Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghĩa Địa Praha

Sau Tên của đóa hồng và Con lắc Foucault, độc giả văn chương thế giới đã rất sốt ruột chờ đợi một đại tác phẩm nữa của Umberto Eco. Và rốt cuộc, Eco đã xuất bản Nghĩa địa Praha, một tác phẩm không phụ lòng trông đợi của bất kỳ ai say mê những cuốn tiểu thuyết hòa trộn lịch sử với văn chương theo một cách thức độc đáo vô cùng. Simone Simonini là người Ý sinh ra ở Turin, nhưng hoạt động rộng khắp châu Âu vào nửa sau thế kỷ 19. Simone can dự vào hầu hết vụ việc chính trị quan trọng một thời: Những cuộc hành quân của Garibaldi, vụ án Dreyfus, những cuộc thanh trừng thầy tu dòng Tên và thành viên Hội Tam Điểm… lúc nào Simone cũng ở trong bóng tối, là nhân vật mà cơ quan mật vụ tất cả các nước châu Âu đều thèm muốn. Nhưng “sứ mệnh” quan trọng nhất của Simone Simonini là đối đầu với người Do Thái. Suốt đời mình, Simone đã thực hiện công việc này một cách không mệt mỏi, có lúc còn sát cánh bên Edouard Drumont, lãnh tụ phong trào bài Do Thái của châu Âu. Với Nghĩa địa Praha, Umberto Eco đã đưa ra một cách lý giải độc đáo, thậm chí thiên tài, về tai họa bài trừ người Do Thái ở châu Âu, mà hậu quả tất yếu là nạn diệt chủng trong Thế chiến thứ hai. Nghĩa địa Praha là cuốn tiểu thuyết thứ 6 của nhà văn Umberto Eco ra mắt ngày 29 tháng Mười năm 2010 tại nhà xuất bản Bompiani (Ý). Ngay khi vừa xuất hiện, cuốn sách đã bán được 450.000 bản trong vòng chưa đầy hai tuần lễ. Tính tới thời điểm hiện tại, Nghĩa địa Praha đã được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới. Nhận định “Umberto Eco đã đánh dấu Nghĩa địa Praha là tác phẩm “quỷ ám” nhất của mình, một bức chân dung xen lẫn giữa hận thù và tài diễn tấu của mình.” (L'Express) *** Tôi đến với “Nghĩa địa Praha” vì quá mê mẩn chất Umberto Eco qua “Tên của đóa hồng”. Thế nhưng vì vốn từ hạn hẹp không đủ để diễn đạt được cảm xúc của tôi với “Tên của đóa hồng” nên đành dùng thời gian để bày tỏ về một tác phẩm khiến tôi khá ngổn ngang. Tất nhiên đây hoàn toàn là cảm nhận cá nhân, tôi xin phép chia sẻ vài dòng coi như tâm sự hơn là đánh giá, nhận xét về một tác phẩm vĩ mô. Bối cảnh trong “Nghĩa địa Praha” rộng hơn “Tên của đóa hồng” rất nhiều. Điều đó là một lợi thế vì nó đẩy nhanh nhịp truyện hơn, tạo nhiều tình huống bất ngờ và cao trào được đưa lên mạnh nhất có thể. Một phần khác vì yếu tố nội dung là cuộc hành trình bài Do Thái của Simone Simonini nên cốt truyện cũng gấp khúc và hạn chế hẳn sự tám chuyện đặc trưng của các tác giả Ý. Thế nhưng chính điều đó, với tôi, cũng là điểm yếu chết người cho tác phẩm này. Tất nhiên là vì cảm xúc cá nhân thôi nhưng do bối cảnh rộng (nếu không phải quá rộng), Umberto khó lòng kiểm soát toàn bộ hệ thống nhân vật, sự kiện, chi tiết nên dẫn tới sự thiếu thống nhất, nhất là ở nhân vật Simone. Ban đầu anh chàng là một gã Ý, như bao gã Ý khác, lãng tử, tự do, cố chấp, điên rồ nhưng rồi có lẽ chuyến hành trình dài đằng đẵng cộng thêm thứ định kiến kiên định đến mức ám ảnh khiến cái chất đẹp đẽ đó, thứ dòng máu chảy trong anh chàng ta thui chột. Cuối cùng chàng ta là ai tôi cũng chẳng biết nữa, thật ngỡ ngàng làm sao! Đó không phải là sự tha hóa dần, một chuyển biến rõ ràng của tính cách, hành xử, quan niệm cũng không phải là cái hình tượng đa nhân cách (tự nói chuyện với chính mình) hay hoang tưởng đến tột cùng, nếu là thế tôi đã chấp nhận con người của anh ta. Ở đây, Umberto ở đây quẳng một Simone này, ở kia quẳng một Simone nọ, như những nhân vật khác nhau bị gán cho cùng một cái tên, và tôi cứ ngỡ đang xem một cuốn tiểu thuyết gộp lại từ các câu chuyện ngắn với các nhân vật chính khác nhau. Tính thống nhất, liên kết từ đó bị vỡ vụn, nhất là khi nó dày đặc những sự kiện lịch sử mà chỉ cần lơi là một tí là chẳng thể hiểu nổi vì sao Umberto đặt chúng cạnh nhau. So với “Tên của đóa hồng” thì đỡ lan man hơn, nhưng thiếu bí ẩn, gay cấy hơn nhưng loãng đi. Umberto chọn lấy nhân vật làm tâm, tất cả xoay vần bên người đó, và còn gì buồn hơn khi bản thân nhân vật ấy đã là tổng hợp những gì vỡ vụn. Điều tiếp theo là về văn phong, điều này tôi không biết là do người dịch hay do bản thân Umberto. Hồi trước tôi đã từng cãi nhau với một người vì người đó bảo, bỏ đi tình tiết, cốt truyện và lượng tri thức phong phú thì Umberto viết chẳng có gì hay, lan man, dài dòng và quá tỉ mỉ. Tôi thì cho rằng như bao kẻ không hiểu được dòng văn học Ý, người đó không thể hiểu cái việc các bác thích dàn trải một đống chi tiết, lan man tận trời cuối đất, đọc vừa chán vừa ứ liên quan nhưng một khi vào guồng, những thứ tưởng chừng không là gì lại liên kết chặt chẽ với nội dung, hòa hợp đến mức sững sờ. Umberto là một người thích viết câu dài và may thay ông ấy không tiết kiệm dấu phẩy, nhưng thay vì liên miên, mềm mại thì những câu dài của ông ấy lại tạo một ấn tượng ngược lại, nó rắn rỏi, mạnh mẽ và phóng khoáng, như gió trên thảo nguyên bạt ngàn vậy. Nhưng lần này, vẫn là những câu dài miên man nhưng nó cụt quá, kiểu cố ghép thành câu dài, ngắt quãng liên tục và “góp phần” không nhỏ khiến nội dung đã vỡ vụn thêm chấp vá. Đọc, thật sự rất nản và vì lí do không đọc được hàng gốc nên tôi cũng không rõ là do ông hay do dịch giả. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, “Nghĩa địa Praha” phá rõ cái định kiến Umberto Eco thì chỉ có thể viết về Trung cổ và nhấn mạnh thêm Umberto Eco là một tiểu thuyết gia sử học tài ba đến cỡ nào với lượng tri thức hùng vĩ và bạt ngàn, không gò bó mà thổi vào đó những cách nhìn mới và logic. Những sự kiện lịch sử Châu Âu được nối kết tuyệt vời, khó tìm được lỗ hỏng, cộng thêm nói về những bước tiến của nghiên cứu tâm lý và khởi đầu của phân tâm học. Một cuốn sách hay nếu bạn hứng thú với thời kì thế kỉ XIX của Châu Âu. Tôi hơi hối tiếc khi đọc “Nghĩa địa Praha” sau “Tên của đóa hồng”, nó là một sự hụt hẫng không hề nhẹ với một đứa lỡ lòng tương tư cái bức tranh tranh tối tranh sáng của thánh địa tri thức, tôn giáo và của một William với đầy rẫy mâu thuẫn. Một điều nhận xét đặc biệt là nhân vật của Umberto luôn kiên địch với tư tưởng đến mức nó trở thành một sự ám ảnh điên rồ, với William thì là thông tuệ đến mức lênh đênh giữa sáng tối còn với Simone thì là một bể sâu hoắm, nặng nề. ***   UMBERTO ECO Sinh ngày 5 tháng 1 năm 1932 tại Alessandria, Ý, hiện sống ở Milan. Thiên hướng đã thôi thúc ông làm trái ý cha, từ bỏ khoa Luật, chuyển sang nghiên cứu triết học và văn học Trung cổ tại Đại học Turin. Trong thời gian này UMBERTO ECO trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin, trở thành người vô thần và từ bỏ Giáo hội Công giáo. Năm 1954, ông bảo vệ luận văn về Thomas xứ Aquino (Nhà thần học Công giáo nổi tiếng nhất thời Trung cổ), đạt học vị tiến sĩ triết học. UMBERTO ECO là nhà văn, nhà lý luận, triết gia, nhà ký hiệu học lừng danh - người từng là biên tập viên các chương trình văn hóa của Đài truyền hình quốc gia Ý (RAI), là người viết bình luận của tờ báo lớn nhất nước Ý L’Espresso, là giáo sư ký hiệu học của Đại học Bologne, dạy mỹ học và văn hóa học tại các trường đại học Milan, Florence, Turin, tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học nước ngoài. Tờ Los Angeles Times đánh giá ông là “một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất trong thời đại của chúng ta.” Những tiểu thuyết đã vinh danh cho tên tuổi của ông: Tên của đóa hồng (Il nome della rosa -1980); Con lắc của Foucault (Il pendolo di Foucault - 1988); Hòn đảo ngày xưa (L’isola del giorno prima - 1994); Baudolino (2000); Ngọn lửa bí ẩn của nữ hoàng Loana (La misteriosa fiamma della regina Loana - 2004); NGHĨA ĐỊA PRAHA (Il cimitero di Praga - 2010). *** Truyện: Người Kể chuyện bắt đầu theo dõi cuốn nhật ký của Simonini (Đây là phần “Một vài giải thích không cần thiết” cho từng chương ở cuối sách. Người làm eBook đã đưa vào làm thành chú thích, để các bạn tiện theo dõi câu chuyện). Người bộ hành trong buổi sáng âm u đó của tháng Ba năm 1897 hẳn sẽ phải mạo hiểm đi qua quảng trường Maubert, hay còn gọi là quảng trường Maub như cách nói của những kẻ đầu đường xó chợ (nơi đây từng là trung tâm của cuộc sống đại học thời Trung cổ, khi nó còn đón tiếp đám sinh viên đông đúc của Trường Nghệ thuật nằm tại Vicus Stramineus, chính là phố Fouarre ngày nay, và sau đó trở thành nơi hành quyết những vị tông đồ theo tư tưởng tự do như Étienne Dolet). Vị