Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Chuyển Tàu

Với NGƯỜI CHUYỂN TÀU, ngòi bút của nhà văn đã hóa thành dao trổ, Christopher Isherwood như một điêu khắc gia thuần thành giới thiệu với công chúng pho ngẫu tượng độc đáo bậc nhất trong bộ sưu tập nhân vật văn chương - ngài Arthur Norris: một Đảng viên cánh tả có nết khổ dâm; lịch lãm phong lưu nhưng lại là một tay lừa đảo thành thần; nợ nần chồng chất nhưng lại rất ưa hưởng thụ xa hoa. *** Christopher Isherwood (1904-1986) là một tiểu thuyết gia lớn người Mỹ gốc Anh của thế kỷ 20, người có những đóng góp tích cực trong phong trào đấu tranh quyền lợi cho người đồng tính với hơn 40 tác phẩm được xuất bản rộng rãi trên toàn thế giới. Các tác phẩm do Tao Đàn xuất bản: - Người Chuyển Tàu - Từ Biệt Berlin - Hoa Tím Ngày Xưa - Một Con Người - Chuyện Ở Berlin   *** Ấn tượng đầu tiên của tôi là đôi mắt người lạ kia mang một sắc xanh nhạt bất thường. Chúng chạm ánh mắt tôi trong vài giây, trống rỗng, hoang hoải, rõ ràng là đang sợ hãi. Thảng thốt và ngây thơ vô số tội, chúng thoáng gợi nhắc tôi tới một sự kiện mà tôi không thể định rõ; một điều gì đó đã xảy ra lâu lắm rồi, mãi từ hồi học trung học. Chúng là đôi mắt của một cậu học sinh sửng sốt khi đã vi phạm nội quy. Rõ ràng, tôi chẳng bắt quả tang được ông điều gì ngoài chính những suy nghĩ của ông: có lẽ ông tưởng rằng tôi có thể nhìn thấu chúng. Bất luận thế nào thì có vẻ như ông đã không nghe thấy hoặc nhìn thấy tôi bước đến chỗ ông trên toa tàu, vì ông giật bắn mình khi vừa nghe giọng của tôi; dữ dội tới mức vẻ rúm ró lo lắng của ông dội ngược lại tôi như tiếng vọng. Theo bản năng, tôi lùi lại một bước. Cảm giác giống hệt như thân thể chúng tôi vừa đụng vào nhau trên phố. Cả hai đều bối rối, cả hai đều sẵn sàng xin lỗi. Mỉm cười, lo lắng trấn an ông, tôi nhắc lại câu hỏi của mình: “Ngài có thể cho tôi châm nhờ điếu thuốc được chứ?” Kể cả lúc này, ông cũng không trả lời ngay. Có vẻ như ông đang mải mê làm phép tính nhẩm nào đó, những ngón tay lo lắng giật liên hồi, nguệch ngoạc những đường tròn mông lung trên chiếc áo gi-lê. Thoạt nhìn, tựa hồ như ông chuẩn bị cởi áo, rút khẩu súng lục, hoặc đơn giản là muốn đảm bảo tôi đã không thó tiền của ông. Rồi giây phút kích động lướt khỏi ánh nhìn của ông, như gợn mây trôi, trả lại bầu trời quang đãng. Cuối cùng ông đã hiểu điều tôi muốn: “Vâng, vâng. Ờm - dĩ nhiên là được. Dĩ nhiên.” Vừa nói ông vừa khẽ chạm đầu ngón tay vào thái dương bên trái, húng hắng rồi đột nhiên mỉm cười. Nụ cười của ông rất có sức hút. “Dĩ nhiên rồi,” ông nhắc lại. “Rất hân hạnh.” Một cách tao nhã, ông nhón tay lục tìm trong túi áo gi-lê của bộ vét xám phẳng phiu có vẻ đắt tiền, rút ra một chiếc bật lửa màu vàng. Đôi bàn tay của ông trắng, nhỏ và được tỉa móng gọn ghẽ. Tôi mời ông thuốc lá. “Ờm… cảm ơn cậu. Cảm ơn.” “Mời ngài châm trước.” “Ấy thôi, thôi. Mời cậu.” Ngọn lửa bé xíu trên chiếc bật lửa chập chờn giữa chúng tôi, mong manh như bầu không khí khách sáo quá đỗi giữa đôi bên. Chỉ cần một hơi thở nhẹ cũng đủ làm dập tắt thứ này, chỉ một cử chỉ hay câu từ xuề xòa cũng có thể phá tan thứ kia. Cả hai điếu thuốc giờ đã được châm. Chúng tôi ai lại về chỗ nấy. Người lạ kia vẫn đang ngờ vực tôi. Ông vẫn đang băn khoăn liệu mình đã đi quá trớn, đã tự đẩy mình về phía một gã nhàm chán hoặc một tay lừa lọc. Tâm hồn