Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng

“Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là một tác phẩm văn học tiêu biểu của nhà văn nổi tiếng F. Scott Fitzgerald. Đây là cuốn sách mà tác giả gửi gắm cả cuộc đời của mình vào. Chắc hẳn chúng ta đều đã biết đến nhân vật trứ danh Gatsby, một nhân vật ám ảnh nhiều thế hệ bạn đọc trong tác phẩm kinh điển “Gatsby Vĩ Đại”. Bộ tiểu thuyết này được viết dưới ngòi bút của Fitzgerald. Cùng với Hemingway, Fitzgerald được xem là nhà văn tiêu biểu nhất của nước Mỹ nửa đầu thế kỷ XX. Ngoài “Gastby Vĩ Đại”, “Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là tác phẩm vững vàng nhất của nhà văn vào khoảng thời gian ông đã trưởng thành trong sự nghiệp văn học của mình. Cuốn sách nói nhiều đến vấn đề sự nghiệp và kế sinh nhai. Monroe Stahr không giống bất cứ nhân vật nào khác của Fitzgerald, đã bị lôi cuốn vào một nền kỹ nghệ mới mà chính tác giả là người đi đầu sáng lập. Cuốn sách được nhà văn viết vào lúc cuộc sống gặp nhiều khó khăn nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Bởi vậy, cuốn sách mang một tư tưởng sâu sắc, một ý nghĩa mà nhiều người cần phải suy ngẫm mới hiểu được. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn F. Scott Fitzgerald thường tự nhận mình là người con của “thời đại nhạc Jazz”. Cùng với người vợ xinh đẹp Zelda Sayre, ông sống một cuộc đời sôi động, tràn đầy tiệc tùng và luôn tiêu tiền như nước. Tuy vậy, trong một truyện ngắn, ông mở đầu: “Thế giới người giàu hoàn toàn khác biệt với bạn và tôi”. Và thế giới được coi là “khác biệt” với mình đó còn được ông miêu tả trong rất nhiều những tác phẩm như Đẹp và đáng nguyền rủa, Gasby vĩ đại. Cuộc sống chìm trong rượu và những đại tiệc xa xỉ của vợ chồng Fitzgerald đã thu hút sự hiếu kỳ của công chúng thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các sáng tác của ông khá đắt khách. Trong lá thư gửi cho một người bạn, nhà văn viết: “Một truyện ngắn có thể viết ngay đầu miệng chai nhưng với một cuốn tiểu thuyết, anh phải giữ cho đầu óc mình thật tỉnh táo và minh mẫn để có thể kiểm soát được tất cả các nhân vật như Ernest Hemingway đã làm được trong Giã từ vũ khí”. Tác phẩm: This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920) Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920) The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa/Đợi Của, 1922) Vegatable (Rau cỏ, 1923) The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925) Tender is the Night (Đêm dịu dàng/Cuộc Tình Bỏ Đi, 1934) Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng/Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng/Ông Hoàng Hollywood, 1941) The Crack-Up (Sụp đổ, 1945) Gatxbi Vĩ Đại Và Truyện Ngắn - Francis Scott Fitzgerald *** LỜI NGƯỜI DỊCH Fitzgerald là ai? Ông là người đã nhìn thấy rõ những nỗi vui buồn tế nhị nhất của con người, và đã biết dùng ngôn từ để mô tả những nỗi buồn vui đó một cách khéo léo, rõ ràng, tỉ mỉ nhất. Những hàng chữ ông đã viết ra, những cuốn truyện ông để lại cho nhân loại là “trầm tích” để con ngươi mãi mãi về sau này biết rằng những ngươi sống trước mình hàng chục năm, trăm năm, ngàn năm, triệu năm đã có những tình cảm như thế đấy. Cũng như Homer, Nguyễn Du, Shakespeare, Fitzgerald sẽ sống mãi với thời gian và không gian. Nhờ những đứa con đó mà nhân loại có thể tìm lại dấu vết của mình. Tìm lại dấu vết để có một sức sống liên tục, để suy tư về số kiếp và định mệnh của mình đồng thời toan tính một dự phóng cho tương lai. Nhà tài phiệt cuối cùng là cuốn truyện Fitzgerald đã gửi gấm cả cuộc đời mình trong đó. Ông đã viết nó vào lúc nghèo đói nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Những tư tưởng sâu sắc nhất, những tình cảm cuối cùng ông đã đặt trong cuốn truyện này để gửi lại cho hậu thế. Chúng ta đã đọc Đoạn trường tân thanh và đã khóc cho Nguyễn Du. Chúng ta hãy đọc thêm Nhà tài phiệt cuối cùng để khóc thêm cho Fitzgerald khốn khổ một giọt nước mắt. Như thế là công bằng, bởi vì những người đó đã chảy rất nhiều mồ hôi, nước mắt mới viết lên được các tác phẩm để lại cho chúng ta ngày nay. Trước khi vào chuyện xin quý độc giả lướt qua vài nét chính về cuộc đời của Fitzgerald. Scott Fitzgerald: cơn sốt của đời sống “Mẹ ơi, sau này con có tất cả mọi cái mà bây giờ con chưa có hay không?” Cậu Fitzgerald đã hỏi mẹ câu đó lúc cậu bốn tuổi, sau này cậu đã có tất cả và Fitzgerald cũng đã trả lại cho xã hội tất cả. Ông chính là tác già những cuốn “Gatsby Huy hoàng” “Đêm trường êm dịu” và trở thành nhà văn lớn của Mỹ quốc. Cuối cùng, ông đã vĩnh biệt cuộc sống trong cảnh thanh bần và quên lãng của thế nhân. Phải chăng cuộc đời thi nhân giống như ngôi sao lạ, ánh sáng huy hoàng của mình phát ra lại thiêu đốt chính cuộc đời của mình? Francis Scott Key Fitzgerald chào đời ngày 24-9-1896 tại thành phố Saint Paul thuộc tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Ông là con trai duy nhất trong gia đình. Trưức khi