lữ khách sẽ tới một trong số ít các xó xỉnh Paris tránh được những nhát mổ xẻ của nam tước Haussmann*, nằm tại điểm giao thoa chằng chịt những phố xá hôi hám được chia thành hai khu bởi con sông Bièvre đổ ra từ trong lòng thành phố nơi nó vẫn bị kè bờ để rồi ném mình hổn hển, nóng rực sốt ký sinh trùng vào dòng Seine kề cận. Từ quảng trường Maubert, nay đã bị rạch chằng chịt bởi đại lộ Saint- Germain, còn tỏa ra một mạng nhện tạo bởi những con đường nho nhỏ như đường Maître-Albert, đường Saint-Séverin, đường Galande, đường Bûcherie, đường Saint-Julien-le-Pauvre, cho tới tận đường Huchette, các khách sạn bẩn thỉu do đám người vùng Auvergne cai quản nằm rải rác: những tay quản lý khách sạn nổi tiếng tham lam, đòi một franc cho đêm trọ đầu tiên và bốn mươi xu cho những ngày tiếp sau (cộng thêm hai mươi xu nếu muốn có ga trải giường). Georges-Eugène Haussmann (1809-1891) là tỉnh trưởng tỉnh Seine, người quy hoạch lại Paris vào những năm sáu mươi của thế kỷ 19. (các chú thích trong sách đều của người dịch) Nếu sau đó rẽ vào đường Sauton (thời ấy còn gọi là đường Amboise) hẳn anh ta sẽ thấy, nằm giữa một nhà thổ cải trang thành quán bia và một lữ quán nơi người ta lấy hai xu một bữa chính với chút rượu tồi tệ (từ thời ấy như thế cũng chẳng đắt đỏ gì, nhưng những sinh viên trường Sorbonne cũng chỉ cho phép mình chi tiêu đến thế thôi), là một ngõ cụt, thuở ấy được gọi Maubert, nhưng trước năm 1865 mang tên cul-de-sac d’Amboise. Tại ngõ cụt ấy, những năm trước đó nữa, có một tapis-franc (trong ngôn ngữ đường phố nó chỉ loại nhà trọ tồi tàn, loại hàng ăn hạ đẳng, thường được một cựu tù nhân trông coi và chỉ những kẻ tù khổ sai chân ướt chân ráo vừa bước ra khỏi vũng lầy tù tội mới hay lai vãng đến đây). Ngõ cụt này trở nên nổi tiếng theo một cách đáng buồn vào thế kỷ 18 khi tại đây mọc lên một phòng thí nghiệm của ba nữ pha chế độc dược lừng danh, một hôm họ được tìm thấy đã chết ngạt vì khí của các chất độc đang chưng cất trên mấy cái lò. Tận cùng ngõ hẻm này, hầu như rất khó nhận thấy một cửa hiệu có tấm biển đã bợt màu ghi Brocantage de Qualité (Tiệm đồ cổ chất lượng cao) của một tay chuyên mua bán đồ cũ. Phía ngoài cửa hiệu đã mờ đi vì lớp bụi dày phủ kín mấy tấm kính vốn đã chẳng cho ta thấy rõ hàng hóa bên trong cửa hiệu bởi chúng chỉ dài rộng hai mươi xăng ti mét mỗi cạnh, được gắn với nhau bằng một khung gỗ. Bên cạnh cửa kính, người ta có thể nhìn thấy một cánh cửa luôn đóng, và cạnh dây kéo chiếc chuông cửa là tấm biển báo chủ nhân đang đi vắng. Nếu cánh cửa này mở (điều rất hiếm khi xảy ra), thì ai vào sẽ có thể thấy được, trong ánh sáng rất lờ mờ, một đống lộn xộn những thứ mà mới nhìn qua thì có vẻ ngon nghẻ, nhưng xem kỹ hơn sẽ nhận ra toàn những đồ hoàn toàn không phù hợp với một cuộc trao đổi kinh doanh thành thực, ngay cả nếu như chúng được mời gọi với cái giá giẻ rách tương xứng, được bày biện trên một vài cái giá lung lay và vài chiếc bàn cũng chung chiêng không kém. Ví như vài thanh gác củi sẽ làm hổ thẹn bất cứ cái lò sưởi nào, một cái đồng hồ mạ xanh đã tróc sơn, những chiếc gối dựa ngày trước có lẽ đã được thêu màu sặc sỡ, những chiếc bình gốm cao cổ trang trí bởi những thiên thần bằng sứ nay đã bong tróc vài mảng, những chiếc bàn con lung lay không rõ được thiết kế theo trường phái nào, một chiếc giỏ đựng thư từ đủ loại bằng sắt han gỉ, những chiếc hộp chạm trổ hoa văn không rõ ràng, những chiếc quạt đáng ghê tởm làm bằng ốc xà cừ trang trí với những hình vẽ theo lối Trung Hoa, một chiếc vòng cổ màu hổ phách, hai chiếc giày nhỏ nhắn bằng len trắng, khóa giày gắn những viên đá giả kim tí xíu Ailen, một bức tượng bán thân Napoléon đã sứt mẻ, những con bươm bướm dưới tấm kính đã rạn, hoa quả bằng đá cẩm thạch nhiều màu dưới cái chuông hẳn một thời trong suốt, những quả dừa khô, album ảnh cũ kỹ chứa tranh vẽ hoa bằng chút màu nước khiêm tốn, vài tấm hình in tráng được đóng khung (thời ấy chúng không hề mang vẻ cổ xưa chút nào). Thế cho nên kẻ nào mà say mê cuồng dại một trong những thứ đồ đáng xấu hổ còn sót lại sau những vụ tịch biên tài sản để thế nợ của những gia đình bị lầm vào cảnh bất hạnh này, sẽ thấy mình đứng trước gã chủ tiệm đáng ngờ, sẽ hỏi giá cả và sẽ bị yêu cầu một con số khiến ngay cả kẻ máu mê nhất trong số những gã sưu tầm dị vật cũng phải chùn bước. Nếu như người khách, nhờ có tấm giấy thông hành nào đó, được bước qua cánh cửa thứ hai ngăn gian trong cửa hàng với các tầng trên của tòa nhà, và trèo lên bậc thang của một trong những cầu thang chung chiêng hình xoáy ốc đặc trưng của những ngôi nhà Paris có mặt tiền rộng ngang bằng cửa ra vào (nơi chúng đứng dựa xiêu vẹo vào nhau), anh ta sẽ tới một căn phòng rộng nơi không trưng bày những thứ đồ tầm phào như ở dưới tầng trệt mà là một bộ sưu tập những món đồ chủng loại hoàn toàn khác: một chiếc bàn nhỏ theo phong cách hoàng đế, ba chân trang trí hình đầu đại bàng, một chiếc bàn chân quỳ được đỡ bởi quái vật Sphinx có cánh, một chiếc từ thế kỷ 17, một chiếc tủ sách bằng gỗ dái ngựa đựng hàng trăm cuốn đóng bìa da dê, một chiếc bàn làm việc theo lối Hoa Kỳ, với nhiều ngăn kéo đóng mở theo ray trượt giống như một cái bàn viết thực thụ. Nếu tiếp tục bước qua căn phòng liền kề, anh ta sẽ thấy một chiếc giường treo màn trướng xa hoa, một chiếc giá kiểu điền viên đựng đồ sứ Sèvres, một ống điếu Thổ Nhĩ Kỳ, một chiếc cốc bằng thạch cao tuyết hoa, một chiếc bình pha lê, và trên bức tường cuối phòng là những tấm tranh to bản với những điển tích thần thoại, hai bức vẽ nữ thần Lịch sử và nữ thần Hài kịch, vài chiếc áo trùm Ả Rập treo trên tường và vài bộ quần áo phương Đông bằng sợi casơmia, một chiếc hũ cổ kiểu của dân hành hương; tiếp đó là một chiếc kệ chất đầy các vật dụng trong buồng tắm bằng chất liệu quý - tóm lại là một đống đồ vật kỳ cục, cầu kỳ và tốn kém, có lẽ không phải là nhân chứng cho khiếu thẩm mỹ đồng nhất và tinh tế, mà hẳn là lòng mong mỏi được khoe mẽ của cải. Quay trở lại phòng khách gần lối vào, người khách sẽ nhận ra một cụ già trong bộ đồ ở nhà ngồi bên chiếc bàn đối diện cánh cửa sổ duy nhất mà từ đó nguồn ánh sáng ít ỏi chiếu sáng ngõ cụt len lỏi vào đây. Cụ già đó, nếu người khách có thể nhìn thoáng qua vai, đang viết những điều mà chúng ta sắp sửa đọc đến, và đôi khi Người Kể chuyện cũng sẽ tóm tắt lại để không gây mệt mỏi cho Độc giả. Mời các bạn đón đọc Nghĩa Địa Praha của tác giả Umberto Eco.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Chín Tám Tư
Một chín tám tư là tên một tiểu thuyết dystopia (phản địa đàng) phát hành năm 1949 của nhà văn người Anh George Orwell. Kể từ khi ra đời vào năm 1949, Một chín tám tư đã được xem là tác phẩm kinh điển về tư tưởng chính trị và khoa học giả tưởng. Nhiều từ vựng, khái niệm có trong tiểu thuyết như Big Brother, doublethink, thoughtcrime, Newspeak, Room 101, telescreen, 2+2=5 và memory hole đã đi vào đời sống (những người nói tiếng Anh). Tiểu thuyết cũng là nơi phổ biến tính từ Orwellian nhằm chỉ sự phủ nhận lịch sử, tung tin giả, theo dõi ngầm và tuyên truyền của nhà nước toàn trị. Năm 2005, tạp chí TIME đã đưa Một chín tám tư vào danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh xuất sắc nhất từ 1923 đến 2005. Trong danh sách "100 tiểu thuyết xuất sắc nhất của Modern Library", Một chín tám tư đứng thứ 13 do ban biên tập bình chọn và thứ 6 do người đọc bình chọn. Năm 2003, tiểu thuyết đứng vị trí thứ 8 trong "The Big Read", theo một cuộc điều tra của BBC. *** Anh Cả và tiểu thuyết ‘1984’ Hôm qua, tôi xem cuốn phim “First, they killed my father” do Angelina Jolie đạo diễn. Cuốn phim, sản xuất năm 2017, mô tả thảm cảnh của một gia đình trung lưu ở Pnom Penh sau 1975 khi Khmer Đỏ chiếm Cambodia. Trong phim, có một chữ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là ‘Angkar‘, có nghĩa là Tổ Chức, nhưng có người dịch là ‘Anh Cả’. Khái niệm ‘Anh Cả’ làm tôi nhớ đến cuốn tiểu thuyết “1984” của văn hào George Orwell. Đối với nhiều người Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam, sẽ thấy cuốn phim “First, they killed my father” rất cuốn hút, vì nhiều người có thể tìm thấy mình qua những hình ảnh và nhân vật trong phim. Cuộc sống yên ấm của một gia đình trở thành đảo lộn sau khi Khmer Đỏ tiến vào ‘giải phóng’. Những gì xảy ra sau đó như tịch thu tài sản, tù cải tạo tập trung, tra tấn, giết chóc, v.v. làm cho người ta nhớ lại một thời kinh hoàng. Có những chi tiết nhỏ những đầy ý nghĩa như một cán bộ Khmer Đỏ đòi tước lấy cái đồng hồ của một người dân, vì Anh Cả cần cái đồng hồ đó, hay như chi tiết về một cựu viên chức giả vờ không biết tiếng Pháp để đóng vai người nông dân nhằm thoát bàn tay tử thần của đám cán bộ đang lăm le giết người. Thế nhưng cuối cùng thì anh ta cũng bị giết trong lúc cải tạo. Xuyên suốt cuốn phim, nhân vật vô hình “Anh Cả” được nhắc đi nhắc lại. Anh Cả biết hết. Anh Cả theo dõi mọi người. Anh Cả vĩ đại. Anh Cả bao dung và độ lượng. Nhưng trong thực tế, Anh Cả là kẻ giết người vô hình. Vô hình là vì không ai biết Anh Cả là ai. Đó chính là viễn ảnh của một xã hội được mô tả trong tiểu thuyết 1984. 