rụt rè của ông chực chờ ngơi nghỉ, về phần mình, tôi chẳng có gì để đọc. Tôi tiên lượng một hành trình câm lặng tột cùng kéo dài bảy, tám tiếng. Tôi quyết tâm nói chuyện. “Ông có biết khi nào chúng ta tới biên giới không?” Nhìn lại đoạn hội thoại, câu hỏi này với tôi dường như chẳng hề có chút bất thường. Đúng là tôi chẳng quan tâm tới câu trả lời; tôi chỉ đơn thuần muốn hỏi một cái gì đó có thể mào đầu cuộc tán gẫu, và đồng thời không quá thóc mách hay sỗ sàng. Tác động của câu hỏi lên người lạ kia thật đáng kể. Chắc hẳn tôi đã khiến ông hứng thú. Ông liếc nhìn tôi hồi lâu, vẻ cổ quái, khuôn mặt ông dường như căng cứng đôi chút. Đó là cái nhìn của tay chơi bài xì tố đột nhiên phán đoán đối thủ của gã đang nắm tay bài thùng phá sảnh* và rằng gã tốt hơn hết là nên cẩn thận. Hồi lâu ông mới đáp lời, từ từ và thận trọng: “Tôi e là tôi không thể nói cho cậu chính xác được. Khoảng một giờ nữa, tôi nghĩ thế.” Ánh mắt của ông, trong giây lát trống rỗng, lại trở nên mù mịt. Một suy nghĩ khó chịu dường như đang trêu chọc ông như con ong vò vẽ; ông khẽ nghiêng đầu tránh nó. Rồi ông nói thêm, u ám đến bất ngờ: “Mấy cửa khẩu kiểu này… đúng là phiền toái kinh khủng.” Tôi không chắc nên đón nhận lời này như thế nào. Tôi chợt nghĩ có lẽ ông là một người theo chủ nghĩa quốc tế ôn hòa; một thành viên của Hội Quốc Liên*. Tôi đánh liều: “Chúng nên bị dẹp bỏ.” “Tôi khá nhất trí với cậu. Thực sự nên thế.” Rõ ràng ông ta đang tỏ ra thân thiện. Ông có chiếc mũi tròn ủng và một chiếc cằm có vẻ bị lệch, giống như cái đàn concertina bị hỏng. Khi ông nói, nó giật dúm lại vô cùng kì quặc và vết cằm chẻ sâu hoắm như một vết thương đột nhiên xuất hiện lệch một bên. Phía trên gò má đỏ lựng của ông, vầng trán trắng loáng góc cạnh như đá cẩm thạch. Tóc mái màu muối tiêu cắt lem nhem vắt ngang, gọn, dày và nặng. Sau một hồi ngắm nghía, tôi nhận ra, với niềm hưng phấn cao độ, rằng ông ta đang đội tóc giả. “Nhất là ba cái trò hành chính quan liêu,” tôi tiếp bước thắng lợi, “kiểm tra hộ chiếu, đại loại thế.” Nhưng không. Câu này không ổn. Tôi ngay lập tức nhận ra từ vẻ mặt của ông rằng mình vừa gẩy một nốt nhạc chối tai. Chúng tôi đang nói thứ ngôn ngữ na ná nhưng khác biệt. Vậy mà lần này phản ứng của người lạ kia lại không phải là ngờ vực. Ông hỏi, với vẻ thẳng thắn khó hiểu và tò mò không giấu diếm: “Đã bao giờ cậu gặp vấn đề ở đây chưa?” Bản thân câu hỏi không khiến tôi thấy kì lạ bằng chính giọng điệu hỏi của ông. Tôi mỉm cười giả lả. “Ô không. Ngược lại thì đúng hơn. Thường họ đâu có thèm mở cái gì, còn hộ chiếu của ông họ chẳng thèm nhìn qua.” “Thật mừng khi cậu nói thế.” Ông chắc hẳn đã đọc thấy trên mặt tôi những gì tôi đang nghĩ, vì ông vội vã tiếp lời: “Có thể tôi hơi nực cười, nhưng tôi rất ghét bị quấy rầy và làm phiền.” “Dĩ nhiên. Tôi hiểu.” Tôi nhe răng cười, bởi tôi vừa đi đến một lời giải thích thỏa đáng cho hành vi của ông ta. Ông bạn già này đang dính vào một phi vụ buôn lậu nho nhỏ vô hại. Có lẽ là một mảnh lụa cho vợ hoặc một hộp xì gà cho bạn. Và dĩ nhiên, ông đang bắt đầu thấy sợ. Rõ ràng nom ông dư sức trả bất kì khoản thuế nào. Đám nhà giàu quả là có những sở thích lạ lùng. “Vậy là ông chưa bao giờ đi qua cửa khẩu này?” Tôi cảm thấy bản thân tử tế, bảo bọc và trịch thượng. Tôi sẽ động viên ông, và nếu tình hình tệ quá thì phím trước cho ông mấy lời