sinh ông, cha mẹ ông đã có hai con gái, nhưng cả hai đều chết vì bệnh đậu mùa. Sau này Fitzgerald kể lại: “Trước khi sinh tôi ba tháng thì hai chị tôi qua đời. Tôi có cảm tượng cuộc đời văn sĩ của tôi bắt đầu từ đó. Tôi không biết tại sao nhưng nhất định là như vậy”. Càng lớn lên cậu Fitzgerald càng tỏ ra là một học sinh xuất sắc, thông minh, ngoan ngoãn. Cận có rất đông bạn bè và được mời đi hết dạ hội này đến dạ hội khác. Các cô bạn gái thích ngồi nghe cậu kể chuyện hàng ngày không chán. Những kỷ niệm đó, Fitzgerald không bao giờ quên, và ông dã dùng để xây dựng nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của ông sau này. Năm 17 tuổi, Fitzgerald theo học ở đại học Princeton và bắt đầu viết bài cho những đặc san của nhà trường. Ông say mê viết suốt đêm và nhiều khi đến sáng lại liệng tất cả vào sọt rác. Trong lớp, Fitzgerald thường mơ mộng và nhiều khi cậu chỉ nghe loáng thoáng được câu sau này vị giáo sư văn chương hay nhắc lại nhiều lần: “Mọi việc đều tùy theo quan điểm của mỗi người. Thưa quý vị, vấn đề nào cũng có phương diện chủ quan của nó”. Túc cầu và binh nghiệp Càng ngày những bài của cậu viết trong đặc san của nhà trường càng được nhiều người chú ý, và chẳng bao lâu cậu trở thành một cây viết chính trong ban biên tập. Tuy nhiên ngoài công việc làm báo, còn một môn khác mà cậu cũng say mê không kém, đó là môn túc cầu. Không có buổi chiều nào Fitzgerald vắng mặt trên sân cỏ. Nhưng điểm đặc biệt nhất là chàng có cái nhìn thật quyền rũ, và một cách cư xử với bạn bè rất lịch thiệp, cởi mở. Sau khi tốt nghiệp ở đại học Princeton, Fitzgerald gia nhập quân đội với cấp bậc Chuẩn úy. Năm 1918, đơn vị của ông đóng ở tiểu bang Alabama, và tại đây lần đầu tiên Fitzgerald đã gặp Zelda, một thiếu nữ mà chàng cảm thấy tình yêu chân thành của mình và của nàng cùng hòa chung một nhịp với nhau. Hai ngươi có gương mặt giống nhau và nhiều người lầm tưởng họ là hai anh em ruột. Nhưng sự giống nhau giữa hai khuôn mặt chưa bằng sự giống nhau giữa hai tâm hồn của chàng và nàng. Chẳng bao lâu mối tình của cặp Fitzgerald - Zelda đã được cả thành phố biết, và mọi người đều ước mong cho họ mãi mãi được hưởng hạnh phúc. Những ngày lang thang ở Nữu ƯớcChiến tranh Âu châu kết liễu, Fitzgerald được giải ngũ, chàng liền lên đường đi Nữu Ước để tìm cư hội lập nghiệp. Trước đó chàng đã bàn chuyện hôn nhân với Zelda, nhưng nàng trả lơi: chỉ cưới nhau khi nào chàng kiếm được công ăn việc làm. Tới Nữu Ước, chàng ôm khư khư những bản thảo đi khắp nhật báo này đến nhật báo khác mà vẫn không kiếm được công việc gì. Cuối cùng chàng đành phải nhận làm công việc viết các tấm bảng quảng cáo trong một hãng quảng cáo với số lương 90 dollars một tháng. Chàng phải sống chui rúc trong một căn nhà ổ chuột hôi hám ghê gớm. Thơ, truyện ngắn, kịch của chàng đem đến các báo và nhà xuất bản, chẳng có chỗ nào thèm đăng hay in. Fitzgerald đã nhận được tất cả 225 lá thư của các nhật báo và nhà xuất bản trả lời từ chối không đăng hoặc in các tác phẩm của chàng. Chàng dán tất cả những lá thư đó lên vách và nằm suy nghĩ tìm hiểu lý do của sự thất bại. Cuối càng một an ủi nhỏ đã đến với Fitzgerald: chàng bán được một truyện ngắn cho tờ “Smart Set” với số tiến ba mươi dollars. Chàng liền khởi viết cuốn chuyện dài “This Side of Paradise”. Sau một năm trời cặm cụi sáng tác suốt ngày đêm, cuốn sách được hoàn thành và chàng tràn đầy hy vọng, hăng hái gởi tác phẩm đến nhà xuất bản Scribners. Một tháng sau đó, chàng nhận đirạc điện tín của nhà xuất bản báo tin bằng lòng in cuốn truyện nói trên. Ngày đó chàng sung sướng đến ngây ngất. Zelda đem đến cho chàng một chai rượu mừng chiến thắng và nàng nhận lời làm lễ cưới với chàng. Ngày 26 tháng 3 cuốn “This Side of Paradise” bắt đầu xuất hiện trong các tiệm sách. Ngày 3 tháng 4, lễ cưới giữa Fitzgerald và Zelda diễn ra tại nhà thờ Saint Patrick ở Nữu Ước. Từ trong nhà thờ bước ra, chàng thấy tương lai mở rộng trước mặt và say sưa trong men chiến thắng. Chàng đã được cả tình lẫn tiền: Zelda đi bên cạnh và cuốn “This Side of Paradise” đã được in lại lần thứ hai. Báo chí nói đến một Thiên tài bí mật xuãt hiện. Các nhà phê bình ví chàng với Byron và Kipling (là hai đại văn hào Anh quốc). Báo chí còn thần thánh hóa mối tình của chàng với Zelda, và cái tên Fitzgerald được mọi người nhắc nhở để tượng trưng cho tiền tài, danh vọng, tình yêu và tuổi trẻ. Sẵn tiền chàng thường cùng với bạn bè giắt đầy đô la trong túi đi nhậu nhẹt say sưa tối ngày sáng đêm. Có khi họ vào rạp hát và cười lớn trong khi cả rạp đang yên lặng, hay ngồi trên mui xe tắc xi đi dạo phố và nhiều hành động lố bịch khác nữa, nhưng dư luận đã dễ dàng tha thứ cho chàng. Ở nhà thì lúc nào cũng đầy những bạn bè, nào nhà văn, nhà thơ, kịch gia, tài tử, nhà báo... Ngày vui chẳng được bao lâuVới lối sống phung phí tiền bạc như thế, chẳng bao lâu Fitzgerald không còn được một đồng xu dính túi, Tháng 3-1922 cuốn “The Beautiful and Damned” xuất hiện