Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman. CÓ BAO GIỜ BẠN TỰ HỎI... Ấn tượng bạn để lại trong lòng cấp trên của bạn như thế nào? Bạn có nên tin vào những điều cấp trên đã hứa hay không? Bạn đang nuôi dưỡng mối quan hệ với một khách hàng tiềm năng, hay đang lãng phí thời gian của bản thân? Liệu các thành viên trong nhóm có hiểu những gì bạn nói hay không? Làm thế nào để biết rằng anh ấy/cô ấy thật sự ủng hộ ý kiến của bạn? Khán giả đang chán ngán, thất vọng, hay thích thú với những gì bạn đang trình bày? Lời đáp cho những câu hỏi trên đang ở ngay trước mắt bạn. Bạn biết đấy, chính ngôn ngữ là phương tiện được dùng để chuyển tải thông điệp trong công việc cũng như trong giao tiếp thường ngày. Tuy nhiên, có những điều không phải lúc nào cũng được nói ra bằng ngôn ngữ. Chẳng hạn, cấp trên của bạn nói rằng cô ấy sẽ xem xét việc thăng chức cho bạn, nhưng trong khi nói, cô ấy lại khoanh tay và mỉm cười gượng gạo. Rõ ràng hai thông điệp mà cô ấy đưa ra hoàn toàn trái ngược nhau. Tương tự, nếu một khách hàng nói với bạn rằng ông ấy không quan tâm tới chuyện mua xe mới, nhưng ánh mắt ông ấy lại không rời bản hợp đồng trên bàn thì điều đó nghĩa là ông ấy thực sự muốn có một chiếc xe mới. Dấu hiệu của giao tiếp không lời thường tiết lộ những động cơ và cảm xúc ẩn chứa bên trong như sự sợ hãi, lòng trung thực, niềm vui, sự do dự, nỗi thất vọng và hơn thế nữa… Những cử chỉ nhỏ nhặt nhất, như cách đồng nghiệp của bạn đứng hoặc bước vào phòng cũng cho thấy sự tự tin, thận trọng hoặc độ tin cậy nơi họ. Rồi, cách bạn ngồi, đứng hoặc cách bạn nhìn người khác cũng hé lộ phần nào trạng thái cảm xúc trong con người bạn. Bạn là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Ngay từ lúc lọt lòng, tôi đã là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Có thể bạn sẽ ngạc nhiên về điều này. Nhưng, giống như tôi – bạn cũng là một chuyên gia như vậy. Khi còn là trẻ sơ sinh, chúng ta đã biết biểu lộ nhiều nét mặt khác nhau để thể hiện tâm trạng và nhu cầu của bản thân. Chúng ta biết chỉ đúng những vật mình thích, biết kết nối với mẹ qua ánh mắt yêu thương. Lớn hơn một chút, chúng ta biết tiếp thu những cử chỉ và biểu hiện phù hợp với truyền thống văn hóa trong gia đình. Rồi khi trưởng thành, chúng ta học cách chọn lọc (và che đậy) những dấu hiệu mình muốn hoặc không muốn. Tất cả những điều đó được thực hiện một cách vô thức. Đối với tôi, từ khi tôi theo học chương trình cao học và chuẩn bị trở thành nhà trị liệu thì việc thực hiện những dấu hiệu không lời đã không còn là vô thức nữa. Tôi bắt đầu để ý tới các cử chỉ mà mình thể hiện hoặc bắt gặp trong giao tiếp. Việc tham gia giảng dạy chương trình Ngôn ngữ Thần kinh học và Phương pháp Erickson trong thôi miên và liệu pháp tâm lý đã dạy tôi cách quan sát những chuyển động mắt, những biểu hiện trên gương mặt và những cử chỉ cơ thể nhằm khám phá sự đồng thuận hay phản kháng ẩn chứa bên trong chúng. Khi tôi bắt đầu tư vấn cho nhiều tổ chức thương mại và diễn thuyết trước đông đảo khán giả trong và ngoài nước, tôi chú ý hơn tới ngôn ngữ cơ thể mình, sao cho mọi cử chỉ, tư thế, và biểu hiện của tôi đều phản ánh chính xác thông điệp mà tôi muốn truyền tải. Sau này, tôi truyền lại ý tưởng và kỹ thuật đó cho các nhân viên và các nhà quản lý mà tôi đào tạo. Trước khi cho ra đời cuốn sách này, tôi đã tìm hiểu hầu hết những tiến bộ gần đây trong nhiều lĩnh vực. Các nhà nghiên cứu thuộc ngành tâm lý học, thần kinh học, y học, xã hội học, nhân chủng học và giao tiếp học đã chia sẻ với tôi phương pháp và suy nghĩ của họ trong lĩnh vực giao tiếp không lời. Nhờ những đóng góp ấy, tôi hiểu hơn vì sao và làm thế nào ngôn ngữ hình thể lại có được sức mạnh kỳ diệu đến như vậy. Ngôn ngữ hình thể nơi công sở Hiểu rõ vai trò của ngôn ngữ hình thể trong các hoạt động thường ngày là việc hết sức quan trọng. Rất nhiều nhân viên, nhà quản lý chỉ vì không đọc được dấu hiệu ngôn ngữ cử chỉ của đối phương, hoặc không nhận ra sự khác biệt về văn hóa khi đưa ra cử chỉ, khiến cho mọi nỗ lực trong mối quan hệ hai bên bị đổ vỡ. cũng như sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp, đặc biệt là trong môi trường công sở. Khi nắm vững các kỹ năng được trình bày ở đây, bạn sẽ không chỉ đọc chính xác các dấu hiệu không lời từ đối phương, mà còn biết sử dụng ngôn ngữ hình thể một cách hiệu quả, nhờ đó đạt được lợi thế cạnh tranh trong đàm phán. Và điều này có thể áp dụng vào bất cứ lĩnh vực nào! Thực tế cho thấy, thành công trong công việc gắn liền với trình độ và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hình thể. Những ví dụ sau sẽ chứng minh rất rõ điều ấy. Khả năng lãnh đạo Vào cuối Thời đại Công nghiệp (Industrial Age), hiệu quả của lối quản lý mệnh lệnh và kiểm soát đang suy giảm mạnh. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo (từ các thành viên ban quản trị cấp cao đến các tổ trưởng sản xuất) đều phải tìm cách lãnh đạo cấp dưới thông qua ảnh hưởng của mình hơn là dựa vào quyền hành từ chức vụ. Ảnh hưởng đó có được nhờ vào hai khả năng sau: ■ Hiểu tâm lý nhân viên, biết lắng nghe những gì họ nói và biết đọc những thông điệp không lời mà họ thể hiện. ■ Cử chỉ và lời nói phải đồng bộ. Điều này có nghĩa là ngôn ngữ hình thể phải phù hợp với lời nói để từ đó củng cố nội dung muốn truyền đạt thay vì phá hỏng nó. Giáo dục Ngôn ngữ cử chỉ của giáo viên là nhân tố quan trọng thúc đẩy học sinh hoàn thành bài tập về nhà. Nghiên cứu ở các nhóm học sinh tiểu học, trung học và đại học cho thấy, ở mọi lứa tuổi khác nhau, học sinh đều có thiện cảm với những giáo viên hay sử dụng cử chỉ thân thiện hơn, như giao tiếp bằng mắt, gật đầu, hướng người về trước, mỉm cười… Việc phát huy những cử chỉ này ở giáo viên sẽ giúp học sinh có thêm động lực học tập, các em sẽ yêu thích giờ học hơn và sẵn