Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ

Đằng sau mỗi món đồ cổ, là tầng tầng lớp lớp lịch sử và văn hóa truyền thừa bao đời; Đằng sau mỗi món đồ giả, là mánh lới tính toán tinh vi cùng cạm bẫy khó bề tưởng tượng. Hứa Nguyện rửa được nỗi oan cho ông nội, nổi lên như một anh hùng đánh hàng giả trên thị trường cổ ngoạn, song lòng vẫn canh cánh mối thù gia tộc với Lão Triều Phụng - bàn tay đen đứng sau bi kịch bao đời nhà họ Hứa. “Tình cờ” thay, mọi manh mối về kẻ cầm đầu dòng chảy ngầm lớn nhất giới cổ vật này đều dẫn gã đến với quốc bảo Trung Hoa - Thanh minh thượng hà đồ. Một lần nữa Hứa Nguyện đơn thương độc mã dấn thân trên con đường trừ giả giữ thật mà không lường đến những gì mình sẽ phải đương đầu. Lôi Lão Triều Phụng ra ánh sáng, bảo vệ Minh Nhãn Mai Hoa trước nguy cơ lụi bại, giữ vững tôn chỉ của người giám định… ngần ấy nhiệm vụ hệ trọng dường như quá sức với một kẻ đang nôn nóng báo thù như gã. Bởi trong khi con người giám định cổ vật, cổ vật cũng giám định con người… *** Nửa đêm trộm mộ “ăn trên chiếu” Chơi đồ cổ quan trọng nhất là gì? Người nói là mắt nhìn, kẻ lại bảo là quan hệ, thực ra đều không chính xác. Ngành này xét đến cùng phải chú trọng hai chữ: “duyên phận”. Thế nên người chơi đồ cổ thế hệ trước phần nhiều đều tin số mệnh, cho rằng số đã có ắt có, số không có thì đừng cố. Nếu không có duyên với một món đồ mà cứ cố giành về tay, gọi là đi ngược ý trời, sẽ dẫn tới hậu họa khôn lường, món đồ ấy không còn là hàng tốt nữa, mà trở thành vật dữ cắn chủ, nhẹ thì thân bại danh liệt, nặng thì nguy tới tính mạng. Có điều đây đều là cách nói từ xưa, được quy vào mê tín dị đoan. Thời bây giờ ai cũng tiếp thu mấy chục năm giáo dục theo chủ nghĩa duy vật, chẳng tin mấy lời đó nữa. Hễ có tiền đưa tới tay thì bất chấp quy củ cách thức, ta cứ thế xông lên phá vỡ đạp bằng, chẳng sợ gì sất. Thần tài ngồi trên, yêu ma quỷ quái cũng phải đứng sang một bên. Ví như mấy người ngồi cùng xe với tôi hiện giờ, rõ ràng không phải hạng con buôn cổ hủ trọng truyền thống. Tôi đang ngồi trong một chiếc van Toyota chín chỗ cũ nát, ngoài lái xe ra tổng cộng có năm người. Bên trong xe lặng phắc như tờ, chẳng ai bắt chuyện, cũng chẳng ai hàn huyên. Bốn người kia đều ngồi im tại chỗ, trưng ra vẻ mặt hờ hững khó gần. Chỉ khi xe thình lình xóc nẩy lên, họ mới đảo mắt thật nhanh, vờ như vô tình liếc nhau một cái sắc lẻm. Tôi cảm giác được họ không giống mình. Tôi là chủ một tiệm đồ cổ nhỏ trong thành phố, còn họ là con buôn cổ vật chuyên thu mua đồ cũ từ nông thôn. Những người này quanh năm suốt tháng lê la dưới quê, qua lại với đám nông dân vừa chất phác vừa gian xảo nên người cũng thoang thoảng mùi bùn đất và sát khí. Bọn họ là ai? Xe chạy đi đâu? Tôi hoàn toàn không biết. Cửa xe đóng kín, bên ngoài đêm tối như mực, không trông rõ được cảnh vật. Chỉ có tiếng động cơ chạy ì ì cho thấy chúng tôi đang tiến