với sự hoan nghênh của dư luận, nhưng tiền bản quyển chàng đã lấy trước và tiêu sạch cả. Chẳng những thế chàng còn nợ thêm nhà xuất bản một số tiền lớn nữa, và phải tiếp tục viết để trừ nợ dần. Chàng làm việc đến 12 tiếng một ngày và uống rượu liên miên, nhiều khi người ta thấy chàng say nằm ngủ ngay ở bãi cỏ trong công viên. Tình trạng ăn ngả thất thường và làm việc quá độ đó khiến ông mắc phải bệnh phổi, bệnh đau dạ dày và chứng mất ngả. Năm 1924 Fitzgerald và Zelda sang Âu châu. Ông thuê một biệt thự xinh xắn ở Côte D’Azur và tiếp tục viết tác phẩm “Gatsby huy hoàng”. Năm 1925 tác phẩm hoàn thành và xuất hiện một cách thành công rực rỡ đối với dư luận, nhưng về phương diện tài chánh không làm cho ông thỏa mãn. Sách bán được 25.000 cuốn, chỉ vừa đủ để trừ nợ những số tiền ông đã nhận trước của nhà xuất bản. Năm 1927 ông trở về Hollywood viết truyện phim nhưng sau đó ông lại bỏ sang Âu châu và sống lang thang ở Thụy Sĩ, một xứ mà ông nhận xét là “nhiều cái đã hoàn thành nhưng ít cái được bắt đầu”. Trong thời này Zelda bắt đầu bị đau thần kinh. Năm 1929 ông phải đưa vợ về Mỹ để lo chạy chữa. Zelda tiều tụy đến nỗi không còn đủ sức lượm một trái banh ten-nít. Fitzgerald không bao giữ thốt một lời than vãn và tận lụy săn sóc vợ. Đầu hàng định mệnhBệnh tình của Zelda càng ngày càng trở nên nặng và chẳng bao lâu trở thành điên thực sự. Fitzgerald, sống trong cảnh khốn cùng, ông viết truyện ngắn kiếm ăn lần hồi. Sức lực mỗi ngày một thêm kiệt quệ. Nhiều đêm trường ông thức trắng đêm để viết. Cũng có khi thức đến sáng mà không viết được chữ nào! Năm 1934 ông hoàn thành cuốn “Đêm trường êm dịu” nhưng số bán không được nhiều như ông mong mõi. Càng ngày ông càng uống rượu nhiều và bị ám ảnh bởi nợ nần, bệnh tật, ông viết một tiểu luận nhan đề là “Sự rạn vỡ” phán tách tình trạng của ông. Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 40 của ông, tờ New York Post có viết một bài mô tả ông như là một người khốn khổ đáng thương nhất trên đời. Ông đọc xong bài báo quá thất vọng ông toan tự tử bằng morphine nhưng được cứu thoát. Hãng MGM lại mời ông viết truyện phim, ông đi Hollywood và gặp nữ ký giả Sheilah Graham. Hai người trở nên bạn thân, ông tâm sự: “Nhà văn mà không viết được nữa thì phải trở thành điên dại”. Ngày 20-4-1940 sau khi cùng với Graham đi coi hát về, ông đang ngồi ở ghế nói chuyện về cuốn tiểu thuyết mới tên là “The last Tycoon” mà ông đã hoàn thành được một nửa. Bỗng nhiên như có một sức mạnh vô hình lôi kéo, đầu ông bật ngửa về phía sau và im lặng không nói nữa. Graham vội vàng lay gọi, nhưng Fitzgerald đã tắt thở. Ngoài trời, một vì sao sáng cũng vừa đổi ngôi trong lúc thiên tài rời bỏ cuộc sống. Tháng Ba năm 1948 nhằm ngày 11, nhà thương điên ở Highland phát hỏa. Zelda cùng chín bệnh nhân khác ở tầng chót bị chết cháy. Người ta an táng Bà cạnh mộ Fitzgerald ở Rockville. Đó chính là nơi an sống ngàn thu của hai tâm hồn giai nhân và thi sĩ vậy. Saigon ngày 30 tháng 3 năm 1974 Tuyết Sinh Mời các bạn đón đọc Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng của tác giả F. Scott Fitzgerald & Tuyết Sinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vịnh Mõm Đen
(Gồm 2 truyện dài là Vịnh Mõm Đen và Kolkhida) Tác giả: Konstantin Paustovsky Nguyên tác: Кара-Бугаз (1932), Колхида (1933) Dịch giả: Nguyễn Hải Hà NXB: Thanh Niên (1978) Ghi chú: Bản dịch đã được sửa phiên âm và hiệu đính khá nhiều lỗi dịch thuật, có tham khảo thêm bản tiếng dịch tiếng Anh. Nguồn text: bản chụp của bạn qingqing T ên tuổi nhà văn Xô-viết Konstantin Paustovsky từ lâu đã trở nên quen thuộc và được bạn đọc nước ta, đặc biệt là bạn đọc trẻ tuổi, ưa thích. Nếu bạn đã say mê văn học, và tìm thấy ở văn học một cuộc sống thật sự của ngày mai, một sức mạnh hướng dẫn đầy ân tình và đủ sức thuyết phục thì, có lẽ bạn sẽ khó có thể thờ ơ được khi thấy người bên cạnh mê mải với những «Bông hồng vàng» và «Truyện ngắn Paustovsky». Tác giả «Bông hồng vàng» và những truyện ngắn kỳ diệu đó đã tìm thấy phương châm sống và sáng tạo nghệ thuật của mình trong câu nói nổi tiếng của nhà thơ Ba Tư Saadi, mà ông đã trích dẫn trong bài «Một con người lớn lao» viết năm 1919 nhân dịp kỷ niệm M. Gorky 50 tuổi: «Tôi dùng 30 năm để chu du. Tôi đã sống nhiều ngày với những con người thuộc mọi dân tộc và đã sưởi ấm bên nhiều đống lửa trại. Tôi đã thấy chút ít vẻ đẹp lớn lao tràn đầy vũ trụ. Tôi đã dùng 30 năm để học và 30 năm cuối cùng để sáng tác. Sung sướng thay kẻ nào, sau khi sống cuộc đời như thế, đã để lại cho con cháu dấu ấn của tâm hồn mình» . Và, noi theo gương M. Gorky, Paustovsky đã ra sức trau dồi vốn sống, bởi vì theo ông: «Cuốn sách hay chỉ ra đời như kết quả của một cuộc đời đầy giá trị và sáng tạo» . Trước Cách mạng tháng Mười, Paustovsky đã từng đi lái xe điện, làm y tá trên các đoàn tàu cứu thương, làm người chọn phế phẩm ở xí nghiệp sản xuất đạn trái phá, học nghề đánh cá, rồi làm báo... Trong thời kỳ đó và trong những