Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ảo Hỏa - Hermann Hesse

Ảo hóa, một truyện ngắn chỉ vài mươi trang nhưng nó giúp chúng ta vỡ lẽ triết lý “Tánh Không" của Đạo Phật: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành thức cũng lại như vậy". Có thế nói, khi đọc đến chứ cuối cùng của tác phẩm này, Ảo hóa đã đem lại cho người đọc sư vỡ òa của trí tuệ, giúp nhìn rõ thưc tánh “không có chỉ bên" của vạn vật, giống như là vừa tung xong bài “Bát nhã Tâm Kinh". *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana. Ravana có một người con trai tên Dasa. Mẹ Dasa chết sớm, vương tử cưới một người vợ khác. Sau khi người đàn bà đẹp và tham vọng này sinh được một con trai, bà đâm ra thù ghét Dasa. Bà muốn cho Nala, con mình kế vị, nên âm mưu chia rẽ cha con Dasa, và chờ cơ hội thanh toán cậu bé. Trong triều, có một người Bà-là-môn, tên Vasudeva, viên quan coi về tế tự, biết được âm mưu của bà. Ông thương tình cậu bé, người mà ông thấy có khuynh hướng sùng tín và đức công bằng giống mẹ. Ông trông chừng cho Dasa khỏi bị hại, và chờ dịp đưa cậu ra khỏi tầm tay mẹ ghẻ. Bấy giờ vua Ravana sở hữu một đàn bò được xem là thiêng liêng. Sữa và bơ của chúng dùng để tế thần. Những đồng cỏ tốt nhất trong xứ dành cho những con bò ấy. Một ngày kia, người chăn bò đem sữa về kinh, báo cáo rằng trong vùng bò đang ăn cỏ, có những dấu hiệu sắp hạn hán. Do đó, đoàn người chăn dẫn bò lên những dãy núi cao, ở đó nước và cỏ luôn luôn sẵn sàng ngay cả vào những thời khô ráo nhất. Người Bà-la-môn đã quen biết người chăn bò này từ lâu, anh ta là một người đáng tin cậy. Ông cho anh ta biết dự định của mình. Hôm sau, khi hoàng tử bé Dasa biến mất, thì chỉ có ông và người chăn ấy biết được lý do bí ẩn của sự mất tích. Người chăn bò đem cậu bé theo lên núi rừng. Họ theo kịp đàn bò di chuyển chậm chạp. Dasa sung sướng được gia nhập đoàn mục tử. Cậu phụ giúp thả bò, vắt sữa, chơi với những con bê, và lang thang khắp những đồng cỏ trên núi, uống sữa tươi ngọt ngào. Những bàn chân trần của cậu lấm đầy phân bò. Cậu thích đời sống mục tử này, dần quen với rừng núi và những cây trái, hoa cỏ của nó. Cậu nhổ những củ sen ngọt trong ao đầm, và vào những ngày lễ hội, cậu đeo một tràng hoa rừng đỏ chói. Cậu trở nên quen thuộc với đường đi lối về của thú rừng. Tập tránh cọp, chơi với những con sóc và nhím. Mùa mưa cậu ở trong căn nhà lá, mà ở đó bọn chăn bò chơi cờ, hát hoặc đan giỏ hay chiếu cói. Dasa không hẳn quên hết đời sống vương giả của mình trước đấy, nhưng chẳng mấy chốc những thứ này đối với cậu dường như một giấc chiêm bao. Một ngày kia, khi đàn bò đi đến một vùng khác, Dasa vào rừng để tìm mật. Từ ngày biết núi rừng, cậu đã bắt đầu thích; nhưng đặc biệt khu rừng này, cậu thấy nó đẹp lạ. Những tia nắng lượn khúc qua những cành lá trông như những con rắn vàng. Những tiếng của rừng, tiếng chim hót, tiếng xào xạc của những ngọn cây, tiếng của những con khỉ quyện vào nhau thành một mạng lưới âm thanh êm dịu trong sáng, giống như ánh sáng giữa những cành cây. Những mùi hương cũng vậy, hoà vào nhau rồi lại phân tán: hương của hoa rừng, của những loại cây, lá, nước, rêu, thú vật, trái cây và của đất, vừa cay nồng vừa dịu ngọt, vừa hoang dã vừa thân thiết, vừa kích thích vừa thoa dịu, vừa buồn vừa vui. Dasa quên mất việc tìm mật. Trong khi lắng nghe tiếng hót của những con chim nhỏ màu sáng như ngọc, cậu chú ý đến một đường mòn giữa những cây phong chót vót, trông như một cụm rừng nhỏ ở trong khu rừng lớn. Đấy là một lối đi rất nhỏ hẹp, cậu im lặng rón rén bước theo dấu đường mòn, và đến một cây bàng có nhiều nhánh lớn. Dưới gốc cây, có một cái chòi nhỏ, một túp lều đan bằng lá dương xỉ. Cạnh túp lều, một người đàn ông đang ngồi bất động, lưng thẳng tuột, hai bàn tay đặt trên đôi chân bắt chéo. Dưới mái tóc bạc trắng và vầng trán rộng, đôi mắt bất động của ông tập trung trên mặt đất. Đôi mắt ấy đang mở, nhưng như nhìn vào bên trong. Dasa nhận ra rằng đấy là một người thánh thiện, một người tu phái Yoga. Trước đấy cậu đã thấy những người như vậy, đó là những người được ân sủng của thần linh, đáng được tôn trọng, cúng dường. Nhưng người cậu đang thấy đây, ngồi trước túp lều được lợp rất đẹp và ở nơi kín đáo này, hoàn toàn bất động như thế, đăm chiêu trong thiền định - người này càng lôi cuốn cậu bé hơn bất cứ người nào cậu đã gặp. Ông ta dường như bay lượn trên mặt đất, trong khi đang ngồi đấy, và dường như cái nhìn xa xăm của ông, thấy và biết mọi chuyện. Một hào quang của sự thánh thiện vây phủ ông, một phép mầu của sự tôn nghiêm lan toả làm cho cậu không dám phá tan bằng một lời chào hay một tiếng kêu. Vẻ uy nghiêm của người ông, ánh sáng nội tâm rạng ngời trên gương mặt ông, mãnh lực tâm linh toát từ nơi ông khiến Dasa có cảm tưởng đây là một con người mà, chỉ cần móng một niệm nghĩ, không cần phải ngước mắt lên, cũng có thể sinh và sát được cái gì ông muốn. Người ẩn sĩ ngồi bất động hơn cả cây cối mà những cành lá còn lay động trong hơi thở của gió. Người này ngồi bất động như một pho tượng đá, và từ khi thấy người ấy, cậu bé cũng đứng bất động, say mê, như bị bùa lực lôi cuốn. Cậu đứng nhìn chòng chọc vào vị thầy. Cậu thấy một đốm sáng mặt trời trên vai ông ta, một đốm sáng trên một bàn tay buông thõng của ông, cậu trông thấy những điểm sáng di động ẩn rồi hiện, nhưng những thứ này không làm vị ấy cử động, cũng như tiếng chim hót và tiếng của những con khỉ từ các khu rừng xung quanh. Một con ong rừng đến đậu trên má ông, đánh hơi làn da ông, bò một đoạn ngắn trên má ông rồi vụt bay đi. Nhà ẩn sĩ vẫn ngồi bất động trước tất cả sự sống động đủ màu sắc của khu rừng. Tất cả cảnh tượng này, những gì mắt có thể thấy, tai có thể nghe, những cái đẹp và xấu, đáng yêu hay kinh khủng, đều không mảy may liên hệ đến con người thánh thiện này. Toàn thể thế giới xung quanh ông đã trở thành bề mặt vô nghĩa lý. Cậu bé mục tử có gốc gác vương giả tưởng chừng như vị ẩn sĩ này đã lặn sâu xuống dưới lớp bề mặt của cuộc đời và đi vào bản thể của mọi sự. Một điều lạ lùng, trong khi đứng đấy, cậu bỗng nhớ lại gốc gác vương giả của mình. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Hỏa của tác giả Hermann Hesse.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Sóng - Yukio Mishima