sàng nghe theo lời thầy cô giáo. Bán hàng Khi một nhân viên bán hàng gặp gỡ khách hàng tiềm năng, khách hàng sẽ đánh giá nhân viên ấy dựa vào vẻ ngoài và cách cư xử của họ. Quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng bảy giây nhưng ấn tượng đó lại kéo dài. Việc bán hàng được hay không tùy thuộc vào những hành vi không lời được thể hiện ngay trong lần gặp đầu tiên. Trang điểm, tư thế, tác phong, nét mặt và ánh mắt là những yếu tố mà các nhân viên bán hàng thành công cần nắm vững và biết cách vận dụng. Đàm phán Một cuộc đàm phán thành công có thể nhờ vào khả năng nắm bắt những ẩn ý sau lời nói của đối phương. Để có được điều này, bạn cần hiểu được ngôn ngữ hình thể. Nhà đàm phán tài ba là người nhận ra khi nào nên trì hoãn hoặc thúc đẩy quá trình đàm phán. Họ biết cách xoa dịu và bình ổn những tình huống căng thẳng. Tuy nhiên, thay vì chỉ căn cứ vào lời nói, cách chủ yếu họ sử dụng để đánh giá diễn biến xung quanh là quan sát những cử chỉ không lời vốn bộc lộ những động cơ vô thức và dễ bị bỏ qua. Y tế Kỹ năng giao tiếp không lời của bác sĩ đối với bệnh nhân có một vai trò rất quan trọng. Mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều trị bệnh (như các thiết bị kỹ thuật, dụng cụ y tế), nhưng việc nhạy bén với những dấu hiệu không lời và thể hiện "sự thấu cảm lâm sàng" đối với người bệnh sẽ đem lại cảm giác hài lòng nơi người bệnh, giúp họ bình tâm và lạc quan hơn. Pháp luật Khi thẩm vấn nghi phạm, thay vì chỉ lắng nghe những câu trả lời mâu thuẫn nhau, một cảnh sát được đào tạo bài bản sẽ tìm kiếm những phản ứng tâm lý thoáng qua trên khuôn mặt nghi phạm. Chẳng hạn nụ cười thoáng qua có thể ngầm hiểu rằng nghi phạm tự tin rằng hắn vừa đánh lừa được thẩm vấn viên. Dịch vụ khách hàng Nhiều người cho rằng thái độ phục vụ tận tình của nhân viên chính là chìa khóa đem lại thành công cho dịch vụ khách hàng. Nghiên cứu cho thấy khả năng nhận biết các dấu hiệu không lời của nhân viên cũng quan trọng không kém. Việc nắm bắt ngôn ngữ hình thể một cách tinh tế sẽ giúp nhân viên hiểu rõ khách hàng thật sự đang nghĩ gì hoặc cảm nhận được gì. Xây dựng kỹ năng Vận dụng kỹ năng giao tiếp không lời nghĩa là bạn đi vào tìm hiểu và áp dụng những cử chỉ gần như vô thức trước đó. Thay vì chỉ cảm nhận về một ai đó, bạn có thể nhìn vào dấu hiệu hình thể để đọc suy nghĩ của họ. Thay vì chỉ hy vọng rằng bản thân tạo được ấn tượng tốt thì bạn có thể biết cử chỉ nào giúp bạn có được sự tự tin và lấy được thiện cảm từ đối phương. Nắm được các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết này không chỉ giúp bạn học hỏi những điều mới mẻ mà còn giúp bạn nhận thức được sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ để từ đó phát huy hơn nữa năng lực của bản thân. Bạn sẽ biết cách tạo ấn tượng tốt đẹp ngay từ lần gặp đầu tiên. Bạn cũng sẽ biết cách giải mã một ánh mắt, một nét mặt hay cử chỉ nào đó và nhanh chóng xây dựng niềm tin với khách hàng cũng như các thành viên trong nhóm. *** Đánh giá Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời của tác giả Carol Kinsey Goman là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình, đặc biệt là trong môi trường công sở. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản đến các ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau. Ưu điểm: Nội dung cuốn sách được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, với nhiều ví dụ minh họa sinh động. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt đến những ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau như lãnh đạo, bán hàng, đàm phán, dịch vụ khách hàng,... Cuốn sách có tính ứng dụng cao, giúp người đọc nâng cao kỹ năng giao tiếp và thành công hơn trong công việc. Nhược điểm: Một số thông tin trong cuốn sách có thể hơi cũ, cần cập nhật thêm. Kết luận: Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng và các kỹ năng thực tế giúp người đọc hiểu rõ hơn về ngôn ngữ không lời và sử dụng nó một cách hiệu quả trong giao tiếp. Mời các bạn mượn đọc sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Ngày Tươi Đẹp
Ngày hôm nay có phải ngày thích hợp để chết? Từ chỗ gờ tường tháp chuông cách mặt đất sáu tầng nhà, Finch tự hỏi như vậy để bỗng nhận ra cậu không đơn độc, vì phía bên kia tháp chuông, Violet dường như cũng đang có cùng suy nghĩ. Ngày hôm ấy, Finch không rõ cậu đã thuyết phục được Violet lùi lại hay chính sự xuất hiện của Violet đã ngăn cậu nhảy xuống, nhưng tình bạn, tình yêu đã khởi đầu từ đó. Liệu tất cả những điều ấy có đủ để đưa họ trở lại cuộc sống? Những ngày tươi đẹp hài hước, lãng mạn nhưng cũng không thiếu những khoảnh khắc nao lòng. Cuốn sách cho ta thấy những gì thực sự diễn ra trong tâm trí của người đang chìm trong hố đen trầm cảm, cho ta biết cảm thông và sống sao cho trọn vẹn từng khoảnh khắc. *** Review Cói:   Là quyển sách yêu thích nửa đầu 2019 của mình. Và mình rất recommend cho các bạn đang là học sinh như mình. Lấy bối cảnh ở một trường trung học, nhân vật chính là Finch - một cậu bạn bị xem là khác thường và lập dị, đã gặp gỡ Violet - người luôn ám ảnh bởi quá khứ người chị gái. Đọc câu chuyện này với tâm thế như dõi theo cuộc sống trung học của hai bạn trẻ nên mình vô cùng hứng thú. Sự khác biệt ở mỗi cá thể, mà bị coi là lập dị ở trường trung học; cho nên ai cũng cố gắng trở nên bình thường. Finch thì không như thế. “...Tôi nghĩ rằng có những nơi cần được ngắm nhìn. Có lẽ sẽ chẳng có ai đến thăm những nơi đó và trân trọng chúng hoặc dành thời gian để nghĩ chúng quan trọng, nhưng có lẽ ngay cả những nhỏ nhất cũng có ý nghĩa gì đó. Còn nếu không, có lẽ chúng có thể có ý nghĩa gì đó với chúng ta. Ít nhất mà nói, vào lúc chúng ta rời đi, chúng ta biết chúng ta đã nhìn thấy nơi đây, tiểu bang vĩ đại của chúng ta. Vậy thì ta đi thôi. Hãy đi thôi. Hãy để đời ta có chút ý nghĩa nào đó. Hãy rồi khỏi cái gờ tường đó đi.” Finch cứu Violet khỏi cảnh chết đuối dưới những nỗi dằn vặt, ám ảnh. Nhưng còn Finch, cậu có thể bơi khỏi chính cái hồ sâu ấy không ? Từ một Violet ủ dột, cô ấy trở nên tươi sáng, vui vẻ trở lại. Nhưng còn Finch, vẫn mãi giữ những suy nghĩ cho chính mình. Một cuốn sách hay. Có nhiều khía cạnh được khai thác mà mục đích là để ta suy ngẫm về chính mình, về những người xung quanh. Mình đã có những cảm xúc thật vui, và xúc động rất nhiều. Các bạn, nếu bạn nghĩ mình có vấn đề về sức khoẻ tinh thần, hãy đọc cuốn sách này ít nhất một lần nhé. *** Review Trinh Phạm Thị Đoan:   Đánh giá: 5????