năm đầu của Cách mạng tháng Mười ông đã viết rất nhiều, nhưng trong nhiều năm các nhân vật của ông vẫn chơi vơi trong bầu trời lạnh lẽo của những cá nhân tự coi là phi thường nên đơn độc (tiểu thuyết Những đám mây lấp lánh (1929) và tập truyện Những người lãng mạn (viết từ năm 1916 đến năm 1923, in năm 1935). Họ cảm thấy mình «ở ngoài cuộc sống chung» , vì thế họ bị coi là «những con người tình cờ» đến sống giữa thế gian này. Nhưng không khí sôi nổi, xây dựng đất nước cuối những năm 20, đầu những năm 30, khi Liên Xô đang sải rộng đôi cánh công nghiệp hóa trên đà bay thần kỳ của những kế hoạch năm năm đã giúp cho ngòi bút của Paustovsky đi đúng hướng: ông không phải đi đâu xa để tìm tính chất lãng mạn cho ngòi bút của mình, vì chính nó đang hiện hiển sinh động ở ngay trong cuộc sống xây dựng lớn lao bề bộn đó. Sự ra đời của Kara-Bugaz  [1] và Kolkhida đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời sáng tác của Paustovsky và làm cho tên tuổi ông nổi tiếng khắp Liên bang. Trong Kara-Bugaz và Kolkhida Paustovsky muốn phản ánh tính chất lãng mạn và tinh thần anh hùng được thể hiện một cách sinh động trong cái bình thường mà không phải bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy. Là một vịnh biển huyền bí nằm bên một vùng sa mạc hoang vu, Kara-Bugaz – nơi có trữ lượng muối mirabilite phong phú nhất thế giới - đã gắn liền với những vụ đầu cơ, lường gạt, ăn trộm và khai thác một cách vô tổ chức của một số nhà tư bản dưới thời Nga hoàng. Kara-Bugaz, với hòn Đảo Đen - là nơi bọn Bạch vệ mưu toan đẩy hàng trăm tù binh Hồng quân vào bàn tay thần chết trước giờ phút bọn chúng rút chạy - đã nhắc nhở mọi người rằng mỗi tấc đất quê hương mà ta đang xây dựng hôm nay đã được giành giật, giữ gìn bằng xương máu của biết bao liệt sĩ. Còn Kolkhida, địa danh khởi nguồn từ Colchis - trong thần thoại Hy Lạp là nơi các dũng sĩ Hy Lạp với con tàu Argo dưới sự chỉ huy của Jason đã đến và tìm được ở đó thứ lông cừu vàng mà người xưa hằng mơ ước – lại là một vùng đầm lầy với khí hậu á nhiệt đới vô cùng khắc nghiệt và bệnh sốt rét ác hại đã cướp đi từng làng, thậm chí từng vùng. Nhưng với những con người giàu lòng tin ở sức mạnh của chính mình và của tập thể thì «Trong thiên nhiên quanh ta hầu như không có tai ương nào không thể đem sử dụng cho nhu cầu và lợi ích của con người» . Và với kỹ sư Prokofyev say sưa đi tìm ngọn nguồn của dầu lửa, với nhà địa chất Vasilyev đi thăm dò các vỉa than và phosphorite, với kỹ sư Davydov cả đời lăn lộn trên sa mạc, với những dự án phát triển sản xuất lớn, tới Khorobrykh trẻ tuổi quyết mang hết sức mình ra tìm cách làm con đường đi tới Kara-Bugaz, và với đội ngũ trùng trùng điệp điệp những con người say mê làm giàu cho Tổ quốc, Kara-Bugaz đã trở thành một khu liên hiệp công nghiệp hóa chất với một vành đai công nghiệp lớn bao quanh. Và đầm lầy Kolkhida đã biến thành một vùng đất trồng trọt phì nhiêu, xanh tốt, thành đất vàng đầu bạc tràn đầy khí trời và ánh nắng dưới bàn tay lao động cần cù sáng tạo của một lớp người dũng cảm ngoan cường, như Gabunia, người ký sự đào kênh tưới nước, như Kahiani, nhà cải tạo chất đất, như Pakhomov, người tìm cách làm khô cạn đầm lầy bằng phương pháp bồi lắng, như Nevskaya, nữ kỹ sư ươm cây nhiệt đới... Trong Kara-Bugaz và Kolkhida những chủ đề Tuổi trẻ, Khoa học và Ước mơ luôn luôn là ba người bạn đồng hành thân thiết. Là nhà văn của những chân trời xa, Paustovsky đã dẫn người đến với một Kara-Bugaz trong giai đoạn công nghiệp hóa Liên bang Xô-viết, với một Kolkhida đã thực sự trở thành một thiên nhiên mới đối với những người lao động tự do. Theo Paustovsky, bản chất của cách mạng là sáng tạo và ước mơ: «Tính lãng mạn đầy sinh khí đi cùng đường với cách mạng và xây dựng... Nếu không được ánh sáng lãng mạn chiếu rọi, chủ nghĩa thực dụng sẽ chết cứng» . Nhận thức văn học là bông hoa của lòng kiên trì và tình yêu cuộc sống, Paustovsky đã coi sáng tác của nhà văn là việc gom góp bụi vàng của người quét bụi để đúc nên bông hồng vàng. Với ý nghĩ đó, Kara-Bugaz và Kolkhida cũng chính là những bông hồng vàng xinh xắn mà Paustovsky đã đúc nên bằng những hạt vàng do ông kiên trì thu lượm trong đời đề tặng lại cho đời. Những tác phẩm hay bao giờ cũng làm cho người ta thêm yêu đời, chắp cánh cho tâm hồn bạn đọc và hướng dẫn bạn đọc đến với cái đẹp của thực tế cuộc đời. Xin thân ái gửi các bạn một sáng tác của Paustovsky - mà với nó Paustovsky có quyền vui sướng, vì theo ông: «Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường vào cái đẹp, của người biết đi tới tương lai, nơi nhân dân dốc hết sức hy vọng của mình để vươn tới» - và chúc các bạn lập nhiều chiến công. Hà Nội, tháng 6 năm 1978, Nhà xuất bản Thanh Niên     Ghi chú [1] Kara-Bugaz: nghĩa là Mõm Đen không bao giờ đã khát (tiếng Armenia). Chúng tôi xin đổi tên truyện này là Vịnh Mõm Đen (Nhà xuất bản và người dịch). ***   Mời các bạn đón đọc Vịnh Mõm Đen của tác giả Konstantin Paustovsky.