Yukio Mishima (1925-1970) được đánh giá là một trong những tác giả quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được coi là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học. Những tác phẩm xuất sắc của Mishima có The Temple of the Golden Pavilion (Ngôi đình tạ bằng vàng -1956), bộ bốn tác phẩm The Sea of Fertility (Biển cả muôn màu - 1965-70)... Mishima sinh năm 1925, con trai của một quan chức chính phủ. Tên thật của ông là Kimitaka Hiraoka. Bố ông vốn không muốn con trai mình đi theo nghiệp văn chương chữ nghĩa nên ông phải đổi tên để viết trộm. Hiraoka được nuôi nấng và trưởng thành dưới sự giám sát chặt chẽ của bà nội. Trong thế chiến II, nhà văn được miễn nghĩa vụ quân sự, ông làm việc trong một nhà máy. Đây là điều khiến Mishima day dứt suốt cuộc đời. Nhà văn cho rằng mình đã sống sót một cách đáng xấu hổ trong khi rất nhiều người khác phải đổ máu ngoài chiến trường. Sau chiến tranh thế giới II, Mishima học luật tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Trước khi dấn thân vào sự nghiệp văn chương, ông làm việc một năm trong Bộ Tài chính. Năm 1946, ông gặp gỡ Kawabata Yasunari, người sau đó đã giới thiệu những truyện ngắn đầu tay của ông với một vài tạp chí văn học uy tín. Confessions of a Mask (Lời thú nhận của người đeo mặt nạ - 1949) là tác phẩm đầu tiên ghi lại dấu ấn tên tuổi của Mishima trên văn đàn. Cuốn sách chính là một lối thoát giúp nhà văn giải tỏa những cảm xúc của chính mình khi phát hiện bản thân là người đồng tính. Trong truyện, nhân vật người kể chuyện thú nhận, ông đã phải tự trang bị cho mình một chiếc mặt nạ "bình thường" để tránh sự xoi mói của xã hội. Mishima chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa yêu nước trung quân truyền thống và tinh thần võ sĩ đạo samurai của Nhật Bản, tuy ông vẫn diện đồ tây và ở nhà tây. Năm 1968, ông thành lập Hiệp hội Shield (Tate no Kai - Hội lá chắn) - một tổ chức bán quân sự tập hợp khoảng 100 thanh niên trai tráng với mục đích chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo Bushido, tán dương chủ nghĩa quốc gia và bảo vệ Hoàng đế Nhật. Không biết do đâu, Hội lá chắn cũng được quyền tham gia huấn luyện cùng quân đội Nhật. Ngày 25/11/1970, ông cùng những người bạn bao vây Cục Phòng vệ Nhật Bản ở Tokyo, bắt giam Tướng Kanetoshi Mashita và xúi giục quân sĩ tiến hành chính biến. Lời thỉnh cầu này của ông gặp sự phản ứng dữ dội của quân đội. Thất bại, tuân thủ tinh thần võ sĩ đạo, ngày 25/11/1970, ông đã tự sát bằng cách tự mổ bụng moi gan theo nghi thức seppuku. Trước khi chết nhà văn còn hô to: "Hoàng đế muôn năm". Cũng trong ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ông giao nốt cho nhà xuất bản những trang viết còn lại của bộ cuốn tiểu thuyết The Sea of Fertility. Cái chết của Mishima được tác giả Christopher Ross miêu tả trong cuốn sách Mishima's Sword (Lưỡi kiếm của Mishima) như sau: "Lưỡi kiếm đã ngập sâu vào khoang bụng cỡ 10 cm, ông ấn lưỡi kiếm chầm chậm từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, mở toác từng lớp da. Máu tràn ra lênh láng trên sàn nhà. Một cuộn nội tạng màu hồng hồng xam xám nhờ nhờ thòi ra từ vết thương. Mùi tanh nồng xông lên khắp căn phòng". Không thanh lịch, không tao nhã, nghi thức chết của Mishima cũng không hề khoa trương. Nhà văn từng gợi ý cho một nhà báo là nên quay lại cảnh ông tự sát. Nhưng họ cũng không chuẩn bị gì trước để đón nhận sự kiện này. Khoảng 2 giờ trước khi tiến hành nghi thức tự sát, ông gọi điện cho hai phóng viên và úp mở với họ rằng: "Có chuyện sắp sửa xảy ra". Cái chết của nhà văn lúc bấy giờ đã gây nên một chấn động dữ dội không chỉ với Nhật Bản mà đặc biệt là đối với người phương Tây. Nhiều học giả phương Tây đã đến Nhật Bản để tìm hiểu ý nghĩa cái chết của ông: Liệu đó là một bức thông điệp chính trị của nhà văn hay là một tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của ông theo tinh thần võ sĩ đạo. Cho đến nay, hầu như họ không có được câu trả lời như mong đợi. Người dân Nhật hiện đại ngày nay coi cái chết phi thường của nhà văn là vô nghĩa, là "ngớ ngẩn" và "không đáng". Tác giả của cuốn sách Mishima's Sword - Christopher Ross - kể: Trong một lần Ross đang ngồi đọc các tác phẩm của Mishima trong một hàng cà phê sách, một nhân viên cửa hàng bảo ông: "Mishima là quá khứ, không phải là hiện tại và càng không phải là tương lai". Dẫu vậy, Yukio Mishima vẫn là một tên tuổi quan trọng trên văn đàn Nhật thế kỷ 20. *** Bây giờ thì Shinji đã có thể công nhiên đến chơi gia đình Miyata. Một tối, sau khi đi đánh cá trở về, anh đứng trước cổng réo tên Hatsue mà gọi. Anh chàng mặc cái quần mới giặt, chiếc áo thể thao trắng bong, mỗi tay xách lủng lẳng một con cá điêu to tướng. Hatsue đã sửa soạn sẵn sàng và đang chờ đợi anh chàng. Hai người đã hẹn cùng nhau tới thần xã Yashiro dâng lễ tạ rồi đến ngọn hải đăng báo tin đính hôn. Bóng chiều tăm tối trong căn phòng nền đất chợt rực sáng hẳn lên khi Hatsue bước ra. Nàng mặc tấm áo mỏng mùa hè - may bằng thứ vải mua của ông lão bán hàng rong ngày nọ - in hình lá triêu nhan trên nền trắng - màu vải trắng tinh đến nỗi ban đêm cũng nhìn thấy nổi bật. Dựa lưng vào cổng, Shinji đứng chờ, thế nhưng lúc Hatsue từ trong nhà đi ra, anh chàng lại vội vã cúi mặt nhìn xuống, đưa đẩy một bàn chân đang đi guốc làm như thể đang xua đuổi côn trùng và lẩm bẩm: “Muỗi ghê quá!” “Thế hả?” Hai cô cậu cùng sóng vai đi lên những bậc thềm đá dẫn tới thần xã Yashiro. Họ có thể chạy thẳng một mạch lên tới nơi thực nhẹ nhàng nhưng lòng tràn trề hạnh phúc, họ chậm rãi bước lên từng bậc như để thích thú, say sưa tận hưởng niềm sung sướng của từng bước chân