/5 Nhiều người nói quyển sách này đã "thơ mộng hóa" căn bệnh trầm cảm, nhưng mình thấy nó thật đẹp, và cũng thật buồn. Khi Finch cứu Violet trên gờ tháp chuông, chẳng ai ngờ rằng cậu cũng đang tự chiến đấu với chính mình để không nhảy xuống vực thẳm đen tối kia. Mình vẫn luôn tin rằng, sẽ chẳng có ai muốn chết nếu có người chịu lắng nghe họ, không cần làm gì cả, chỉ cần lắng nghe thôi. Thật khó khăn khi phải vật lộn mỗi ngày giữa hai lựa chọn Thức và Ngủ. Thật khó khăn khi cố gắng không cho ai thấy phía sau cánh cửa-nơi bạn dần dần suy sụp. Thật khó khăn để yêu một người mà không nghĩ đến người ấy sẽ như thế nào nếu mình đột ngột rời đi. Một sinh mệnh đẹp đẽ như thế, cuối cùng lại tàn lụi ở nơi không ai nhìn thấy. Nhưng ít nhất cậu ấy vẫn sống, ở một thế giới do cậu ấy tạo ra, nơi cậu ấy không còn phải chịu đựng những Cú Rơi Dài nữa. Bởi vì hôm nay vẫn là một ngày tươi đẹp. *** Tôi lại tỉnh dậy. Ngày thứ 6 Ngày hôm nay có phải là ngày thích hợp để chết? Đó là điều tôi tự hỏi mình vào buổi sáng khi tôi thức dậy. Vào tiết thứ ba khi tôi đang chống mắt nghe thầy Schroeder giảng bài như ru ngủ. Ở bàn ăn tối khi tôi chuyển đĩa đậu cho mọi người. Khi ban đêm tôi nằm thao thức vì tâm trí cứ quay mòng mòng với bao điều suy nghĩ. Hôm nay có phải ngày đó không? Và nếu không phải hôm nay thì là bao giờ? Tôi đang tự hỏi mình điều đó ngay lúc này, khi đứng ở gờ tường hẹp cách mặt đất sáu tầng nhà. Tôi đang ở rất cao, đến mức như thể là một phần của bầu trời. Tôi nhìn xuống vỉa hè bên dưới, và cả thế giới chao nghiêng. Tôi nhắm mắt lại, tận hưởng cái cách mọi thứ quay cuồng. Có lẽ lần này tôi sẽ làm điều đó - phó mặc cho ngọn gió đưa mình đi. Cảm giác đó sẽ giống như bồng bềnh trong bể bơi, thiếp dần đi tới khi chẳng còn gì nữa. Tôi không nhớ mình đã trèo lên đây. Thật ra tôi không nhớ mấy những gì đã xảy ra trước Chủ nhật, chí ít là những gì xảy ra trong mùa đông này. Lúc nào cũng vậy - cứ tỉnh dậy là đầu óc sạch trơn. Tôi giống như lão già râu xồm Rip Van Winkle* Mọi sự cứ không cánh mà bay. Bạn có thể nghĩ tôi đã quen với việc này, nhưng lần này là tệ nhất vì không phải tôi chỉ ngủ vài ngày hay một, hai tuần - tôi đã ngủ suốt các kỳ nghỉ, tức là lễ Tạ ơn, Giáng sinh và Giao thừa. Tôi không thể diễn tả sự khác biệt lần này, chỉ là khi thức dậy, tôi cảm thấy mình gần cái chết hơn mọi khi. Tôi thức, đúng thế, nhưng hoàn toàn trống rỗng, như thể ai đó đã hút kiệt máu tôi. Đây là ngày thứ sáu từ khi tôi tỉnh lại lần nữa, và là tuần đi học đầu tiên kể từ ngày 14 tháng Mười một. Tôi mở mắt, và mặt đất vẫn ở đó, vững chãi và kiên cố. Tôi đang ở trên tháp chuông của trường, đứng trên một gờ tường rộng khoảng 10 phân. Tháp chuông khá nhỏ, khoảng sàn bê tông ngoài cái chuông chỉ rộng độ vài bước chân, ngoài ra còn có cái lan can thấp bằng đá mà tôi đã trèo qua để ra đến đây. Thỉnh thoảng tôi lại đá chân vào nó để chắc chắn rằng nó vẫn ở đó. Hai tay tôi dang rộng như đang tiến hành một buổi thuyết giáo và toàn bộ cái thành phố không-quá-lớn, buồn tẻ này là con chiên. “Thưa quý ông, quý bà,” tôi hét, “xin chào mừng quý vị đến với cái chết của tôi!” Có thể các bạn đã đoán tôi sẽ nói chào mừng đến với “cuộc sống” của tôi, bởi tôi vừa mới thức dậy mà, nhưng chỉ lúc nào tỉnh tôi mới nghĩ đến cái chết. Tôi đang gào theo cái lối của một nhà truyền giáo kiểu cũ, đầu giật giật, các từ cứ về cuối lại ríu rít vào nhau, và tôi suýt nữa mất thăng bằng. Tôi bám vào phía sau, mừng là dường như không ai nhận thấy điều này, bởi vì, nói thật là, thật khó tỏ ra can đảm khi mình đang bám chặt lan can và run lập cập như một con gà. “Tôi, Theodore Finch, với tinh thần thiếu minh mẫn, trân trọng tuyên bố để lại toàn bộ tài sản trần tục của mình cho Charlie Donahue, Brenda Shank-Kravitz và chị em gái tôi. Những người khác có thể biến con mẹ nó đi!” Ở nhà, từ nhỏ mẹ đã dạy chúng tôi phát âm cái cụm từ đó (nếu chúng tôi phải dùng đến), hay đúng hơn, là dạy chúng tôi đừng nói ra, nhưng đáng buồn là nó đã kẹt lại trong đầu tôi. Dù tiếng chuông đã vang lên, mấy đứa cùng lớp tôi vẫn tha thẩn ở sân trường. Đây mới là tuần đầu tiên của kỳ hai năm cuối cấp, thế mà bọn chúng đã làm ra vẻ mình đã học xong và chuẩn bị ra trường đến nơi. Một thằng trong số đó nhìn về phía tôi, như thể nó đã nghe thấy tôi nói, nhưng những đứa khác thì không, hoặc bởi vì chúng chưa nhìn ra tôi hoặc bởi vì chúng biết tỏng tôi ở đó và Ôi dào, lại thằng Theodore Lập Dị chứ gì. Rồi thằng đó quay đầu đi chỗ khác và chỉ lên trời. Lúc đầu tôi tưởng nó chỉ vào mình, nhưng đúng lúc đó tôi nhìn thấy cô. Cô đứng cách tôi vài bước, ở phía bên kia tháp chuông, cũng đứng ngoài gờ tường, tóc vàng sậm bay trong gió, chân váy phồng lên như một chiếc dù. Dù bây giờ là tháng Một ở bang Indiana, cô đi chân đất, chỉ mặc quần tất mỏng, một tay cầm đôi bốt, và đang nhìn chằm chằm hoặc vào chân cô hoặc vào mặt đất - thật khó nói chính xác. Trông cô như đã hóa đá tại chỗ. Tôi nói bằng giọng thông thường, không phải của nhà truyền giáo, một cách bình tĩnh nhất có thể: “Nghe tớ nói này, giờ tệ nhất là cậu nhìn xuống đấy.” Thật chậm chạp, cô quay đầu sang phía tôi, và tôi biết cô gái