Père-Lachaise, Paris - mặc dù bị từ chối các lễ nghi Công giáo do đã ly dị - vì đã có công che giấu các người bạn Do Thái và chồng mình trên tầng gác xép sát mái nhà trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp. Nữ ca sĩ kiêm người viết ca khúc Rosanne Cash đã viết ca khúc "The Summer I Read Colette" trong album 10 Song Demo (1996) của mình để tỏ lòng ngưỡng mộ bà. Truman Capote đã viết truyện ngắn "The White Rose" (1970) về bà. Năm 2012, la Monnaie de Paris đã phát hành đồng tiền kim loại 10 euro bằng bạc có hình Colette. Trung tâm nghiên cứu Colette của Pháp có nhiều đề tài liên quan tới cuộc đời của Colette. Tiến sĩ Jane Gilmour đã viết quyển Colette’s France: Her Lives, Her Loves (Hardie Grant Books), nói về cuộc đời của Colette xuyên suốt các nơi mà bà đã từng sống Trường Trung học cơ sở Colette là ngôi trường ở quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, có bề dày thành tích trong việc dạy và học không chỉ của quận mà còn của thành phố. *** Và Chúa đã tạo ra đàn bà (tên tiếng Pháp: Et Dieu... créa la femme, 1956) không phải là phim đầu tiên Brigitte Bardot đóng nhưng được xem như cỗ máy đưa Bardot trở thành biểu tượng điện ảnh và văn hóa thế giới. Bardot, với tên gọi âu yếm B.B, đóng đinh vẻ đẹp của mình qua vai diễn Juliette với biệt danh “mèo con nhục cảm” đã làm dấy lên cơn sốt hâm mộ toàn cầu. Khi bộ phim được phát hành ở Mỹ, nó đã vấp phải rào cản kiểm duyệt và trở nên quá phóng túng so với tiêu chuẩn đạo đức xã hội đương thời. Vào thời điểm đó, bộ phim bị Liên đoàn Đạo đức Thiên chúa giáo của Mỹ kết án và cấm đoán. Tuy vậy, năm 1958, bộ phim đã thu được 4 triệu đôla ở Mỹ, trong khi chi phí sản xuất ước chừng 300.000 đôla. Khi bộ phim chiếu ở Mỹ, Bosley Crowther, nhà phê bình phim của tờ The New York Times đã nhận xét: “Bardot chuyển động trong một lối thời trang hoàn toàn làm nổi bật lên vẻ quyến rũ của nàng. Nàng hiển nhiên là kết quả của một sự sáng tạo siêu việt không thể phủ nhận. Nhưng ngoài điều đó ra thì bộ phim khá rời rạc với kịch bản đơn giản. Chúng tôi không thể giới thiệu bộ phim nhỏ này như một sản phẩm hay nhất của phim ảnh xứ Gô-loa. Nó sắp đặt các yếu tố với nhau khá vụng về và được diễn xuất một cách kỳ quặc. Không có gì đáng kể ngoài sức nóng bỏng kinh khủng trong diễn xuất của Cô Bardot.” Gần nửa thế kỷ sau, nhà phê bình phim Dennis Schwartz viết: “Bộ phim khiêu dâm hạng nhẹ được tô điểm thêm tuyến truyện có màu sắc bi kịch song vẫn khó có thể coi là một phim bi nghiêm túc. Nhưng dù cốt truyện mỏng thì nó vẫn luôn sống động và hút mắt, nhờ vào không gì hơn là một chuỗi những cảnh Bardot thể hiện mình như một con mèo con nhục cảm trong các lớp cảnh khỏa thân. Công chúng yêu thích bộ phim và nó đã trở thành một cú đột phá phòng vé, tạo nên làn sóng cho những bộ phim khêu gợi sau này. Bộ phim phơi ra những lời thoại dớ dẩn cùng sự phô trương của Bardot thành một đối tượng tình dục, mà ẩn bên dưới là lời kêu gọi cho sự giải phóng phản kháng lại giáo điều cũng như cái nhìn nhục cảm về tình dục.” Mặc dù đã tham gia đóng phim từ năm 17 tuổi với không dưới 15 phim, nhưng phải đến Và Chúa đã tạo ra đàn bà, B.B mới trở thành ngôi sao thực sự. Lúc này B.B mới 21 tuổi. Bộ phim đầu tay của đạo diễn Roger Vadim ghi dấu ấn quan trọng đến nỗi người ta cứ ngỡ đó là bộ phim đầu tiên của B.B, song trên thực tế khi bộ phim ra mắt cũng là thời điểm hai người chia tay nhau sau 5 năm chung sống. Ông đã viết về người vợ trẻ của mình (ông đã là tình nhân của B.B từ năm nàng 15 tuổi) trong hồi ký: “Cô ấy là vợ tôi, con gái tôi và bà chủ của tôi.” Vốn là một nhà báo của tờ Paris-Match, Vadim (1928-2000) đã sớm phát hiện ra B.B và khi bắt đầu tiến hành thực hiện bộ phim, điện ảnh Pháp cũng đang chấn hưng với phong trào “Làn sóng Mới” (nouvelle vague), đua tranh với “Tân Hiện thực” của Ý, trở thành những ngọn cờ đầu của điện ảnh châu Âu. Ba chục năm sau, Vadim đã nói về sự ảnh hưởng của những bộ phim thời đầu: “Tôi cảm thấy mình như một Bonaparte trẻ trung lúc khởi sự chiến dịch Ý, mà tôi chắc thắng.” (Bardot Deneuve Fonda, hồi ký, 1987). Những bộ phim về sau của Vadim dần chìm vào tâm thế u tối của sự bi quan, không còn vẻ quyến rũ của thời ông liên tiếp là tình nhân và kết hôn với những minh tinh đẹp nhất thế giới. Sau Bardot là Annette Stroyberg (1958-1960), Catherine Deneuve (1962-1964), Jane Fonda (1965-1972). Người ta nhận xét rằng sự xuất hiện của B.B trong bộ bikini bên bãi biển là một hình ảnh xoa dịu sự khắc kỷ hậu chiến của châu Âu - có sức mạnh ma thuật hơn nhiều so với lời lẽ hay một hiệu ứng hào nhoáng - không giống như ảnh hưởng của thuyết tương đối Einstein hay cú lắc hông của Elvis Presley, những biểu tượng truyền thông toàn cầu khi ấy - Bardot đánh bại mọi ký ức văn hóa dễ dàng khi nàng hiện lên màn ảnh. Vadim ca tụng: “Nàng đến từ một chiều không gian khác, ở đâu đó ngoài vũ trụ. Khi người ta phát hiện ra nàng, họ không thể nào rời mắt khỏi nàng nữa.” vẻ đẹp của B.B vừa hoang dại lại vừa siêu thực, và từ Và Chúa đã tạo ra đàn bà, hình mẫu này đã đi trước cách mạng tình dục của thập niên 1970. Trong hình hài một nàng Eva trong vườn địa đàng đầy rắn độc, Bardot đóng vai Juliette, linh hồn tự do bị cầm tù của St. Tropez: một thực thể quá tự nhiên đến nỗi giày dép dường như vướng cẳng nàng, và ngay cả trong thứ lẽ ra không thể bị xem là khiêu dâm như bộ váy cưới, nàng vẫn gây bàng hoàng. Juliette chạy theo bản năng, cự tuyệt những mơn trớn của nhà triệu phú Carradine để theo đuổi gã đê tiện to khỏe Antoine. Khi Antoine từ chối Juliette, nàng miễn cưỡng cưới em trai gã ta, anh chàng Michel nhân hậu nhưng ngây thơ. Cuối cùng; Juliette trút cơn cuồng vọng của mình vào điệu Mambo ma quái. Tạp chí Time viết về khoảnh khắc Vadim giới thiệu B.B đầu phim: “Brigitte nằm đó, trườn dài hết cả màn ảnh, chổng mông lên và trần trụi như con ngươi của nhà kiểm duyệt.” Khi bộ phim được chiếu lần đầu cho các nhà kiểm duyệt Paris, Vadim kể lại, một vị tức giận đến mức ông ta quyết định cảnh Bardot không mặc quần lót diễu trước mặt một cậu trai vị thành niên phải bị cắt bỏ. Vadim cười thầm và cho chiếu lại cảnh đó, và quả nhiên không có vụ khỏa thân nọ. Trên thực tế, Bardot mặc một bộ đồ thể dục màu đen bó sát suốt đoạn đó. Nhà kiểm duyệt khăng khăng cho rằng Vadim đã quay hai bản, và bằng cách nào đó đã đánh tráo khi chiếu. Vadim nhận xét: “Đó là một trong những điều kinh ngạc nhất về sự xuất hiện của Brigitte trên phim. Người ta cứ nghĩ nàng khỏa thân lúc đó trong khi không phải vậy.” Nhà phê bình John Baxtor nhận xét: “‘Mông nàng là một bài ca’, nhân vật nào đó đã thốt lên lời ngưỡng mộ Bardot ngay từ đầu phim. Có lẽ ý họ đó là tiếng hát của mỹ nhân ngư. Từ khoảnh khắc tạo tác đó, Bardot - biểu tượng tình dục, siêu sao, ký hiệu, ảo ảnh - trở thành giai điệu đã định cư trong đầu óc thời đại, bài ca đã dụ được đám kiểm duyệt va vào những thành vách ẩn sau sương mù và đập vỡ vĩnh viễn cái vỏ nghiêm cẩn của điện ảnh tránh né tình dục.” Sau này vào năm 1963, đạo diễn Jean-Luc Godard đã chọn Bardot đóng trong bộ phim Contempt [Sự khinh bỉ, dựa theo tiểu thuyết của Alberto Moravia], được xem như cùng một công thức với Và Chúa đã tạo ra đàn bà, đều khai thác vẻ đẹp bốc lửa hoang dại của B.B. Bộ phim được như một liều thuốc độc ngọt ngào cho khán giả hậu chiến, và người ta tranh cãi rằng chính sự đơn giản của cốt truyện lại là đất để cho Vadim khai thác được vẻ đẹp diễn như không diễn của B.B. Sự tinh quái của nhà làm phim nằm ở chỗ không nhọc công biện giải cho vấn đề đạo đức, trưng ra một cô gái đẹp làm sững sờ tất thảy - vốn chẳng xa lạ gì trong kho tàng nghệ thuật nước Pháp, nhưng khác với Victor Hugo cho Esmeralda bị tử hình trong câu chuyện thời Trung cổ thì Juliette Hardy đã được tôn vinh ngẫm qua những góc quay đầy khoái cảm của Vadim. Người ta vẫn coi năm 1959 như “một năm diệu kỳ” của điện ảnh Làn sóng Mới, khi những đạo diễn mới Truffaut, Camus và Resnais chiếm lĩnh Liên hoan phim Cannes. Nhưng sự khởi đầu thực sự chính là ở vào ba năm trước đó, khi cựu nhà báo 28 tuổi Roger Vadim tung ra sản phẩm đầu tay Và Chúa... Thành công khởi đầu có tính scandal này (succès de scandale) được chứng minh qua cơn sốt phòng vé, và lần đầu tiên những nhà sản xuất độc lập đã mở hầu bao ra đầu tư cho thế hệ đang lên của nền điện ảnh Pháp mới. Sau khi làm trợ lý cho đạo diễn Marc Allegret một thời gian, Vadim cảm thấy đủ tự tin để đạo diễn một bộ phim dành cho người đẹp tính khí thất thường và hay gây sự của mình. Trong dàn diễn viên, có sự tham gia của diễn viên người Đức Curd Jurgens trong vai nhà triệu phú Carradine nhằm đảm bảo sự quảng bá quốc tế. Diễn viên Jean-Louis Trintignant lúc đó hãy còn vô danh, đóng vai người chồng của Juliette, đã