tới một mục tiêu nào đó. Tôi cũng chẳng buồn nghĩ nhiều, dựa đầu vào cửa kính lạnh lẽo, huyệt Thái Dương tì vào chốt cửa, gà gật ngủ. Xe chạy lắc lư tròng trành dữ dội, trong lúc mê man, tôi chợt có một ảo giác lạ lùng: thùng xe chẳng khác nào cỗ áo quan khổng lồ vừa đóng đinh, kín mít không lọt một tia sáng. Tôi nằm trong, bên ngoài có mười sáu người khiêng quan tài băng qua nghĩa địa, bước xuống lối vào mộ, tiến về phía huyệt mộ cuối cùng... Phải rồi, quên chưa tự giới thiệu. Tôi tên Hứa Nguyện, hơn ba mươi, là một tay buôn cổ vật cò con dưới chân hoàng thành. Tôi có một cửa tiệm nhỏ ở Lưu Ly Xưởng, buôn bán kim thạch ngọc khí, gọi là Tứ Hối Trai. Tứ hối là gì? Chính là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời trăng trối của bố tôi, dạo Cách mạng Văn hóa, ông bị hãm hại phải nhảy xuống hồ Thái Bình tự tử, chỉ để lại tám chữ này. Song đằng sau đó còn ẩn giấu một câu chuyện dài. Tổ tiên tôi là một chi trong “Minh Nhãn Mai Hoa” gồm năm gia tộc lâu đời trong ngành cổ vật, mỗi nhà sở trường giám định một loại đồ cổ, có địa vị cực cao trong giới sưu tầm. Sau giải phóng, Minh Nhãn Mai Hoa cải tổ thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, vẫn có sức ảnh hưởng không nhỏ. Hứa Nhất Thành, ông nội tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thời Dân Quốc, xuất thân Bạch môn, về sau vì đánh cắp đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên tuồn cho người Nhật nên bị coi là Hán gian đem xử bắn. Từ đó nhà tôi cũng sa sút không gượng dậy nổi, rút lui khỏi Minh Nhãn Mai Hoa. Vào ngày sinh nhật ba mươi tuổi, do sự thúc đẩy của những người cố ý, tôi đã rơi vào vòng xoáy này. Trải qua một phen bôn ba trắc trở, cuối cùng xem như tôi cũng giải oan được cho ông nội, đưa đầu Phật về nước, kết thúc mối dây dưa ngàn năm giữa nhà họ Hứa và đầu Phật ngọc. Sau khi xong việc, tôi quay về Tứ Hối Trai, tiếp tục buôn đồ cổ, sống lặng lẽ. Đột nhiên nghe phanh két một tiếng, người tôi đổ nhào về phía trước, sực tỉnh khỏi dòng ký ức. Xe đã dừng lại, tôi mở mắt ra, lắc lắc đầu. Ngờ đâu vừa quay đầu sang, tôi chợt thấy một gương mặt trắng bệch với đôi mắt cực kỳ quái dị hiện lên giữa bóng tối bên ngoài xe, một bên to tướng như mắt trâu, lòng đen ít lòng trắng nhiều, bên kia lại nhỏ xíu, thi trừng mắt với rùa chưa chắc đã thắng nổi. Cặp mắt một to một nhỏ này, trông như lúc nào cũng đang ngắm bắn. Tôi giật thót mình, vô thức rụt người lại, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Bốn kẻ cùng xe cười nửa miệng, lộ vẻ khinh bỉ. Bấy giờ tôi mới nhớ ra, gương mặt này hẳn là của tài xế. Chẳng để tôi nghĩ nhiều, cửa xe đã bị kéo đánh “xạch”, tài xế ló đầu vào, đảo tròn con mắt to rồi làm động tác mời, giọng khàn khàn, “Tôi tên Mắt Trố, làm chân chạy bàn, mời các vị theo tôi.” Tôi vội điều hòa hơi thở, theo bốn người kia xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất đã