này, hoặc ít nhất tôi đã nhìn thấy cô ở hành lang trường. Tôi không thể ngăn mình nói tiếp: “Cậu có đến đây thường xuyên không? Vì chỗ này gần như là chỗ của tớ, và tớ không nghĩ là đã từng nhìn thấy cậu ở đây.” Cô không cười cũng chẳng chớp mắt, chỉ nhìn tôi chằm chằm từ sau cặp kính to sụ che gần hết khuôn mặt. Cô cố lùi một bước và chân vô tình đá vào lan can. Cô chệnh choạng một chút, và trước khi cô kịp hoảng loạn, tôi lên tiếng: “Tớ không biết cái gì đưa cậu tới đây, nhưng với tớ thì thành phố của chúng ta trông xinh đẹp hơn và mọi người có vẻ tử tế hơn, thậm chí những người xấu xa nhất trông cũng gần như tử tế. Trừ Gabe Romero và Amanda Monk và toàn thể cái nhóm mà cậu hay chơi cùng.” Tên cô là Violet Gì Đó. Cô nổi tiếng chẳng kém mấy đứa trong đội cổ vũ của trường - một trong những đứa con gái mà bạn không nghĩ mình sẽ bắt gặp ở một gờ tường cách mặt đất sáu tầng nhà. Sau cặp kính thô kệch cô khá xinh, tựa như búp bê bằng sứ vậy. Đôi mắt to, khuôn mặt trái tim dễ thương, khuôn miệng như muốn nở ra một nụ cười nhỏ xinh hoàn hảo. Cô là kiểu con gái hẹn hò với những gã như Ryan Cross, siêu sao bóng chày, và ngồi cùng Amanda Monk và những đứa con gái đầu sỏ khác vào bữa trưa. “Nhưng hãy thẳng thắn với nhau, chúng ta không lên đây để ngắm cảnh. Cậu là Violet, phải không?” Cô chớp mắt một cái, và tôi coi đó là câu trả lời đồng ý. “Tớ là Theodore Finch. Tớ nghĩ chúng ta đã học Toán cùng nhau năm ngoái.” Cô chớp mắt lần nữa. “Tớ ghét môn Toán, nhưng không phải vì thế mà tớ đến đây. Nếu đó là lý do của cậu thì đừng để bụng nhé. Cậu chắc là giỏi Toán hơn tớ, vì chắc chắn ai cũng sẽ giỏi Toán hơn tớ, nhưng cũng chẳng sao cả, tớ thấy không vấn đề gì. Này nhé, tớ giỏi cái khác, những cái quan trọng hơn - ghita, tình dục, hoặc liên tục làm bố tớ thất vọng, đấy là vài ví dụ. Mà thực ra, rõ ràng là cậu sẽ không bao giờ sử dụng nó ở thế giới thực, đúng không? Ý tớ là môn Toán ấy.” Tôi cứ thao thao, nhưng tôi biết mình sắp hết chịu nổi. Trước hết là vì tôi đang buồn đi tè, nên từ ngữ của tôi không phải là cái duy nhất co rúm lại với nhau. (Rút kinh nghiệm: Trước khi tự tử, hãy nhớ đi tè). Và, thứ hai, trời đang bắt đầu mưa, mà ở nhiệt độ này, mưa sẽ hóa tuyết trước khi chạm đất. “Trời bắt đầu mưa đấy,” tôi nói, như thể cô không biết điều này. “Tớ nghĩ sẽ có người tranh cãi rằng mưa sẽ rửa trôi máu đi, để cái đống của chúng ta đỡ bầy nhầy, tiện cho người khác dọn. Nhưng chính cái phần ‘bầy nhầy’ đã khiến tớ phải suy nghĩ. Tớ không phải là một người phù phiếm, nhưng tớ là một con người, tớ không biết cậu thế nào chứ trong đám tang của mình, tớ không muốn trông như vừa đi qua một cái máy xẻ gỗ.” Cô đang rùng mình hay đang run lên, tôi không thể biết chắc chắn, và thế là tôi nhích từng chút một về phía cô, cầu mong không ngã trước khi đến đích, bởi rõ ràng điều cuối cùng tôi muốn làm là biến mình thành một thằng ngu trước mặt người con gái này. “Tớ đã nói rõ ràng là tớ muốn được hỏa thiêu, nhưng mẹ tớ không tin.” Còn bố thì sẽ làm bất kể điều gì mẹ nói để không làm phật ý mẹ thêm nữa, và bố còn nói thêm: Con còn quá trẻ để nghĩ đến điều này, con biết đấy, bà Finch của con đã sống tới năm chín mươi tám tuổi, chúng ta không cần phải nói về chuyện này bây giờ, Theodore, đừng làm mẹ giận. “Thế tức là tớ sẽ bị nhét vào quan tài, tức là nếu tớ nhảy, cái chết sẽ chẳng đẹp đẽ gì. Hơn nữa, có lẽ tớ thích khuôn mặt tớ được nguyên vẹn, hai mắt, một mũi, một miệng, một hàm răng đầy đủ, mà nó, nói thật với cậu, là một trong những cái hơn người ở tớ đấy.” Tôi cười minh họa cho cô luôn. Một hàm răng đều tăm tắp, ít nhất là trông bề ngoài thì như vậy. Thấy cô vẫn im lặng, tôi tiếp tục vừa nhích dần sang vừa nói. “Nhưng hơn hết, tớ cảm thấy không phải với những người làm đám ma. Đó vốn là một nghề chả ra sao rồi, nhưng phải xử lý một thằng dở hơi như tớ ư?” Từ phía bên dưới, ai đó hét lên: “Violet à? Có phải Violet trên đó không?” “Ôi trời ơi,” cô buột miệng, nhỏ đến mức tôi hầu như không nghe thấy. “Ôitrờiôitrờiôitrời.” Gió thổi váy và tóc cô, trông như thể cô sẽ bay đi. Bắt đầu có tiếng lao xao ở dưới, và tôi hét: “Đừng cố cứu tôi! Các người sẽ chỉ làm hại chính mình thôi!” Rồi tôi nói, rất nhỏ, chỉ đủ cho cô nghe: “Bây giờ tớ nghĩ chúng ta phải làm thế này.” Lúc này tôi đang đứng cách cô chừng ba mươi phân. “Tớ muốn cậu ném đôi giày của cậu về phía cái chuông rồi bám vào lan can, chỉ cần nắm chặt vào lan can, và khi nào cậu nắm được nó, hãy dựa người vào rồi đưa chân phải qua. Hiểu chứ?” Cô gật đầu và suýt mất thăng bằng. “Đừng gật đầu. Và làm gì thì làm, đừng có nhầm lùi lại thành tiến lên đấy. Tớ sẽ đếm cho cậu. Từ một đến ba nhé.” Cô ném đôi bốt về phía cái chuông, và chúng rơi bộp, bộp trên sàn bê tông. “Một. Hai. Ba.” Cô nắm lấy cái lan can đá và nhổm người lên rồi đưa một chân qua để ngồi lên đó. Cô nhìn chằm chằm xuống mặt đất và tôi có thể thấy cô lại hóa đá, và thế là tôi nói: “Tốt. Tuyệt vời. Chỉ cần đừng nhìn xuống nữa.” Cô chầm chậm nhìn tôi rồi thò chân phải xuống tìm sàn tháp chuông, và khi chân cô chạm mặt sàn, tôi nói: “Bây giờ tìm cách đưa chân trái qua đi. Đừng bỏ tay khỏi tường.” Lúc này cô run cầm cập đến nỗi tôi có thể nghe tiếng hai hàm răng cô va vào nhau, nhưng tôi nhìn theo trong khi cô đưa chân trái về phía chân phải, và giờ cô đã an toàn. Vậy là bây giờ chỉ còn lại tôi bên ngoài. Tôi nhìn xuống mặt đất một lần cuối cùng, qua mũi đôi bàn chân cỡ bốn mươi bảy vẫn tiếp tục to ra của mình - hôm nay tôi đi giày đế mềm với dây buộc huỳnh quang - qua ô cửa sổ mở ở tầng bốn, tầng ba, tầng hai, qua Amanda Monk, vừa lớn tiếng cười đùa trên bậc thềm vừa ngúng nguẩy túm tóc vàng buộc kiểu đuôi ngựa, tay nâng sách che đầu, cố vừa tạo dáng vừa che mưa cùng một lúc. Mời các bạn đón đọc Những Ngày Tươi Đẹp của tác giả Jennifer Niven.