mau chóng có mối quan hệ tình ái khá ầm ĩ với cô. Nhà phê bình John Baxter phân tích: “Theo đuổi ý tưởng về một bộ phim kịch tính và dùng màu sắc gây ấn tượng khêu gợi, Vadim dựng bối cảnh cho một Bardot da rám nắng giữa những cảnh nền trắng - cát, vải đũi thô - nhằm khuếch trương hiệu ứng. Hình ảnh cô đang tắm nắng phía sau những tấm ga trải giường phơi bập bồng trong gió và sau đó là cảnh dùng bữa sáng tân hôn quấn mình trong tấm ga trắng, là chứng minh cho dụng công đặc biệt đó của Vadim.” Nữ diễn viên kỳ cựu Jeanne Moreau đã ghi nhận dấu ấn mang tính biểu tượng của bộ phim và Bardot: “Brigitte là một nhân vật cách mạng hiện đại thực sự đối với phụ nữ. Và Vadim, với tư cách một người đàn ông, người tình và một đạo diễn, đã cảm nhận được điều đó. Điều không thể chối cãi trong Làn sóng Mới, đó là bộ phim đột nhiên quan trọng này chứa đầy sự sống, nhục cảm, năng lượng, tình ái và đam mê. Bất kỳ ai cũng phải ghi nhớ rằng Vadim đã bắt đầu mọi thứ, cùng với Bardot.” Năm 1987, đạo diễn Roger Vadim đã một bộ phim cùng tên bằng tiếng Anh song nội dung hoàn toàn khác, bối cảnh New Mexico ở miền Tây nước Mỹ, với diễn viên Rebecca de Mornay và Frank Langella nhưng không thành công. Đơn giản là vì không có Bardot. *** Những câu thoại đáng nhớ [Juliette đang tắm nắng khỏa thân] ERIC CARRADINE: A! Vườn Địa đàng ở Saint-Tropez! JULIETE HARDY: Ôi ông Carradine! Và em chắc ông là Quỷ dữ? ERIC CARRADINE: Có lẽ vậy. Đằng nào thì tôi cũng mang táo đến. *** JULIETE HARDY: Đó là bài hát yêu thích của em! ANTOINE TARDIEU: Lần đầu tiên anh nghe đấy. JULIETE HARDY: Em cũng vậy. *** BÀ VIGIER-LEFRANC: Eric, tôi lo cho anh. ERIC CARRADINE: Lo ư? BÀ VIGIER-LEFRANC: Anh phải lòng cô ả rồi. ERIC CARRADINE: Sao cô chắc vậy? BÀ VIGIER-LEFRANC: Mỗi khi anh nhìn cô ta là trông anh ngốc hẳn đi. *** ÔNG VIGIER-LEFRANC: Đã bao giờ cô nghe đến giày hiệu Vigier chưa? JULIETE HARDY: Rồi. ÔNG VIGIER-LEFRANC: Tôi đấy. Có khi cô cũng đã nghe nói đến máy hút bụi Lefranc rồi? JULIETE HARDY: Rồi. ÔNG VIGIER-LEFRANC: Cũng là tôi. Em có muốn nhảy một bài cha-cha-cha không? JULIETE HARDY: Với máy hút bụi thì không!   Mời các bạn đón đọc Và Chúa Đã Tạo Ra Đàn Bà của tác giả Simone Colette.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Long Đong
Gió lạnh kéo mây đen nghịt khắp bốn phương trời. Anh hai cung vác cuốc lên vai định ra đi, nhưng mới bước qua khỏi thềm thì mưa trút ào xuống, anh liền quay trở vào ném cây cuốc dưới sàn ván, vừa nói lằm bằm: - Mới mở mắt ra là mưa rồi. Hết ngày mưa hay sao mà nhè bữa nay mình tính lên vồng lại mưa. Chị Cung ẳm con Nương thả xuống chiếc chõng tre gần phía trong bếp, đọan nhìn chồng buông tiếng bất bình: - Mình không sợ tội... với trời đất! Ông mưa mà mình biểu phải mưa mấy ngày mình nghỉ sao. Anh Cung vẩn còn lằm bằm: Vậy chớ... mới mở con mắt ra là mưa rồi. Ai còn làm ăn gì được. Chị Cung múc cháo đút cho con, vừa cừơi nhẹ: - Ông trời mà ở còn chưa vừa lòng người, đừng nói chi ai. Anh Cung làm thinh, đi thẳng vô bếp ôm một khúc củi mít đem ra chui vào bếp un trước thềm . Chị Cung nói vói theo: - Nay mưa thì nghỉ , mai làm , có gì đâu mà cằn nhằn. Đành đầu hàng hoàng cảnh , anh Cung ngồi luôn bên bếp un, mở bì thuốc rê quấn lấy một điếu , vừa lặng nhìn giọt mưa giăng giăng ngoài hiên. Thình lình , chị Cung hỏi chồng: - Đất bên cồn , mình dọn hết chưa? Mồi lửa xong, anh Cung dán điếu thuốc lên đầu lưỡi, mấp mấp mấy cái, đoạn hít một hơi khói thật dài. Đôi môi anh lép nhép trong khói thuốc mịt mù: - Đã dọn đâu mà dọn. Mình tính bữa nay ở nhà cuốc cho rồi mấy vồng đất đâng cặm mấy cây mì, xong bên nay mới đi qua cồn luôn. Mưa như vầy là phải bỏ một ngày nữa. Dứt lời; anh lại ngồi im lặng phì phà khói thuốc, ngắm bong bóng nứơc nổi lêu bêu bên thềm. Chiếc bong bóng này vỡ tan lại có chiếc bong bóng khác nổi lên như hy vọng trong lòng anh. Bỗng đôi mắt anh rực sáng lên. Anh cúi đầu thấp xuống xem kỹ một dấu chân giày in rõ trên lớp tro của bếp un. Rồi từ dấu chân đó, anh tìm thấy thêm những dấu chân khác rải rác từ ngoài hàng ba vào tận ngữơng cửa. Liếc thấy vợ đanh lo đút cháo cho con Nương, không để ý đến anh, anh vụt đứng dậy bước theo từng vết giày, nhưng qua khỏi ngưởng cửa một chút , anh không còn thấy dấu chân lạ nữa.Anh lại ngồi xuống quan sát thật kỹ khắp mặt đất. Mời các bạn đón đọc Long Đong của tác giả Nghiêm Lệ Quân.