thấy mùi cỏ dại và cành thông xộc vào mũi man mát. Khỏi cần hỏi cũng biết, đây là mùi đặc trưng của chốn đồng không mông quạnh, hơn nữa còn là nơi hết sức hoang vu. Tôi nhìn quanh, lờ mờ thấy mấy ngọn núi đằng xa, trông như thú dữ mai phục trong đêm, có thể nhào tới bất cứ lúc nào. Mắt Trố bảo bọn tôi theo sát sau y. Mây đen đang bao phủ bầu trời, che khuất mặt trăng, chỉ có ngọn đèn pin loang loáng thoắt sáng thoắt tối trong tay Mắt Trố soi đường. Cây đèn pin của y có vẻ rất được chăm chút, bóng đèn bọc một khoanh giấy bìa cứng, như vậy cột sáng chỉ tập trung vào phía trước, không chiếu sang hai bên, nên cách hơi xa sẽ không thấy được. Chúng tôi bước thấp bước cao trên triền núi theo y chừng hơn mười phút, rẽ ngoặt liên tục, còn băng qua hai khoảng rừng. Rốt cuộc một người không kìm được lên tiếng hỏi, “Anh đưa chúng tôi đến đâu đây? Cỗ ở đâu vậy?” Mắt Trố quay lại nhe răng cười đáp, “Nôn nóng làm gì, chủ đâu có rời chiếu cỗ được.” Nói đoạn còn cười khà, tiếng cười như quạ. Y vừa cười, nhiệt độ xung quanh chợt hạ xuống, lạnh buốt cả người. Kẻ kia không dám hỏi thêm nữa, đành “hừm” một tiếng rồi đi tiếp. Đám chúng tôi đi chừng hơn nửa tiếng thì tới một khe núi vắng. Khe núi bị hai dãy núi cao ngất kẹp vào giữa, tạo nên một bình nguyên dưới chân núi. Từ đằng xa loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, hẳn là dòng suối từ trên núi chảy xuống, uốn quanh chỗ này, cắt khe núi thành hình tam giác. Khe suối là đáy, hai dãy núi sừng sững hai bên. Địa hình này trong phong thủy gọi là hai rồng xuống nước, là đất lành hợp xây mồ mả. Mắt Trố tiến vào khe núi thì dừng chân, rọi đèn pin về phía trước. “Bên này.” Chúng tôi nhìn theo ánh đèn, thấy thấp thoáng đằng xa một người trẻ tuổi mặc đồ rằn ri đang ngồi trước mặt là một cái hố rộng chừng nửa mét, mép hố còn gác ba chiếc xẻng cán thép và cả đống đất mới đào. Khỏi cần hỏi cũng biết ở nơi đất báu phong thủy thế này đào sâu ba thước ắt có mồ mả, có mồ mả tất có trộm mộ đánh hơi được kéo đến. “Đào tới đâu rồi?” Một tên mặt sẹo đi cùng tôi hỏi. Mắt Trố di chân xuống đất, hể hả đáp, “Tìm ra vị trí mộ rồi, vừa rồi chúng tôi mới đào đến vách sau, chỉ một nhát nữa là tới cửa thôi, đợi các vị đến mở chiếu đấy.” Mấy người đi cùng tôi đến trước hố đất, gạt lớp đất mới đào ra, vẻ mặt không ai giống ai. Nghe nói trộm mộ lâu năm chỉ cần nhìn đất là biết niên đại mộ. Có điều tôi chẳng có tài ấy, chắc hẳn mấy kẻ đi cùng cũng chẳng khá hơn. Chúng nhìn đất chỉ để yên tâm chứ đâu nhận ra cái gì. Kiểm tra đất xong, Mắt Trố cười khì, “Các vị may thật đấy, món lần này là thịt kho của bếp trưởng. Nếu không có gì thắc mắc thì lên món nhé?” Cả năm chúng tôi đồng loạt gật đầu, đứng tránh ra một quãng. Mắt Trố soi đèn pin về phía kia, hô “mở bát”, tức thì tên chạy bàn mặc đồ rằn ri đứng dậy, cầm chùy sắt và xẻng lên. Dáng gã gầy gò, lách vào hầm dễ như bỡn. Mắt Trố rút