nói dối hợp lý để làm mềm lòng nhân viên hải quan. “Mấy năm gần đây thì không. Tôi thường di chuyển nội trong nước Bỉ. Vì nhiều lý do. Vâng.” Ông lại có vẻ mơ hồ, im tiếng, và nghiêm trang gãi cằm. Đột nhiên, có thứ gì đó dường như thôi thúc ông nhận thức sự có mặt của tôi: “Có lẽ theo thủ tục thì tôi nên tự giới thiệu. Arthur Norris, người Gent. Tôi sống tự lập, nhờ vào thu nhập từ bất động sản.” Ông cười khúc khích vẻ lo lắng, rồi đột ngột thốt lên cảnh báo. “Xin đừng đứng dậy.” Nếu muốn bắt tay mà không di chuyển thì xa quá. Chúng tôi đành thỏa hiệp bằng một cái cúi người lịch sự từ chỗ ngồi. “Tôi là William Bradshaw,” tôi nói. “Ôi trời, đừng nói cậu là người nhà Bradshaw ở Suffolk đấy nhé?” “Tôi đồ rằng đó chính là nhà chúng tôi. Trước Chiến tranh*, chúng tôi sống ở Ipswich.” “Thế bây giờ thì sao? Cậu còn sống ở đấy không? Có lần tôi từng sống cùng với một bà tên là Hope-Lucas. Bà ấy có ngôi nhà đáng yêu gần Matlock. Bà ấy mang họ Bradshaw trước khi kết hôn.” “Vâng, đúng vậy. Đó là bà dì Agnes của tôi. Bà mất bảy năm trước rồi.” “Vậy sao? Ôi, ôi. Tôi rất lấy làm tiếc… Dĩ nhiên, tôi quen bà từ khi tôi còn là thanh niên; lúc đó bà ấy đã trung niên rồi. Với lại nhắc cho cậu khỏi quên, tôi đang nói hồi năm 98* ấy.” Từ nãy đến giờ tôi ngấm ngầm soi xét mái tóc giả của ông. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy mái tóc giả nào được làm khéo đến thế. Phía sau gáy, nơi tóc giả tóc thật được chải lẫn với nhau, trông thật hài hòa. Chỉ có phần rẽ ngôi là khiến nó bại lộ, mà thực ra nhìn từ cách xa ba, bốn mét thì cũng không quá kệch cỡm. “Thật là…” Ông Norris trầm tư. “Ôi chao, đúng là trái đất tròn.” “Chắc ông chưa từng gặp mẹ tôi? Hay cậu tôi, ngài đô đốc?” Lúc này tôi đành hạ cố chơi bài quan hệ. Nó tẻ nhạt nhưng thư giãn, lại có thể kéo dài hàng giờ. Chưa gì tôi đã thấy cả chuỗi những nước đi ngon ăn phía trước - các cậu, các dì, anh em họ, đám cưới của bọn họ, gia tài của bọn họ, thuế thừa kế, tài sản thế chấp, doanh số. Rồi tới trường tư thục và đại học, so sánh về đồ ăn, trao đổi giai thoại về những chuyên gia, các trận đấu nổi tiếng và những cuộc đua thuyền trứ danh. Tôi biết đích xác chủ đề nào phải nói bằng giọng lưỡi nào. Nhưng, ngạc nhiên thay, rốt cuộc ông Norris không có vẻ muốn chơi trò này. Ông vội vã đáp lời. “Tôi e là không. Không. Kể từ cuộc chiến, tôi mất liên lạc với kha khá bạn bè người Anh. Vì công chuyện làm ăn nên tôi đi nước ngoài suốt.” Cụm từ “đi nước ngoài” khiến cả hai chúng tôi tự nhiên ngó ra ngoài cửa sổ. Hà Lan đang trôi qua tầm nhìn của chúng tôi êm đềm như cơn mơ sau bữa tối: một vùng đất lầy bình lặng, bao quanh là tuyến xe điện chạy dọc bờ đê. “Ông biết đất nước này rõ không?” Tôi hỏi. Kể từ khi nhận ra bộ tóc giả, tôi nhận thấy không thể nào tiếp tục gọi ông là ngài. Vả lại, nếu ông ấy có đội nó lên để nom trẻ trung hơn thì cũng thật vô ý vô tứ khi cứ cố chấp nhấn mạnh sự chênh lệch tuổi tác giữa chúng tôi. “Tôi biết Amsterdam khá rõ,” ông Norris len lén gãi cằm. Ông có cái kiểu vừa gãi vừa hé môi như thể đang cau có bất mãn, nhưng lại không hung bạo, tựa như con sư tử già trong chuồng. “Khá rõ, đúng thế.” “Tôi cũng muốn đến đó lắm. Chắc hẳn rất tĩnh lặng và yên bình.” “Trái lại, tôi có thể đảm bảo với cậu rằng đó là một trong những thành phố nguy hiểm nhất châu Âu.” “Thật sao?” “Đúng thế