đi. Lên tới bậc thềm thứ một trăm, chàng và nàng dừng lại như tiếc rẻ không muốn lên ngay tới đỉnh. Chàng muốn cầm tay nàng nhưng hai tay vướng hai con cá điêu nên lại đành thôi. Cả thiên nhiên cũng ban ân sủng cho chàng và nàng. Khi lên tới đỉnh rồi, chàng và nàng quay nhìn chung quanh rồi đưa mắt về phía vịnh Ise. Bầu trời ban đêm đầy những sao nhưng chỉ có một vài áng mây thấp vắt ngang chân trời phía bán đảo Chita; những ánh chớp im lìm thỉnh thoảng lại lóe lên, ngoằn ngoèo phía đó. Ngay cả tiếng sóng cũng không ồn ào mà chỉ lùa tới đều đều, êm ả như thể mặt biển đang thở nhẹ trong giấc ngủ ngon lành. Đi qua khu rừng thông nhỏ, chàng và nàng tới ngôi thần xã, ghé vào lễ tạ. Chàng thanh niên cảm thấy kiêu hãnh ngập lòng khi nghe tiếng đôi bàn tay người yêu chắp lại, đập vào nhau vang vang ròn rã, ngân xa. Thế rồi chàng cũng chắp tay vái lạy. Hatsue đã cúi đầu lễ bái và đang khấn khứa thì thầm. Nổi bật trên cổ áo trắng bong, phần thịt da sau gáy nàng trông tuy xạm nắng không được trắng trẻo nhưng lại làm Shinji say sưa ngây ngất hơn là bất cứ cái cần cổ nào trắng nhất trên đời. Một lần nữa, chàng thanh niên lại nhắc nhở lại cho lòng mình niềm hạnh phúc tràn trề mà thần linh đã thực sự ban cho theo đúng những lời mình cầu nguyện. Chàng và nàng nguyện cầu, khấn vái một lúc lâu nữa. Vì chưa bao giờ nghi ngờ sự gia hộ của thần linh nên hai người có thể cảm thấy cả sự gia hộ ấy bao trùm quanh khắp thân mình. Phòng việc của thần xã thắp đèn sáng choang. Shinji cất tiếng gọi và ông thủ từ liền thò mặt ra bên khung cửa sổ. Shinji trình bày qua loa mấy nét chính của câu chuyện nhưng vì anh chàng nói năng có vẻ mơ hồ nên trong một lúc, ông thủ từ chẳng hiểu rõ đầu đuôi hai cô cậu định kéo nhau lên đây làm gì. Nhưng cuối cùng nghe mãi cũng hiểu nhất là khi Shinji đưa ông con cá điêu bảo để làm lễ vật dâng lên thần linh. Nhận món quà biếu từ biển cả đưa lên, ông thủ từ còn được nhắc nhở là ông sẽ được mời dự lễ cưới của chàng và nàng; ông tỏ lời chúc tụng nồng nhiệt cho cả hai cô cậu. Vượt con đường mòn qua khu rừng thông nhỏ phía sau ngôi thần xã, chàng và nàng lại đắm mình trong hương đêm mát dịu êm đềm. Tuy mặt trời đã lặn từ lâu nhưng những con ve sầu hãy còn kêu ra rả. Con đường đất nhỏ dẫn lên ngọn hải đăng dốc tuột thực là nguy hiểm, lúc này một tay rảnh rang không còn vướng mắc gì nữa, Shinji mới nắm tay Hatsue trong tay mình và nói: “Anh đang tính sẽ học thi lấy bằng đệ nhất hàng hải phó quan. Mình có thể học để lấy bằng khi trên hai mươi tuổi, Em ạ!” “Ồ! Như vậy thì hay tuyệt!” “Đến lúc lấy được bằng, anh nghĩ chúng mình cưới nhau là vừa đẹp”. Hatsue không đáp, chỉ e thẹn mỉm cười. Họ đi vòng theo Dốc Bà tới nhà ông trưởng đài hải đăng. Chàng thanh niên lên tiếng chào hỏi như thường lệ ngay khi vừa tới khung cửa kính - nơi họ có thể nhìn thấy bóng bà chủ nhà đi qua đi lại trong lúc làm cơm. Bà chủ nhà mở cửa. Đứng trong tối nhìn ra bà thấy chàng thanh niên và vị hôn thê của anh chàng đang đứng dùng dằng nửa vào, nửa không. “Ồ! hai cô cậu đây rồi, vào nhà đi!” Bà vợ lớn tiếng gọi ra rồi đưa cả hai tay đón nhận con cá to mà Shinji chìa về phía mình. Rồi bà gọi vói vào trong nhà: “Bố nó ơi! Chú Shinji lại đem cho mình con cá điêu đẹp quá là đẹp!” Đang ngồi nghỉ thoải mái trong phòng, ông trưởng đài hải đăng nói vọng ra nhưng vẫn chưa đứng dậy: “Cảm ơn vô cùng. Và lần này, có lời chúc mừng nữa đấy. Hãy vào nhà chơi, vào nhà chơi một lúc đã nào”. Bà trưởng đài nói thêm: “Vào một chút đã nào! Ngày mai em Chiyoko nó cũng về thăm nhà nữa đấy!” Chàng thanh niên chẳng hề hay biết chút gì về những cảm động mình đã khơi dậy trong lòng Chiyoko cùng những khắc khoải nội tâm mà nàng đã chịu đựng vì mình, nên anh đã nghe câu nói đột ngột của bà mẹ mà cũng chẳng thấy một ý nghĩa gì đặc biệt. Vì bị giữ lại ăn cơm tối, chàng và nàng đã nấn ná thêm tới hơn một tiếng đồng hồ. Sau đó ông trưởng đài hải đăng lại quyết định dẫn cả hai cô cậu đi một vòng xem ngôi hải đăng trước khi ra về. Vì mới trở về đảo nên Hatsue chưa được thấy bên trong ngôi hải đăng một lần nào cả. Thoạt tiên, ông trưởng đài dẫn họ lên xem căn phòng trực nho nhỏ. Muốn đi từ khu nhà ở tới đây, họ phải đi men theo mảnh vườn rau nhỏ bé, nơi vừa mới gieo hạt thìa là hôm trước, rồi trèo lên những bậc thềm xi-măng. Trên cao là ngọn hải đăng dựa lưng vào vách núi và cái phòng trực ngay mép vách đá dốc tuột, dựng đứng, đâm thẳng xuống mặt biển. Ánh ngọn đèn pha trên ngôi hải đăng trông giống như một cột sương mù óng ánh, quét từ bên phải sang bên trái qua gồi phòng trực, phía trông ra ngoài biển. Người gác mở cửa phòng trực, bật đèn lên. Ba người trông thấy những cây thước tam giác định quy treo lủng lẳng trên khung cửa sổ, cái bàn giấy thu xếp hết sức ngăn nắp với tấm bảng ghi tàu bè qua lại và cái kính viễn vọng đặt trên một cái giá ba chân quay mặt về phía các cửa sổ. Ông trưởng đài hải đăng mở một cửa sổ, điều chỉnh viễn vọng kính rồi hạ xuống cho vừa tầm mắt Hatsue. Nàng nhìn qua kính viễn vọng, dừng lại một lúc, lấy tay áo lau ống kính rồi nhìn lại lần nữa, buột một tiếng kêu vui thích: “Ôi, đẹp quá chừng!” Thế rồi trong khi Hatsue xoay ống kính về các đốm sáng ở nhiều phương giác khác nhau, Shinji dùng ngay đôi mắt thị lực mạnh mẽ, sắc bén của mình mà nhìn theo và giải thích cho nàng nghe. Dán chặt mắt vào kính viễn vọng, Hatsue trước tiên chỉ về hàng chục điểm sáng lốm đốm trên mặt biển về phía Đông nam: Những điểm sáng ấy ư? Đó là ánh đèn trên ngọn đèn trên mặt biển đều tìm thấy một hình ảnh chiếu ứng trong vô số các vì sao ở một nơi nào đó trên bầu trời. Ngay trước mặt là ánh đèn từ ngọn hải đăng trên mỏm Irako. Phía sau ngọn hải đăng ấy là ánh đèn rải rác khắp thành phố trên mỏm Irako và ở phía trái những ánh đèn trên đảo Shino lấp lánh tỏ mờ. Thật xa về phía trái, họ có thể nhìn thấy ngọn hải đăng trên mũi Noma tại bán đảo Chita. Bên phải ngọn hải đăng này là những chùm ánh sáng trên hải cảng Toyohama - ở ngay giữa là ngọn đèn trên cái đê ngăn sóng của hải cảng. Và xa hơn, chếch sang bên phải là ngọn đăng đài hàng không lung linh nhấp nháy trên đỉnh núi Oyama. Hatsue một lần nữa lại buột ra một tiếng kêu thích thú. Một chiếc tầu chở hàng vượt đại dương to lớn vừa đi vào tầm kính viễn vọng. Đối với mắt thường thực khó mà nhìn ra, tuy nhiên trong lúc con tầu hiên ngang tiến vào tầm viễn vọng kính, thì nó ghi vào ống kính một ảnh tượng uyển chuyển, đẹp đẽ, nổi bật đến nỗi chàng thanh niên và nàng thiếu nữ phải thay phiên nhau ghé mắt vào ống kính mà ngắm nhìn. Hình như đó là một chiếc tầu chở cả hàng hóa lẫn hành khách trọng tải đến hai ba ngàn tấn. Trong một căn phòng bên ngoài boong đi dạo mát họ có thể nhìn thấy rõ ràng nhiều chiếc bàn trải khăn trắng và một số ghế ngồi. Không thấy một bóng người ở đó. Căn phòng có vẻ là phòng ăn và trong lúc họ đang ngắm nghía bức vách lát gạch hoa men trắng thì bất thình lình, một người bồi bàn mặc quần áo trắng từ bên phải bước vào rồi đi về phía những khung cửa sổ. Trong khoảnh khắc, con tầu thắp đèn xanh ở đằng mũi cũng như đằng đuôi, vượt ra ngoài tầm viễn vọng kính rồi lướt vào thủy đạo Irako đi ra Thái Bình Dương. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Sóng của tác giả Yukio Mishima.
Phương Pháp Của A.C.Kinsey - Bùi Anh Tấn
Lặng lẽ đoạt giải Nhất cuộc thi tiểu thuyết và ký do Bộ Công an và Hội nhà văn Việt Nam tổ chức năm 1999 - 2002 với tác phẩm "Một thế giới không có đàn bà", Bùi Anh Tấn đã bình thản đặt những bước đi của mình vào ngôi đền văn học, giành lấy cho mình một chút dư vang. Ở người đàn ông này có một cái gì đó cứ âm trầm, da diết chảy, một cái gì đó - dù rất nhỏ nhoi trong sâu khuất các ý niệm - đang cọ cựa. Tác giả như muốn chống lại sự lãng quên, như muốn thổi tung lớp bụi cũ kỹ của thời gian và bạc bẽo của nhân thế đang bao phủ lên từng mảng lớp của cuộc đời. (Nhà báo Nguyễn Vịnh) Dùng hình thức tiểu thuyết hình sự để viết về một đề tài gai góc, tế nhị, nhà văn Bùi Anh Tuấn đã thành công trong việc lôi cuốn người đọc và tạo được sự cảm thông với những dân Gay. (Nhà văn Đoàn Thạch Biền) *** Nhà văn Bùi Anh Tấn: "Gay" hay "Les" tôi đều thích cả! Bùi Anh Tấn là nhà văn đầu tiên viết về đề tài đồng tính nên anh đã vấp phải nhiều luồng dư luận đối kháng. Kẻ này hoan nghiênh đề tài lạ nhưng chưa phải là mới, kẻ khác lại cho rằng viết như thế vẽ đường cho hươu chạy! Bất chấp mọi ý kiến, tuần qua Bùi Anh Tấn bắn tiếp một phát đạn thứ hai bằng tiểu thuyết "Les - Vòng tay không đàn ông". Với "Một thế giới không có đàn bà" anh gặp quá nhiều dư luận khen chê, thậm chí đặt dấu hỏi to đùng về giới tính của anh. Bây giờ anh tiếp tục "tái xuất" với một tiểu thuyết cùng đề tài nhưng "trái dấu" đó là "les" (đồng tính nữ). Anh không ngại búa rìu dư luận sao? Bùi Anh Tấn: Đối với một người cầm bút viết văn, điều sợ hãi nhất là lặp lại chính mình, thà không viết nữa còn hơn viết lại những gì mình đã viết. Chính vì vậy, với "Les - Vòng tay không đàn ông" tôi tự coi là trách nhiệm viết một tác phẩm cho những người đồng tính, vì họ cũng cần được quan tâm. Tôi viết nhiều về đề tài đồng tính vì tôi hiểu họ, tôi tôn trọng họ. Gay hay les gì tôi đều yêu cả. Bạn bè tôi cứ nói thế này "Bùi Anh Tấn đã viết một thế giới không có đàn bà, rồi đến một thế giới không có đàn ông. Thôi mai mốt viết nốt luôn "Thế giới không có người" cho đủ bộ". Trước đây khi viết "Một thế giới không có đàn bà" tôi gặp rất nhiều khó khăn vì mình chỉ là người vô danh, chưa đủ độ tin cậy cho một gay nào đến cung cấp tư liệu. "Les - Vòng tay không đàn ông" tôi được những bạn đọc là người đồng tính tìm đến tâm sự, cung cấp những tình tiết mà nhiều khi tôi không tưởng tượng nổi trên đời này có việc ấy xảy ra. Nói thuận lợi cũng không phải là hoàn toàn. Vì sao à? Để hiểu một người đàn bà bình thường là vô cùng khó, để hiểu một người đàn bà "les" thì còn khó hơn gấp nhiều lần. Anh có vẻ bi quan khi cho số phận các nhân vật đồng tính của mình có một kết cuộc buồn, thảm khốc. Đỉnh điểm là nhân vật Cô Út trong "Les - Vòng tay không đàn ông", một người đàn bà sống nghiêm túc đến độ khô khan lại phải chết vì hoảng loạn khi chỉ mới thoáng nghĩ mình có vấn đề về giới tính dù ít hay nhiều. Cái chết này chỉ là một tai nạn chứ không phải cô này tự đi tìm cái chết, cô không cố ý tìm đến cái chết. Vì cô Út sống trong một gia đình vô cùng nghiêm khắc do vậy khi mà phát hiện ra những sự thật chính tàn nhẫn nơi chính bản thân mình, cô ta không chịu nổi nên hoảng loạn chạy ra đường... Đây quả là điều đáng tiếc, nhưng tôi muốn nói: còn nhiều người vẫn chưa trả lời được câu hỏi "Tôi là ai?" ngay cả chính bản thân mình. Đôi lúc trai cũng thích mà gái cũng thích, ngủ với vợ mà mơ đàn ông, nhưng "đi" với với đàn ông lại cảm thấy sợ hãi, hoảng loạn. Quả là bi kịch của con người, không biết mình là ai đấy mới là đau khổ. Anh có nghĩ mình sẽ làm phật lòng những người đồng tính nam khi anh cho rằng "Là một người đồng tính nam thì trước sau gì cũng nhanh chóng bộc lộ bản thân mình... *** Còn đó một chút hư vô, còn đó một chút phiêu du, cánh sen hồng phai bay theo làn mây bay… bay…” Thật lạ cho một nhạc sĩ tuổi đời còn khá trẻ mà lại có thể viết nên những ca từ mang đầy hơi thở phiêu du lãng đãng đến như vậy. Và được vang lên từ chiếc cassette du lịch nhỏ, trong một buổi chiều đông Đà Lạt giá lạnh 12 độ. Gió len vào từng chân tơ kẽ tóc dưới bầu trời xám xịt với những hạt mưa phùn bay bám lên những cành lá rũ xuống làm tăng thêm vẻ mênh mông buồn của bản nhạc. Nếu chưa từng biết nhạc sĩ trẻ này thì Cường không thể nào nghĩ rằng anh ta chính là tác giả của bài hát, bởi hiểu theo lẽ thông thường, để viết được lời ca này phải là người từng trải, cuộc đời qua nhiều sóng gió truân chuyên ngọt bùi đắng cay và một ngày kia, tóc bạc, dựa cửa ngắm mây bay, chiêm nghiệm đời để mà viết. Cường lý luận như vậy mà phì cười tự giễu mình sao dạo này đa cảm quá. Cũng không hiểu sao, chỉ một lần thôi khi anh vô tình được nghe bài hát này qua giọng ca một nam ca sĩ thuộc hàng ngôi sao của một thành phố trong một quán cà phê nhạc mà anh bất chợt ghé qua trú mưa, thì từ đó, Cường luôn thấy mình bị ám ảnh bởi những lời ca phiêu lãng ấy đến tận bây giờ. Luôn luôn là một nỗi buồn dịu dàng không tên, len lén, nhoi nhói trong tim anh với những cảm giác của mơ hồ dịu ngọt mà bồng bềnh chơi vơi mong được bay xa, bay mãi. Rặng thông già vươn cao, trầm ngâm suy tư, xòe tay đan vào nhau dắt hàng chạy dài dọc theo con đường đá nhỏ uốn khúc từng bậc thang cheo leo bên vách núi đá đi lên một tu viện nhỏ thuộc Đan viện Cát Minh nằm ở tận gần trên đỉnh núi. Gọi núi hay đồi cũng được bởi không cao lắm, một bên là vách đá dựng đứng, di tích những cuộc khai thác lấy đá đến vô độ của những thập niên trước, bên này thì thoai thoải rừng thông chạy tràn dài xuống tận phía dưới. Thông xanh muớt, vi vu vui đùa với mây gió qua bao năm tháng thăng trầm của đời người lẫn thời cuộc. Con người từ tóc xanh thành tóc bạc rồi về với cát bụi hư vô mà rừng thông thì bao nhiêu năm rồi vẫn thế. Tạo hóa mới thật vô thường làm sao, những tiếc nuối trăng trở ưu tư rồi cũng như gió mây phù du lãng đãng của trời đất. Từ một đồi thông hoang vắng thì nay nó đã trở thành một nơi thiêng liêng của Thiên Chúa. Người dân quanh đây sùng kính gọi nơi này là đồi Thánh nữ bởi sự vinh danh vị Thánh Teresa thành Avila. Cuộc đời bà là sự thánh thiện hy sinh vô biên của những đau khổ bị giày xéo và những ân sủng thần bí mà nữ thánh này chấp nhận trong quá trình cải tổ những dòng kín, với châm ngôn “Muốn không để bất cứ ai mất linh hồn, tôi sẵn sàng thí mạng tôi cả ngàn lần” mà bất kỳ con dân nào của Chúa cũng biết đến. Dọc hai bên đường từng bậc than đá đi lên, Cường để ý thấy có rất nhiều những bông hoa nhỏ bé li ti manh mảnh như những đầu ngón tay xinh xinh, không rõ tên, nhiều màu tím, vàng, đỏ, chen lẫn nhau mọc đầy dọc ven con đường đất xen kẽ, lốm đốm như thảm hoa trải dài, nhìn thật đẹp. Và đứng phía dưới, nhìn lên trên đỉnh ngọn đồi có thể thấy được “Mẹ Thiên Chúa” tức đấng “Đồng Công Cứu Chuộc” đang chắp tay hướng lên trời cao, nét mặt bình thản an nhiên một mình trong chiều tà gió lạnh với ánh mắt tràn đầy tình yêu thương đang dõi về một phương xa vô tận nào đấy. Khi lên đến nơi có thể thấy rõ Đức Mẹ Maria mặc áo dài trắng, đầu quấn khăn tấm ba vành nhìn rất Việt Nam, cho thấy dường như tượng Đức Mẹ được dựng sau Công đồng II với quan điểm, hướng về bản sắc văn hóa của từng dân tộc có sự kết nối hài hòa giữa niềm tin Thiên Chúa và tính bản địa trong bối cảnh thời đại đang có những phát triển vượt bậc. Nhìn kỹ sẽ thấy đây là một gương mặt phụ nữ Á Đông đẹp trầm tĩnh và khó có thể biết được Mẹ của Thiên Chúa đang nghĩ gì nếu không có một niềm tin kính sâu sắc để nguyện ngẫm. Tượng nét tạc tinh xảo thể hiện rõ qua ánh mắt, làn môi lẫn nét áo dài nhìn hài hòa, sống động cho thấy những người làm tượng đã làm ra được cái thần cho tượng khiến đây xứng đáng một tác phẩm nghệ thuật đẹp có giá trị. ... Mời các bạn đón đọc Phương Pháp Của A.C.Kinsey của tác giả Bùi Anh Tấn.
Les - Vòng Tay Không Đàn Ông - Bùi Anh Tấn
Tác giả tâm sự: " Thật ra lúc đầu tôi quan tâm đến những người đồng tính chỉ vì không thể tưởng tượng được trong cuộc đời này lại có những người đàn ông-đàn ông, đàn bà-đàn bà "yêu" nhau, vậy họ yêu nhau như thế nào và tại sao lạ thế? Lúc đó tôi không có ý định là sẽ viết hẳn một cuốn tiểu thuyết về đề tài những người đồng tính. Nhưng sau một thời gian tìm hiểu, từ những điều mình biết, đã nảy sinh trong tôi những hứng thú muốn tìm hiểu sâu hơn về những con người này với tư cách người cầm bút. Đấy là cả một thế giới nội tâm rất phong phú, có nhiều màu sắc cả bi lẫn hài... Hãy nhân ái hơn, tạo hóa đã quá nghiệt ngã với họ, thì chúng ta, những con người với con người, lẽ nào lại không hiểu nổi nhau..." Những nhân vật chính của truyện là những người phụ nữ thành đạt, cả về danh vọng lẫn vật chất, họ có thể là nghệ sĩ, có thể là doanh nhân, có thể là giảng viên đại học, hay cô sinh viên đang theo học ở một trường nào đó. Họ đã phải đối mặt với những rắc rối của chính bản thân cũng như sức ép của dư luận. Họ đã tìm đến nhau... "Phụ nữ - bất kể họ là ai thì vẫn luôn luôn giữ được sự mềm mại, dịu dàng, nữ tính. Và dĩ nhiên những trang viết về họ cũng sẽ như vậy. Không có vụ án, không có máu đổ nhưng nhiều nước mắt. Xin đừng so sánh cuốn này với Một thế giới không có đàn bà, e rằng bạn đọc sẽ thất vọng, bởi tuy chung một đề tài đồng tính nhưng mỗi một cuốn tiểu thuyết đều có đối tượng riêng của nó." (Bùi Anh Tấn) Nhà văn Bùi Anh Tấn: "Gay" hay "Les" tôi đều thích cả! Bùi Anh Tấn là nhà văn đầu tiên viết về đề tài đồng tính nên anh đã vấp phải nhiều luồng dư luận đối kháng. Kẻ này hoan nghiênh đề tài lạ nhưng chưa phải là mới, kẻ khác lại cho rằng viết như thế vẽ đường cho hươu chạy! Bất chấp mọi ý kiến, tuần qua Bùi Anh Tấn bắn tiếp một phát đạn thứ hai bằng tiểu thuyết "Les - Vòng tay không đàn ông". Với "Một thế giới không có đàn bà" anh gặp quá nhiều dư luận khen chê, thậm chí đặt dấu hỏi to đùng về giới tính của anh. Bây giờ anh tiếp tục "tái xuất" với một tiểu thuyết cùng đề tài nhưng "trái dấu" đó là "les" (đồng tính nữ). Anh không ngại búa rìu dư luận sao? Bùi Anh Tấn: Đối với một người cầm bút viết văn, điều sợ hãi nhất là lặp lại chính mình, thà không viết nữa còn hơn viết lại những gì mình đã viết. Chính vì vậy, với "Les - Vòng tay không đàn ông" tôi tự coi là trách nhiệm viết một tác phẩm cho những người đồng tính, vì họ cũng cần được quan tâm. Tôi viết nhiều về đề tài đồng tính vì tôi hiểu họ, tôi tôn trọng họ. Gay hay les gì tôi đều yêu cả. Bạn bè tôi cứ nói thế này "Bùi Anh Tấn đã viết một thế giới không có đàn bà, rồi đến một thế giới không có đàn ông. Thôi mai mốt viết nốt luôn "Thế giới không có người" cho đủ bộ". Trước đây khi viết "Một thế giới không có đàn bà" tôi gặp