trong ngực áo ra một chai rượu trắng hàng chiết lẻ và năm cái chén, lần lượt đưa cho năm chúng tôi, “Trong núi sương dày lạnh giá, làm ít rượu trắng cho ấm người, phải chờ một lúc nữa cơ.” Không nói thì thôi, y vừa nói tôi liền thấy gió lạnh bốn bề, sương mù bảng lảng, vô thức liếc nhìn vào cánh rừng tối om. Mắt Trố đưa chén tới trước mặt tôi cười, “Chú em lần đầu ăn trên chiếu à?” Thấy tôi cười ngượng, y nói, “Ăn quen bén mùi, anh em mình vất vả một tí, nhưng chắc ăn hơn, có phải không?” Tôi gật đầu lia lịa, đón lấy chén rượu uống cạn, rượu trắng cay nồng như ngọn lửa cháy lan theo cổ họng xuống tận dạ dày, song mắt tôi vẫn dán vào đống bùn đất đang không ngừng đùn ra từ cửa hầm, lòng quặn lên. “Ăn trên chiếu” như lời Mắt Trố là một hoạt động khá kín đáo trong giới đồ cổ, trước đây tôi chỉ nghe nói, không ngờ hôm nay cũng được tận mắt chứng kiến. Phần lớn đồ cổ đến từ hai nguồn: một là đồ gia truyền đời đời lưu giữ, hai là đồ tùy táng bị đào ra. Loại trước được truyền đời rõ ràng, nhưng loại sau hơi khó phân định thật giả. Anh bảo món đồ này đào được trong mộ ra, bằng chứng đâu? Lỡ lừa gạt người ta thì sao? Phải biết có những món đồ cổ bản thân nó hoàn toàn không đáng tiền, tất cả giá trị đều nằm ở xuất xứ. Cùng một hạt dưa, mua từ hàng tạp hóa thì chẳng đáng một xu, nhưng nếu từ trong bụng xác nữ ở gò Mã Vương thì nghìn vàng chưa mua nổi. Thế là có kẻ nảy ra một cách, thăm dò xác định vị trí mộ đâu vào đấy, đào đường hầm đến cạnh mộ rồi để đó, mời vài người mua đến hiện trường, mở cửa mộ ngay trước mặt họ, đào lên bán sang tay luôn. Người mua chính mắt thấy đồ được đào dưới mộ lên, dĩ nhiên khỏi cần lo hàng giả. Trò này trong ngành đồ cổ gọi là “ăn trên chiếu”, không phải chiếu rượu, mà là chiếu cói, chiếu cói để làm gì? Thời xưa người ta dùng chiếu cói bọc xác chết, nên nó ý chỉ mồ mả. Những người mua như chúng tôi gọi là “khách”, trộm mộ thì gọi là “chạy bàn”, dĩ nhiên “chủ” chỉ người chết trong mộ. Bởi vậy vừa rồi Mắt Trố nói “chủ không rời được chiếu cỗ” khiến mấy người kia sợ quá nín thít. Mời bạn đón đọc Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kho báu của vua Solomon - H. Rider Haggard
Henry Rider Haggard (1856 - 1925) là một trong những nhà văn nổi tiếng trong lịch sử văn học Anh. Những tác phẩm nổi tiếng với những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn của ông được đông đảo bạn đọc khắp nơi trên thế giới yêu thích và tìm đọc.   Chính từ những cuộc phiêu lưu từ thơ ấu đã giúp cho ông có được kinh nghiệm quý báu trong mảng văn học này. Vào năm 1875, với tư cách là thư ký riêng của Toàn quyền Anh tại thuộc địa Natan, bản thân ông đã trực tiếp gặp không ít cuộc phiêu lưu mạo hiểm, và chính những cuộc mạo hiểm này đã tạo cho ông nguồn cảm hứng để viết tiểu thuyết "Kho báu của vua Solomon". Cuốn tiểu thuyết nhanh chóng thu hút và lôi cuốn được độc giả bởi chuyến phiêu lưu kỳ thú. Tên tuổi của ông đã đi xa khỏi biên giới nước Anh và đến với hầu hết các bạn đọc trên thế giới.   