1984 là một trong hai cuốn tiểu thuyết (cuốn kia là ‘Animal Farm’) nổi tiếng nhứt của văn hào George Orwell được xuất bản vào năm 1949. Trong 1984, Orwell cảnh báo thế giới về một viễn ảnh chế độ toàn trị sẽ gieo rắc lên xã hội, như hạn chế quyền tự do con người, kiểm soát hành vi, thậm chí suy nghĩ của dân chúng. Cảnh báo của Orwell thật ra đã thành hiện thực không chỉ ở các nước theo chế độ toàn trị, mà còn ngay tại những nước từng có thời tự xem là ‘Tự do & Dân chủ’ ngày nay. Khái niệm ‘Anh Cả’ / Big Brother / Angkar bàng bạc trong xã hội ngày nay. Nó không chỉ là những khẩu hiệu, biểu ngữ giăng trên đường phố, mà còn là những ‘Ứng dụng’ trong cái điện thoại động và máy tính cá nhân theo dõi từng bước đi, đếm từng hơi thở, và lắng nghe từng lời nói của chúng ta. Anh Cả ngày nay hiện diện mọi nơi. Tóm tắt ‘1984’ Câu chuyện xảy ra trong nước Oceania vào năm 1984 (nên nhớ ông viết trước đó và chỉ xuất bản vào năm 1949). Oceania là một nước theo thể chế toàn trị (totalitarian). Ngoài Oceania, còn có 2 nhà nước toàn trị khác là Eurasia và Eastasia. Oceania bị thống trị bởi một đảng gọi là Party. Party được sự lãnh đạo của một lãnh tụ ‘anh minh’ có danh xưng là Big Brother (Anh Cả). Anh Cả biến Party thành một tổ chức chuyên tẩy não dân chúng, đổi trắng thành đen, đổi đen thành trắng, làm cho người dân lẫn lộn không biết đâu là thực và đâu là giả. Mục tiêu của Party là làm cho người dân phải vâng lời lãnh tụ Big Brother một cách vô điều kiện. Nhà nước Oceania bao gồm một số bộ có tên rất … khác. Bộ Sự Thật (Ministry of Truth), Bộ Hoà Bình (Ministry of Peace), Bộ Tình Thương (Ministry of Love) và Bộ Dồi Dào (Ministry of Plenty). Những cái tên bộ hoàn toàn đi ngược lại ý nghĩa của nó. Chẳng hạn như Bộ Sự Thật chuyên trách tuyên truyền dối trá. Theo Bộ Sự Thật, 2 + 2 không phải là 4, mà là 5. Bộ Sự Thật kiểm soát tất cả báo chí, giải trí, và nghệ thuật. Trong nhà nước toàn trị, không có báo chí đối lập; tất cả phải phục vụ cho Party. Bộ Hòa Bình chuyên trách chiến tranh, lúc nào cũng sẵn sàng gây chiến với nhà nước Eurasia và Eastasia. Bộ Tình Thương là bộ đáng sợ nhứt vì nó có chức năng như là Bộ Công An, chuyên trách đàn áp và tra tấn người dân. Bộ Dồi Dào có chức năng kiểm soát nền kinh tế tập trung, kiêm luôn phân phối thực phẩm và hàng hoá cho dân. Cuốn tiểu thuyết xoay quanh 4 nhân vật: Winston Smith là một cán bộ cấp thấp, Julia là người yêu của Smith, O’Brien là giả lãnh tụ đảng đối lập, và Emmanuel Goldstein là Anh Cả. Ngoài ra, còn có nhân vật Charrington là chủ tiệm bán đồ cổ, và ông này là một người chỉ điểm, thành viên của Cảnh sát Tư tưởng. Winston Smith là một cán bộ trong Bộ Sự Thật. Công việc của Winston là thay đổi các sự thật lịch sử sao cho phù hợp với đường lối và chánh sách của Party / Đảng. Dù làm công việc đó, nhưng Winston không thấy thoải mái vì sự gian dối của Đảng. Chẳng hạn như Đảng nói nước Oceania luôn là đồng minh của Eastasia trong cuộc chiến chống Eurasia, nhưng sự thật thì không phải vậy. Hay như Đảng cho rằng Emmanuel Goldstein (lãnh tụ của nhóm Brotherhood) là người nguy hiểm nhứt, là Kẻ Thù Của Nhân Dân, nhưng Winston thấy không phải vậy. Winston trú ngụ ở tầng 7 trong một toà nhà tồi tàn, hôi mùi cải bắp luộc, còn thang máy thì thường bị hư hỏng. Trớ trêu thay, toà nhà này được Đảng đặt tên là “Victory Mansion” (Biệt thự Thắng Lợi). Thật ra, cái tên ‘Thắng Lợi’ được dùng cho rất nhiều sản phẩm (như thuốc lá, rượu, bia, cà phê, v.v.) của nước Oceania. Orwell mô tả Smith như là một công chức nghèo, uể oải với công việc và cuộc sống. Chiều về căn hộ, anh ta được ‘chào đón’ bằng những bài ca hay chương trình giải trí mang tính ‘cách mạng’ và tẻ nhạt. Còn cái màn hình thì hình như lúc nào cũng theo dõi mỗi bước đi và hành vi của anh. Còn ra ngoài nhà thì bất cứ anh đi đến nơi nào, Party đều theo dõi anh. Đi đường anh cũng thấy sự hiện diện của Party và lãnh tụ vĩ đại qua băng rôn và khẩu hiệu. Anh phải tỏ ra là một cán bộ trung thành với Party, về nếu không thì anh ta sẽ bị trừng phạt, thậm chí giết chết. Cảnh sát Tư tưởng lúc nào cũng có mặt để bảo đảm anh ta phải trung thành, mẫn cán với Party / Đảng. Winston càng ngày càng thấy bất bình trước sự trấn áp và kiểm soát của Đảng. Đảng cấm không được suy nghĩ tự do, không có tình dục, và không có bất cứ diễn đạt mang tánh cá nhân. Do đó, anh ta bắt đầu không ưa đảng và viết nhựt kí. Nói cách khác, anh ta đang trở thành một Tội phạm Tư tưởng. Winston thương thầm nhớ trộm một cô gái đồng nghiệp tên là Julia. Nhưng Winston sợ Julia là ‘gián điệp’ được cài cắm để theo dõi những kẻ Tội phạm Tư tưởng như anh ta. Một ngày kia, Winston nhận được thư của Julia với dòng chữ ‘I love you’ (em yêu anh), và thế là họ bí mật bắt đầu một mối quan hệ tình cảm. Càng yêu Julia chừng nào, Winston càng ghét Đảng chừng nấy. Một hôm, Julia và Winston nhận được lời mời ghé thăm O’Brien, lãnh tụ của Đảng. Tuy Đảng mang danh là của giai cấp lao động, nhưng O’Brien sống trong xa hoa.  O’Brien cho biết rằng cũng như Winstin và Julia, ông rất ghét Đảng. Ông đang tham gia nhóm Brotherhood (Hội Ái Hữu) nhằm lật đổ Đảng. O’Brien mời Julia và Winston tham gia Hội Ái Hữu và được tặng cuốn sách của Emmanuel Goldstein về tuyên ngôn của Hội. Winston say sưa đọc cuốn sách cho Julia nghe trong một tiệm. Đột nhiên, lính xông vào tịct thu cuốn sách, và người báo lính bắt là chủ nhân của tiệm tên Charrington, ông này là thành viên của Cảnh sát Tư tưởng. Winston được chở tối Bộ Tình Thương, và ở đó Winston lại gặp O’Brien. Lúc bấy giờ, Winston mới biết rằng O’Brien là một gián điệp của Đảng. O’Brien chỉ giả vờ là người của Hội Ái Hữu để gài bẫy Winston. Tại Bộ Tình Thương, đích thân O’Brien tra tấn và tẩy não Winston. Winston kháng cự, và thế là bị gởi đi giam cầm trong Phòng 101, nơi kinh khủng nhứt của Bộ Tình Thương dành cho những tù nhân sừng sỏ nhứt. Cách O’Brien tra tần ở Phòng 101 là buộc một lồng đầy chuột trên đầu của Winston, và để cho chuột gặm nhấm mặt của Winston. Cuối cùng thì Winston bị suy sụp và van xin O’Brien tha thứ cho mình, và hãy dùng hình thức tra tấn này cho Julia. Winston được thả trong điều kiện sức khoẻ tinh thần bị suy sụp hoàn toàn. Ở ngoài tù, Winston gặp Julia nhưng không còn cảm tình gì với nàng. Ngược lại, Julia cũng bị suy sụp tinh thần và không còn yêu Winston nữa. Winston chấp nhận Đảng và học cách yêu thương lãnh tụ Anh Cả. Phân tích ‘1984’ Nội dung câu chuyện tôi tóm tắt có lẽ không làm cho các bạn quan tâm, vì xem quá có vẻ quá … tầm thường. Có lẽ thế, nhưng ý nghĩa đằng sau nó thì không tầm thường chút nào, vì qua câu chuyện, văn hào đã phác hoạ một xã hội toàn trị có hình thù ra sao và vận hành như thế nào. Tác phẩm còn hàm chứa một thông điệp rất quan trọng mà George Orwell muốn gởi đến độc giả, đó là các chế độ toàn trị có khả năng gieo rắc nỗi kinh hoàng đến người dân. Đó cũng là một cảnh báo mà văn hào đưa ra từ những 80 năm trước. Luận đề căn bản của 1984 là thế giới sẽ được chia thành 3 siêu nhà nước toàn trị: Oceania, tượng trưng cho chế độ Stalin; Eurasia tượng trưng cho chế độ Phát-xít; và Eastasia tượng trưng cho xã hội theo tư bản chủ nghĩa. Tuy Oceania tượng trưng cho xã hội Stalin, nhưng câu chuyện lại không lấy Moscow làm bối cảnh mà là London. Tuy nhiên, ngày nay thì chúng ta có thể thấy cái nhà nước Oceania hiện diện ở bất cứ nơi nào trên thế giới, dưới hình thức này hay hình thức khác. Nước Oceania có ba thành phần: một nhóm nhỏ gọi là Nội Đảng (Inner Party), Ngoại Đảng (Outer Party) và nhóm lớn nhứt là Proles không nằm trong Đảng.  