đấy. Gắn bó sâu đậm với Amsterdam, tôi vẫn luôn cho rằng nó có ba điểm trừ chí mạng. Thứ nhất, cầu thang trong nhiều ngôi nhà quá dốc đến mức phải là một tay leo núi chuyên nghiệp mới có thể leo thang mà không bị trụy tim hoặc gãy cổ. Thứ hai, đám đi xe đạp. Bọn này hăm hở đạp khắp thành phố rồi lấy đó làm tự hào mà không thèm quan tâm tới mạng người. Mới sáng nay thôi tôi vừa thoát chết trong gang tấc. Và thứ ba, kênh đào. Vào mùa hè, cậu biết không… hôi thối không chịu được, ôi, thối đến phát mửa. Có kể cả ngày cũng chẳng hết. Hàng tuần giời không lúc nào tôi không đau họng.” Đến lúc chúng tôi tới Bentherim, ông Norris đã trình bày hẳn một bài diễn thuyết về những bất lợi của hầu hết các thành phố lớn ở châu Âu. Tôi kinh ngạc khi biết ông đã chu du nhiều đến thế. Ông đã chịu đựng bệnh thấp khớp ở Stockholm và hạn hán ở Kaunas; ở Riga ông buồn chán, ở Warsaw ông bị đối xử khiếm nhã tột cùng, ở Belgrade ông không thể mua được nhãn hiệu kem đánh răng ưa thích. Ở Rome ông bị côn trùng quấy phá, ở Madrid ông bị ăn xin vòi vĩnh, ở Marseilles ông khó chịu vì tiếng còi xe taxi. Ở Bucharest ông đã có trải nghiệm vô cùng khó chịu với cái cầu tiêu. Ở Constantinopole ông thấy xa xỉ và nhạt nhẽo. Hai thành phố duy nhất ông cực kì khen ngợi là Paris và Athens. Đặc biệt là Athens. Athens là thánh địa của ông. Tới giờ, con tàu đã dừng lại. Những người đàn ông mập mạp tái nhợt trong bộ đồng phục xanh dương đi tới đi lui trên sân ga với vẻ nhàn nhã có phần thâm hiểm, làm nên phong thái quan chức ở các ga cửa khẩu. Họ chẳng khác gì những kẻ giám ngục. Tựa hồ như chúng tôi không một ai được phép đi xa hơn. Mời các bạn đón đọc Người Chuyển Tàu của tác giả Christopher Isherwood & Ngô Hà Thu (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nơi Dòng Sông Chảy Qua - Norman Maclean
Như Norman Maclean viết ở cuối truyện Nơi dòng sông chảy qua rằng ông “bị ám bởi những con nước”, độc giả cũng bị ám bởi tiểu thuyết ngắn của ông. Là một giáo sư ngôn ngữ Anh nghỉ hưu, bắt đầu viết khi đã bảy mươi, Maclean đã viết nên tác phẩm giờ đây được nhìn nhận là một trong những tác phẩm kinh điển Mỹ của thế kỷ hai mươi. Được xuất bản lần đầu vào năm 1976, Nơi dòng sông chảy qua và các truyện khác kỷ niệm năm thứ hai mươi lăm, được đánh dấu bằng phiên bản mới có lời nói đầu của Annie Proulx. Là một giáo sư ngôn ngữ Anh nghỉ hưu, bắt đầu viết khi đã bảy mươi, Maclean đã viết nên tác phẩm giờ đây được nhìn nhận là một trong những tác phẩm kinh điển Mỹ của thế kỷ hai mươi. Được xuất bản lần đầu vào năm 1976, Nơi dòng sông chảy qua và các truyện khác, được đánh dấu bằng phiên bản mới có lời nói đầu của Annie Proulx. Lúc sexy, lúc sầu thảm, lúc chua cay, những câu chuyện tuyệt vời thể hiện “một phần tình yêu tôi dành cho thiên nhiên”, theo lời của chính Maclean. Trong lời nói đầu của bà, Proulx nhắc chúng ta về sức mạnh của quyển sách này khi viết, “Norman Maclean mất năm 1990, nhưng trong lòng hàng trăm ngàn độc giả, ông vẫn còn sống mãi chừng nào cá vẫn còn bơi và sách vẫn còn được in”. *** Norman Maclean (1902-1990) là giáo sư vinh danh William Rainey Harper về ngôn ngữ Anh tại Đại học Chicago. Cuốn sách của ông về đám cháy rừng ở Mann Gulch, bang Montana vào năm 1949, Những người trẻ tuổi và đám cháy, cũng được Nhà xuất bản Đại học Chicago xuất bản. Annie Proulx là tác