rất nhiều khó khăn vì mình chỉ là người vô danh, chưa đủ độ tin cậy cho một gay nào đến cung cấp tư liệu. "Les - Vòng tay không đàn ông" tôi được những bạn đọc là người đồng tính tìm đến tâm sự, cung cấp những tình tiết mà nhiều khi tôi không tưởng tượng nổi trên đời này có việc ấy xảy ra. Nói thuận lợi cũng không phải là hoàn toàn. Vì sao à? Để hiểu một người đàn bà bình thường là vô cùng khó, để hiểu một người đàn bà "les" thì còn khó hơn gấp nhiều lần. Anh có vẻ bi quan khi cho số phận các nhân vật đồng tính của mình có một kết cuộc buồn, thảm khốc. Đỉnh điểm là nhân vật Cô Út trong "Les - Vòng tay không đàn ông", một người đàn bà sống nghiêm túc đến độ khô khan lại phải chết vì hoảng loạn khi chỉ mới thoáng nghĩ mình có vấn đề về giới tính dù ít hay nhiều. Cái chết này chỉ là một tai nạn chứ không phải cô này tự đi tìm cái chết, cô không cố ý tìm đến cái chết. Vì cô Út sống trong một gia đình vô cùng nghiêm khắc do vậy khi mà phát hiện ra những sự thật chính tàn nhẫn nơi chính bản thân mình, cô ta không chịu nổi nên hoảng loạn chạy ra đường... Đây quả là điều đáng tiếc, nhưng tôi muốn nói: còn nhiều người vẫn chưa trả lời được câu hỏi "Tôi là ai?" ngay cả chính bản thân mình. Đôi lúc trai cũng thích mà gái cũng thích, ngủ với vợ mà mơ đàn ông, nhưng "đi" với với đàn ông lại cảm thấy sợ hãi, hoảng loạn. Quả là bi kịch của con người, không biết mình là ai đấy mới là đau khổ. Anh có nghĩ mình sẽ làm phật lòng những người đồng tính nam khi anh cho rằng "Là một người đồng tính nam thì trước sau gì cũng nhanh chóng bộc lộ bản thân mình... Đây là những điều tôi đúc kết được từ kinh nghiệm của những bạn đọc đồng tính tâm sự với tôi. Tôi cũng đã suy nghĩ mãi khi viết về điều ấy, nhưng sự thật nó là thế. Có một điều không biết có phải là qui luật hay không, thường những người đồng tính nam lúc trẻ hay thích se sua, khoe khoang quần áo, thân xác, xe máy, những cuộc tình chớp nhoáng, thỏa mãn... nhưng đến một ngày tàn tạ trong mắt người tình của mình sau cái tuổi 25 thì mới nhận ra giá trị cần một tình yêu thật sự, nhưng nó đã trễ mất rồi. Đó cũng là bi kịch của người đồng tính. Với "Les - Vòng tay không đàn ông" gần như trọn tiểu thuyết chẳng có một nụ hôn nào giữa các "nàng", trong khi "Một thế giới không có đàn bà" anh khá táo bạo về sex. Phải chăng với les Bùi Anh Tấn không có kinh nghiệm về "chuyện ấy"? Không phải là tôi không biết chị em les "sinh hoạt" như thế nào, thậm chí còn biết nhiều, biết một cách chóng mặt vì nó ngoài sức tưởng tượng của tôi. Nhưng mà tôi không muốn nhắc đến vì dù gì thì họ vẫn là phụ nữ, mà phụ nữ rất ngại nói huỵch toẹt những vấn đề tế nhị đó. Với tư tưởng trong tác phẩm của mình, anh không sợ bị gán cho tội cổ vũ chuyện đồng tính? Trong tác phẩm của tôi có nhiều đoạn có thể gây sốc cho một số người nào đó, nhất là những người tỏ vẻ cao đạo, nghiêm cẩn. Có thể họ sẽ hiểu lầm đây là những tuyên ngôn gì đấy cho giới đồng tính hay cổ súy cho hiện tượng này. Nhưng tôi muốn nói rằng mọi người nên chấp nhận vì đây là một thực tế, thục tế đồng tính đã, đang và sẽ tồn tại trong xã hội này. Nhưng nó tồn tại ở một chừng mực nhất định nào thôi, không thể từ chối hay phủ nhận nó được. *** Sân bay Tân Sơn Nhất, khu vực dành cho các chuyến bay đi nước ngoài, tấp nập người qua lại. Ai cũng hối hả, vội vã làm thủ tục chen lấn nhau ở các quầy. Thật bất ngờ, không hẹn mà cả ba người Hương Trang, Kiều Thu, Yên Thảo lại đi cùng một chuyến bay của hãng hàng không Asiana Airlines bay theo chặng Thành phố Hồ Chí Minh – Hồng Kông – Chicago. Đến Hồng Kông thì tất cả cùng đổi chuyến bay, Hương Trang bay tiếp về Mỹ, Kiều Thu qua Anh còn Yên Thảo về Pháp. Lơ ngơ bên những chiếc vali chất đầy trên chiếc xe đẩy,theo tiếng loa hướng dẫn của phát thanh viên hàng không, lần lượt mọi người nối đuôi nhau vào phòng chờ. Bọn họ nhìn nhau cứ như chưa hề quen biết, ánh mắt người nào ngưới nấy đều ráo hoảnh như những người xa lạ. “Quý khách chú ý…” Yên Thảo lấy mắt kính ra, quay lại nhìn thành phố một lần nữa. Nắng mới vàng làm sao và phố rất đông người qua lại. Phía bên trong, Kiều Thu lẫn Hương Trang đã mất hút trong ciếc thanh cuốn đưa lên máy bay, riêng nàng vẫn còn chùng chình làm thủ tục và tiếc nuối nhìn lại phía sau. Hơn hai năm sống và làm việc ở thành phố này với biết bao kỷ niệm buồn vui và điều quan trọng hơn là nàng đã tìm thấy được chính nàng, tình yêu của nàng. Biết nói gì đây trước giờ chia tay với thành phố và những người yêu thương của nàng bây giờ nhỉ. Thật bất ngờ trong khi đang làm thủ tục thì Yên Thảo nghe cô nhân viên hàng không hát nho nhỏ. Ta mang cho em một chút buồn, Vì ta như sóng lênh đênh…. Mội em cho ta một cánh hồng, Lụa là phút ấy chưa quên. Thôi chào em, về giữa phố xá thênh thang… Không gì vui thì hãy gắng nhớ đôi lần…. Nhớ chứ làm sao quên được hả em, ta sẽ nhớ mãi, nhớ đến suốt đời nỗi đau này. Cả cuộc đời ta mênh mông như sa mạc trắng trong nỗi cô đơn triền miên đi tìm ta và tìm em. Có em, ôm em thật chặt và ao ước giá như được từ giã cõi đời này mà vẫn có em trong vòng tay thì hạnh phúc biết mấy. Đã có rất nhiều lời định nghĩa này kia về hạnh phúc và ta, cũng nhiều lần tự định nghĩa về tình yêu của mình để rồi suốt đời mải mê đi tìm nó. Chỉ đến khi có được em trong vòng tay thì ta mới chợt hiểu ra, hạnh phúc đích thực là thế nào. Để nay phải xa cách, ta biết nói gì với em bây giờ ngoài nỗi nhớ triền miên nhiều đêm mất ngủ bởi mơ về em, bởi vì ta yêu em mãi mãi. … Thảo, hãy hứa với em đi, nhất định Thảo sẽ trở về. Em sẽ chờ Thảo cho đến suốt đời mình, em yêu Thảo. Yên Thảo lau nhanh những giọt nước mắt trước ánh nhìn cảm thông của nữ tiếp viên soát vé, chắc cô ta tưởng nàng xúc động trước khi rời Tổ quốc. Bóng người đàn bà lẻ loi cô đơn, ngập ngừng từng bước chân nặng trì, cuối cùng cũng biết mất sau cửa cầu thang lên máy bay. Tạm biệt. 1-12-2004 Bùi Anh Tấn Mời các bạn đón đọc Les - Vòng Tay Không Đàn Ông của tác giả Bùi Anh Tấn.