Nội Đảng bao gồm một nhóm nhỏ chóp bu của Đảng, có quyền điều hành và ra chánh sách. Ngoại Đảng là nhóm lớn hơn, bao gồm những cán bộ như Winston Smith, những kẻ bị tẩy não nặng nề và chỉ biết phục vụ cho Nội Đảng một cách vô điều kiện. Proles hay thường dân là nhóm lớn nhứt, ngoài Đảng, chẳng có quyền lực gì cả, và gần như vô nghĩa. Nhóm Probes này được quản lí bởi một lực lượng gọi là Cảnh sát Tư tưởng (Thought Police). Nhóm Proles chẳng có vai trò gì, và thường được Cảnh sát Tư tưởng cho chơi thể thao và những màn giải trí vớ vẩn khác để không chất vấn những gì Nội Đảng và Ngoại Đảng làm. Mục tiêu tối hậu của Nhà nước Oceania là kiểm soát toàn bộ xã hội và kiểm soát suy nghĩ của người dân. Để thực hiện mục tiêu này, Oceania dựa vào 2 trụ cột chánh: dối trá & tẩy não, và đàn áp. Dối trá & tẩy não được thực hiện bởi Bộ Sự Thật. Đàn áp thì do Bộ Tình Thương phụ trách. Bộ Sự Thật sáng chế ra một ngôn ngữ gọi là Newspeak. Trong thực tế, Newspeak là loại ngôn ngữ mới nhằm hạn chế tự do tư tưởng và xiển dương đường lối chủ trương của Đảng. Ngôn ngữ Newspeak thay thế tiếng Anh truyền thống. Newspeak không có những chữ mang tính phản kháng. Ngay cả suy nghĩ phản kháng cũng là bất hợp pháp, và suy nghĩ phản kháng trong tâm tưởng là một ‘tội phạm tư tưởng’ (thought crime). Tội phạm tư tưởng là loại tội phạm nặng nhứt trong nhà nước Oceania. Trong Newspeak có một chương trình một cách nói gọi là ‘Doublethinking‘ (Suy Nghĩ Kép). Khẩu hiệu của Doublethinking và cũng là chủ trương của Oceania là: Chiến tranh là hoà bình (War is Peace) Tự do là nô lệ (Freedom is slavery) Dốt nát là sức mạnh (Ignorance is strength) “Chiến tranh là hoà bình” có nghĩa là đặt quốc gia trong tình trạng chiến tranh thì người ta sẽ quên đi những bất công xã hội và thối nát của chế độ để chuẩn bị chiến tranh, và qua đó mà duy trì hoà bình trong nước. Điều này giải thích tại sao các nước toàn trị lúc nào cũng doạ công chúng rằng có một kẻ thù đang đe doạ đến sự tồn vong của chế độ (dù chẳng có đe doạ nào cả) để biện minh cho sự đàn áp của họ và làm cho dân chúng lúc nào cũng bị động, không có thì giờ suy nghĩ sâu xa. “Tự do là nô lệ” có nghĩa là tự do tuyệt đối sẽ dẫn đến một cuộc sống mà người ta chỉ theo đuổi những thú vui vật chất và nhục dục. Họ không thể nào suy nghĩ đến những vấn đề lớn hơn. Do đó, họ rất dễ trở thành nô lệ cho chế độ. “Dốt nát là sức mạnh” có thể hiểu rằng dốt nát là niềm vui. Khi người ta chạy theo niềm vui để thoả mãn nhu cầu cá nhân, người ta sẽ không quan tâm đến sự thật nữa. Sự dốt nát của họ là sức mạnh của nhà nước. Doublethinking là một ‘vũ khí’ lợi hại của Đảng (Bộ Sự Thật). Với Doublethinking, người ta có thể tin vào 2 điều hoàn toàn đối nghịch nhau. Đó chính là lí do tại sao các chế độ toàn trị rất thích nói về tự do, dân chủ, hoà bình. Chế độ Oceania lúc nào cũng nói rằng tự do là quí báu, nhưng chính chế độ đó lại tước đoạt quyền tự do tư tưởng của người dân. Dân chủ là một khẩu hiệu rất phổ biến trong nước Oceania nhưng trong thực tế người dân không có quyền bầu cử. Còn hoà bình thì chỉ là khẩu hiệu, vì trong thực tế Oceania lúc nào cũng chuẩn bị chiến tranh chống các nhà nước khác. Cho đến nay, chúng ta vẫn thấy nhan nhản những thủ thuật của Bộ Sự Thật trong tuyên truyền và tẩy não người dân. Vì nhà nước Oceania kiểm soát toàn bộ báo chí và hệ thống truyền thông, nên nó có thể nói bất cứ điều gì mà không quan tâm đến phản kháng. Nó nói 2 + 2 = 5 mà không ai dám nói khác. Nó đổi đen thành trắng, và trắng thành đen cũng chẳng ai nói khác được. Dần dần, theo thời gian những ‘tiêu chuẩn’ mới này thành chân lí và người dân phải chấp nhận. Để kiểm soát tư tưởng và tẩy não dân, Đảng duy trì một hệ thống kiểm soát tư tưởng có tên là Thought Police (Cảnh sát Tư tưởng). Cảnh sát Tư tưởng có thể theo dõi công dân mỗi phút và biết họ suy nghĩ gì! Bất cứ ai trong nhà nước Oceania suy nghĩ khác với Đảng là bị bắt bỏ tù và tra tấn. Nhà nước Oceania thích dùng những cách nói thậm xưng. Họ nói về những chiến thắng vang vội, và bất kẻ thù nào cũng bị đánh bại. Tiểu thuyết bắt đầu bằng nhà nước Oceania gây chiến với Eurasia và làm hoà với Eastasia. Nhưng sau đó thì Oceania đột nhiên làm hoà với Eurasia và gây hấn Eastasia. Cứ mỗi lần như thế, Oceania tuyên bố là chiến thắng. Họ khắc cái ‘chiến thắng’ đó bằng cách đặt tên cho các sản phẩm là ‘Thắng lợi’ / Victory. Người dân tưởng đó là thật và cũng tự hào và ảo tưởng về sức mạnh của Nhà nước Oceania. Nhà nước Oceania tuy bề mặt thì tỏ ra là một chánh quyền mạnh và vững chãi, nhưng trong thâm tâm họ rất yếu. Họ rất sợ dân. Họ nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và ai cũng đáng nghi ngờ. Đó chính là lí do họ có đội quân Cảnh sát Tư tưởng. Một trong những cụm từ họ hay dùng là ‘Kẻ Thù Của Nhân Dân‘. Trong ‘1984’, Orwell mô tả các thành viên của Ngoại Đảng cứ mỗi lần họp họ dành ra 2 phút để làm Nghi lễ Thù Ghét chống lại Emmanuel Goldstein, người được xem là ‘Kẻ thù của Nhân dân‘. Tuy nhiên, cái nhãn đó chỉ được dựng lên làm biểu tượng nhằm đánh lạc hướng người dân từ một kẻ thù lớn hơn là Anh Cả! Cái mô hình Oceania dĩ nhiên là có mặt trong thế giới XHCN cũ. Ở Đức, sau khi thống nhất đất nước, người ta mới biết cơ quan mật vụ khét tiếng Stasi đã theo dõi người dân như thế nào. Họ dùng những người thân như cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp làm điềm chỉ viên cho họ. Các điềm chỉ viên báo cáo rất chi tiết về người họ theo dõi, như gặp ai, nói chuyện về gì, suy nghĩ ra sao, thậm chí … ngủ với ai! Ngày nay, cái ngôn ngữ Newspeak cũng hay thấy ở những nước chuyển sang XHCN. Ở Tàu, sau cuộc ‘cách mạng’, chế độ mới thay đổi các cách nói và ngữ vựng cũ bằng những cách nói xa lạ và những từ ngữ khó hiểu. Họ cố tình tẩy não sao cho dân chúng phải đoạn tuyệt với ngôn ngữ của cha ông để lại và làm quen với một thứ ngôn ngữ mới. Ngôn ngữ Newspeak cũng có những chữ như tự do, dân chủ, hoà bình, v.v. nhưng ý nghĩa thật thì hoàn toàn ngược lại, y như Doublethinking. Trong cái nhìn của Orwell, không phải chỉ xã hội chủ nghĩa sẽ thất bại, nhưng một xã hội hiện đại (như ngày nay) và xã hội dân chủ đại chúng cũng sẽ thất bại. Trong xã hội ngày nay, những kẻ cai trị đã có trong tay những kĩ thuật và công nghệ để duy trì quyền lực và kiểm soát dân chúng. Trong xã hội Oceania, người dân tin vào những gì kẻ cai trị (Anh Cả) vì họ không thể nào nói lên những bất đồng chánh kiến, hoặc họ bị tẩy não và không nghĩ ra được một cách diễn giải khác. Có lẽ ý tưởng chánh của Orwell trong 1984 là những kẻ cai trị có khả năng ngăn chận những suy nghĩ độc lập của người dân. Lời cảnh báo đó vẫn còn tính thời sự. Dù đã gần 80 năm xuất bản, những khái niệm như Newspeak, Doublethink, Anh Cả, Tội phạm Tư tưởng, Cảnh sát Tư tưởng, v.v. vẫn còn liên quan. Ngay cả người dân ở Mĩ, Úc, Anh trong thời dịch bệnh có lẽ đều tìm thấy nhiều sự trùng hợp lạ lùng với những gì mô tả trong 1984. Chính vì thế mà mà ‘1984’ được xem là một kiệt tác, vì mức độ ảnh hưởng của nó xuyên thời gian. ___ [1] George Orwell tên thật là Eric Arthur Blair sanh năm 1903 và qua đời năm 1950, tức chỉ thọ 46 tuổi. Ông chết vì bệnh lao phổi. Ông xuất thân là một nhà báo và nhà phê bình, nhưng lại biết đến như là một nhà văn. Ông mô tả gia đình ông thuộc giai cấp trung lưu, thân phụ là công chức làm việc ở Ấn Độ (nơi ông sanh ra) và thân mẫu xuất thân từ một gia đình doanh nhân gốc Pháp. Sau một thời gian sống ở Ấn Độ, ông theo thân mẫu về Anh, nơi ông được gởi đi học tại những trường danh tiếng như Sussex và Eton. Ngay từ thuở đó cậu bé George đã biểu hiện một tư chất thông minh nhưng thụ động. Aldous Huxley là một trong những người thầy của Orwell. Tuy nhiên, ông không thích môi trường học đường. Sau trường học, ông làm cảnh sát một thời gian, nhưng ông cũng không thích nghề cảnh sát. Thật ra, ông lúc nào cũng cảm thấy xấu hổ vì đã làm cảnh sát. Sau khi bỏ nghề cảnh sát, ông lang thang ở London và Paris và sống trong một khu tồi tàn, chung nhà với những người ăn xin. Ở Paris ông làm nghề rửa chén trong nhà hàng. Có lẽ chính vì thế mà ông rất ghét chủ nghĩa đế quốc. Ông tự xem mình là một người xã hội chủ nghĩa, thậm chí là người cộng sản. Nhưng trớ trêu thay, hai tác phẩm Animal Farm và 1984 của ông lại là những cảnh báo về một viễn cảnh chế độ Nazi và Stalin áp đặt lên xã hội loài người. Mời các bạn đón đọc Một Chín Tám Tư của tác giả George Orwell & Phạm Nguyên Trường (dịch).