giả của nhiều quyển sách, bao gồm Cận cảnh: Những câu chuyện Wyoming, Vụ án phong cầm, và Bưu thiếp. Tiểu thuyết Tin tức tàu biển đoạt cả Giải thưởng sách quốc gia và giải Pulitzer. *** “Một câu chuyện kể đầy mê hoặc... Đến giờ, tôi đã đọc truyện ba lần, và mỗi lần lại cảm thấy trọn vẹn hơn”. ROGER SALE New York Review of Books “Đẹp từ đầu đến cuối ở sức mạnh truyền cảm... Đẹp như bất cứ tác phẩm nào của Thoreau hay Hemingway”. ALFRED KAZIN Chicago Tribune Book World “Quyển sách của Maclean - gay gắt, súc tích, quyết liệt - vang vọng một âm hưởng truyền thống phong phú của văn học Mỹ, gồm Mark Twain, Kin Hubbard, Richard Bissell, Jean Shepherd và Nelson Algren. Tôi yêu âm hưởng của quyển sách”. JAMES R. FRAKES New York Times Book Reviews *** Một trong những mục đích của chúng tôi khi tạo nên tủ sách Cánh cửa mở rộng là giới thiệu với bạn đọc Việt Nam về cuộc sống và con người ở những miền đất khác - theo nghĩa cuộc sống và con người như được trải nghiệm bởi những con người thật, chứ không phải qua những phóng chiếu và ước lệ của điện ảnh, sách du lịch thương mại hoặc các thể loại hư cấu khác. Chúng tôi cũng mong muốn mang lại cho bạn đọc những câu chuyện được kể thật giản dị và chân thành, như một tiếng nói thầm trung thực đưa bạn đọc vào một không gian sống, mà ở đó, tất cả chúng ta ngang bằng nhau và buộc phải độ lượng, nhân hậu với nhau khi đối mặt với những khác biệt, khó khăn, mất mát, đau khổ, và hạnh phúc của đời sống con người. Với hai mục đích trên, khi nghĩ đến những cuốn sách về đời sống gia đình Mỹ, Nơi dòng sông chảy qua của Norman Maclean là một lựa chọn dễ dàng. Cuốn sách được viết bằng một sự dịu dàng và thương mến tinh tế về tuổi thơ của mình khi Maclean lớn lên ở “vùng hợp lưu của các con sông đầy cá hồi ở miền Tây bang Montana”, trong một gia đình có cha là một mục sư nghiêm khắc, mẹ là một người phụ nữ kiên nhẫn, em trai Paul ngang tàng, nổi loạn, trong khi bản thân Maclean là một đứa trẻ thâm trầm. Họ là một gia đình Mỹ điển hình ở một thị trấn nhỏ điển hình vào cái thời mà nước Mỹ vẫn còn coi các thị trấn nhỏ (small town) cùng với các quan hệ thân thiết giữa những người sống trong thị trấn như nền tảng của văn hóa Mỹ: một thứ văn hóa dựa trên sự cần mẫn làm việc, kính Chúa, nương tựa lẫn nhau, và trung thực. Maclean viết như thể ông đang kể lại cho các con của mình nghe về thời thơ ấu ở Montana, về những biến đổi của gia đình mình theo thời gian khi những đứa trẻ lớn lên, ra đi, trở lại, nổi loạn, yêu, chết, và cái còn lại. Ở tâm điểm của các biến đổi ấy là ký ức ngọt ngào về một dòng sông, những bài học câu cá trên sông, và những cuộc đời liên quan tới con sông. Nơi dòng sông chảy qua là một câu chuyện của một gia đình Mỹ vào nửa đầu thế kỷ 20, nhưng cũng là câu chuyện của hàng triệu gia đình Mỹ, của nước Mỹ, khi nó chuyển mình sang một xã hội công nghiệp và hiện đại. Cái còn lại sau những chuyển mình đó là những ký ức và những giá trị mà Norman Maclean đã bắt lại và khiến cho Nơi dòng sông chảy qua trở thành một trong những cuốn hồi ký được yêu mến nhất về “cuộc sống Mỹ”, về “giá trị Mỹ”. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuốn Nơi dòng sông chảy qua của Norman Maclean, qua bản dịch của dịch giả Nam An. NGÔ BẢO CHÂU và PHAN VIỆT Mời các bạn đón đọc Nơi Dòng Sông Chảy Qua của tác giả Norman Maclean.