Tác phẩm "Kho báu của vua Solomon" được coi là "tiểu thuyết thuộc địa" rất phổ biến tại văn học Tây Âu những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong tác phẩm, ông đã giúp những người bản xứ, những người thời đó bị coi là "mọi đen" lên án sự áp bức bóc lột của tộc người da trắng. Ngay từ trang đầu ông đã viết: "Trong đời, tôi đã gặp nhiều mọi đen. Không, tôi xin xóa chữ ấy, tôi không thích dùng nó. Tôi đã gặp nhiều người bản xứ thực sự là những người tử tế, đáng kính. Tôi cũng biết không ít những người da trắng đểu cáng, tồi tệ và chẳng bao giờ là người tử tế, dù họ có rất nhiều tiền...".   *** Theo truyền thuyết lịch sử và văn hóa cổ đại, Solomon thường được gọi là một Quốc Vương lý tưởng, một ông vua thánh hiền. Thực ra ông ta là một bạo chúa, ông ta đánh thuế nặng nề, thực thi cưỡng bức lao động, bắt thần dân phải xây dựng một cung điện và miếu thần vô cùng tráng lệ trên Núi Jerusalem. Trong Kinh Thánh đã ghi lại chân thực câu chuyện Solomon xây dựng thần Jéhova: "Solomon cho là cần phải xây cho Thần Jéhova một cung điện thờ, cho mình một cung điện. Thế là Salomon cho tuyển 8 vạn phu khuân vác, 8 vạn thợ đục đá và 3600 đốc công đến xây dựng".   Theo Kinh Thánh viết: Solomon ra lệnh 20 vạn người xây dựng miếu thần đều không phải là người Israel. Ông ta lại chọn trong người Israel được 5 vạn nhân công làm lao dịch. Công trình đó kéo dài đến 7 năm. Điện thần này hướng từ Đông sang Tây dài 250m, rộng hơn 90m được xây dựng cẩn trọng chặt chẽ, nguy nga tráng lệ, phía bên trong trang trí vô cùng hoa mỹ. Thật là một tác phẩm kiến trúc tuyệt vời. Điện thần này đã trở thành trung tâm tôn giáo và hoạt động chính trị của người Do Thái Cổ, đồng thời cũng là biểu tượng của họ.   Hàng ngày, các giáo đồ đến đây để bái yết và hiến tế thần linh. Đá Thánh A La được đặt giữa điện thần. Đá Thánh cao 20m rộng 15m, là một tảng đá hoa cương, được dỡ bởi hai trụ đá cẩm thạch tròn. Phía dưới Đá Thánh là Nham Đường cao 35m, bên trong có bàn thờ, trên bàn thờ đặt một hòm thánh có khắc dòng chữ "Maxi Thập giới" còn gọi là "Mười lời răn của Thánh Jéhova", Jéhova là giáo chủ của Đạo Do Thái. Trong hòm thánh, ngoài những điều răn của Thánh còn có Tây Nại pháp điển. Hòm Thánh được làm bằng vàng ròng, gọi là Hòm của Jéhova cũng còn gọi là Hòm ước vàng. Nó được người Do Thái cổ đại coi là Bảo vật giữ nước liên quan đến việc tồn vong hưng thịnh của dân tộc Do Thái. Ở phía dưới Đá Thánh A La, Solomon cho xây một căn hầm và một đường hầm bí mật. Theo truyền thuyết Solomon đã cất giấu ở căn hầm và đường hầm này rất nhiều châu báu và các đồ vật quý giá. Đó chính là Kho báu của vua Solomon mà cả Thế giới đều đã được nghe nói tới.   Mời các bạn đón đọc Kho báu của vua Solomon của tác giả Henry Rider Haggard.