Đứa Con Muộn
Anatoly Georgyevich Alexin (tên thật là Goberman) sinh năm 1924 tại Moskva. Ông làm thơ đăng báo từ thuở bé, trải qua những năm Chiến tranh Vệ quốc chống phát xít trên công trường xây dựng ở ngoại ô thành phố Moskva và làm biên tập báo địa phương ở Ural, tốt nghiệp ngành Ấn Độ học tại Viện Đông phương học Moskva vào năm 1950. Năm 1950 cũng là năm Alexin cho ra mắt tập truyện đầu tay Ba mươi mốt ngày. Tập truyện được đón nhận tích cực và những tác phẩm tiếp sau đó, như Sasha và Shura(1956), Những cuộc phiêu lưu lạ thường của Seva Kotlov (1958), Tầng bảy đang phát thanh (1959), Kolia viết cho Olia, Olia viết cho Kolia (1965), Anh trai tôi chơi kèn clarinet (1968), Đứa con muộn (1976), Người thứ ba ở hàng thứ năm (1977), Evdokina dở hơi (1978), Những người phát tín hiệu và thổi kèn hiệu (1985)… đã đem lại cho ông danh hiệu “nhà văn của tuổi trẻ”. Alexin chủ yếu viết về lứa tuổi thiếu niên, về những cuộc đụng độ của họ với thế giới người lớn. Đó là những bức tranh cuộc sống thường nhật trong gia đình, trường học – những chốn thân quen gần gũi nơi các cô bé, cậu bé trải qua những thử thách đầu tiên của cuộc đời để lớn lên thành người. Đó cũng là những bức chân dung của thế hệ trẻ, cũng như của người Xô Viết nói chung các thập niên 1950 – 1980. Không ít sắc thái tươi sáng lãng mạn, lý tưởng, đồng thời có cả những gam màu tối dự báo về sự tha hóa đạo đức. Những câu chuyện giản dị, nhẹ nhàng, hài hước nhưng cũng đầy kịch tính, những miêu tả tinh tế về đời sống sinh hoạt cũng như tâm lý con người thời đại đã khiến tác phẩm của Alexin trở thành các bài học đạo lý sâu sắc không chỉ dành riêng cho trẻ em, mà cả cho người lớn. Alexin còn viết tiểu thuyết và kịch. Nhiều kịch bản phim được chính ông chuyển thể từ các truyện vừa và truyện ngắn của mình. Alexin nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có bốn lần được trao Giải thưởng Nhà nước của Liên Xô và của Liên bang Nga. Ông được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Giáo dục Liên Xô năm 1982. Năm 1993, ông rời Nga đến Israel định cư vì lý do sức khỏe, và từ năm 2011 sống ở Luxembourg cùng gia đình con gái. Tuy nhiên, nhà văn từng nói với báo chí: “Trái tim tôi nằm ở Moskva, tôi là nhà văn Nga…” Ngày 1 tháng 5 năm 2017, Alexin ra đi ở tuổi 93 và được đưa về quê hương chôn cất. Trái tim nhà văn Nga sẽ mãi mãi nằm lại ở Moskva đúng như di nguyện của ông.   Người dịch *** Anh trai tôi chơi kèn Clarinet Ngày 21 tháng Mười Hai Hầu như tất cả bọn con gái trong lớp tôi đều viết nhật ký. Bọn nó viết trong đó đủ thứ vớ vẩn. Chẳng hạn: “Vasia hôm nay hỏi mượn mình quyển vở Hình học. Hỏi một cách kín đáo và rất khẽ, để không ai nghe thấy. Để làm gì? Tại sao cậu ấy lại bí mật và hồi hộp như thế? Đã nửa đêm rồi, nhưng mình cứ nghĩ mãi về chuyện này và đến tận sáng vẫn không ngủ được”. Vasia chỉ đơn giản muốn chép bài tập về nhà môn Hình học mà thôi. Đúng là như thế, bởi cậu ta cũng đã chép của tôi. “Khẽ khàng, kín đáo!...” – Thử hỏi ai lại làm chuyện đó một cách ồn ào? “Hồi hộp!” – Làm sao mà thằng Vasia không hồi hộp được! Bọn con gái luôn thích gán cho những hành vi bình thường nhất của bọn con trai ý nghĩa đặc biệt nào đó. Tôi cũng là một cô bé, nhưng tôi hiểu là nhật ký phải được viết bởi những người xuất chúng. Không, tôi không nghĩ đó là tôi. Nhưng tôi có một người anh, anh ấy đang học năm thứ hai ở nhạc viện. Anh ấy sẽ trở thành một nhạc sĩ vĩ đại. Điều này là chắc chắn. Tôi không hoài nghi về việc đó! Và qua nhật ký của tôi, người ta sẽ biết anh ấy hồi thơ ấu như thế nào. Anh trai tôi chơi kèn clarinet. Tại sao lại không chơi vĩ cầm, hay dương cầm, như ông nội mong muốn. Ông nội mất khi tôi mới hai tuổi. Còn anh Leva lớn hơn tôi những năm tuổi, và ông nội đã bắt đầu dạy nhạc cho anh ấy. Từ nhiều năm tôi đã nghe nói, rằng ông nội tôi “chơi nhạc ở phoi-ơ[1]”. Tôi không biết “phoi-ơ” là gì, nhưng tôi thấy từ đó rất đẹp. “Phoi-ơ” – tôi phát âm rất rõ ràng. Nhưng khi lần đầu tiên vào rạp chiếu phim và nhìn thấy các nhạc công chơi đàn trong phoi-ơ, tôi thấy thương ông nội tội nghiệp của tôi lắm: Khán giả thì nói chuyện với nhau, nhai bánh kẹp, sột soạt giở báo, còn những nhạc công già trên sân khấu chơi một bản valse. Họ áp cằm vào đàn và nhắm mắt: Có thể là vì say mê, nhưng cũng có thể để không nhìn thấy các khán giả nhai bánh kẹp. Anh trai tôi sẽ không chơi nhạc ở phoi-ơ! Anh ấy sẽ biểu diễn trong những hội trường nhạc thính phòng sang trọng. Bây giờ anh ấy đang chuẩn bị cho cuộc thi của các nhạc công trình diễn kèn hơi. Tôi thấy tiếc là clarinet lại bị gọi là kèn hơi. Khi tôi nghĩ đến kèn hơi, không biết sao lại lập tức nhớ đến các đám tang và đội kèn đồng đi theo sau quan tài. Lẽ ra kèn clarinet phải được gọi bằng một cái tên khác... Nhưng biết làm sao được! Tôi học trung bình, nhưng điều này không có ý nghĩa gì cả. Tôi quyết định hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình không phải cho bản thân, mà là cho anh trai. Các em gái của vĩ nhân đều như thế. Họ thậm chí còn không lấy chồng. Và tôi cũng không lấy chồng. Không đời nào! Không bao giờ!... Đúng thế đấy. Leva cũng biết về điều này. Ban đầu anh ấy phản đối, nhưng sau đó đã đồng tình. Chúng tôi đã thỏa thuận, rằng khác với tôi, bản thân Leva thì phải có quyền cho cuộc sống riêng của mình, nhưng chỉ khi đã đạt được những thành tựu âm nhạc lớn. Bởi Leva sẽ phải thuộc về nghệ thuật một cách trọn vẹn. Anh ấy sẽ không có thời gian cho những công việc và mối quan tâm bình thường của con người. Mọi thứ đó sẽ do tôi đảm nhiệm. Thực ra tôi từ chối cuộc sống riêng của mình là vì anh trai! Và vì thế những điểm Ba[2] của tôi chẳng có nghĩa lý gì cả. Tiếc là bố và mẹ lại chẳng hiểu điều đó. – Con sắp đặt cũng không tồi. – Mẹ nói – Nghĩa là, Leva sẽ học, từ sáng đến tối chơi clarinet, tu dưỡng, chuẩn bị cho các kỳ thi, còn con sẽ dâng hiến cả cuộc đời mình cho anh con. Con thật toàn có ý nghĩ điên rồ! – Thế có nghĩa em gái của Chekhov cũng là điên rồ sao? – Tôi