Rừng Son - Candace Bushnell
Một câu chuyện tuyệt vời về ba phụ nữ thành công mới ngoài bốn mươi ở New York, họ biết đích xác mình cần gì: tình yêu, đam mê, quyền lực và rất nhiều tiền... Nico O'Neilly, Wendy Healy, và Victory Ford là những người chiếm vị trí số 8, 12 và 17 trong danh sách "50 phụ nữ quyền lực nhất New York" do tạp chí The New York Post bình chọn. Nhưng vì đây là New York của thế kỷ 21, nên để vươn lên vị trí đầu danh sách và duy trì được vị trí đó, họ sẽ làm bất cứ điều gì, bao gồm cả việc hủy hoại các mối quan hệ cá nhân cũng như các mối quan hệ công việc. Nico là tổng biên tập của tờ tạp chí Bonfire, người đã phản bội lại sếp để có được vị trí đứng đầu của toàn bộ phòng báo chí tại Tập đoàn giải trí khổng lồ Splatch-Verner. Là chủ tịch của Paradour Pictures, Wendy luôn sẵn sàng cho việc có được giải thưởng Oscar cho tác phẩm Ragged Pilgrims mà cô đã dành công sức đầu tư trong 10 năm nhưng cuộc hôn nhân của cô rất đáng xấu hổ và các con cô lại quan tâm tới chú ngựa con trị giá 50.000 USD còn hơn mẹ mình. Còn Victory - nhà thiết kế thời trang độc thân 43 tuổi, lại quan tâm và coi trọng các lời chỉ trích gay gắt hơn là việc tìm kiếm một mối quan hệ đích thực... "Hãy pha sẵn những ly cocktail dưa hấu và sẵn sàng bị cuốn hút bởi những nhân vật ngoài bốn mươi tự tin, thành công, và cực kỳ can đảm trong cuốn tiểu thuyết mới tuyệt vời của Candace Bushnell." (- New York Post) *** “Hãy pha sẵn những ly cocktail dưa hấu và sẵn sàng bị cuốn hút bởi các nhân vật ngoài bốn mươi tự tin, thành công, và cực kỳ can đảm trong cuốn tiểu thuyết mới tuyệt vời của Candace Bushnell.” - New York Post “Ba nhân vật chính của cô (tác giả), những phụ nữ mới ngoài bốn mươi chắc chắn là những người giàu có nhất để hẹn hò... Các nhân vật của cô muốn hưởng ‘cảm giác dịu dàng và ngọt ngào của quyền lực,’ và chính câu chuyện kể về cách họ giành được quyền lực và giữ được nó của Bushnell là thứ thực sự khiến độc giả tiếp tục lật trang.” - Publishers Weekly “Độc giả nào muốn đắm chìm vào thế giới sành điệu của giới thượng lưu ở New York sẽ thấy hết sức thoải mái, quen thuộc trong cuốn tiểu thuyết đặc sắc này.” - Booklist “Hãy đứng vững trong đôi giày Manolos của bạn. Candace Bushnell... đã trở lại. Tiểu thuyết mới của cô, Rừng son, là một câu chuyện tuyệt vời về ba phụ nữ thành công mới ngoài bốn mươi ở New York, họ biết đích xác mình cần gì: tình yêu, đam mê, quyền lực và rất nhiều tiền... Táo bạo và trung thực, mang khuynh hướng chiêm nghiệm, Rừng son rất có thể là cuốn tiểu thuyết hay nhất của Bushnell.” - Bookpage “Thật may mắn làm sao khi chúng ta có được cuốn tiểu thuyết mới của Candace Bushnell hướng dẫn chúng ta an toàn đi qua biết bao cạm bẫy. Nó cho chúng ta thấy những phụ nữ vĩ đại đã vượt qua con đường nhiều chông gai để đến với thành công lớn như thế nào... Là người quan sát thiên tài lát cắt thượng lưu của xã hội Manhattan, cô Bushnell không hề e ngại thách thức chính bản thân mình.” - The New York Observer “Việc Bushnell đã làm rất tốt là chỉ đi trước thời đại một chút. Cũng giống hệt như những cô gái trong Sex and the City, nay đã trở nên phổ biến hơn so với những ngày trên cột báo New York Observer của cô, những phụ nữ quyền lực, mạnh mẽ, quyết liệt trong Rừng son có lẽ sẽ là biển chỉ đường cho những năm sắp tới. Tôi xin đón chào sự thay đổi.” - Salon.com “Rất có thể khi cuốn tiểu thuyết mới nhất của Candace Bushnell, Rừng son, được xuất bản, thể loại được biết đến như là chicklit sẽ có một bước ngoặt. Nó sẽ lớn lên một chút, mở rộng phạm vi và mạo hiểm hơn một chút... Bushnell chính là người đưa hiện tượng xuất bản này lên một đẳng cấp mới, và việc này cũng là hoàn toàn chính đáng. Suy cho cùng, cô là nữ hoàng của thể loại này, thậm chí có khi cô là lý do để thể loại này tồn tại.” - Nashville Scene “Cuốn sách vừa xuất hiện trong tháng này thôi vậy mà bản quyền chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh đã được bán đi. Thậm chí bây giờ hai từ “rừng son”... đã xuất hiện trên hàng loạt màn hình di động BlackBerry ở khắp Manhattan, Bushnell tuyên bố, và hiện diện trong các cuộc chuyện trò của những người sành điệu. Với con mắt xanh phát hiện ra xu thế của cô thì việc viết lách là ở trên tường. Bằng son.” - Baltimore Sun “Có lẽ Rừng son là lá cờ chiến thắng dành cho những người phụ nữ làm chủ đời mình... Bushnell hiểu rõ xã hội New York và cuốn tiểu thuyết mới của cô sẽ khiến độc giả không ngừng lật trang tiếp theo.” - Associated Press “Trong khi nhiều năm trước Carrie Bradshaw là một nhân cách khác của cô thì cuốn tiểu thuyết mới nhất của Bushnell cho ta một cái nhìn về tác giả của ngày hôm nay - một phụ nữ đã ít để ý đến các cuộc chiến giới tính mà quan tâm đến việc phụ nữ giành lấy vị trí của mình trên thế giới hơn.” - The Standard Times Mời các bạn đón đọc Rừng Son của tác giả Candace Bushnell.