Nhật ký Sa Tăng - Lâm Trường Trị
Người dịch: Aficio Nguồn: tangthuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com     Nhật ký Sa Tăng là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học mạng thời kỳ đầu, tiếp nối thành công sau Lần đầu tiên thân mật của Thái Trí Hằng. Nó được mệnh danh là: Sử thượng tối bạo tiếu văn học tác phẩm - Tác phẩm văn học gây cười nhất. Tây Du Ký bản thân nó đã là một tác phẩm có chất trào lộng u mặc, thâm thúy hóm hỉnh đặc trưng cho thời đại. Nhật ký Sa Tăng cũng thừa kế cái tư tưởng ấy. Hãy xem xem Sa Tăng tẩm ngẩm tầm ngầm mà đánh chết voi này giấu gì trong lòng nhé... Tác giả là 1 người trẻ tuổi bình thường, có chút hóm hỉnh. Trước những áp lực đè nặng của cuộc sống, anh chỉ viết cho vui, xả Stress, nhưng mấy tên bạn nghịch ngợm đưa lên mạng, cuối cùng lại… nổi tiếng. Nghe nói giờ Lâm Trường Trị chuyển hẳn sang viết thể loại này.     - Viết theo hứng thú cá nhân, nên có chỗ cần ngẫm suy, có chỗ thì hời hợt. Có cái cười thật “nóng”, song có cái cười khá “lạnh”.   - Mấy “ngày” đầu là cái cười “nóng”, về sau sẽ “lạnh” hơn.   - Đọc truyện, bạn cứ coi 4 thầy trò như mấy người đồng nghiệp. Đường Tăng là lão Trưởng phòng lắm lời, cáo già. Ngộ Không là nhân viên lão thành, nhiều công lao. Bát Giới là tay giỏi ăn chơi. Sa Tăng út ít nhất, bị bắt nạt nhiều nhất, là kẻ quan sát tất cả trong thầm lặng. Nhưng cả 4 đều chỉ là những lao động bình thường, tình cờ phải đi làm 1 nhiệm vụ có phần quan trọng mà thôi. Họ phải chịu khá nhiều áp lực, bất công từ bên ngoài.   - Phật tổ, Quan Âm, Ngọc Hoàng,… là những sếp sòng cao cấp, còn đám yêu quái là những kẻ cản trở công việc.   - Tây Du Ký về thực chất, cũng có 1 lớp nghĩa là phản ánh cái bất công trong xã hội thời đó.   - Truyện tuy thế không quá nặng nề, bạn xem nó như Gặp nhau cuối tuần, đưa ra cái nhìn hài hước về những hiện thực trong cuộc sống là được.   - Nếu bạn còn ngồi ghế nhà trường, chưa chịu áp lực công việc, chưa thấy cái mệt mỏi của quan liêu, sẽ hơi khó cảm thụ. Nhưng kể cả không thế, những nhân vật, tình huống truyện vẫn là sự phản ánh đời thực khá rõ nét, bởi vậy, nó đi vào lòng độc giả trẻ tuổi thế hệ mới ở Trung Quốc khá dễ dàng.   - U mặc là gì nếu không phải thứ lợi khí của con người, chống lại những áp lực, sự khô khan tâm hồn trong thời đại?   - Truyện không liên quan mấy tới nguyên bản Tây Du Ký, mà giống “Người Trung Quốc xấu xí” nhiều hơn.
Nhất Phẩm Phong Lưu
Tên Sách: Nhất Phẩm Phong Lưu (full PrC)   Tác giả: Đồ Cùng   Nhóm dịch: Nhóm Hana   Nguồn: Sưu Tầm   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com   Giới Thiệu: Con nhà Thế gia, tự mình lao vào trải nghiệm cuộc sống. Chỉ vì cầu thay đổi tiên cơ... Thâm nhập trên đường Hồng Trần, được Tiêu Dao trong muôn hoa. Khả năng phân tích, tổng hợp như Computer, không một vụ án nào có thể làm khó được Holmes tái sinh … Nhất Phẩm Phong Lưu … cũng không phải phong lưu mãi ... Nhất Phẩm Phong Lưu luôn được xếp hạng cao trong bảng xếp hạng của qidian từ khi mới ra. Nếu bạn đang cần một bộ truyện Hài hước – trinh thám – đấu đá quan trường … quyển sách  Nhất Phẩm Phong Lưu tất sẽ không khiến mọi người thất vọng. Còn chờ gì nữa nào?!  Mời các bạn đón đọc  Nhất Phẩm Phong Lưu của tác giả Đồ Cùng.