Người Mẹ Lang Thang
Tiểu thuyết về mẹ cảm động nhất của văn học Nhật Bản được hàng triệu bạn trẻ xứ sở hoa anh đào truyền tay nhau. Bạn sẽ phải khóc khi đọc đến những trang cuối cùng! Người mẹ lang thang là một câu chuyện về Hiromi - một người phụ nữ đã đi khắp nước Nhật và trở thành “mẹ nuôi” của những đứa trẻ kém may mắn trong cuộc sống. Cô đã chăm sóc những đứa trẻ chỉ có bố mà thiếu vắng tình yêu của mẹ, những ông bố thường xuyên vắng nhà dài ngày hay những đứa trẻ bị mẹ ngược đãi và bỏ nhà đi.  Hành trình của Hiromi kéo dài từ khi cô 20 tuổi đến năm 40 tuổi. Dù là thời gian ở cùng chăm sóc những đứa trẻ khác nhau, có đứa vài tháng, cũng có đứa tận vài năm nhưng cô vẫn cố gắng coi chúng như con ruột của mình và khi những đứa trẻ đã cứng cáp, gia đình ổn định, khi “dịch vụ” của cô không còn cần thiết nữa, cô lặng lẽ bỏ đi. Với sự tận tụy, hết lòng yêu thương những đứa trẻ ấy, Hiromi đã để lại trong tâm trí những đứa trẻ hình ảnh về một người mẹ đích thực và những kỉ niệm gia đình ấm áp trong quãng thời gian ngắn ngủi sống cùng cô.  Tại sao cô lại làm như vậy ?  Tại sao lại sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân để đi chăm sóc những đứa trẻ khác không phải con mình ?  Tại sao người mẹ ấy tiếp tục làm công việc kỳ lạ là chăm lo cho bao đứa trẻ Nhật Bản mà không mong đợi một tình cảm hồi đáp? Tại sao lại từ bỏ chính cuộc đời mình để làm tất cả những điều tưởng chừng vô nghĩa ấy? Liệu sau bao biến cố xảy ra trong đời,  sau những mất mát, tổn thương thì người mẹ ấy có được bù đắp và sống một cuộc đời không còn day dứt ?  Sau bao năm chăm hạnh phúc của người mẹ lang thang sẽ đi về đâu? Người mẹ ấy sẽ sống như thế đến khi nào? Người phụ nữ ấy làm tất cả những điều ấy vì cái gì? Bởi điều cô theo đuổi không phải tình yêu, không phải gia đình, cũng không phải sự vĩnh hằng. Câu trả lời dành cho bạn khi đọc đến cuối trang sách tuyệt vời này! “Mẹ không phải là một người chỉ làm việc nhà” *** Review Linh Lee:   Đúng như nhan đề, người mẹ lang thang là câu chuyện về Hiromi - một người phụ nữ kỳ lạ. Suốt hơn hai mươi năm tuổi xuân, cô đi đến nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người, sống cùng nhiều gia đình với vai trò một người mẹ, chăm sóc nhiều đứa trẻ, lang thang không chốn về, chẳng nói rõ lý do. Cô là người mẹ tốt, nhưng đồng thời cũng là người tàn nhẫn nhất. Dùng bản thân đánh đổi lấy việc được chung sống với những đứa nhỏ. Lựa chọn những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, và đều thiếu vắng người mẹ, sự xuất hiện của cô đối với những đứa trẻ, có lẽ giống như một vị cứu tinh, và chúng coi cô là "mẹ" thực sự. Dùng trái tim đón nhận cô, nhưng rồi đến một thời điểm, cô lại rời đi. Dường như ở Hiromi tồn tại bản năng của người mẹ, tính cách cô dịu dàng, mềm mại, cô lo lắng từng bữa ăn, tính cách, tâm sinh lý của chúng. Không nói rõ về những hành động chăm sóc, nhưng từ sự ỷ lại của những đứa trẻ đối với cô, có thể nói, cô dùng cả trái tim để bao dung chúng. Và Hiromi là một người mang đầy những bí mật: tại sao cô lại tốt đến vậy? Tại sao cô phải bỏ đi, mà không phải là ở lại chăm sóc những đứa trẻ đến hết cuộc đời? "Người mẹ lang thang" có lẽ đã nói đúng chính xác cuộc sống của cô, cô đáng khâm phục: đi khắp nơi, tự nuôi thân, dù cho công việc chẳng mấy huy hoàng, sống với những nghĩa cử tốt đẹp. Lối viết song song giữa những câu chuyện từ nhiều nhân vật khác nhau, đã xây dựng lên một Hiromi hoàn thiện trong mắt độc giả, quá khứ, hiện tai được lồng ghép, và một phần tương lai cũng được hé lộ, cái kết mở để lại cho ta một khoảng để ta tự bổ sung: Hiromi đi tiếp, hay Hiromi nghỉ lại... Câu nói rằng mẹ không phải chỉ là người làm việc nhà đâu, dường như đã chạm đến trái tim của tôi. Có người từng nói với tôi rằng: ta mải mê nói những điều hoa mỹ, cao cả, nhưng lại chẳng biết quý trọng những gì đơn giản của cuộc sống, vì ta không hiểu, chưa từng mất đi. Phải chịu cảnh thiếu thốn tình mẹ như những người con nuôi của cô mới hiểu được tình cảm ấy thiêng liêng tới mức nào. Phải rồi, mẹ không phải là người làm việc nhà, mà là người đem đến cho chúng tình cảm, là người chở che, bao bọc những đứa con của mình. Dù con khôn lớn, nhưng mẹ thì vẫn là mẹ, và vĩnh viễn là mẹ, lớn đến đâu, thì những đứa con của mẹ Hiromi vẫn luôn tìm được cảm giác bình yên khi gặp được mẹ. Nhẹ nhàng, sâu lắng, và đầy tình cảm... Điểm: 8/10 *** Hiromi thật kỳ lạ. Đây đã là lần thứ tư cô chuyển nơi sống. Từ thành phố nhộn nhịp Tokyo, cô đi đến thị trấn dưới chân núi Phú Sĩ, vòng qua hòn đảo lạnh giá vùng Hokkaido rồi lại quay trở về một quán rượu nhỏ tại thủ đô. Nhưng đó không phải là chuyến đi du lịch gì cả, Hiromi đang đi tìm những đứa trẻ đang bị bỏ rơi. Ba anh em Ryosuke, Momoko và Naosuke đang sống với bà ngoại và người bố ngày đêm phải lái xe chở hàng; cậu bé Koutarou vì là con lai nên bị bắt nhốt ở nhà không được đi học; cô bé Manami sống đơn độc với người bố làm nghề biển, anh em Akio và Natsuno phải chạy trốn cùng người cha bị xiết nợ. Ánh mắt của những đứa trẻ ấy thôi thúc Hiromi phải làm điều gì đó cho chúng. Dưới những mái nhà không có hơi ấm của người mẹ, cô lẻn vào nhẹ nhàng như một chú mèo, chăm sóc và nuôi dưỡng những đứa trẻ, đến khi chúng ổn định với cuộc sống rồi thì cô lại ra đi mà không giữ lại bất cứ ký ức tươi đẹp nào cả. Điều kỳ lạ hơn cả, Hiromi dành hết những năm tháng tươi đẹp nhất của đời mình để làm “mẹ” của những đứa trẻ, nhưng cô không đòi hỏi sự hồi đáp nào cả. Cô không mong lũ trẻ khi lớn lên sẽ trả ơn cô bằng tiền bạc hay danh vọng, cũng không muốn chúng phải bận tâm đến cuộc sống của cô. Hiromi chỉ muốn chúng được hạnh phúc, giống như cách cô mong đứa con thật sự của mình được hạnh phúc. Người mẹ lang thang là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Hika Harada sau Tokyo Laudering - tác phẩm đã gây tiếng vang lớn cho bà ở diễn đàn văn học Nhật Bản. Motif của hai cuốn sách này cũng có nhiều điểm tương đồng, cả hai đều xoay quanh một người phụ nữ đến chăm sóc cho những ngôi nhà đặc biệt. Ở Người mẹ lang thang, đó là những căn nhà thiếu vắng người mẹ, còn ở Tokyo Laundering là những căn nhà của người vừa mới qua đời. Nếu có điều gì