vặc lại. – Thôi… đủ rồi đấy! Mẹ ngán ngẩm khoát tay. Khi không nói gì được nữa, thì dễ hơn cả là khoát tay. Nói chung, bản thân tôi cũng có lỗi: Không nên quá cởi mở với cha mẹ mình – họ nhất định sẽ lợi dụng sự cởi mở đó để chống lại mình. Nhưng rồi khi nào người ta viết sách về Leva, những đoạn nhật ký của tôi sẽ được đưa vào trong đó. Cách đây không lâu tôi có đọc một cuốn sách viết về một nhà thơ vĩ đại. “Em gái nhà thơ” – dưới một bức ảnh có ghi như thế. Còn dưới ảnh của tôi người ta sẽ viết: “Em gái của nghệ sĩ kèn clarinet”. Hay thế này thì hơn: “Em gái của nhạc sĩ”. Đó sẽ là phần thưởng khiêm tốn dành cho tôi. Đấy, vì sao mà tôi viết nhật ký. – Bố chưa bao giờ nghe nói đến cái nghề như vậy: Nghề em gái của nghệ sĩ clarinet! – Có lần bố tôi nói với tôi. Chao, cả ông cũng không phải lúc nào cũng hiểu tôi. Thật không may là chẳng phải ai cũng biết clarinet là nhạc cụ quan trọng như thế nào. Chính nó khởi đầu cho bản giao hưởng số năm của Tchaikovsky. Chẳng lẽ nhiều người biết chuyện đó sao? “Nhân vật không nổi bật của dàn nhạc” – Leva nói như thế về clarinet. Anh ấy thậm chí còn mừng vui vì clarinet là nhạc cụ “không nổi bật”. Cả anh ấy nữa, có lẽ cũng muốn không nổi bật. Tính anh ấy thế. Nhưng tôi không để chuyện đó xảy ra! Mùa hè, cả nhà tôi vang lừng tiếng kèn clarinet. Nhưng nhiều người không biết những âm thanh đó phát ra từ cửa sổ nhà ai. Tôi giải thích rằng đó là anh trai tôi chơi kèn. Thậm chí khi trời lạnh tôi cũng mở toang cửa sổ để mọi người không quên tiếng kèn clarinet của anh Leva. Tôi kể cho tất cả hàng xóm rằng Leva đang chuẩn bị cho cuộc thi âm nhạc. Cứ mặc mọi người bảo tôi không khiêm tốn: Tôi sẵn sàng chịu mọi đau khổ vì anh trai mình! Nói chung, từ lâu tôi đã quyết định viết nhật ký. Nhưng tôi không muốn bắt đầu nó một cách đơn giản, mà phải bắt đầu từ một ngày trọng đại nào đó. Và ngày hôm đó đã đến! Hôm nay, trước khi hồi chuông đầu tiên đổ, anh học sinh lớp Mười Robert, có biệt danh là “Robert – nhà tổ chức” túm lấy tôi ở chỗ gửi áo khoác. Tác phong của anh ấy là thế, không chặn lại, không nắm lấy tay ai anh ấy đang cần gặp, mà là túm lấy. Túm lấy bất cứ chỗ nào lọt vào tay anh ấy: tay, vai, thậm chí là cổ. Bạn tưởng tượng được không? Anh ấy túm lấy tay áo tôi. – Em thu xếp mời anh em nhé? Cho buổi dạ hội của học sinh năm cuối! Robert chỉ nói được câu đầu là bình thường, theo cách của con người, còn sau đó anh ta chẳng còn thời gian để giãi bày. Anh bắt đầu nói liến thoắng, bỏ qua cả các động từ, cứ như đang đọc điện tín vậy. – Dạ hội mừng năm mới! Phần một – thơ và nhạc cổ điển. Phần hai – Jazz và khiêu vũ. Ta không có nhạc cổ điển. Mọi hy vọng trông vào anh trai của em. Tôi lập tức hình dung, rằng trong đời sẽ không có thêm một cơ hội tuyệt vời như thế để có thể vinh danh khắp trường. Tôi không thể đi báo cho mọi người rằng anh trai tôi học ở nhạc viện, nhưng bây giờ thì mọi người đều lập tức biết ngay! Tuy nhiên, tôi quyết định làm khó Robert một tí, để anh ta không nghĩ rằng có thể có được anh tôi một cách dễ dàng như thế. – Anh biết không? – Tôi bắt đầu – Anh em đang chuẩn bị cho cuộc thi dành cho các nhạc sĩ trình diễn… Tôi bỏ qua các từ “nhạc cụ bộ hơi”. – Dạ hội dành cho học sinh lớp cuối, chỉ cho lớp Mười thôi! – Robert nói – Em mới học lớp Bảy. Nhưng có hai vé cho em đây! Cho em và cho anh trai em. Em thu xếp được không? Bọn bạn gái của tôi sẽ thế nào khi chúng nó biết tôi được mời đến dự dạ hội của học sinh lớp cuối? Điều mà chúng nó chỉ có nằm mơ! Một giấc mơ hạnh phúc nhất!... Mời các bạn đón đọc Đứa Con Muộn của tác giả Anatoly Alexin.
Canh Bạc Hôn Nhân
Một thập kỷ trước, Hầu tước Bourne bị chính kẻ từng nâng đỡ mình chiếm đoạt hết gia sản, chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Thời gian sau, anh gây dựng lại cơ ngơi và trở thành đối tác của một sòngbạc nổi tiếng nhất London. Nhưng con người lạnh lùng đó vẫn nuôi ý định trả thù và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để lấy lại tài sản từng mất, kể cả việc kết hôn với quý cô Penelope Marbury - người có phần thừa kế gồm cả gia sản của anh. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đầy toan tính đó cuối cùng lại biến thành một cuộc hôn nhân của tình yêu thật sự, giúp Bourne tìm được người con gái luôn sẵn lòng đặt cược tất cả - kể cả trái tim cô - để bảo vệ tình yêu dành cho anh. *** Sarah MacLean sinh ngày 17 tháng 12 năm 1978 tại Rhode Island, nước Mỹ. Bà là một cây bút đầy tài hoa chuyên về tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, đồng thời cũng là một trong các tác giả của những cuốn sách ăn khách nhất do New York Times và Romantic Times bình chọn. Bà tốt Smith năm nghiệp 1978 và có chuyên tại bằng tiểu ngành thạc bang sĩ Lịch chuyên Rhode sử ngành Nhân loại học tại Đại học Harvard. Hiện tại bà đang sống tại New York cùng chồng, con gái và sở hữu một bộ sưu tập những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hết sức đồ sộ. Sarah có niềm đam mê với lịch sử và văn học lãng mạn từ khi còn rất nhỏ. Bà từng dành hầu hết thời gian trong suốt thời niên thiếu vùi mình trong các thư viện sách. Đó cũng chính là nơi đã khơi dậy trong bà nhiệt huyết với sự nghiệp viết lách, để sau đó trở thành một trong những tiểu thuyết gia lãng mạn nổi tiếng thế giới. Khi rảnh rỗi, bà thích du ngoạn khắp mọi miền đất nước, tìm hiểu về các nền văn hóa, giáo dục, và khám phá thế giới xung quanh dưới con mắt của một lữ khách đầy lạc quan, yêu đời. Các bài viết của bà thường xuyên xuất hiện trên chuyên mục của New York Times Book Review, Washington Post và Parents Magazine. MacLean tự nhận mình là người theo chủ nghĩa bình quyền, và đó cũng chính là phương châm xuyên suốt các tác phẩm của bà, đan xen với dòng chảy của những điều lãng mạn, ngọt ngào. Bà là một trong các tác giả ăn khách nhất do New York Times, USA Today và Romantic Times bình chọn. Cuốn tiểu thuyết đầu tay - 9 tuyệt chiêu tóm kẻ phóng đãng - ra đời ngay sau khi Sarah tốt nghiệp đại học đã giúp tên tuổi của bà trở nên quen thuộc với nhiều độc giả khi được dịch ra mười thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm này thuộc series Love By Numbers, cùng hai tác phẩm 10 bí quyết chinh phục trái tim và 11 tai tiếng hạ gục công tước đã được Bách Việt xuất bản vào năm 2013. Hãy thử cầm trên tay những tác phẩm của Sarah MacLean để cảm nhận được ma lực từ một cây viết đầy trí tuệ và tài hoa. Hãy bước vào thế giới muôn hình vạn trạng trong tiểu thuyết của bà để thấu hiểu những giá trị nhân văn sâu sắc qua từng trang sách...   