Biển Còn Sóng Gió
Mang nội dung khá thú vị về chuyện tình yêu tuổi, Biển Còn Sóng Gió mở ra cốt truyện khá mới lạ, thu hút không ít bạn đọc chiêm nghiệm. Mang những ngôn từ lãng mạn, truyện teen Biển Còn Sóng Gió hứa hẹn đem đến những tình tiết mới lạ và hấp dẫn. *** Anh thật sự lo lắng cho em, Lục Di. Chúng ta đã sống và làm việc quá lâu trong gia đình họ Nhâm. Chúng ta đủ hiểu rằng họ là những con người lạnh lùng và khép kín Nhậm Triều Phong lại là một kẻ không hề mảy may có xúc cảm thậm chí hắn không buồn hồi âm những thư tín của bà Gia Yến. Hắn đã rũ bỏ quá khứ và chà đạp lên gia phả của dòng họ mình. Hắn giống hệt người cha vô tâm của hắn, đã ra đi biệt xứ hơn ba mươi năm về trước. Anh thật sự không yên tâm khi thấy em tiếp cận một con người nguy hiểm như Nhậm Triều Phong. Lục Di mỉm cười chua xót: – Thôi, Lãnh Bình! Đừng bận tâm về chuyện ấy nữa. Tôi sẽ đứng vững trên đôi chân của mình. Tôi vẫn như vậy mà. – Lục Di! Anh biết em vẫn còn oán trách anh vì chuyện cũ phần nào lỗi tại anh. Anh không hề yêu Nhậm Tinh Doanh, nhưng cũng chấp nhận cưới cô ấy làm vợ chỉ vì sự nghiệp của gia đình anh. *** Dưới tình yêu của Lãnh Bình, liệu có khiến Lục Di tỉnh ngộ và quay trở lại con đường đúng đắn? Truyện luôn mang đến những câu hỏi và tình tiết éo le khiến bạn đọc cảm thấy tò mò, khơi gợi tính sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú để rồi đón nhận cái kết đầy bất ngờ mà tác giã đã an bài sẵn. Bên cạnh tựa truyện mang lại nhiều cung bậc cảm xúc. *** Triều Phong nhìn Lục Di đầy vẻ ngưỡng mộ. Đêm nay, nàng trông giống như bầu trời lúc hoàng hôn. Bộ áo váy màu lam khoác lên người nàng trông như một làn mây mỏng. Trong tâm trí anh, cứ tưởng tượng ra cái cảm giác man mác của những búp tóc xinh xinh nơi gáy nàng. Đường cong của đôi môi nàng, đôi môi như cánh bướm mỗi khi lướt nhẹ trên má anh. Anh thấy lòng rộn lên khi nàng nhìn anh mỉm cười. Mắt nàng lộ rõ sự chân thành ấm áp, mà với anh nó chẳng khác gì ngọn lửa hồng trong đêm đông giá lạnh. Anh tự nhủ, nàng không đáng yêu như thế nếu nàng đang âm mưu trả thù gia đình anh. Triều Phong bắt đầu một cách quyết tâm: – Lục Di, anh nghĩ đã đến lúc chúng ta phải nói chuyện với nhau. Lục Di chớp mắt: – Em không rõ anh muốn nói gì? Những người họ Nhậm luôn luôn cường điệu tất cả sự việc. – Lục Di ạ! Hôm nay anh đã nói chuyện khá lâu với bà nội. – Thế à? Em cũng vậy. – Bà đã hốt hoảng phải không? Dường như điều đó đã ăn sâu vào trong máu bà rồi. – Trái với điều anh nghĩ, bà rất vui khi nói với em rằng bà rất mãn nguyện với những thành quả mà anh đã đem lại cho công ty. Bà rất hạnh phúc khi thấy cơ nghiệp đứng vững trên chính đôi chân của nó, anh đã đem lại mạch đập và sự hồi sinh ảnh đất này. Chính màu hồng trên đôi má nàng làm anh cảm thấy lòng rộn lên. – Ai nói anh đến đây không phải để trả thù? Lục Di mỉm cười: – Em biết anh đến đây không phải là để trả thù. Triều Phong ạ! – Em có tin