Hành Trình của Sói - Bùi Anh Tấn
Cái khó khăn nhất mà Thiếu tá Bùi Anh Tấn gặp phải ấy là khi viết về quá trình tha hóa của cán bộ của các cơ quan hành chính nhà nước, tác động mặt trái của cơ chế thị trường khi bị đồng tiền thao túng khiến người phạm tội bị khởi tố, xét xử. Vụ án Năm Cam và đồng bọn đã kết thúc, những kẻ gây ra tội lỗi đã phải đền tội. Nhưng có lẽ dư luận thì vẫn chưa kịp nguội đi với những gì băng nhóm tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen này gây ra. Tác giả công an Bùi Anh Tấn cho ra đời tiểu thuyết “Hành trình của sói” một lần nữa thu hút sự quan tâm của dư luận bởi “ông trùm Năm” – nhân vật chính của tiểu thuyết được nhà văn xây dựng dựa trên nguyên mẫu là tên tội phạm khét tiếng một thời tên gọi Trương Văn Cam (tức Năm Cam)...  Bùi Anh Tấn nói rằng, anh đến với văn chương một cách hết sức tình cờ, ấy là vào năm anh 21 tuổi, bỗng dưng anh có nhu cầu giãi bày lòng mình với những con chữ. Anh khởi sự bằng việc viết truyện ngắn và có gửi một số nơi nhưng chưa gây được ấn tượng nào đáng kể cho tới khi tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà” ra đời (cũng dựa trên một chuyên án có thật xảy ra tại TP. Hồ Chí Minh). Cách đây dăm năm, đề tài về “giới tính thứ ba” hầu như vẫn nằm trong bóng tối, nhưng gần đây quan niệm về họ có phần cởi mở hơn và ở một góc độ nào đó nó là một đề tài khá “ăn khách”. Năm 2005, tiểu thuyết này đã đoạt giải A - giải thưởng Văn học về đề tài Vì An ninh Tổ quốc và Bình yên cuộc sống (1995 - 2005) do Bộ Công an và Hội Nhà văn trao tặng. Có đà, Bùi Anh Tấn chấp bút tiếp tiểu thuyết “Les - Vòng tay không đàn ông” viết về giới đồng tính nữ và thế là anh bị ghép cho một biệt danh Tấn "đồng tính”! Trong suốt thời gian viết hai tiểu thuyết này, anh đã âm thầm chuẩn bị tư liệu để tiểu thuyết “Hành trình của sói” ra mắt độc giả vào đầu tháng 8 này. Hiện Bùi Anh Tấn được xem là một tác giả trẻ có duyên với đề tài hình sự và hình tượng người chiến sĩ công an. Tâm sự về hành trình sáng tạo của mình, Bùi Anh Tấn  cho biết: “Từ khi vụ án Năm Cam bùng nổ vào năm 2001, tôi đã xác định đây sẽ là một đề tài cho cuốn tiểu thuyết tương lai của mình. Với tư cách là một người cầm bút trong Lực lượng Công an, tôi rất quan tâm nên thu thập tài liệu qua báo chí, dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu, gặp gỡ những người tham gia làm án… Ngoài ra, tôi còn tham dự hầu hết các phiên tòa xét xử Năm Cam và đồng bọn của y, lắng nghe xem dư luận phán xử thế nào. Tôi để cho những tư liệu tầng tầng lớp lớp ấy ngấm vào mình một cách tự nhiên, đến năm 2004 thì bắt tay vào viết chương đầu tiên đến đầu năm 2006 cơ bản đã xong. “Ông trùm Năm” không trọn vẹn là viết về Năm Cam nhưng hành trình tội ác, những âm mưu, thủ đoạn phạm tội đều lấy từ tư liệu chuyên án này”. Khi chuyên án bắt đầu, Bùi Anh Tấn đang là một chiến sĩ an ninh của Công an TP. Hồ Chí Minh, anh được giao làm một số công việc “ngoại vi” của chuyên án này. Vì thế, anh có nhiều thuận lợi trong việc tiếp xúc với những chiến sĩ trực tiếp làm án, được nghe nhiều chuyện bên lề vụ án. Cũng bởi Năm Cam là một nhân vật quá điển hình trong giới giang hồ, nên việc xây dựng nhân vật trung tâm này của Bùi Anh Tấn có nhiều thuận lợi, bởi nhiều chất liệu thực tế đã hỗ trợ đắc lực cho anh trong quá trình sáng tạo. Cái khó khăn nhất mà Thiếu tá Bùi Anh Tấn gặp phải ấy là khi viết về quá trình tha hóa của cán bộ của các cơ quan hành chính nhà nước, tác động mặt trái của cơ chế thị trường khi bị đồng tiền thao túng khiến người phạm tội bị khởi tố, xét xử. Đây cũng chính là những băn khoăn, trăn trở nhiều đêm của nhà văn và anh tìm nhiều cách để lý giải cặn kẽ, thấu đáo những băn khoăn ấy. “Hành trình của sói” là một tiểu thuyết chống tội phạm với những chiến công, những mất mát của Lực lượng Công an nhưng bên cạnh đó Bùi Anh Tấn cũng đề cập những sai lầm, sự sa ngã của những người một thời “chung một chiến hào” với mình. Vì vậy, bên cạnh sự  xót xa đến quặn lòng, tác giả còn bộc lộ sự phẫn nộ bởi chỉ vì những cám dỗ vật chất mà màu cờ sắc áo thiêng liêng đã bị một số người làm cho hoen ố… Bùi Anh Tấn tâm sự: “Trên thực tế đã có những trường hợp từng là cán bộ cao cấp, từng lập nhiều chiến công, nhưng trong cơ chế thị trường họ lại sa ngã. Nếu chúng ta cứ ngại không nói đến chuyện này thì thành ra tự bao che cho nhau. Vì vậy, nói ra sự thật cũng là cách để rút ra bài học, phải dũng cảm nhìn vào sự thật. Đó chính là bản lĩnh của người chiến sĩ công an trong thời kỳ đổi mới”. Vụ án Năm Cam là một chuyên án nổi tiếng, được dư luận quan tâm với nhiều chất liệu phức tạp, liên quan tới một số quan chức. Chính vì thế, vấn đề xử lý tư liệu là điều khiến Bùi Anh Tấn phải nỗ lực để ra khỏi kiểu “tiểu thuyết thuần tư liệu”. Tác giả tập trung lý giải con đường dẫn đến tội ác của “ông trùm” và những cán bộ sa ngã với những diễn biến tâm lý, chiều sâu, những giằng xé nội tâm của nhân vật. Viết tiểu thuyết từ một nguyên mẫu có thật là tên trùm xã hội đen khét tiếng, có nhiều đàn em sẵn sàng xả thân vì “anh cả”, song chưa bao giờ Bùi Anh Tấn bận tâm tới những “phiền toái” có thể gặp trong cuộc sống sau này. Anh cho biết: “Chúng ta là đất nước có kỷ cương, có luật pháp, hơn nữa mình lại là công an. Ví như viết về đề tài chống tham nhũng lại sợ những kẻ tham nhũng thì không bao giờ làm được gì cả. Đấy cũng là sự dũng cảm của người cầm bút chứ!”