Các tác phẩm đã và sẽ được BachvietBooks giới thiệu tới độc giả: - 9 Tuyệt Chiêu tóm kẻ Phóng Đãng - Sarah Maclean (2013) - 10 Bí quyết chinh phục trái tim - Sarah Maclean (2013) - 11 Tai Tiếng hạ gục Công tước - Sarah Maclean (2013) - Canh bạc hôn nhân (2014) - Chàng Có Thể Hủy Hoại Em Không? (2014) - Đam Mê và Thù Hận - Sarah MacLean (Quý II/2015) - Sự Trả Thù Của Quý Cô *** London Mùa đông, 1821 Lá tám rô đã hủy hoại cuộc đời anh. Nếu nó là con sáu, anh còn có thể cứu lấy mình. Hoặc giả như nó là con bảy, anh sẽ ra khỏi nơi đó với tài sản nhân ba. Nhưng nó lại là con tám. Hầu tước Bourne trẻ tuổi nhìn lá bài bay qua tấm vải len xanh lá và lướt đến chỗ kế bên lá bảy chuồn nằm lật ngửa trên bàn, như đang trêu tức anh. Mắt anh đã nhắm lại từ lúc nào, luồng không khí hết sức khó chịu ồ ạt thoát khỏi căn phòng. Hai mươi hai. Hơn một điểm so với hai mươi mốt mà anh đặt cược. Nhưng anh đã đặt cược mọi thứ. Những tiếng thở gấp trong phòng vang lên khi anh vẫn giữ nguyên chuyển động của lá bài bằng một đầu ngón tay - trong lúc những người ngoài cuộc đứng xem nỗi kinh hoàng với vẻ thích thú mãnh liệt hiện rõ trên mặt những kẻ vừa thoát chết trong gang tấc. Tiếng xì xào bắt đầu vang lên. “Ngài ấy cược hết à?” “Tất cả những thứ không nằm trong quyền thừa kế.” “Trẻ quá nên mới hành động thiếu khôn ngoan như vậy.” “Đủ chín chắn rồi chứ, không gì khiến một người đàn ông trưởng thành nhanh hơn việc này.” “Cậu ta thật sự mất toàn bộ mọi thứ sao?” “Mất hết.” Anh mở mắt ra, tập trung vào người đàn ông ngồi phía bên kia bàn, bắt gặp cái nhìn u tối, lạnh lẽo anh đã biết từ lâu. Tử tước Langford từng là một người bạn và hàng xóm của cha anh - Hầu tước Bourne đời trước. Ông ta được cha anh cẩn thận lựa chọn làm người giám hộ cho đứa con trai và người thừa tự duy nhất của mình. Sau cái chết của cha mẹ anh, Langford chính là người đã bảo vệ danh vị của Hầu tước Bourne, làm cho tài sản của anh tăng lên gấp mười lần, và bảo đảm cho nó phát triển thịnh vượng. Rồi chiếm lấy nó. Hàng xóm thì có thể. Bạn thì đừng hòng. Cảm giác bị phản bội chạy vụt qua chàng hầu tước trẻ. “Ông cố tình làm thế.” Lần đầu tiên trong hai mươi mốt năm, anh nghe thấy giọng mình có phần trẻ người non dạ. Và anh ghét điều đó. Đối thủ của anh cầm tờ giấy có chữ ký ở chính giữa bàn lên, mặt không chút cảm xúc. Bourne kìm nén thôi thúc muốn cau mày trước nét ký nguệch ngoạc một cách kiêu ngạo của mình ở bên kia trang giấy trắng - bằng chứng cho thấy anh đã mất tất cả. “Đó là lựa chọn của cậu. Cậu đã chọn đặt cược nhiều hơn khả năng thua cuộc của mình.” Anh đã bị lừa. Langford dồn ép anh hết lần này đến lần khác, thúc ép anh nhiều và nhiều hơn nữa, để anh thắng cho đến khi anh không thể hình dung được có lúc mình sẽ thua cuộc. Đó là một mánh khóe cũ rích, nhưng Bourne còn quá trẻ, nên không thể nhận ra. Quá hăm hở. Bourne ngước lên nhìn chằm chằm Langford, vẻ tức giận và bực bội làm anh nghẹn lời. “Và ông chọn cách đoạt lấy nó.” “Không có ta thì đừng mơ có gì để chiếm đoạt”, người đàn ông lớn tuổi nói. “Cha ơi”, Thomas Alles, con trai của tử tước và là bạn lâu năm nhất của Bourne bước tới, giọng run run, “Đừng làm thế”. Langford ung dung gấp tờ giấy có chữ ký lại và đứng lên khỏi bàn, phớt lờ con trai mình. Thay vào đó, ông ta phóng cái nhìn lạnh lùng về phía Bourne. “Cậu nên cảm ơn ta vì đã dạy cho cậu một bài học đáng giá khi ở độ tuổi còn trẻ như vậy. Thật không may là bây giờ cậu chẳng còn gì ngoài bộ quần áo trên người và một trang viên trống rỗng.” Tử tước liếc nhìn chồng tiền trên bàn - phần còn lại của số tiền thắng cuộc từ buổi chiều tối. “Thế này nhé, ta sẽ để lại cho cậu số tiền kia, được không? Một món quà từ biệt, nếu cậu muốn. Xét cho cùng, cha của cậu sẽ nói sao nếu ta bỏ đi mà không để lại gì cho cậu?” Bourne bật dậy khỏi ghế, đẩy nó lùi ra sau. “Ông không đủ tư cách để nói về cha tôi.” Langford nhướng một bên mày trước việc biểu lộ cảm xúc không kiềm chế ấy, và để sự im lặng bao trùm một lúc lâu. “Cậu biết đấy, ta tin rằng rốt cuộc thì mình sẽ lấy số tiền đó thôi. Và cả tư cách hội viên của cậu ở câu lạc bộ này. Đến lúc cậu phải rời đi rồi.” Má Bourne đỏ bừng khi thấm thía từng từ ngữ kia. Tư cách thành viên câu lạc bộ của anh. Đất đai, người hầu, ngựa, quần áo của anh, tất cả mọi thứ. Toàn bộ ngoại trừ một căn nhà, vài mẫu đất, và một tước hiệu. Một tước hiệu giờ đây trở thành nỗi nhục nhã. Tử tước nhếch mép cười nhạo báng và búng một đồng ghi-nê qua không trung về phía Bourne. Theo bản năng, anh vươn tay ra bắt lấy đồng tiền vàng khi nó lóe lên trong ánh đèn sáng rực của căn phòng đánh bài ở White. “Hãy chi tiêu một cách khôn ngoan nhé chàng trai. Nó là thứ cuối cùng cậu có được từ ta.” “Cha à”, Tommy thử lần nữa. Langford chĩa mũi dùi sang cậu. “Không nói thêm một lời nào nữa. Ta sẽ không để ngươi cầu xin cho nó.” Người bạn lâu năm nhất của Bourne nhìn anh buồn bã, giơ bàn tay ra dấu lực bất tòng tâm. Tommy cần cha của mình. Cần tiền của ông ta. Sự chu cấp của ông ta. Bourne đã không còn những thứ đó cho riêng mình. Lòng căm thù bùng lên mãnh liệt và dữ dội trong giây phút ngắn ngủi, trước khi nó biến mất và bị dập tắt bởi vẻ kiên quyết lạnh lùng. Bourne bỏ đồng tiền vào túi rồi quay lưng lại với giới quý tộc của anh, câu lạc bộ của anh, thế giới của anh, và cuộc sống mà anh đã luôn quen thuộc. Thề sẽ báo thù. Mời các bạn đón đọc Canh Bạc Hôn Nhân của tác giả Sarah MacLean.