chắc mình nghĩ đúng không? Làm sao em biết được điều đó? – Bởi vì những gì anh đã làm cho công ty, cho Nhậm Tinh Doanh, cho Mã Lãnh Bình, cùng với những chuyện khác nữa. – Em đừng có suy diễn. – Anh thật sự đã làm nên một sự thay đổi kỳ diệu. Mã Lãnh Bình đã nói với em, chính anh đã giúp anh ấy vượt qua một chặng đường không mấy bằng phẳng, anh đã cứu cuộc đời anh ấy. Lãnh Bình mang ơn anh nhiều hơn những gì anh ấy có thể nói với anh. – Những gì tốt đẹp, anh đã làm ọi người, có thể chỉ là một phần trong kế hoạch trả thù của anh. – Thôi nào, Triều Phong. Hãy thôi nói đùa về chuyện ấy đi. – Không đùa đâu, anh nói nghiêm chỉnh đấy. Ngay cả khi anh nói lên sự thật, mọi người cũng không tin anh. Quanh họ là một bầu không khí yên lặng. Tự dưng Lục Di suy nghĩ, từ khi nàng biết anh đến giờ, chưa bao giờ nàng lại thấy anh với một cảm giác như vậy qua đôi mắt sâu thẳm của anh. Cuối cùng nàng hỏi: – Có chuyện gì vậy, Triều Phong? – Không. – Tối nay, anh có vẻ căng thẳng. Có lẽ không phải là một buổi tối tốt đẹp để chúng ta đến với nhau. Triều Phong hít một hơi thở sâu, rồi nói: – Anh muốn nói bên cạnh việc mọi người tin tưởng và mang ơn những gì anh đã làm cho họ. Bà nội anh có nói gì khác với em không? Lục Di cúi mặt nhìn ngón tay bé xíu đang nguệch ngoạc những đường nét vô nghĩa trong lòng bàn tay. – Bà lo sợ tình cảm em quá sâu đậm đối với anh. – Còn gì nữa? – Triều Phong ... – Lục Di, hãy nhìn anh đây này! Lục Di từ từ nhìn lên và thấy anh đang chăm chú ngắm mình một cách căng thẳng. – Hãy nói thật với anh đi. Một thiên thần không biết nói dối. Bà nội anh còn nói gì với em nữa? Bà không muốn em lấy anh phải không? Bà luôn cho rằng mình có quyền điều khiển cuộc sống người khác. – Bà không điều khiển, bà chỉ lo sợ cho em mà thôi. – Thế em trả lời sao? – Em xin lỗi, chưa nghe rõ anh nói gì? Anh lườm nàng: – Em đã nghe anh nói rõ rồi mà. Câu trả lời của em là thế nào? Lục Di đã nhận ra lời đề nghị kết hôn của anh. Mắt nàng nhìn anh dưới đôi mày thanh tú khẽ chau lại: – Em chưa nghe được câu hỏi. – Em thừa biết câu hỏi là gì rồi. Em có lấy anh hay không? Lục Di gườm gườm nhìn anh: – Thế anh mong đợi điều gì? Em không thích điều ám chỉ trong câu nói của anh. Giọng anh trầm lắng: – Anh sợ điều đó, Lục Di. Anh sợ bi kịch ngày xưa. Anh thật sự không muốn điều đó xảy ra với bất cứ ai. Lục Di nhìn thẳng vào mắt Triều Phong: – Mọi người đã cố tình đào xới câu chuyện quá khứ đau lòng này, thì có lẽ bây giờ cũng là lúc để tôi hỏi. – Điều gì vậy, Lục Di? – Tôi hiểu là ông Nhậm Khởi Minh bỏ đi cùng với cô nhân tình của mình: Triều Quân. Ông ấy yêu say đắm và những người họ Nhậm các người thường làm những việc đầy kịch tính trong những hoàn cảnh cũng đầy kịch tính. Nhưng tại sao ông ấy không có một lời giải thích với mẹ tôi, để bắt bà phải chịu đựng sự nhục nhã đau đớn khi bị bỏ rơi trước bàn thờ Chúa. Mời các bạn đón đọc Biển Còn Sóng Gió của tác giả Dạ Tuyền.