Harry Potter Trọn Bộ - J. K. Rowling
     Harry Potter là tên của bộ truyện (gồm bảy phần) của nữ nhà văn nước Anh J. K. Rowling. Bộ truyện viết về những cuộc phiêu lưu phù thủy của cậu bé Harry Potter và những người bạn Ronald Weasley, Hermione Granger tại Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts. Những cuộc phiêu lưu tập trung vào cuộc chiến của Harry Potter trong việc chống lại tên Chúa tể hắc ám Voldemort - người có tham vọng muốn trở nên bất tử, thống trị thế giới phù thủy, nô dịch hóa những người phi pháp thuật, và tiêu diệt những ai cản đường hắn đặc biệt là Harry Potter.      Bộ truyện Harry Potter kết hợp nhiều thể loại, bao gồm cả giả tưởng và giai đoạn tuổi mới lớn (với các yếu tố huyền bí, kinh dị, phiêu lưu và lãng mạn), nhiều ý nghĩa về văn hóa và tư liệu tham khảo. Cũng theo tác giả J. K. Rowling, chủ đề chính xuyên suốt Harry Potter là cái chết.      Ngay từ khi xuất bản phần một (Harry Potter and the Philosopher's Stone - ấn bản Anh; Harry Potter and the Sorcerer's Stone - ấn bản Mỹ; Harry Potter và Hòn đá Phù thủy - bản dịch tiếng Việt) vào ngày 30 tháng 6 năm 1997, bộ truyện ngày càng nổi tiếng trên toàn thế giới, được giới phê bình hoan nghênh và rất thành công về mặt thương mại. Bộ truyện Harry Potter cũng nhận được một số lời chỉ trích, bao gồm cả việc quan ngại về vẻ đen tối ngày càng tăng. Đến tháng 6 năm 2011, cả bảy quyển đã bán được hơn 450 triệu bản, trở thành bộ sách bán chạy nhất trong lịch sử và được dịch sang 67 ngôn ngữ. Phần bảy, và cũng là phần cuối cùng, Harry Potter and the Deathly Hallows (Harry Potter và Bảo bối Tử thần) xuất bản vào ngày 21 tháng 7 năm 2007. Hơn 11 triệu quyển đã được bán trong 24 giờ đầu tiên.     Nhờ vào sự thành công của bộ truyện, J. K. Rowling đã trở thành nhà văn giàu nhất trong lịch sử văn học. Những bản in bằng tiếng Anh được phát hành bởi nhà xuất bản Bloomsbury ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Scholastic Press ở Mỹ, Allen & Unwin ở Úc và Raincoast Books ở Canada. Tại Việt Nam, bộ truyện Harry Potter này được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản từ bản dịch của dịch giả Lý Lan.       Cả bộ truyện Harry Potter gồm 7 quyển, với quyển thứ 7 được chia thành 2 phần, dựng thành 8 bộ trong loạt phim cùng tên bởi hãng Warner Bros. Pictures, trở thành loạt phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại. Kéo theo thương hiệu Harry Potter có giá trị hơn 15 tỉ USD.      Bộ truyện Harry Potter là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn J. K. Rowling, được xuất bản ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Bộ truyện Harry Potter gồm có 7 tập: Tập 1: Harry Potter Và Hòn Đá Phù Thuỷ Tập 2: Harry Potter Và Phòng Chứa Bí Mật Tập 3: Harry Potter Và Tên Tù Nhân Ngục Azkaban Tập 4: Harry Potter Và Chiếc Cốc Lửa Tập 5: Harry Potter Và Hội Phượng Hoàng Tập 6: Harry Potter và Hoàng Tử Lai Tập 7: Harry Potter và Bảo Bối Tử Thần Mời các bạn đón đọc Harry Potter của tác giả J. K. Rowling.