Ly Dị, Tuyệt Vọng Và Dễ Thương - Christie Craig
Một món quà ấm áp dành cho những trái tim từng tan nát vì sự phản bội và đau đớn vì hạnh phúc hôn nhân đổ vỡ. Kể từ khi nữ nhiếp ảnh Lacy Maguire bắt được chồng cũ chơi trò Ép Cô Thư Ký vào Vách Thang Máy, cô hài lòng với chú chó Fabio, ba con mèo và một lời thề độc thân. Nhưng tất cả chuyện đó thay đổi khi chú chó Fabio lôi vào nhà một chàng cảnh sát đang trúng đạn và chạy trốn. Lần đầu tiên trong suốt cả một thời gian dài, Lacy xem xét lại lời thề của mình. Vì quý ông Chase Kelly quyến rũ, đang bị tổn thương, sẽ có thể là một cách khá thú vị để phá vỡ những nỗi sợ hãi trong quá khứ của cô. Trong khi Lacy đang có một trái tim đau khổ cần phải cứu chữa, một đống thiệp Giáng sinh cần phải hoàn tất, và một người mẹ từng có sáu lần ly dị luôn giục giã cô cải thiện cuộc sống tình dục của mình. Giờ, nếu cô có thể giữ cho hai người họ còn sống và anh ta thoát khỏi việc tù tội… thì việc Chase trở thành tù nhân của cô sau này và mãi mãi cũng không phải là ước mơ xa vời. *** Christie Craig, sinh ra và lớn lên ở Alabama, là một nhà văn đạt giải thưởng, có sách xuất bản hàng triệu bản, một diễn giả đầy sức thuyết phục, đồng thời là một giáo viên dạy viết văn. Các bài báo và ảnh chụp của bà xuất hiện trên gần ba ngàn tạp chí lưu hành khắp nước. Là người đã lọt vào vòng chung kết giải Golden Heart, cũng như là người lọt vào vòng chung kết trong các cuộc thi do RWA tài trợ, bà có được sự công nhận trong dòng văn học lãng mạn, với văn phong hài hước dí dỏm, pha trộn giữa các tình huống ly kỳ hồi hộp và gợi tình. Nhận giải Holt Medallion Award of Merit dành cho thể loại Best Romantic Comedy Romance Novel năm 2009. Bà hiện sống ở Texas cùng chồng, con trai, với một chú chó và ba con mèo. Sách Christie Craig do Chibooks xuất bản: 1. Shut up and Kiss Me 2. Gotcha! 3. Wedding Can Be Murder! 4. Divorced, Desperate and Delicious 6. Divorced, Desperate and Deceived 7. Divorced, Desperate and Dating *** Ghen tuông tràn vào máu Chase như nọc độc. Anh ra lệnh cho mình phải hít thở, không được phản ứng như kẻ ngu xuẩn. “Anh không phải chạy xe theo em như thế đâu Eric,” Lacy nói. “Em đã nói là em đi được mà.” Chase nhăn nhó. Hóa ra đây là tay bác sĩ thú y thiếu kiên nhẫn, kẻ chỉ muốn được chia sẻ tội lỗi cùng người yêu anh. Có lẽ mình nên phản ứng như tên ngu xuẩn mới phải. Eric khẽ chạm tay trên cánh tay trần của Lacy. “Anh là loại người gì đây nếu không biết bảo đảm cho em được về nhà an toàn chứ?” Là loại người chết ngắc nếu mày còn chạm vào cô ấy lần nữa. Tay Chase nắm chặt hơn khi gã kia cúi xuống. Nhưng Lacy đã quay mặt đi nên môi gã chỉ chạm được vào má nàng. Nhưng dù thế, Chase vẫn không muốn môi gã ở bất cứ chỗ nào gần nàng hết. “Cảm ơn anh đã cho em vào phòng khám của anh hôm nay.” Lacy đặt một tay lên ngực anh chàng để ngăn không cho anh ta hôn nữa. “Thôi, em phải vào nhà đây. Ngày hôm nay dài quá rồi.” Chase quyết định cho Eric hai giây để hiểu thông điệp đuổi về của Lacy, sau đó anh sẽ bắt hắn hiểu thông điệp của mình. Anh thấy thất vọng khi Eric chỉ nhún vai và bỏ đi. Lacy đứng nhìn hắn lên xe và rời ngõ nhà nàng sau đó quay lại mở khóa cửa. ... Mời các bạn đón đọc Ly Dị, Tuyệt Vọng Và Dễ Thương của tác giả Christie Craig.