. Khi tiểu thuyết “Hành trình của sói” hoàn thành, Bùi Anh Tấn vẫn chưa thật hài lòng vì anh cho rằng có nhiều vấn đề  chưa được giải quyết thấu đáo và đôi chỗ vẫn chưa tách bạch được ranh giới giữa văn chương và báo chí. Thế mạnh của tác giả là đã khắc họa thành công hình ảnh người chiến sĩ công an trong những năm đất nước đổi mới, lột tả được cái xấu xa, tàn bạo của nhóm “thế lực đen” trong xã hội. Qua đó, độc giả  biết được cách hoạt động của một Ban chuyên án, những diễn biến nội tâm của họ trước những vấn đề “nhạy cảm”, cách họ đối xử với nhau như thế nào trong cuộc sống… Tiểu thuyết “Hành trình của sói” tuy mới ra mắt đầu tháng 8 này nhưng đã có đại diện một hãng phim muốn xin chuyển thể thành phim hình sự. Điều này cũng từng xảy ra với tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà” nên anh rất vui khi tần suất hình ảnh người chiến sĩ công an mà anh tâm đắc xuất hiện nhiều trên màn ảnh. Hiện nay, Bùi Anh Tấn lại đang chấp bút một tiểu thuyết lịch sử về vua Trần Nhân Tông có nhan đề “Đàm đạo về Ngự giác hoàng” theo “đơn đặt hàng” của  NXB Trẻ. Anh khẳng định, đề tài hình sự vẫn luôn là lựa chọn hàng đầu của anh trên con đường văn nghiệp của mình *** Bùi Anh Tấn sinh ngày 22.12.1966, là nhà văn công an. Anh bắt đầu sáng tác từ những năm đầu thập niên 90, nhưng chỉ thực sự tiếng nổi như cồn kể từ sau Một thế giới không có đàn bà ra đời năm 1999. Hai năm sau đó cuốn tiểu thuyết lĩnh liền hai giải A của cuộc thi Tiểu thuyết năm 1999-2001 và Giải thưởng văn học 1995-2005 (Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức). Sau đó, tác phẩm được dựng thành phim, Bùi Anh Tấn trở thành người đầu tiên trong làng văn học Việt đi sâu vào đề tài người đồng tính. Các cuốn sách sau này của Bùi Anh Tấn lúc nào cũng nằm trong danh mục sách bán chạy và có tới phân nửa là viết về người đồng tính như Vòng tay không đàn ông, Phương pháp của A.C Kinsey (tiểu thuyết), Cô đơn, Bướm đêm (tập truyện ngắn)… Một thế giới không có đàn bà thậm chí còn được đạo diễn Việt Kiều Canada Cường Ngô dựng lại thành phim truyện nhựa trong năm 2011 do chính tác giả viết kịch bản. Trong vòng 10 năm đã cho ra đời 3 tập truyện ngắn, 2 kịch bản truyền hình và một màn ảnh rộng, hơn chục tiểu thuyết, ở nhiều đề tài khác nhau như: đề tài lịch sử (Nguyễn Trãi, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng), tôn giáo (Không và sắc), chiến tranh cách mạng (Kế hoạch hậu chiến 72), tác phẩm biên soạn duy nhất của ngành công an viết về lực lượng CSĐB – Việt Nam Cộng Hòa (Cảnh sát đặc biệt). Cuốn tiểu thuyết ăn khách về đời sống hiện đại Bước chân hoàn vũ thì lại được viết “ngược” từ kịch bản sang tiểu thuyết. *** Vụ án “Năm Cam và đồng bọn” đến nay đã kết thúc được năm năm (2001-2006), một khoảng thời gian không quá dài để quên lãng nhưng cũng không quá ngắn và có thể nhìn lại, chiêm nghiệm, rút ra những bài học. Đây là một băng nhóm xã hội đen hoạt động theo kiểu Maphia nước ngoài, lớn nhất từ trước đến nay về phạm vi lan ra các tỉnh thành lớn trong cả nước và có chiều hướng cấu kết với các băng đảng tội phạm khác ở nước ngoài. Mức độ phạm tội của chúng là đặc biệt nghiêm trọng, trong đó đáng chú ý là sự câu móc, tha hóa, biến chất một số bộ phận công chức nằm trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, thông tin báo chí… Đây cũng là mặt trái của nên kinh tế thị trường và là tiếng chuông cảnh tỉnh gióng lên khi đất nước ta đã và đang tiếp tục trên đà hội nhập với nền kinh tế tòan cầu: Khi xã hội bắt đầu có sự phân hóa giàu nghèo, nhiều giá trị tinh thần đạo đức bị xuống cấp, việc sùng bái vật chất được đề cao… Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nêu cao, bảo vệ và giữ gìn những bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Những bài học đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mang đậm tính thời sự. Bùi Anh Tấn là một tác giả có quá trình gắn bó với ngành công an và có khá nhiều tác phẩm viết về ngành với những thành công nhất định. Trong tác phẩm này, cái tâm của người viết thể hiện rất rõ qua những dằn vặt, trăn trở xót xa về sự sa ngã của một số đồng đội trước băng nhóm tội phạm này và cũng bộc lộ niềm tin tưởng, tự hào vào sự trong sạch lớn mạnh của ngành công an và các đồng đội khác của anh trên mặt trận đấu tranh bảo vệ sự bình yêu cuộc sống cho nhân dân. Qua tác phẩm tác giả cũng cung cấp được khá nhiều thông tin, tư liệu lý thú về hoạt động của các băng nhóm tội phạm cũng như những âm mưu thủ đoạn của chúng để mọi người hiểu nêu cao cảnh giác. Tuy nhiên, đây là tác phẩm văn học nên nhiều nhân vật mang tính phiếm chỉ, hư cấu, không cụ thể vào một cá nhân nào, bạn đọc cần lưu ý. Hành Trình Của Sói là tác phẩm văn học – tiểu thuyết tư liệu – đầu tiên viết về vụ án “Năm Cam và động bọn” từ trước đến nay. Mặt hạn chế là vẫn chưa làm rõ ranh giới giữa thể loại báo chí và văn học trong tác phẩm. Có một số đoạn, nhận xét, đánh giá … vẫn còn mang tính chủ quan nhất định của tác giả. ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình của Sói của tác giả Bùi Anh Tấn.