Hoa Của Phế Tích
Hoa của phế tích là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Từ câu chuyện một đôi vợ chồng trẻ tự sát vì những lí do bí hiểm mở ra một cuộc điều tra, theo đó là những bước chân lần theo những khu phố cũ, những đại lộ, những tòa nhà… đậm dấu tích của quá khứ. Giọng văn chậm rãi với những câu chữ buồn mà đẹp đến nao lòng của Modiano mang đến cho độc giả những dư âm mãi váng vất. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Con chó mùa xuân là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Vẫn với lối viết đơn giản mà tinh tế, Patick Modiano đã dần người đọc vào một hành trình lạ lùng khi hai con đường ngược nhau, cắt nhau nơi ký ức. Như một tất định của đời sống, có tồn tại rồi sẽ có lãng quên, cuối cùng thì không gì có thể níu kéo được hiện hữu thuộc về quá khứ, và tất cả được chứa đựng trong lặng im vĩnh viễn. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** Buổi tối Chủ nhật tháng Mười một ấy, tôi ở trên phố Abbé-de-l’Épée. Tôi đi dọc theo bức tường lớn của Học viện dành cho người câm điếc. Bên trái là tháp chuông nhà thờ Saint-Jacques-du-Haut-Pas cao cao. Tôi còn giữ kỷ niệm về một quán cà phê nơi góc phố Saint-Jacques, tôi hay đến đó sau khi xem phim, rạp Studio des Ursulines. Trên vỉa hè, lá rụng. Hoặc cũng có thể là các trang đã cháy thui của một quyển từ điển Gaffiot[1] cũ. Đây là khu phố của các trường và các tu viện. Vài cái tên cổ kính quay trở lại trong ký ức tôi: Estrapade, Conttescarpe, Tournefort, Pot-de-Fer... Tôi cảm thấy e sợ khi phải băng ngang những chốn tôi chưa từng đặt chân kể từ tuổi mười tám, hồi tôi còn hay lai vãng một trường trung học trên đồi Sainte-Geneviève[2]. Tôi có cảm giác các địa điểm vẫn cứ ở trong tình trạng mà tôi đã để chúng lại từ đầu thập niên sáu mươi, chúng bị bỏ hoang cùng quãng đó, cách đây đã hơn hăm lăm năm. Phố Gay-Lussac - cái phố im lìm ấy, nơi trước đây người ta từng dỡ đá lát và dựng chiến lũy[3] - cửa ra vào một khách sạn đã bị xây bịt lại và phần lớn cửa sổ không còn kính. Nhưng biển hiệu thì vẫn gắn ở đó, trên tường: Khách sạn Tương lai. Tương lai nào? Là tương lai, đã chấm dứt, của một sinh viên hồi những năm ba mươi, thuê lấy một căn phòng nhỏ tại khách sạn ấy, lúc vừa rời trường Sư phạm, và tối thứ Bảy thì mời các bạn học cũ đến chơi. Và họ đi vòng qua mấy khối nhà để tới rạp Studio des Ursulines xem một bộ phim. Tôi đi qua trước rào sắt và ngôi nhà màu trắng nhiều chớp cửa sổ, với rạp chiếu phim chiếm tầng trệt. Sảnh vào sáng đèn. Hẳn tôi có thể đi tiếp tới Val-de-Grâce, cái vùng yên bình ấy, nơi chúng tôi từng trốn, Jacqueline và tôi, để ông hầu tước không có cơ may gặp được nàng. Chúng tôi sống tại một khách sạn nằm đầu phố Pierre-Nicole. Chúng tôi tằn tiện với số tiền mà Jacqueline kiếm được bằng cách bán chiếc măng tô lông thú của nàng. Phố ngập nắng, vào buổi chiều Chủ nhật. Đám thủy lạp của ngôi nhà gạch nhỏ, đối diện trường Sévigné. Dây thường xuân phủ kín các ban công khách sạn. Con chó ngủ trong hành lang lối vào. Tôi đi đến phố Ulm. Nó hoang vắng. Có tự nhủ rằng vậy thì đâu có gì kỳ cục vào một tối Chủ nhật, tại cái khu phố chuyên cần và nhiều chất tỉnh lẻ này, thì tôi vẫn tự hỏi mình có đang còn ở Paris hay không. Trước mặt tôi là vòm tròn của Panthéon. Tôi sợ lại thấy chỉ có độc mình tôi, dưới chân tòa công trình cho người chết ấy, dưới ánh trăng, thế là tôi vội rẽ sang phố Lhomond. Tôi dừng lại trước trường Ái Nhĩ Lan. Một cái chuông điểm tám tiếng, có lẽ chuông của giáo đoàn Thánh Linh mà mặt tiền đồ sộ đang ở kia, bên tay phải tôi. Thêm vài bước nữa, tôi bước vào quảng trường Estrapade. Tôi tìm số 26 phố Fossés-Saint-Jacques. Một tòa nhà hiện đại, kia, trước mặt tôi. Chắc hẳn tòa nhà cũ đã bị phá đi chừng hai mươi năm về trước. Ngày 24 tháng Tư năm 1933. Cặp vợ chồng trẻ tự sát vì những lý do bí hiểm. Đúng là một câu chuyện lạ thường, những gì đã xảy ra đêm qua trong tòa nhà số 26, phố Fossés-Saint-Jacques, gần Panthéon, ở nhà ông và bà T. Ông Urbain T., kỹ sư trẻ tuổi, tốt nghiệp thủ khoa trường Hóa học, cách đó ba năm lấy cô Gisèle S., hăm sáu tuổi, hơn ông một tuổi. Bà T. là một phụ nữ xinh đẹp tóc vàng, cao và thanh mảnh. Về phần chồng bà, ông thuộc típ đàn ông tóc nâu đẹp trai. Cặp vợ chồng hồi tháng Bảy vừa rồi chuyển vào sống ở tầng trệt số 26, phố Fossés-Saint-Jacques, trong một cái xưởng được họ cải tạo thành nhà ở. Cặp vợ chồng trẻ rất gắn bó với nhau. Dường như chẳng mối lo lắng nào nhuốm lên hạnh phúc của họ. Tối thứ Bảy, Urbain T. quyết định cùng vợ ra ngoài đi ăn tối. Họ rời khỏi nhà vào quãng bảy giờ. Mãi khoảng hai giờ sáng họ mới về, cùng hai cặp khác. Gây ồn ào chối tai, họ đánh thức các hàng xóm vốn dĩ chẳng mấy quen thuộc với những biểu hiện ầm ĩ như vậy từ phía những người thuê nhà thông thường rất kín đáo. Chắc hẳn bữa tiệc đã có các biến cố bất ngờ. Quãng bốn giờ sáng, những người khách đi khỏi. Trong vòng nửa tiếng sau đó, vốn dĩ trôi qua trong im lặng, hai phát nổ sượng đục vang lên. Chín giờ, một hàng xóm, ra khỏi nhà, đi qua trước cửa nhà của vợ chồng T. Bà ta nghe thấy có tiếng rên rỉ. Đột nhiên nhớ đến những tiếng nổ trong đêm, bà ta thấy lo lắng nên đập cửa. Cửa mở ra và Gisèle T. xuất hiện. Máu chầm chậm chảy từ một vết thương thấy rõ dưới vú trái. Cô thì thầm: “Chồng tôi! Chồng tôi! Chết rồi”. Một lúc sau, ông Magnan, cảnh sát trưởng, tới nơi. Gisèle T. rên rỉ, nằm trên một cái đi văng. Trong phòng bên cạnh, người ta phát hiện xác chồng cô. Anh vẫn giữ chặt một khẩu súng ngắn trong bàn tay co quắp. Anh ta đã tự sát bằng một viên đạn bắn thẳng vào tim. Bên cạnh anh, một bức thư nguệch ngoạc: “Vợ tôi đã tự sát. Chúng tôi đã say rượu. Tôi tự sát đây. Đừng tìm...”.   Dường như, theo cuộc điều tra, Urbain và Gisèle T., sau bữa tối, đã đến một quán bar ở Montparnasse. Tối hôm trước, từ phố Fossés-Saint-Jacques, tôi đã đi bộ tới giao lộ nơi có quán Dôme và quán Rotonde, sau khi để lại sau lưng khu vườn Đài Thiên văn tối tăm. Vợ chồng T. hẳn đã đi theo cùng con đường như tôi, vào cái đêm năm 1933 ấy. Tôi chợt thấy mình đang ở một cái nơi mà tôi đã tránh kể từ những năm sáu mươi. Cũng như khu Ursulines, khu Montparnasse làm tôi nghĩ đến tòa lâu đài của nàng công chúa trong khu rừng ngủ. Tôi từng có cùng cảm giác ấy, hồi hai mươi tuổi, khi thuê phòng để trú vài đêm tại một khách sạn trên phố Delambre: Thời ấy Montparnasse đối với tôi đã có dáng vẻ của một khu phố sống sót sau chính nó và đang chậm rãi thối rữa, cách xa khỏi Paris. Những lúc trời mưa trên phố Odessa hay phố Khởi Hành, tôi thấy như thể mình đang ở một bến cảng vùng Bretagne, dưới làn mưa phùn. Từ nhà ga, hẵng còn chưa bị phá hủy, bốc lên những bụm không khí của Brest hay Lorient. Bữa tiệc, ở đây, đã kết thúc từ lâu. Tôi còn nhớ rằng biển hiệu của quán Jimmy’s ngày xưa vẫn còn treo trên bức tường của phố Huyghens, và nó bị rơi mất dăm ba chữ, gió ngoài khơi đã thổi tung chúng đi mất. Đó là lần đầu tiên - theo các báo hồi tháng Tư năm 1933 - cặp vợ chồng trẻ bước vào một quán ban đêm của khu Montparnasse. Họ đã hơi quá chén trong bữa tối chăng? Hoặc giả, hết sức đơn giản, họ muốn phá vỡ, dẫu chỉ trong một buổi tối, dòng chảy êm đềm cuộc đời họ? Một nhân chứng khẳng định đã trông thấy họ, quãng mười giờ tối, tại quán Café de la Marine, một sàn dancing, ở số 243, đại lộ Raspail; một người khác, ở quán cabaret tên là Isles, trên phố Vavin, đi cùng hai phụ nữ. Cảnh sát cho công bố ảnh họ nhằm kêu gọi những lời chứng rất có nguy cơ cần phải được thẩm tra kỹ vì có rất nhiều phụ nữ trẻ tóc vàng và chàng trai tóc nâu, như Urbain và Gisèle T. Trong vòng vài ngày, người ta tìm cách xác định hai cặp trai gái mà vợ chồng T. đã đưa về nhà họ, trên phố Fossés-Saint-Jacques, rồi cuộc điều tra được khép lại. Gisèle T., trước khi chết vì các vết thương, đã cất tiếng nói, nhưng những kỷ niệm của cô mơ hồ. Đúng, họ đã gặp, tại Montparnasse, hai phụ nữ, hai người xa lạ mà cô chẳng hề biết gì... Và những người đó đã lôi kéo họ tới Le Perreux, tại một sàn dancing nơi có hai người đàn ông đến với họ. Rồi họ tới một ngôi nhà, ở đó có một cái thang máy màu đỏ. Tối nay, tôi đi theo dấu chân họ trong một khu phố ủ dột được tòa tháp Montparnasse phủ tấm màn tang tóc. Trong ngày, nó che giấu mặt trời và phóng cái bóng của nó lên đại lộ Edgar-Quinet cùng các phố lân cận. Tôi để lại sau lưng quán Coupole mà người ta đang phá đi dưới một mặt tiền bằng bê tông. Tôi thấy thật khó mà tin rằng Montparnasse xưa kia từng biết đến một cuộc sống về đêm... Chính xác thì vào thời nào tôi từng sống ở cái khách sạn trên phố Delambre kia? Quãng năm 1965, khi tôi làm quen với Jacqueline và không lâu trước khi tôi lên đường đi Viên, bên Áo. Căn phòng bên cạnh phòng tôi được thuê bởi một người đàn ông trạc ba lăm tuổi, một người đàn ông tóc vàng mà tôi hay gặp trong hành lang, rốt cuộc tôi cũng bắt đầu quen biết ông ta. Tên ông ta? Cái gì đó giống như Devez hay Duvelz. Lúc nào ông ta cũng ăn vận hết sức chỉn chu và đính một huy chương trên hàng cúc áo. Nhiều lần, ông ta từng mời tôi uống một cốc, rất gần khách sạn, tại một quán bar, Rosebud. Tôi không dám từ chối, ông ta có vẻ rất thích nơi đó. - Ở đây tuyệt quá... Ông ta nói giọng nhiều âm răng, giọng của một người con nhà gia giáo, ông ta đã kể với tôi là ông ta từng ở hơn ba năm “vùng bưng biền”[4] và tại đó, ông ta đã kiếm được tấm huy chương kia. Nhưng cuộc chiến tranh Algérie khiến ông ta thấy lộn mửa. Ông ta đã cần rất nhiều thời gian thì mới hồi phục được từ đó. Ông ta sắp sửa kế tục bố ông ta làm chủ một doanh nghiệp dệt sợi lớn trên miền Bắc. Rất mau chóng, tôi nhận ra rằng ông ta không nói cho tôi sự thật: Về “doanh nghiệp dệt sợi” ấy, ông ta luôn luôn mơ hồ. Và ông ta tự nói ngược với chính mình, một hôm khẳng định với tôi là từng tốt nghiệp trường Saint-Maixent, ngay trước khi sang Algérie, rồi, tới hôm sau, rằng ông ta đã hoàn toàn học bên Anh. Đôi khi, cái giọng đầy âm răng của ông ta nhường chỗ cho giọng đớt của một kẻ bán hàng rong. Chắc cần phải có chuyện tôi bước đi, tối Chủ nhật ấy, trong khu Montparnasse, thì cái tay Duvelz - hay Devez - kia mới có thể đột nhiên hiện ra từ hư vô như thế. Một hôm, tôi còn nhớ, chúng tôi đã tình cờ gặp nhau trên phố Rennes, và ông ta đã mời tôi một bốc bia - như ông ta nói - tại một trong những quán cà phê thuộc giao lộ Saint-Placide buồn thảm. Quán cabaret tên Isles, trên phố Vavin, nơi hẳn người ta phải để ý thấy sự hiện diện của cặp vợ chồng, chiếm tầng hầm của tiệm Vikings. Bầu không khí đậm màu sắc Scandinavia cùng gỗ ốp tường sáng màu của Vikings trông thật tương phản với cái quán rượu nhọ nhem ấy. Chỉ cần đi xuống hết cầu thang: Từ những ly cocktail và các món nhẹ Na-uy ở tầng trệt, người ta sục thẳng vào giữa những điệu nhảy Martinique. Có phải vợ chồng T. đã gặp hai người phụ nữ ở đó? Tôi có cảm giác phải là tại Café de la Marine, đại lộ Raspail, về phía Denfert-Rochereau. Tôi còn nhớ căn hộ nơi Duvelz từng dẫn chúng tôi, Jacqueline và tôi, đến, cũng nằm ở đầu đại lộ Raspail đó. Cả lần ấy nữa, tôi cũng không dám từ chối lời mời của ông ta. Trong vòng gần một tuần, ông ta đã nằn nì cả hai chúng tôi một tối thứ Bảy nào đó cần phải tới nhà một người bạn gái của ông ta, ông ta rất muốn giới thiệu chúng tôi với người ấy. Bà mở cửa cho chúng tôi và, trong bóng tối lờ mờ của tiền phòng, tôi không nhìn rõ khuôn mặt bà. Phòng khách lớn, nơi chúng tôi bước vào, khiến tôi choáng váng vì vẻ xa xỉ của nó, chẳng hề tương hợp với căn phòng nhỏ của Duvelz, trên phố Delambre. Ông ta ở đó. Ông ta giới thiệu chúng tôi với nhau. Tôi đã quên mất tên bà: Đó là một phụ nữ tóc nâu đường nét hài hòa, một bên mặt, ở đoạn gò má, có vết sẹo lớn. Chúng tôi, Jacqueline và tôi, ngồi xuống trường kỷ. Duvelz và người phụ nữ, trong phô tơi, đối diện với chúng tôi. Chắc bà khoảng ba lăm, cùng độ tuổi với Duvelz. Bà tò mò nhìn chúng tôi. - Em có thấy họ thật duyên dáng không, cả hai?, Duvelz hỏi, bằng giọng nói nhiều âm răng của mình. Bà chăm chăm nhìn chúng tôi. Bà hỏi chúng tôi: - Hai người có muốn uống gì không? Giữa chúng tôi xuất hiện một quãng ngại ngần. Bà rót rượu porto mời chúng tôi. Duvelz uống một ngụm lớn. - Thoải mái đi, ông ta nói. Đây là một người bạn lâu năm... Bà ném về phía chúng tôi một nụ cười rụt rè. - Thậm chí chúng tôi từng đính hôn với nhau. Nhưng cô ấy đã phải lấy người khác... Bà không hề nhíu mày. Bà vẫn ngồi rất thẳng ở phô tơi, tay cầm ly rượu. - Chồng cô ấy hay đi vắng... Chắc chúng ta có thể tận dụng điều đó để đi chơi chung cả bốn người... Các bạn nghĩ sao? - Đi chơi đâu? Jacqueline hỏi. - Nơi nào các bạn muốn... Thậm chí chúng tôi còn không có nhu cầu ra ngoài. Ông ta nhún vai. - Ở đây thật hay... Phải không? Bà vẫn ngồi rất thẳng ở phô tơi. Bà châm một điếu thuốc lá, có lẽ để che giấu sự căng thẳng. Duvelz đã lại làm thêm một ngụm porto nữa. Ông ta đặt ly của mình lên cái bàn thấp, ông ta đứng dậy và bước về phía bà. - Cô ấy thật xinh đẹp, phải không? Ông ta đưa ngón tay trỏ lướt trên vết sẹo ở má. Rồi ông ta cởi cúc cái áo của bà và vuốt ve hai vú. Bà không hề động cựa. - Hồi trước chúng tôi đã gặp một tai nạn ô tô rất nghiêm trọng, ông ta nói. Bà hất tay ông ta ra bằng một động tác dữ tợn. Bà lại mỉm cười với chúng tôi. - Chắc hai người đói rồi... Giọng bà trầm và thoáng có âm sắc nước ngoài, dường như vậy. - Anh có thể giúp em mang bữa tối vào đây không? bà hỏi ông ta, giọng khá xẵng. - Tất nhiên rồi. Họ đứng dậy, cả hai. - Toàn đồ lạnh thôi, bà nói. Hai người thấy có được không? - Rất được, Jacqueline đáp. Ông ta đã choàng tay quanh vai bà và kéo bà ra khỏi phòng khách, ông ta thò đầu qua khe cửa mở. - Các bạn có thích sâm banh không? Ông ta đã đánh mất cái giọng nhiều âm răng. - Rất thích, Jacqueline đáp. - Có ngay đây. Chỉ còn lại chúng tôi trong phòng khách, vài phút, và tôi dồn hết nỗ lực ký ức để tập hợp lại càng nhiều chi tiết càng tốt. Những cửa sổ bệ thấp nhìn xuống đại lộ mở hé vì trời nóng. Đó là số 19 đại lộ Raspail. Năm 1965. Một cây đàn piano loại có đuôi đặt tận về cuối phòng. Trường kỷ và hai phô tơi đều làm bằng cùng một thứ da màu đen. Cái bàn thấp, bằng kim loại dát bạc. Một cái tên như là Devez hay Duvelz. Vết sẹo trên má. Cái áo bị cởi cúc. Một làn ánh sáng rất rực của đèn chiếu, hay nói đúng hơn là của đèn pin. Nó chỉ rọi sáng một mảnh nhỏ của décor, một giây phút đơn lẻ, mà để những gì còn lại trong bóng tối, bởi chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được đoạn sau các sự kiện và nói cho đúng thì hai người kia là ai. Chúng tôi lẻn ra khỏi phòng khách và, thậm chí còn không khép cửa lại, chúng tôi đi xuống cầu thang. Lúc nãy, chúng tôi đã dùng thang máy để lên, nhưng nó không màu đỏ, giống cái thang máy mà Gisèle T. từng nhắc đến. Mời các bạn đón đọc Hoa Của Phế Tích của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).
Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada
“Những vị khách của tiệm bá nghệ Tada” miêu tả cuộc sống của một số khách hàng của tiệm bá nghệ Tada đã xuất hiện ở tập 1 cũng như cuộc sống, mối quan hệ của Tada và Gyoten một năm sau khi Tada để Gyoten tá túc ở nhà mình. Gyoten đã ăn nhờ ở đậu tiệm bá nghệ Tada đến năm thứ hai, vậy mà mối quan hệ giữa Tada và Gyoten vẫn chỉ dừng ở mức đồng nghiệp chẳng phải, bạn bè hãy còn xa. Chẳng những thế, hai người còn như nước với lửa, Tada thì cặm cụi với từng đơn hàng nhỏ, trong khi Gyoten thì bơ đời, làm biếng, và chỉ thảng hoặc mới tỏ ra được việc. Chỉ là, qua những lần cùng nhau tiếp xúc với khách hàng đã khiến họ lần lần hiểu rõ nỗi đau của nhau. Dần dần, mỗi người lại trở thành niềm an ủi thầm lặng của người kia, là chỗ dựa để có thể tìm lại niềm tin và lòng dũng cảm đối mặt với quá khứ… *** Tada Keisuke, một nhân viên bán ô tô quyết định bỏ nghề, mở tiệm bá nghệ. Gyoten Haruhiko, một nhà nghiên cứu bệnh lý bỗng nhiên bỏ việc, lang bạt nay đây mai đó. Hai người bạn cấp ba chung lớp chưa một lần trò chuyện và chẳng khác nào hai đường thẳng song song ấy chỉ vì một lần trùng phùng nơi trạm xe buýt mà bước vào cuộc sống của nhau. Để rồi, ngày ngày họ rong ruổi khắp những con phố ở Mahoro trên chiếc xe tải nhẹ, làm đủ loại việc vặt mà khách yêu cầu; dắt chó đi dạo, thăm nom người ốm, quét dọn vườn tược, sửa chữa chuồng chó… Hai con người với hai tâm hồn cô độc chưa bao giờ cố để hiểu nhau, càng chẳng đòi hỏi gì ở đối phương, chỉ lặng lẽ sống như vậy qua ngày. Bởi họ biết rằng, một ngày nào đấy, hạnh phúc nhất định sẽ lại tìm đến mình dưới một hình hài nào đó thật khác. *** Miura Shion Cô sinh năm 1976 tại Tokyo, là con gái một học giả cổ điển nổi tiếng của Nhật Bản, vì vậy tình yêu với sách của tác giả được nảy sinh từ khi còn rất trẻ . Khi còn là sinh viên năm cuối khoa Văn Thư tại Đại học Waseda, cô bắt đầu tìm kiếm cho mình một vị trí biên tập, một công ty văn học đã nhận ra được tài năng viết lách của cô và thuê cô để bắt đầu viết một cột nhận xét sách trực tuyến ngay cả trước khi cô tốt nghiệp. Cô đã giành được nhiều giải thưởng lớn như:  Giải thưởng Naoki lần thứ 135.   Giải thưởng Oda Sakunosuke và Giải thưởng Nhà sách Nhật Bản năm 2012.   