Lược Sử Cái Chết
Rất nhiều xã hội Phi châu quan niệm rằng có ba thế giới: thế giới của những người còn sống trên mặt đất, thế giới của những người-chết-đang-sống và thế giới của những người chết. Nhiều người, sau khi lìa trần, vẫn chưa hoàn toàn chết vì họ vẫn sống trong ký ức của những người đang sống - họ có thể được tái tạo trong nghệ thuật, được nhắc đến trong các câu chuyện kể, hoặc đơn giản là sống trong tâm trí của một người nào đó. Sau khi người cuối cùng biết về người-chết-đang-sống đó chết đi, họ trở thành những người chết thực sự. Tất nhiên, sẽ có rất nhiều người chết vẫn còn lưu danh lại, nhưng họ cũng không còn là người-chết-đang-sống nữa. Lược sử cái chết là một câu chuyện huyễn tưởng không chỉ gây băn khoăn về ngày tận thế mà còn đặt ra những vẫn đề rất thực và những suy ngẫm rất sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ... - "Một cuốn sách khiến ta không thể dừng mở trang kế tiếp" - Rocky Mountain News. - "Một tiểu thuyết ly kỳ được viết với một trái tim giàu lòng nhân ái" - O, The Oprah Magazine. - "Một tiểu thuyết đầy sức mê hoặc và gợi nhiều suy nghĩ về ký ức của con người, về sự giao thoa giữa những tâm hồn, về cuộc sống sau khi chết, và về hiện tại" - Tucson Citizen. - "Có sức lay động mạnh... Ngay từ chương đầu, cuốn tiểu thuyết đã tạo ra một sức thu hút khác lạ, và chắc chắn nó sẽ còn đọng lại trong lòng độc giả sau khi trang sách cuối cùng khép lại. Là một câu chuyện ngụ ngôn, một câu chuyện cổ, một câu chuyện thần thoại đương đại... Trong lịch sử cái chết, Brokmeier đã đưa ra một cái nhìn giả thuyết về kết thúc của nhân loại... Nếu sự vĩnh hằng tồn tại, thì đây chính là một định nghĩa sắc nét cho thời đại của chúng ta"... - Beacon Journal. - "Không chỉ là một câu chuyện gây băn khoăn về tận cùng của thế giới. Đó là một sự suy ngẫm sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ. Với bối cảnh viễn tưởng ly kỳ và các nhân vật đa diện, Lược sử cái chết không tuân theo các thể văn truyền thống. Tác giả đã rất khôn ngoan "đứng cả hai dòng nước", một bên là dòng tiểu thuyết khoa học giả tưởng và một bên là các truyền thống văn học để tạo nên một tác phẩm độc nhất vô nhị - đầy ám ảnh, gây xáo trộn, và thú vị về mọi mặt." - The Charlotte Pbserver. "Lung linh huyền ảo... Đánh động tâm thức." - The Seatle Times "Brockmeier có văn phong gây ấn tượng sâu sắc, cốt truyện vô cùng độc đáo, các mẩu chuyện trong sách có sức ám ảnh kéo dài phải đến nhiều tuần sau khi đọc xong tác phẩm." - Lexington Herald - Leader (Kentucky) "Một tác phẩm văn chương ngập tràn tưởng tượng... Hãy tưởng tượng một thành phố của những người đã chết. Hãy tưởng tượng một nhà khoa học còn sống bị mắc kẹt lại một mình ở Nam Cực và nhận ra cô có thể là một trong số ít những người còn sót lại trên Trái Đất sau một trận đại dịch. Và rồi hãy tưởng tượng một tiểu thuyết gia đủ sắc sảo để có thể xây một chiếc cầu nối hai thực tại hư cấu khó tưởng đó." - Newsweek "Một cuốn sách khiến ta không thể dừng mở trang kế tiếp" - Rocky Mountain News. "(Brockmeier) không gì hơn là một nhiệt thành thiết tha sống, và những sáng tác tuyệt diệu của ông, những trang sách đầy yêu thương và đáng được yêu thương, là một nguồn năng lượng sống dồi dào đáng kinh ngạc trong một thế giới mệt mỏi và dễ làm con người ta mệt mỏi." - Chicago Tribune "Một tiểu thuyết ly kỳ được viết với một trái tim giàu lòng nhân ái" - O, The Oprah Magazine. "Một tiểu thuyết đầy sức mê hoặc và gợi nhiều suy nghĩ về ký ức của con người, về sự giao thoa giữa những tâm hồn, về cuộc sống sau khi chết, và về hiện tại."  - Tucson Citizen. "Có sức lay động mạnh... Ngay từ chương đầu, cuốn tiểu thuyết đã tạo ra một sức thu hút khác lạ, và chắc chắn nó sẽ còn đọng lại trong lòng độc giả sau khi trang sách cuối cùng khép lại. Là một câu chuyện ngụ ngôn, một câu chuyện cổ, một câu chuyện thần thoại đương đại... Trong Lược sử cái chết, Brockmeier đã đưa ra một cái nhìn giả thuyết về kết thúc của nhân loại... Nếu sự vĩnh hằng tồn tại, thì đây chính là một định nghĩa sắc nét cho thời đại của chúng ta"... - Akron Beacon Journal. "Rất ấn tượng... Không ai có thể tung hứng với lối xử lý tình tiết hài hước, mang đầy tính triết lý và lại gây suy nghĩ như Brockmeier." - The Plain Dealer "Đầy sáng tạo... Lôi cuốn... Trữ tình." - Newsday "Điều đáng sợ về câu chuyện của Brockmeier là tính thuyết phục như thật của tác phẩm. Giống Borges, nhưng thật hơn." - Los Angeles Times Book Review "Không chỉ là một câu chuyện gây băn khoăn về tận cùng của thế giới. Đó là một sự suy ngẫm sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ. Với bối cảnh viễn tưởng ly kỳ và các nhân vật đa diện, Lược sử cái chết không tuân theo các thể văn truyền thống. Tác giả đã rất khôn ngoan "đứng cả hai dòng nước", một bên là dòng tiểu thuyết khoa học giả tưởng và một bên là các truyền thống văn học để tạo nên một tác phẩm độc nhất vô nhị - đầy ám ảnh, gây xáo trộn, và thú vị về mọi mặt." - The Charlotte Observer. "Đầy mê hoặc... Rất lôi cuốn." - USA Today "Kỳ lạ và gần gũi.... Chính không khí truyện và nỗi lòng tha thiết, chân thành mà không phô trương ồn ã của Brockmeier... đã khiến Lược sử cái chết có sức mê hoặc như vậy... Một tác phẩm đẹp, chứa đựng nhiều khám phá." - Salon             Kevin Brockmeier là tác giả của cuốn Sự thật về Celia, Những thứ rơi từ trời, và hai tiểu thuyết cho thiếu nhi là Thành phố của những cái tên và Grooves: Một điều bí mật. Các sáng tác của ông đã xuất hiện trong nhiều ấn phẩm, như: The New Yorker, McSweeney’s, The Georgia Review, Tuyển tập truyện ngắn hay nhất của nước Mỹ, Các tiểu thuyết kinh dị và viễn tưởng hay nhất của năm… và nhiều số phát hành của Hợp tuyển các tác phẩm được trao giải O.Henry. Ông đã được trao tặng Giải thưởng Nelson Algren, Giải thưởng Italo Calvino cho tiểu thuyết ngắn, Học bổng James Michener – Paul Engle, ba lần được trao tặng Giải thưởng O.Henry – một trong số đó là một giải nhất – và Học bổng Tài trợ Nghiên cứu sinh Quốc gia về Nghệ thuật. Ông đã giảng dạy tại Hội thảo Nhà văn bang Iowa và sinh sống tại Little Rock, Arkansas. *** Khi người mù vào đến thành phố, lão kể đã vượt qua một sa mạc cát lún. Lúc đấy ta đã chết, lão kể, nhưng rồi “tách!”, sa mạc lại hiện ra. Lão kể cho bất cứ ai sẵn lòng nghe trong khi đầu gật gù theo tiếng bước chân người qua lại. Những hạt sạn đỏ hung li ti rơi xuống từ bộ râu cằm. Lão kể: Sa mạc hoang vu và cô độc. Nó hướng về lão, rít lên như một con rắn. Lão đã đi bộ ròng rã suốt ngày này qua ngày khác cho đến khi những đụn cát lở ra dưới chân, cồn lên vây lấy lão, đập vào mặt lão. Rồi, mọi thứ đột nhiên trở nên im bặt, và bắt đầu có tiếng đập nhè nhẹ như nhịp tim. Âm thanh đó rất rõ ràng, y hệt nhịp tim trước giờ lão vẫn biết. Chỉ đến lúc đó, lão kể, vào cái khoảnh khắc một triệu hạt cát sắc lẻm như những mũi tên đồng loạt tấn công, lão mới thật sự nhận ra mình đã chết. Jim Singer, chủ cửa hàng sandwich ở khu đài tưởng niệm, kể rằng bác có cảm giác như có kiến bò trên các ngón tay, rồi, bác ngừng thở. “Đó là do tim tôi có vấn đề - bác nhấn giọng trong khi ấn ngón tay cái vào ngực – nên tôi mới nằm liệt giường như vậy.” Tay đã xuôi, mắt đã nhắm, rồi đột nhiên bác mở mắt ra, thấy mình đang ở trên một chiếc tàu lửa, loại tàu chuyên chở trẻ con chạy quanh khu giải trí. Đường ray dẫn đến một khu rừng rậm toàn những cây màu vàng nâu. Hóa ra đó là những con hươu cao cổ, những chiếc cổ dài ngoẳng vươn lên trời như những thân cây. Một ngọn gió nổi lên thổi bay các đốm lông màu trên lưng những con hươu. Những đốm màu lả tả rơi xuống, lửng lơ xung quanh bác, xoay mòng mòng rồi rơi xuống chạm vào đường bánh xe do con tàu để lại. Phải mất một lúc bác mới hiểu ra âm thanh bác nghe thấy không phải là tiếng bánh xe nghiến vào đường sắt. Cô gái hay thích đứng dưới cây dương trong công viên kể: Cô đã chết trong một biển màu sắc các trái sơ ri khô. Nước giúp em nổi được một lúc, cô nói, rồi em nằm ngửa, xoay tròn trong những vòng tròn vô nghĩa và hát đoạn điệp khúc của tất cả những bài hát pop em có thể nhớ ra. Rồi đột nhiên, một tiếng sấm vang lên. Các đám mây mở ra, những ổ bi bắt đầu trút ào xuống xung quanh – phải có đến hàng ngàn hàng vạn ổ. Em cố hết sức nuốt chửng các viên bi nhưng những cành cây dương gãy rơi xuống làm em mắc nghẹn, cô kể. Bị nhồi đầy như một chiếc bao tải, cô từ từ chìm xuống xuyên qua các tầng đại dương. Nhiều đàn cá bơi ngang qua, những chiếc vảy xanh biếc, vàng óng là những điểm sáng rực rỡ duy nhất ánh lên trong làn nước. Rồi cô nghe thấy âm thanh đấy ở mọi nơi xung quanh, âm thanh đó, âm thanh mà những người khác đều nghe thấy, nhịp đập đều đặn của một trái tim khổng lồ. Những câu chuyện được kể lại về khoảnh khắc vượt qua giao lộ sống-chết rất khác nhau, cũng như mười tỉ người trên thế giới này không ai sống một cuộc sống giống ai khác. Chỉ có điều khi kể về cái chết của mình, người ta có khuynh hướng miêu tả chi tiết hơn, tường tận hơn. Rốt cuộc, đâu có bao nhiêu cách: nếu không phải do trái tim thì cái đầu của một người mang người ta vào cõi chết, không ai giống ai. Lev Paley kể lúc đó anh ngồi nhìn các phân tử của mình phân rã ra thành từng mẩu li ti như cẩm thạch, lăn khắp vũ trụ, rồi sau đó bỗng chốc quay trở lại dính lấy nhau. Hanbing Li kể anh thức