khiến Người mẹ lang thang trở nên khác biệt so với tác phẩm trước đây của Hika Hirada thì đó chính là hơi ấm của tình người. Cái cách Hiromi hết lòng với mỗi đứa con mà cô chăm sóc, dạy chúng không được uống nước ép hoa quả trước bữa ăn, rồi cắt tờ rơi thành hình vuông để xếp giấy, hay cách nhắc nhở những đứa con khi đến trường thì lắng nghe thầy cô giảng bài, hàng đêm lại làm bài tập cùng con, tất cả đều rất giống với hình mẫu mà một đứa trẻ luôn tưởng tượng về người mẹ của mình. Với những người đàn ông, Hiromi có thể trao thể xác mình cho họ, nhưng với những đứa trẻ của anh ta, cô sẽ trao cả trái tim mình để ủ ấm cho chúng. Thông qua cuốn sách Người mẹ lang thang, Hika Hirada muốn gửi gắm đến những thế hệ làm cha mẹ hiện tại và cả sau này rằng: Cha mẹ phải dành thời gian cho con cái, chứ không phải chỉ cho chúng mỗi tiền đâu. Bởi tình yêu thương là không bao giờ đủ, kể cả khi con người ta đã trưởng thành lớn lên và già đi. Và cũng bởi với những trái tim bị tổn thương thì chỉ có một trái tim khác mới có thể chữa lành được. Mời các bạn đón đọc Người Mẹ Lang Thang của tác giả Hika Harada.
Vùng Đất Xannhicôp
Vùng Bắc Băng Dương có nhiều đảo lớn và nhỏ bao quanh, còn khu trung tâm không có đảo. Các đảo thường có băng, tuyết phủ, chỉ trừ một số ít đảo không có băng tuyết trong một thời gian ngắn về mùa hè. Biển bao quanh các đảo cũng thường xuyên đóng băng. Vùng trung tâm không có đảo thường có những lớp băng dày, lâu năm, nước và gió thường xô đẩy những tảng băng ở đây về nhiều hướng. Bất chấp những điều kiện khó khăn, các nhà thám hiểm dũng cảm đã đến vùng Bắc cực, từng bước nghiên cứu vùng này và đã từng sống ở những đảo đó. Người ta đã cố gắng lợi dụng các tảng băng di chuyển để đi vào vùng Bắc Băng Dương, nơi còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Sự khám phá các đảo mới được bắt đầu từ lâu và ngày nay cũng đang được tiếp tục; chẳng hạn các đảo nhỏ Gianet, Ghenriet, Bennet ở phía đông-bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ đã được phát hiện vào năm 1881; quần đảo lớn mang tên Vùng đất bắc ở phía bắc bán đảo Taimưrơ được phát hiện vào năm 1913; tiếp theo đó, các đảo nhỏ ở vùng biển Carơxkôie cũng được phát hiện. Dù sao, người ta cũng không thể khẳng định là các đảo ở vùng Bắc cực đã được phát hiện hết. Bởi vì ở nơi mà băng di chuyển nhiều, còn có thể có những hòn đảo khác, nếu đi bằng đường biển thì không đến các đảo này được, còn đi theo các tảng băng di chuyển cũng rất khó tới. Nhờ sử dụng máy bay, người ta có thể đến được những nơi trong vùng Bắc cực mà đi bằng đường biển hoặc đi theo băng di chuyển cũng không thể đến được. Song, cho đến ngày nay, người ta vẫn chưa khám phá được các hòn đảo ở vùng Bắc cực, mà những truyền thuyết về chúng được tồn tại đã gần một thế kỷ rưỡi nay rồi. Những người thợ săn dũng cảm đã từng đến các hòn đảo gần lục địa châu Á để kiếm lông thú và ngà voi ma-mút, cả những nhà thám hiểm phương bắc, trong những ngày đẹp trời hiếm có ở phương bắc, đã thấy được các hòn đảo đó từ những điểm cao, nhưng họ không sao đi đến được. Hòn đảo ở về phía bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ được đặt tên là Vùng đất Xannhicôp, do Iacôp Xannhicôp là người đầu tiên trông thấy nó ở tận phía chân trời giữa vùng bằng. Cuốn sách này miêu tả việc những người tù chính trị bị đi đày ở lưu vực sông Indihiroca đi tìm Vùng đất Xannhicôp. Cuốn tiểu thuyết này thuộc loại khoa học viễn tưởng, bởi vì tác giả mô tả một vùng đất tưởng tượng, miêu tả thiên nhiên và dân cư của vùng đất này theo các giả thuyết khoa học. Bạn đọc sẽ làm quen với những hòn đảo Bắc cực, với các điều kiện thám hiểm giữa vùng băng, với thiên nhiên và dân cư ở một vùng đất có thể có được mà chưa ai biết, nếu nó tồn tại theo các giả thuyết mà tác giả nêu lên. Trong chương “Vài lời cuối cùng” bạn đọc sẽ có được lời giải đáp về các giả thuyết nói về vùng đất Xannhicôp, và làm quen chút ít với những phát minh mới mẻ của các nhà khoa học nghiên cứu vùng Bắc cực của Liên Xô, làm sáng tỏ một phần nào về sự bí hiểm của Vùng đất Xannhicôp. *** Nửa đầu cuộc họp trọng thể của hội các nhà bác học để nghe thông báo của các nhân viên trong đoàn thám hiểm đi tìm bá tước Tôn và những người cùng đi với ông ta bị mất tích, đã sắp kết thúc. Trên diễn đàn, cạnh bức tường có trang trí các chân dung lớn của những người bảo trợ có chức tước và các vị chủ tịch của hội, là một sĩ quan hàng hải. Ông này đã từng dũng cảm vượt Bắc Băng Dương trên một con thuyền độc mộc, từ quần đảo Nôvôsibirơxcơ đến đảo Bennet, đây là nơi cuối cùng mà bá tước Tôn dừng lại, và không thấy trở về. Chiếc chao đèn màu xanh hắt bóng mờ lên khuôn mặt rắn rỏi, dầu dãi phong sương của người đang nói, rọi ánh sáng lên bản báo cáo đặt trên diễn đàn và lên bộ đồng phục hàng hải có khuy và huân chương bằng vàng của ông ta. Các ủy viên Hội đồng của hội đang ngồi sau một chiếc bàn dài phủ khăn xanh đặt ở phía trước diễn đàn. Họ đều là những nhà bác học lỗi lạc và những nhà du hành nổi tiếng, hiện đang sinh sống tại thủ đô phía bắc1. Vị chủ tịch ngồi ở giữa. Mắt ông nhắm nghiền, hình như giọng nói nhẹ nhàng của diễn giả đã làm cho ông ta thiu thiu ngủ. Căn phòng nhỏ chật ních người. Báo cáo viên đã miêu tả bước đường của đoàn thám hiểm đi cứu nạn, cuộc hành trình khó khăn khi họ phải dùng những xe trượt tuyết do chó kéo để chở chiếc thuyền độc mộc nặng nề từ lục địa đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ, vượt qua vùng băng giá ven Bắc cực. Ông tả lại mùa hè trên đảo Côtennưi trong lúc chờ phá băng, việc đi dọc theo bờ biển rất gian khổ, và vượt qua biển để đến đảo Bennet một cách táo bạo. Ông nêu lên đặc điểm của hòn đảo ảm đạm, quanh năm phủ đầy băng tuyết đó và kể lại việc tìm thấy căn lều nhỏ của Tôn và những vật mà Tôn đã để lại trong lều cùng với tài liệu ghi chép về đảo kết thúc bằng những dòng chữ: “Hôm nay chúng tôi đang lên đường về phương nam. Có đủ thức ăn cho khoảng 15 đến 20 ngày. Tất cả đều khỏe mạnh.” - Như thế là - báo cáo viên cao giọng tuyên bố - ngày 26 tháng 10 năm 1902, bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Vatxili Gôrôkhôp, người Iacut, và Nhicolai Điacônôp, người Tunggut đã rời đảo Bennet vượt qua băng tuyết đi về phương nam, theo hướng quần đảo Novôxibirơxcơ. Nhưng họ không bao giờ tới đích. Chúng tôi biết vậy, bởi vì chúng tôi không tìm ra một dấu vết nào cả. Thế thì điều gì đã xảy ra đối với các nhà du hành can trường ấy? Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đã chết trên đường đi. Vào cuối tháng mười, trên các vĩ tuyến ấy, ban ngày không có ánh sáng trời chỉ sáng mờ mờ vào khoảng hai ba giờ lúc ban trưa. Băng giá tới 40 độ; hay có bão tuyết dữ dội. Nhưng mặt biển chưa hoàn toàn bị bao phủ bởi băng giá và có nhiều hồ nước. Các nhà du hành có thể rơi vào một trong những hồ nước mới đóng băng ấy giữa lúc có bão tuyết rồi mất hút. Hoặc họ có thể chết vì kiệt sức, hay lả đi vì đói, và vì băng giá trong khi phải chống chọi với các tảng băng. Vì không có chó, họ buộc phải kéo lê những xe trượt tuyết nặng trĩu, xuồng và đồ đạc. Hoặc cuối cùng, gặp một cơn bão, họ chết đuối trong đêm đen Bắc cực giữa lúc cố gắng vượt qua vùng biển chưa đóng băng trên những chiếc xuồng mỏng manh, Bằng cách nào thì họ cũng yên giấc ngàn thu dưới đáy Bắc Băng Dương, còn như tôi đã cố gắng chứng minh cho các vị: Vùng đất Xannhicôp mà Tôn đi tìm từ lâu nay, thực ra không có. Người nói bước khỏi diễn đàn. Câu kết luận của ông ta đã làm cho những người nghe ngán ngẩm. Bỗng người ta nghe thấy một giọng nói to từ phía hàng ghế cuối vọng lên; Dầu sao - tôi bảo là - nó vẫn có! Cả gian phòng náo động. Người ta nghe thấy những câu hỏi: - Ai thế? Sao kỳ quặc vậy? Vị chủ tịch nghiêm nghị nhìn quanh và rung chuông. Khi trật tự đã trở lại, ông ta nói giọng oai nghiêm. - Tôi muốn rằng toàn thể hội nghị và các vị khách, chúng ta hãy đứng dậy mặc niệm những nhà du hành gan dạ đã sống trọn đời cho khoa học: bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Gôrôkhôp và Điacônôp. Mọi người đứng cả dậy. - Tôi tuyên bố nghỉ giải lao mười lăm phút. Những người ngồi gần cửa vội vàng tuồn ra ngoài. Các ủy viên của Hội đồng vây lấy người nói, trong khi đó người ta thấy một hội viên có thân hình đẫy đà, viện sĩ Sencơ, đang lách qua đám đông đến những hàng ghế cuối. Ông ta là nhà thám hiểm nổi tiếng, người tổ chức và là cố vấn của đoàn thám hiểm của bá tước Tôn. Giữa sự ồn ào của tiếng ghế xô đấy, tiếng trò chuyện của đám đông, vang lên giọng nói to của ông ta: - Tôi xin mời vị nào đã quá tin rằng Vùng đất Xannhicôp là có thật, nói chuyện với tôi. Đáp lời mời này, một người trẻ tuổi mặc áo choàng dài màu đen, tách khỏi đám đông thính giá. Khuôn mặt ngăm đen của anh ta đầy những vết nhăn nhỏ xíu, kết quả của nắng hè, băng giá mùa đông và những cơn gió bão. - Tôi nói vậy và nếu cần, tôi sẽ nhắc lại một lần nữa,- anh ta tuyên bố sau khi tiến lại gần Sencơ. - Ta hãy đến thư viện; không thể nói chuyện trong tình trạng hỗn độn này được,- Sencơ vừa nói vừa nhìn người trẻ tuổi hăng hái bằng con mắt xoi mói ẩn dưới đôi lông mày rậm, Khoác tay người lạ mặt, Sencơ dẫn anh ta qua cửa bên đi đến những phòng ở phía sau của thư viện. Đây là văn phòng của hội. Trong phòng im ắng và trống rỗng. Viện sĩ ngồi lên ghế của thư ký rồi ra hiệu cho người cùng đi với mình ngồi sang ghế bên. Ông châm một điếu thuốc và nói: - Tôi nghe đây. Tôi muốn nghe điều ông biết về Vùng đất Xannhicôp. - Điều đầu tiên là hãy cho phép tôi nói với ông tôi là ai, - anh ta nói. - Đã năm năm, tôi là một tù chính trị, bị đày biệt xứ ở một làng tên gọi Cadatric tại cửa sông Iana, trong xứ sở của gấu, hay nói cho đúng hơn là của những con gấu Bắc cực. Ở đó tôi đã làm quen với những thợ săn địa phương. Theo cách nhìn văn hóa của thủ đô thì họ là những con người cục cằn và dốt nát, nhưng họ tốt bụng và dũng cảm. Mỗi năm xuân đến, khi ngày trở nên dài hơn và băng vẫn rắn, họ quả cảm đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ để lùng ngà voi ma-mút, ở đây có rất nhiều... Một số thợ săn đã thấy rõ ràng Vùng đất Xannhicôp và tin chắc rằng nó có thật. - Điều đó cũng chưa đủ để thuyết phục! - Sencơ nhận xét. - Ông biết chứ, diễn giả đã bảo rằng những ngọn núi mà Xannhicôp và Tôn đã thấy chỉ là những dãy núi băng khổng lồ. Để có thể đứng ở đảo Côtennưi nhìn thấy được những ngọn núi của vùng đất tưởng tượng ấy thì chúng phải cao ít nhất là hai nghìn hai trăm năm mươi mét. Khó mà tin rằng có những ngọn núi cao như thế ở Bắc Băng Dương. - Đó chỉ là điều phỏng đoán chứ không phải là sự thật! - Hơn nữa, trước khi đặt chân lên đảo Bennet, Tôn đã uổng công đi tìm vùng đất ấy trên chiếc du thuyền “Rạng đông” chở ông ta, đi gần chỗ mà người ta cho là vùng đất. - Điều này chỉ chứng tỏ rằng vùng đất ở xa hơn về phương bắc chứ không gần đảo Côtennưi như Xannhicôp và những người khác đã tưởng, họ thấy nó nhưng không ước lượng được khoảng cách một cách chính xác, - người trẻ tuổi cãi lại. - Ông nói đúng! - Sencơ nói... - Nhưng sự thật, ngoài những chứng cứ này ra, ông sẽ đồng ý với tôi rằng đây chỉ là những chứng cứ bấp bênh, chúng ta không có gì khác, hay nói đúng hơn, không có gì xác thực để xét, ngoài việc những đàn chim di cư về một nơi nào đó ở phương bắc. - Tại sao ông nghĩ rằng dấu hiệu đó lại không đầy đủ tính chất xác thực? - người trẻ tuổi ngạc nhiên hỏi, - Vranghen đã viết về điều này, Maiden xác nhận nó, còn nhân dân địa phương chỉ rõ rằng vào mùa hè có hàng đàn chim sống trên bờ biển phía bắc của Xibiri, trừ hai nơi: nơi thứ nhất nằm giữa sông Khrôma và sông Ômôlôi, nơi thứ hai bắt đầu khoảng năm mươi cây số về phía tây của mũi Tacan và kéo dài đến mũi Riacaipi2. Trong những nơi này, số lượng chim không đáng kể, nhưng nhân dân ở đây thấy có những con chim bay về phương bắc. - Từ dải đất ở phía tây, chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ, trong khi từ dải đất ở phía đông, chim bay đến đảo Vranghen, - Senco bác lại. - Trước kia người ta nghĩ thế, nhưng thực ra không phải như vậy. Đảo Vranghen rất cao, lởm chởm đá và hầu như cả mùa hè tuyết phủ. Cũng có một số ít nơi trên đó các loài chim như ngỗng và vịt có thể làm tổ. Nhưng chúng ta chú ý nhiều hơn đến dải đất phía tây. - Phải rồi, từ đây, bầy chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ.   Mời các bạn đón đọc Vùng Đất Xannhicôp của tác giả Vlađimia Ôbrutrep.