Một số các phẩm của cô đã được chuyển thể cho phim ngắn hoặc phim truyền hình. Sách của cô đã được dịch sang tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý. Tác phẩm: Bước Chạy Thanh Xuân Người Đan Chữ Xếp Thuyền Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada Khúc Ngẫu Hứng Trước Ga Mahoro ... *** Viên đá lấp lánh Trời mưa rả rích. Tada Keisuke ngưng tay lau cửa sổ văn phòng đồng thời cũng dừng luôn bài “Tiếng mưa điệu Chopin”* đang ngâm nga trong miệng. Hắn ngó xuống con phố trước mặt qua bậu cửa, cẩn thận không để lớp dầu trên da trán lưu dấu lại cửa kính. Con đường ẩm ướt không người qua lại in bóng khoảng trời nhiều mây loáng lên một màu xám ngoét. Tada mơ màng trong những tưởng tượng trẻ con hết sức, người ta phát lệnh giới nghiêm rồi à, hay một căn bệnh lạ nào đó đang hoành hành và loài người sắp tuyệt diệt đến nơi? Nhưng mà, nếu thế thật thì cũng đỡ, chẳng phải lo làm lụng chi nữa. Ba ngày nay tiệm bá nghệ Tada đang nhàn rỗi quá thể. Nhưng chẳng phải do bọn hắn làm biếng đâu. Tại cái điện thoại của tiệm nhất quyết muốn ngủ đông trái mùa đấy. Mưa dầm mưa dề khiến số đơn hàng của tiệm cứ tuột dốc không phanh. Trong cái bầu không khí nhớp nháp này, chẳng mấy ai lại muốn thuê người lạ đến nhà mà dọn dẹp cả. Tỉa tót vườn tược ấy à, cũng không đâu. Chỉ khi thấy trời trong xanh người ta mới có hứng làm sạch cho xung quanh thôi. Mà sau đợt hoa anh đào rụng thì lại chẳng mấy bận được thấy trời xanh ló dạng. Cứ cái đà này lại chẳng mấy mà vào mùa mưa mất thôi. Tada đành ngâm nga tiếp điệu nhạc hòng giấu đi tiếng thở dài, đồng thời tay cũng làm việc trở lại. Mỗi lần dùng miếng giẻ khô lau đi lớp bọt xà phòng nhỏ li ti là khung cửa sổ lại càng gần hơn với màu trời. “Đói thấy mồ!” Nghe tiếng người, Tada quay lại. Gyoten Haruhiko vừa dựng người dậy khỏi ghế xô pha. Cậu ta cũng ở nhà cơ đấy, hắn nghĩ. Con người này vừa mới đánh một giấc ngủ trưa ngon lành, và mặc cho Tada loay hoay làm việc. Gyoten thả chân xuống sàn, tóc rối bù một búi to tướng. “Tôi vừa mơ cái này kỳ lắm nha! Thế nào mà một ông sư lại đứng đọc kinh ở bùng binh cửa Nam chứ. Tôi thì vừa ngồi xổm vừa liên tục thảy mấy viên đá phát sáng vào cái bát ông sư ấy cầm. Kiểu muốn bảo “Thôi đừng tụng kinh nữa’ mà ông ta nhất quyết không chịu thôi.” Rõ vớ vẩn! Bụng thì nghĩ vậy nhưng Tada vẫn im lặng quay ra cửa sổ. Tất nhiên không bỏ sót hình ảnh cậu ta nghiêng đầu khó hiểu. “Đã cuối năm rồi sao ta?” “Không phải cuối năm cũng lau cửa sổ! Bẩn thì phải lau!” “Ầy…” Nói vậy chứ Gyoten nào có định động chân động tay chi. Mà Tada cần mẫn lau cửa sổ thế này cũng chỉ là để kiểm định lại đống đồ dọn vệ sinh, chứ chẳng phải hắn mắc bệnh ưa sạch không thể sống chung dẫu với một vết bẩn nhỏ hay gì. Lâu lắm rồi mai tiệm bá nghệ mới lại có đơn hàng. Nghĩ vậy thôi là đã khiến Tada không thể ngồi yên một chỗ rồi. Ấy thế mà cái con người kia lại chẳng mảy may nghĩ rằng phải chung tay vào giúp sức cho chủ nhà kiêm ông chủ của mình đâu. “Này, tôi đói bụng lắm rồi!” “Có bánh bao người ta cho đấy thôi!” Tiếng bước chân bước ngang qua phòng, rồi tiếng nồi niêu hay ấm đun nước chi đó loảng xoảng trong bếp. “Tada… Nấm mốc làm ổ trên bánh bao rồi đây này…” Ai biết! Mốc cũng xơi đi! Bụng thì quở vậy chứ sau đó thấy im ắng quá hắn lại đâm lo. Một tay vẫn cầm miếng giẻ vừa lau cửa sổ, Tada chui qua tấm rèm ngăn giữa khu tiếp khách và khu sinh hoạt. Gyoten đang đứng quay mặt vào bồn rửa. Tada đi vòng sang nhòm vào thì đúng lúc cậu ta đang giơ cái bánh ra trước mặt và định ngoạm lấy phần đáy. Còn mặt trên của bánh thì đã khoác một lớp nấm mốc xanh như bột trà. “Thôi thôi thôi!” Tada cuống cuồng tóm lấy cánh tay Gyoten. “Mốc thế này rồi còn định ăn là sao hả cái thằng này. Đói thì đi mua đồ mà ăn.” “Thôi… Phiền chết được!” Gyoten đặt cái bánh bao xuống bồn rửa, quay sang lục lọi kệ để đồ. Tada tranh thủ ném luôn cái bánh vào thùng rác. “Chẳng có cóc khô gì thế này,” Gyoten lầm bầm. Kể cũng lạ. Bình thường cậu ta có mấy khi tỏ ra hào hứng với việc ăn đâu. Lượng calo cậu ta hấp thụ từ rượu có khi còn nhiều hơn thức ăn có hình dạng ấy chứ. Chuyện gì đang xảy ra thế này. Thời tiết năm nay cũng lạ mà cái dạ dày của Gyoten cũng bất bình thường. Mưa nhiều lại hóa ham ăn, cậu là ốc sên đấy à? Chẳng buồn nhận ra ánh nhìn đầy ám muội của Tada, Gyoten cực chẳng đã rót whisky vào cốc rồi quay về xô pha. Miệng ư ử bài “Tiếng mưa điệu Chopin” rất điêu luyện. À vâng, xin lỗi vì đã bắt cậu nghe tôi hát mà như đọc kinh ạ! Tada còn đương trong cơn chán nản thì cửa văn phòng mở tung. “Khỏe không, mấy anh bá nghệ?” Một giọng nói tươi rói quen thuộc vang lên. Không ngoài dự liệu, hắn vừa vén rèm, thò mặt ra buồng tiếp khách thì y như rằng đã thấy Lulu và Hicy ở đó. Hicy còn đang ôm chihuahua trên tay. Con chihuahua được khoác cho một chiếc áo mưa dành cho chó màu hồng chói. Lulu cũng vận một chiếc áo mưa cùng màu cộng thêm đôi giày cao gót. “Mưa dầm mưa dề thấy ngán quá à. Chẳng làm ăn chi được!” Lulu chào hỏi qua loa rồi cởi ngay áo mưa sà xuống ngồi cạnh Gyoten. Từ dưới lớp áo mưa lộ ra chiếc váy màu tím bóng lộn khiến Tada có cảm giác như vừa gặp con ác mộng cuồng loạn sắc màu. Hicy thả con chihuahua xuống, cởi áo mưa cho nó rồi mới ngồi vào ghế xô pha đối diện Gyoten. Con chihuahua lắc mình cho không khí tràn khắp bộ lông rồi chạy đến chỗ chân Tada, ngoáy tít cái đuôi thay cho lời chào. Tada cúi xuống xoa đầu nó. “Quà nè!” Nói đoạn, Hicy đặt một hộp giấy lên chiếc bàn tròn. Gyoten từ nãy chẳng đếm xỉa chi tới những vị khách không mời, chỉ mải đắm chìm với ly rượu cuối cùng cũng chịu phản ứng. “Đồ ăn hả?” “Cái quán mới mở trước ga ngày nào khách cũng xếp hàng dài ấy. Bánh kem phô mai của hàng đó đó.” “Các cô cất công xếp hàng đấy à?” Tada chêm vào, Hicy nhún nhẹ vai. “Chúng tôi tỷ phú thời gian mà. Tranh thủ lúc đợi người ta tía tót bộ lông cho con Hana thôi.” Nghe Hicy nói hắn mới để ý, dưới tai con chihuahua được cài một bông hoa nhỏ xinh màu hồng. Trang phục cho chó, rồi thì tiệm làm đẹp cho chó… Ừm… cái kiểu chiều chuộng này thì hắn xin hàng rồi. Trong lúc Tada ngắm con chihuahua lông lá bóng mượt thì Gyoten mở hộp bánh kem phô mai. “To dữ!” Gyoten hớn hở nói, sau đó rời khỏi ghế xô pha nhảy chân sáo vào bếp. Đầu gối cậu ta còn huých cả vào vai Tada đang lom khom. “Ái ui…!” Mời các bạn đón đọc Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada của tác giả Shion Miura & Nhật An (dịch).
Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì
Hành trình từ 25 đô-la đến 250 trường học dành cho trẻ em trên toàn cầu và câu chuyện phi thường của một CEO nuôi chí thay đổi thế giới bằng giáo dục. Adam Braun bắt đầu làm việc hè tại các quỹ đầu tư khi anh mới mười sáu tuổi nhằm mục tiêu có được một sự nghiệp thành công ở phố Wall. Nhưng trong một chuyến du lịch, anh đã gặp một cậu bé ăn xin trên đường phố của Ấn Độ. Anh hỏi cậu muốn điều gì nhất trên đời này, thì nhận được câu trả lời đơn giản: "Một cây bút chì." Chính mong ước nhỏ nhoi này đã thôi thúc Adam làm vô số điều đáng kinh ngạc trước khi thành lập ra tổ chức PoP (Bút chì hứa hẹn), một tổ chức mà Braun bắt đầu chỉ vẻn vẹn với 25 đô-la và sau đó xây dựng được hơn 250 trường học trên khắp thế giới.   Lời hứa về một cây bút chì tái hiện lại cuộc hành trình của Adam Braun. Mỗi chương giải thích một bước rõ ràng mà mỗi người có thể làm để biến những tham vọng lớn nhất của họ thành hiện thực. Nếu bạn cảm thấy náo nức và sẵn sàng cho quá trình chuyển đổi, nếu bạn đang tìm kiếm định hướng và mục tiêu cuộc đời, cuốn sách này là dành cho bạn. Được dẫn dắt bởi những câu chuyện và các chia sẻ đầy cảm hứng, cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn những công cụ để tạo nên một câu chuyện đáng kể trong cuộc sống của chính bạn.   “Adam chính là đại diện cho cơn trở mình mà thế giới của chúng ta cần – cơn trở mình mà ở đó những bộ óc sáng láng nhất của thế hệ chúng ta tập trung giải quyết những vấn đề nhức nhối nhất của thời đại. Càng có nhiều người biết đến câu chuyện của anh, cơn trở mình càng diễn ra mau lẹ và dứt khoát.” - Ben Rattray, nhà sáng lập kiêm CEO của Change.org  “Một câu chuyện truyền cảm hứng với những bài học thiết yếu cho hành trình kiến tạo một cuộc sống đầy ắp ý nghĩa, đam mê và mục đích.” - Deepak Chopra *** Cuốn sách kể hành trình theo đuổi mục đích sống cao cả của chàng trai trẻ người Mỹ - Adam Braun, từ chỗ chỉ sở hữu 25 USD tới xây 250 trường học khắp thế giới. Lời hứa về một cây bút chì (The Promise of a Pencil) là tác phẩm của Adam Braun - một doanh nhân, nhà hoạt động từ thiện và tác giả 32 tuổi người Mỹ. Anh là người sáng lập quỹ từ thiện Pencils of Promise - tổ chức phi lợi nhuận xây dựng trường học và mang đến các tiện ích giáo dục cho trẻ em ở những nước đang phát triển. Cuốn sách kể về hành trình giác ngộ và theo đuổi mục đích sống ý nghĩa của Adam Braun. Anh biết kiếm tiền từ năm 12 tuổi, có tư duy kinh doanh tài chính nổi trội, 16 tuổi đã thực tập tại một quỹ đầu tư, tốt nghiệp trường đại học danh giá, làm việc trong một công ty danh tiếng với nhiều cơ hội thăng tiến... Tuy nhiên suốt quá trình trưởng thành, đặc biệt từ năm 22 đến 25 tuổi, Adam Braun luôn trằn trọc vì không tìm được ý nghĩa cuộc sống. Adam đã đi du lịch bụi qua nhiều quốc gia kém phát triển trên thế giới và bị ấn tượng mạnh với một cậu bé ăn xin bên sông Hằng. Mơ ước lớn nhất của cậu bé là có được một chiếc bút chì để tập viết. Adam nhận ra tầm quan trọng của giáo dục nên khi về Mỹ, anh quyết tâm từ bỏ con đường thăng tiến đang thuận lợi, bắt đầu hành trình mới - lập quỹ thiện nguyện Pencils of Promise. Quỹ ban đầu chỉ có 25 USD. Đến nay, cùng cộng sự, Adam đã xây được hơn 250 trường học, cung cấp hàng chục triệu giờ học cho trẻ em nghèo trên toàn thế giới. Pencils of Promise đã nhận được giải thưởng của nhiều tổ chức uy tín trên thế giới như Liên hiệp Quốc, Diễn đàn Kinh tế thế giới, Quỹ sáng kiến Toàn cầu Clinton... Cuốn sách là hành trình đầy chông gai nhưng cũng đầy lôi cuốn của chàng trai trẻ. Từ câu chuyện của chính mình, Adam truyền kinh nghiệm và cảm hứng cho mọi người, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Trong cuốn sách, Adam Braun cũng viết lại những kiến thức, kinh nghiệm xương máu trong việc gầy dựng và phát triển một tổ chức thiện nguyện. Cuốn sách từng đứng thứ hai trong danh sách bán chạy nhất của New York Times sau khi phát hành tháng 3/2014. Sách cũng đứng vị trí hàng đầu trên Amazon chỉ sau năm ngày phát hành và được LinkedIn liệt kê là một trong "Năm cuốn sách mỗi người độ tuổi 20 cần đọc". Tại Việt Nam, Lời hứa về một cây bút chì được đề cử Giải thưởng sách hay 2016 ở hạng mục sách kinh doanh. Di Ca *** Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì là cuốn hồi ký của Adam Braun. Anh là nhà sáng lập của tổ chức PoP (Pencils of Promise). Tổ chức của anh bắt đầu cuộc hành trình với 25 đô la nhưng đến nay đã xây dựng được 250 trường học trên khắp thế giới. Nhờ vào những đóng góp của mình cho xã hội, Adam đã vinh dự được lọt vào danh sách “30 Under 30” của tạp chí Forbes và “50 Người Sẽ Thay Đổi Thế Giới” của tạp chí Wired. Adam Braun là chàng trai trẻ người Mỹ gốc Do Thái, gia đình anh nuôi dạy con cái rất nghiêm khắc và luôn coi trọng giáo dục. Những ngày đầu, Adam chỉ có ước mơ như bao người là có một công việc, một căn hộ và đó chính là cuộc sống lý tưởng. Hạnh phúc với anh lúc đó là gì? Là một tủ quần áo chật cứng những bộ comple công sở ấn tượng, là tấm danh thiếp in tên của một công ty danh giá khiến anh đi đâu cũng được trọng vọng. Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì vừa là một cuốn sách phát triển bản thân, nơi Adam Braun chia sẻ những bài học của anh về tìm kiếm, phát triển và thổi bùng đam mê với công việc; đó vừa là cuốn hồi ký của Braun kể lại hành trình anh và tổ chức Pencils of Promise đi khắp nơi để gom góp những sự giúp đỡ và xây dựng gần 300 trường học trên khắp thế giới. Trong suốt cuộc đời mình, chàng trai trẻ người Mỹ luôn hết mình với khao khát giúp thế giới tốt đẹp hơn nhờ giáo dục. Một câu hỏi mà anh thường dành cho những đứa trẻ mình gặp gỡ trong cuộc hành trình của mình là: “Nếu em có thể có bất cứ thứ gì trên đời, em muốn có gì nhất?” Và, cuộc đời Adam rẽ sang một hướng khác, khi anh nhận được câu trả lời của một cậu bé Ấn Độ: “Một cây bút chì ạ” Kể từ ngày hôm ấy, Adam thắp lên trong mình ước mơ xây dựng trường học cho trẻ em nghèo trên toàn cầu và thành lập lên tổ chức PoP để hiện thực hóa ước mơ ấy. Mong muốn nhỏ nhoi của cậu bé Ấn Độ đã thôi thúc anh phải trao đi nhiều hơn, trao cho các em nhỏ trên khắp thế giới cơ hội được học tập, được tiếp thu tri thức và được sáng tạo hết khả năng của mình. Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì vừa kể lại câu chuyện của Adam và PoP, vừa lồng vào đó những bài học – mà Adam gọi là những lời tâm niệm anh đúc rút được trong suốt cuộc hành trình của mình. Vừa là một cuốn sách phát triển bản thân, vừa là câu chuyện có thực từ những nhân vật bằng xương bằng thịt, sách sẽ cho chúng ta trải nghiệm qua nhiều cung bậc cảm xúc, để cùng vui với tác giả khi họ thành công, để được tiếp thêm sức mạnh khi họ gặp khó khăn mà không hề gục ngã. Bạn sẽ thu được tiếp sức với rất nhiều thông điệp tích cực từ cuốn sách này. Đoạn trích hay từ cuốn Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì • “Khi xuất thân từ dòng dõi những người sống sót sau nạn diệt chủng người Do Thái dưới thời Hitle, ta sẽ lớn lên với ý thức rằng gia đình mình từng bị tước đi tất cả. Những gì thôi thúc ta tiếp tục sống và rồi thay đổi gần như hoàn toàn cuộc sống của ta là sức mạnh của ý chí, sự nâng đỡ của những người khác và niềm tin vào giáo dục.” • “Tôi tin rằng bất kể bạn xuất phát từ đâu trong đời, nó cũng không ảnh hưởng đến điểm đích mà bạn sẽ chạm tới. Và rằng, chẳng có công cụ nào có thể mở khóa khả năng một người có thể thay đổi vị trí của chính mình trong đời dễ dàng hơn là việc cho họ tiếp cận một nền giáo dục có chất lượng” • “Bất kể bạn bao nhiêu tuổi và có địa vị như thế nào, nếu bạn không hài lòng với con đường bạn đang đi, đó là lúc bạn nên viết lại tương lai của mình. *** Giới thiệu Vào một chiều thu nắng đẹp ngay trước sinh nhật lần thứ 25 của mình, tôi ghé vào một ngân hàng lớn ở thị trấn. Lúc này, tôi đang sở hữu tất cả những gì mà tôi từng cho là sẽ khiến mình hạnh phúc – công việc, căn hộ, cuộc sống mơ ước. Tủ quần áo của tôi chật cứng những bộ com-lê công sở ấn tượng, tấm danh thiếp in tên của một công ty danh giá, khiến tôi đi đâu cũng được trọng vọng. Trông tôi giống một thanh niên đang trên đúng con đường cần đi, tạt qua ngân hàng để ký gửi khoản tiền lương hàng tháng của mình. Nhưng từ sâu thẳm lòng mình, tôi không còn ham mê cuộc sống mà tôi đã tạo ra. Mục đích duy nhất mà tôi phụng sự lúc này chỉ là tư lợi. Niềm hạnh phúc của tôi đã phai nhạt dần theo thời gian dù hiếm khi tôi để lộ điều đó ra ngoài. Luôn có giọng nói văng vẳng bên tai khiến tôi trằn trọc mỗi đêm, nhủ tôi rằng nếu không tìm được ý nghĩa đích thực cho cuộc sống, tiền bạc sẽ chẳng còn giá trị gì. Nó nói với tôi, tôi sẽ tìm được sự viên mãn hơn nhiều nếu đong đếm cuộc sống của mình bằng mục đích sống thay vì tiền bạc. Và rằng tôi không nên chậm trễ nữa, rằng đây là “thời cơ” để bắt đầu hành trình theo đuổi những giấc mơ lớn của cuộc đời. Thật lạ, đôi khi ta cảm thấy một khao khát thậm chí còn lớn hơn con người thực của mình. Đó là cảm giác của tôi lúc này. Tôi muốn trở thành một phần của thứ gì đó lớn lao, vượt khỏi tầm với cũng như những tài sản mà đôi bàn tay mình có thể nắm giữ. Dù sợ rời bước khỏi con đường an toàn đến đâu đi nữa, tôi vẫn cần biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi dấn thân vào một địa hạt mới, nơi ẩn chứa khát vọng và những cơ hội bất tận. Điều đáng sợ nhất là tôi không phải là một doanh nhân thành đạt chuyên gây dựng rồi bán các công ty của mình. Tôi cũng không có một sự nghiệp lâu dài đủ để chứng minh rằng tôi thành công. Tôi cũng không có hàng triệu đô-la để yên tâm về tài chính. Tôi chỉ là một gã trai bình thường với 25 đô-la giắt túi và muốn chứng minh rằng ai cũng có khả năng làm thay đổi thế giới bất kể họ bao nhiêu tuổi, có địa vị ra sao hay đến từ nơi nào. Vì thế tôi đã sử dụng khoản tiền ít ỏi đó của mình để mở một tài khoản mới với hy vọng một ngày nào đó tôi có thể xây dựng được một ngôi trường. Tất cả những gì diễn ra sau đó đều là thành quả của bước đi đầu tiên này. Niềm tin vô hình đó đã lan ra, mở rộng sang các nền văn hóa và lục địa khác. Kể từ đó tôi đắm mình vào lĩnh vực giáo dục toàn cầu. Tôi tin rằng bất kể bạn xuất phát từ đâu trong đời, nó cũng không ảnh hưởng đến điểm đích mà bạn sẽ chạm tới. Và rằng, chẳng có công cụ nào có thể mở khóa khả năng một người có thể thay đổi vị trí của chính mình trong đời dễ dàng hơn là việc cho họ tiếp cận một nền giáo dục có chất lượng. May mắn là chúng ta có khả năng mang lại cho mọi trẻ em trên thế giới một nền giáo dục chất lượng ngay bây giờ. Chúng ta không tìm kiếm một loại vắc xin diệu kỳ hay dò tìm một nguồn tài nguyên bí ẩn nằm sâu dưới lòng đất mà nhiều khả năng là không tồn tại. Ngay lúc này, chúng ta đã có tất cả các công cụ cần thiết trong tay. Thế nhưng, vẫn có đến 57 triệu trẻ em không được đến trường và hàng triệu trẻ khác đang ngồi trong lớp học mỗi ngày, mà không thể đọc thông viết thạo. Giáo dục là một vấn đề không đơn giản, đòi hỏi một loạt các giải pháp phức hợp. Chẳng có giải pháp đơn giản nào cho vấn đề giáo dục trẻ em trên thế giới, song cuộc khủng hoảng giáo dục toàn cầu vẫn luôn là vấn đề có khả năng giải quyết nhất và là vấn đề nhân quyền quan trọng trong thời đại chúng ta. Nhờ biết rằng cuộc khủng hoảng này có thể giải quyết, tôi đã có được niềm hy vọng và mục đích sống. Tuy nhiên, không một cá nhân nào có thể tự mình giải quyết các vấn đề toàn cầu. Thay vào đó, chúng ta cần đến một nỗ lực tập thể, và mỗi người đều giữ một vai trò không thể thiếu trong nỗ lực ấy. Câu chuyện này sẽ cho bạn biết những gì sẽ xảy ra khi bạn thừa nhận rằng mình có thể trở thành một người hơn bản thân mình hiện tại, và rằng bạn không cần phải có những nguồn lực lớn lao mới tạo ra được sự khác biệt trên thế giới. Đó là câu chuyện về những gì có thể mở ra khi cảm hứng đến và bạn nhận ra rằng phần thưởng có được nhờ sống có mục đích vô cùng phong phú và lâu bền. Đó là câu chuyện về cuộc đời tôi (dù tôi đã thay đổi tên của một số nhân vật do yếu tố riêng tư), nhưng đây cũng có thể là câu chuyện của bất kỳ ai. Mỗi chương trong 30 chương của cuốn sách này đều được đặt tên bằng một câu chú. Những câu chú này là những tấm biển dẫn lối chỉ đường cho tôi khi phải đối mặt với những quyết định lớn nhỏ trong cuộc đời. Chúng đã trở thành những chân lý thiết yếu đối với tôi. Tôi viết chúng ra đây với hy vọng thúc đẩy, sẻ chia chúng với mọi người và chúng sẽ được áp dụng theo những cách thức giúp mỗi người vững bước trên hành trình của riêng mình. Mỗi câu chuyện có một ý nghĩa riêng nhưng khi được đặt cạnh nhau, chúng tạo nên một lộ trình mà tôi mong có thể giúp bạn biến ước mơ của mình thành hiện thực. Nếu một trong những câu chuyện ở đây nhen lên thứ gì đó trong bạn, hãy lắng nghe cảm giác thôi thúc mà lý trí thì khuyên nhủ phớt lờ còn con tim lại thôi thúc dấn bước. Sự khác biệt lớn nhất giữa người sống với những ước mơ của mình và những người ôm mộng là quyết định biến tia lửa động lực đầu tiên thành hành động ngay lập tức. Hãy bước bước nhỏ đầu tiên, rồi đi theo dấu chân mà bạn muốn để lại phía sau. Ai cũng có một động lực thực hiện một cuộc biến chuyển to lớn thôi thúc trong lồng ngực. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ giúp bạn tìm thấy động lực ấy của mình. Mời các bạn đón đọc Lời Hứa Về Một Cây Bút Chì của tác giả Adam Braun & Hải Đăng (dịch).