dậy, thấy mình là một con rệp sống suốt đời trong một trái lê. Graciella Cavazos chỉ kể đoạn cô bắt đầu biến thành tuyết và khi người ta đòi biết chi tiết hơn, Graciella chỉ bẽn lẽn cười. Không bao giờ có hai câu chuyện giống nhau. Tuy vậy, ai cũng kể về một âm thanh giống như tiếng sấm. Một số khăng khăng khẳng định âm thanh đó không bao giờ ngừng, nếu anh tập trung chú ý không rời tai khỏi nó, anh luôn nghe thấy nó lẩn khuất mơ mồ sau mọi tiếng ồn trong thành phố - đằng sau tiếng còi, tiếng phanh xe, tiếng chuông nhà hàng, tiếng lộp cộp của hàng trăm loại gót giày khác nhau bước trên đường phố. Nhiều người tụ tập cùng nhau trong công viên hay trên tầng thượng các tòa nhà cao tầng để lắng nghe. Họ ngồi lặng lẽ, lưng quay vào nhau. Ba-đum. Ba-đum. Ba-đum. Cảm giác giống như cố gắng nhìn theo bóng chim bay lên, nhòa đi và mờ dần thành một chấm nhỏ. Luka Sims đã tìm thấy một chiếc máy roneo ngay tuần đầu tiên anh đến sống ở thành phố và quyết định sẽ sử dụng nó để in tạp chí. Mỗi buổi sáng, anh đứng bên ngoài tiệm cà phê Đường Bờ Sông để phát các bản in tự chế. Có lần tờ Tin tức & Nghiên cứu L. Sims của anh, hay Báo Sims như mọi người vẫn gọi, có bàn về thứ âm thanh này. Không đến hai mươi phần trăm những thứ được Luka phỏng vấn cho biết sau khi chết, họ vẫn có thể nghe thấy nó, nhưng hầu như tất cả thảy mọi người đều đồng ý: nó nghe giống như tiếng tim đập hơn là bất cứ âm thanh nào khác. Vậy vấn đề là: nó từ đâu đến? Không thể là nhịp đập của chính trái tim họ. Vì tim họ không đập nửa. Mahmoud Qassim thì tin rằng đó không phải là âm thanh của trái tim lão đập mà có thể là âm thanh còn lưu lại trong ký ức, âm thanh mà dù không thật sự để ý lão cũng đã nghe trong suốt một thời gian dài nên âm hưởng của nó vẫn còn lưu lại trong tai lão. Người phụ nữ bán vòng tay bên bờ sông lại nói đó là nhịp đập từ tâm quả đất, cái nơi chói lóa, sục sôi chị đã vượt qua trên đường vào thành phố. Riêng bản thân người viết”, bài báo kết luận, “tán thành ý kiến của đa số. Mời các bạn đón đọc Lược Sử Cái Chết của tác giả Kevin Brockmeier & Mai Huyền Chi.
Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố
Curzio Malaparte (1898-1957) là nhà văn và phóng viên chiến trường người Ý. Trong cuốn “tiểu thuyết” viết tặng các sơn binh Pháp và Ý ngã gục trên dãy núi Alpes vào tháng 6.1940 này, tất cả đều đúng sự thật: thời gian, con người, sự kiện, cảm xúc, không gian. Khi đó tác giả đang làm đại úy trong một trung đoàn trên đỉnh Bạch Sơn (Mont Blanc), quyển “Mặt trời mù” đã ra đời và được đăng thành nhiều kỳ trên tạp chí Thời đại. Curzio Malaparte tên thật là Curt Erich Suckert sinh ngày 9/6/1898 ở Prato, Tuscane Ý. Mất ngày 19/7/1957 tại Rome. Ông là một nhà văn, nhà làm phim, nhà báo, phóng viên chiến trường và còn là nhà ngoại giao. Trong tổng số hơn 35 tác phẩm, cuốn Kaputt và La Pelle là hai tác phẩm lớn được biết đến nhiều nhất tại Châu Âu. Curzio Malaparte vốn dấn thân vào con đường binh nghiệp từ rất sớm, ông đã phải chứng kiến hàng loạt thảm cảnh của Thế chiến 2 ngay từ những buổi đầu. Chính cái nhì chân xác của người trong cuộc kết hopwj với ngòi bút tuyệt kỹ của một cây viết gạo cội đã làm nên một trong những tiểu thuyết ấn tượng bậc nhất của văn chương Ý... Chiến tranh là chết chóc. Đứng trước cái chết là lúc con người ta bộc lộ bản thân mình rõ rệt nhất. Những con người trong quyển sách này coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chiến tranh vì thế lại hiện ra với cảnh núi non hùng vĩ, những bãi đồng xanh lục tốt tươi, những bông hoa violet, những mẫu đơn màu huyết, giọng thác lách dưới cành cây… Thiên nhiên tráng lệ và khổng lồ như đang làm dịu đi cái chết chực chờ, khỏa lấp tiếng bom đạn, mở rộng tâm hồn con người. Trước cảnh đẹp, người nào lại không muốn được ngồi xuống, gối đầu trên bãi cỏ và im lặng lắng nghe tiếng chim hót, người nào lại không khao khát hòa bình để trở về với gia đình? Với viên đại úy, hình ảnh cậu sơn binh ngồi trên chiếc ghế với hình bóng lờ mờ, nét rắn rỏi trong khuôn mặt nhỏ nhắn và thơ trẻ cùng tiếng chiếc lạc bò êm trầm, là tất cả những gì bình yên mà anh luôn khao khát nơi chiến trường khốc liệt. Calusia gợi nên trong lòng viên đại úy cảm giác con người – hồn nhiên, thân thiện, trẻ thơ, an yên. Theo dõi và quan sát những hoạt động của Calusia như là một niềm vui giản đơn, một phút thư giãn thanh bình. Tiếng lòng của viên đại úy đồng thời là hàng triệu tiếng kêu gào trong chiến tranh, dùng một sự điên loạn để lên án chiến tranh đã tổn thương và hủy hoại hoàn toà Mời các bạn đón đọc Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố của tác giả Curzio Malaparte.