Trân Châu Cảng
*“Trân Châu cảng” - ngày 07/12/1941 - một sự kiện kinh hoàng cho nước Mỹ và cả thế giới khi không quân Nhật bất ngờ tấn công vào Trân Châu cảng. Điều này đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ “ngây thơ vô tội”…và là sự khởi đầu đầy vinh quang của nước Mỹ. *Với bút pháp thần kỳ, mang đậm nét nhân văn, Randall Wallace sẽ mang đến cho độc giả sự đồng cảm sâu sắc về nỗi đau, nỗi mất mát lớn lao về tinh thần lẫn thể xác mà chiến tranh để lại cho nhân loại. *“Trân Châu cảng” - một câu chuyện bất ngờ gây chấn động, một thất bại thảm hại, một chiến thắng anh dũng và vượt trên tất cả là sự gắn kết một chuyện tình tuyệt đẹp! *** Trận Trân Châu cảng là một chiến thắng thể hiện rõ tinh thần và khả năng của quân nhân Nhật Bản, đặc biệt là hải quân và không quân. Ngoài ra nó cũng cho thấy kỹ nghệ phục vụ chiến tranh của Nhật Bản rất phát triển, thể hiện rõ qua số lượng tàu sân bay cao hơn cả của Mỹ và Anh cộng lại vào thời điểm đó. Tuy nhiên, tham vọng quá lớn của giới quân phiệt đã đẩy Nhật Bản đến thất bại cay đắng và như giới chuyên môn đã nhận định, việc lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến là sai lầm chiến lược dẫn đến thất bại của phe trục trong Thế chiến 2. Cuốn sách tổng hợp rất nhiều thông tin chi tiết, bố cục hợp lý, là một tài liệu tham khảo tốt. *** Mùi thơm ngọt ngào của mảnh gỗ thông bay đến mũi Danny Walker. Rafe McCawley đã khoan hai lỗ nhỏ bằng đầu đinh rồi luồn sợ dây thừng qua. Sau đó, hai thằng bé cột chặt sợ dây ngang thắt lưng trông cho giống dây an toàn thường thấy trên máy bay. Hai đứa đang ngồi trong một thùng bia cũ bằng gỗ. Miệng thùng chẳng to hơn cái thố đựng nước là mấy, tuy nhiên cũng đủ rộng cho hai thân hình mỏng dính gầy gò. Rafe và Danny mới 10 tuổi đầu. Chúng ở trên mảnh đất vốn là một thái ấp cũ. Lúc này, nước Mỹ đang trong cơn đại khủng hoảng của những năm 1930. Nhưng hai thằng bé này sang lắm! Có máy bay riêng! Một chiếc máy bay có hai tầng cánh, thuộc loại nhỏ dùng để rải phân bón ngoài ruộng - một phương tiện lao động thường thấy ở khắp miền Nam nước Mỹ. Cha của Rafe mang chiếc máy bay cũ kỹ ấy về nhà. Thân máy bay bị bể. Máy móc hư nát, không thể dùng được. Ông tháo tung cỗ máy cồng kềnh ấy ra để lấy những phần phụ tùng còn tận dụng được. Lúc này, cánh máy bay là những mảnh gỗ, giẻ rách và đống dây kẽm gai rỉ sét. Quạt gió là cái cánh quạt gẫy nát ai đó vất sau góc vườn nhà. Rafe lượm về lắp cho máy bay của mình. Còn kính chắn gió của máy bay được làm bằng tổ chim sẻ. Khi còn nguyên vẹn, máy bay này đã từng lướt nhẹ trên bầu trời Tennessee. Bây giờ trong tâm trí của hai thằng bé sống nơi thôn dã, chiếc máy bay này là thứ tàu lượn bay nhanh nhất và xa nhất thế giới. Rafe hét lên: - Quân địch đang tới từ phía cánh trái kìa! Nó giả vờ nghiêng ngửa, ngả vai vào người Danny. Tuy tay thằng Rafe gầy gò, chỉ có da bọc xương, nhưng thân hình khá cao ráo. Đặc biệt, nó có cặp mắt nhanh nhẹn của một phi công. Mặc dù mới bước sang tuổi 11 nhưng Danny cũng nhận ra Rafe có tố chất thiên bẩm qua ánh mắt của bạn mình. Không hề có sự sợ hãi, tức giận. Chỉ là ánh mắt rất tinh tường và quả quyết. - Tớ thấy chúng rồi! - Danny trả lời. Trong khi ấy, thằng Rafe đá lưỡi kêu rừ rừ tạo Rafe âm thanh gầm rú của những chiếc máy bay tưởng tượng. Vừa la lối, và vừa cầm chiếc chổi cũ lượn tới lượn lui như thể nó đang lướt đi trong không trung vậy. - Danny! Hạ chúng ngay! - Được rồi! Rafe.. pằng pằng.. Thằng Danny mím môi phát ra âm thanh giả tiếng súng máy đang nã đạn. Danny thích cái cách Rafe gọi tên nó. Nghe âu yếm như hai người anh em ruột gọi nhau vậy. Rafe là người duy nhất trên đời này gọi nó là Danny. Trước đây, mẹ nó cũng gọi nó là Danniel. Nhưng bà đã chết khi Danny mới lên 4 tuổi. Cái từ đẹp đẽ nhất mà cha nó thường gọi nó chỉ đơn giản là nhóc tỳ mà thôi.   Mời các bạn đón đọc Trân Châu Cảng của tác giả Randall Wallace.