Giọt Rừng - Mikhail Prisvin
Mikhail Prisvin là một trong những nhà văn Nga viết về thiên nhiên nổi tiếng nhất. K. Paustovski, tác giả Bông hồng vàng rất quen thuộc với độc giả Việt Nam đã viết về ông: “Nếu như thiên nhiên có thể cảm thấy sự biết ơn đối với con người vì con người đã đi sâu vào đời sống bí ẩn của thiên nhiên và ca ngợi vẻ đẹp của nó, thì trước hết sự biết ơn đó phải dành cho Mikhail Prisvin”. Về M. Prisvin, xin đọc bài của K. Paustovski ở cuối sách, ở đây chỉ ghi lại mấy nét tiểu sử của nhà văn. Mikhail Mikhailovitr Prisvin (Михаил Михайлович Пришвин) sinh ngày 4 tháng 2 năm 1873 tại trang ấp Khrusevo (Хрущево) gần thành phố Eles (Елец), tỉnh Orlovskaia (Орловская губерния), miền Trung nước Nga, trong một gia đình ban đầu khá sung túc nhờ thừa kế tài sản của ông nội giàu có nhưng sau bị phá sản vì người bố ham mê săn bắn, cờ bạc. Thuở nhỏ ông học ở trường trung học Eles nhưng bị đuổi học vì “xung đột với thầy giáo” – ông thầy này về sau cũng là một nhà văn khá nổi tiếng và trở thành bạn đồng chí hướng của Prisvin. Sau khi học qua các trường Trung học Tiumen, Cao đẳng Bách khoa Riga, năm 1902, ông tốt nghiệp kĩ sư Nông học Đại học Tổng hợp Leipzig (Đức), làm việc ở nhiều vùng nông thôn Nga, xuất bản một số cuốn sách và bài viết về nông nghiệp. Từ năm 1905, ông bắt đầu bước vào nghề báo chí, năm 1906 in truyện ngắn đầu tay Sasok (Сашок), từ đó M. Prisvin lần lượt cho ra đời những cuốn sách tạo nên tên tuổi của ông trong làng văn nước Nga như Ở xứ sở những con chim không sợ hãi (В краю непуганых птиц, 1907), Bên những bức tường của thành phố vô hình (У стен града невидимого, 1909), Adam và Eva (Адам и Ева, 1909), Aral đen (Черный Арал, 1910)... Năm 1912 - 1914, xuất bản bộ Tuyển tập tác phẩm đầu tiên của M. Prisvin gồm ba tập. Trong thời gian Thế chiến thứ nhất, M. Prisvin làm phóng viên chiến tranh, sau đó làm nghề dạy học ở Smolensina (Смоленщина). Năm 1925, ông viết Những nguồn mạch Berendei (Родники Берендея) mà năm 1935, được bổ sung in lại với tên mới Lịch thiên nhiên (Календарь природы). Từ năm 1927 đến 1930, nhà văn xuất bản bộ mới Tuyển tập tác phẩm gồm bảy tập với lời giới thiệu của M. Gorki. 1933 là năm ra đời một trong những tác phẩm hay nhất của Prisvin Nhân sâm (Женьшень). Năm 1940, ông viết trường ca bằng văn xuôi Phaselia (Фацелия) và tập tiểu phẩm trữ tình – triết học Giọt rừng (Лесная капель), cả hai được xuất bản năm 1943. Sau Thế chiến II, những tác phẩm đáng chú ý của M. Prisvin có thể kể Kho mặt trời (Кладовая солнца, 1945), Câu chuyện của thời đại chúng ta (Повесть нашего времени, 1946), Rừng thông cao vút (Корабельная чаща, 1954), Đôi mắt của đất (Глаза земли, 1957), v. v… Nhà văn qua đời ngày 16 tháng 1 năm 1954 tại Moskva. Tên của ông được đặt cho nhiều đường phố ở các địa phương khác nhau của nước Nga. *** Thuở xưa khi còn là những đứa trẻ hiếu kì, chúng tôi thường hay đập vỡ đồ chơi của mình cũng như bất cứ thứ quà tặng nào, thậm chí cả đồng hồ, để biết được bên trong có những gì. Rồi ở trường, người ta cũng dạy chúng tôi cách ứng xử với thiên nhiên như thế: được dẫn ra ngoài cánh đồng, mỗi người hái một bông hoa rồi bứt cánh để đếm xem hoa có bao nhiêu cánh, bao nhiêu nhuỵ, đài hoa kết cấu ra sao v.v... Nói chung, sự thể xảy ra với bông hoa cũng hệt như với những đồ chơi thời thơ bé: hình dạng bị dập nát, xé nhỏ - và không còn cả bông hoa cũng chẳng còn cả đồ chơi nữa. Còn bây giờ thì chúng tôi học thiên nhiên không chỉ không phá hỏng hình ảnh của bông hoa đá sống động(1) mà ngược lại còn làm giàu cho thiên nhiên những hình ảnh mang tính người của mình. Chính tôi cũng đã học được điều đó trong quá trình ghi chép viết lách. Và thế là Giọt rừng của tôi ra đời như một trải nghiệm nghiên cứu đầy chất thơ cái thiên nhiên được hiểu trong sự hoà hợp với con người sống trong nó và tạo ra nó. Mikhail Prisvin Mời các bạn đón đọc Giọt Rừng của tác giả Mikhail Prisvin.