Hồ Thùy Dương
Tại Nam bộ châu Á có một bán đảo nhỏ tên Oa-ly-đà, núi non hiểm trở dân cư phần đông tụ tập ở miền đồng bằng phía Đông Nam ngay sát bờ biển. Tại miền Bắc Oa-ly-đà ngay chính giữa khoảng núi non trùng điệp rừng cây sầm uất, có một cái hồ thật rộng, xung quanh mọc thuần một thứ cây thùy- dương, vì vậy người Oa-ly-đà gọi là Hồ Thùy Dương. Các ông già bà cả xứ Oa-ly-đà trước đây vẫn thường kể cho con cháu nghe về sự tích cái hồ đó, lời các cụ kể mộc mạc. Về sau các thi sĩ Oa- ly-đà bèn kể lại thành khúc trường ca phổ nhạc, lời thơ chải chuốt bóng bẩy với nhiều tình tiết tỉ mỉ. Rồi vào những đêm xuân mở hội có trăng tròn, người ta vừa gẩy đàn vừa kể hoặc vừa hát chodân chúng nghe. Thường thường dân chúng tụ tập để nghe chuyện từ lúc trăng rằm vừa nhô cao lên khỏi dãy núi ngoài khơi. Dân chúng lặng yên nghe lời ca, nghe tiếng đàn, nhiều khi cùng vỗ tay giữ nhịp đồng ca với thi sĩ hoặc đứng lên làm điệu bộ hợp với lời thơ. Đêm dài thành ngắn. Khi câu chuyện vừa chấm dứt, dân chúng ra về thì trăng rằm thường cũng vừa kịp lặn, vừng đông hơi ửng hồng, cỏ hai bên đường đẫm sương. Những hình ảnh đó như nhắc nhở dân chúng nhớ lại biết bao tình tiết trong câu chuyện kể thâu đêm vừa qua. Khúc nhạc-thi này chia làm ba hồi rõ rệt. *** Ngày xưa khoảng Hồ Thùy Dương này là một khu rừng quế tuyệt đẹp. Thân quế cao vút, cành quế ẻo lả rủ xuống như cánh tay của bầy tiên nghiêng múa. Tới mùa xuân năm kia có một con sói về đó ở. Nguyên nó là một con sói tu luyện lâu ngày đã thành tinh, hiện hình người, đi trên hai chân, duy cái đuôi vẫn còn. Sở dĩ con sói tu luyện được như vậy vì nó là con sói dị tướng lông ba sắc, đầu đen mình hung hung đỏ, và đặt biệt đuôi trắng xòe ra như bông lau. Trước đây hồi còn tu luyện trên núi Li-biêng, một ngọn núi cao quanh năm tuyết phủ miền cực Bắc, con sói có lần thấy một khối đá bị nước soi mòn để lộ bên trong thỏi ngọc quý dài như chiếc đũa, óng ánh màu biếc. Nó bèn đem thỏi ngọc đến Hang Trời. Hang Trời là một động đá thông suốt hai bề, hình hàm rồng. Chính là nơi tụ tập khí thiêng của trời đất. Gió từ bốn phương rừng núi lùa lại ngát hương. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao ngày đêm phản chiếu lấp lánh muôn mầu trên thành thạch nhũ khiến bất cứ giờ nào tại nơi đây cũng có một màu ánh sáng huyền ảo lân lâng đạc biệt của chốn thần tiên. Ngay giữa động Hang Trời có một phiến đá phẳng màu trắng trong. Phiến đá này trước đây chỉ là một phiến đá thường. Tục truyền, sau lần Thượng Đế giáng lâm an tọa trên đó qua mấy ngàn năm sau nó biến thành trắng phau và hầu như trong suốt như vậy. Do linh tính đặc biệt của loài yêu, con sói đuôi xòe đem thỏi ngọc đến đặt ngay chính giữa phiến đá. Nó biết rằng chờ ba trăm năm sau, thỏi ngọc sẽ thu hút tinh khí mặt trời ban ngày, trăng sao ban đêm, cùng hương gió bốn phương của núi rừng để biến thành chiếc đũa vạn năng. Ba trăm năm qua. Con sói đã tu luyện hiện được thành hình người nhưng nó chưa thể sử dụng được chiếc đũa vạn năng vì nó chưa thành người thật, mà còn là loài sói với cái đuôi xòe đằng sau. Vẫn với linh tính loài yêu, con sói đuôi xòe biết rằng nó cần phải uống máu hai giống người khác nhau thì cái đuôi của nó mới biến đi được. Nhưng nó không dám tự mình đi vồ hai giống người kia vì nó biết chiếc đũa vạn năng sẽ mất hết linh ứng dưới tay một kẻ phạm tội hung ác. Nó chợt nghĩ ra được một quỷ kế, không tự tay giết ai mà vẫn có đủ máu hai giống người để uống cho đuôi xòe biến đi. Lập tức nó từ giã đỉnh núi Li-biêng đằng vân bay mãi… bay mãi xuống miền Nam. Tới khu rừng quế nước Oa-ly-đà, nó xem kỹ hình thế rồi quyết định dừng lại. Sở dĩ con sói đuôi xòe chọn rừng quế này làm nơi thi hành xảo kế vì ngang qua khu rừng có con đường lớn đưa ra biển, các giống người ở giữa đại lục vẫn mượn con đường này để liên lạc thông thương cùng các giống người khác ở ven đại dương.   Mời các bạn đón đọc Hồ Thùy Dương của tác giả Doãn Quốc Sỹ.