Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đi Tìm Sylvie Lee

Đi tìm Sylvie Lee - cuốn sách đầy bất ngờ với những bí mật, sự lừa dối và những khúc quanh không thể lường trước. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp giữa ba người phụ nữ, hai chị em và mẹ của họ trong một gia đình nhập cư gốc Trung Quốc, và khám phá những gì xảy ra khi con gái lớn của người chị biến mất, một loạt bí mật gia đình xuất hiện. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Về tác giả:  Jean Kwok là một cây bút của tờ New York Times và là tác giả có sách bán chạy nhất trên thế giới với tác phẩm Girl in Translation và Mambo in Chinatown. Cô được vinh danh với rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực viết lách. Cô đã nhận bằng cử nhân trường Đại học Havard và hoàn thành bằng Thạc sĩ Nghệ thuật lĩnh vực tiểu thuyết tại Đại học Columbia. Jean Kwok hiện sống tại Hà Lan. *** Amy Thứ hai, ngày 2 tháng 5 Tôi đang đứng bên bậu cửa sổ trong căn hộ nhỏ của chúng tôi trên phố Queens, nhìn bố và mẹ tất tả đi làm. Nửa khuất sau tấm rèm cũ rách mà mẹ tự khâu, tôi thấy họ đi cạnh nhau trên đường đến ga tàu điện. Ở lối vào, họ dừng lại và nhìn nhau một lúc. Những lúc như này, tôi thường nín thở, để đợi bố chạm vào gò má mẹ, hoặc chờ mẹ bật khóc, hoặc mong một trong hai người sẽ đưa ra dấu hiệu nào đó về mối quan hệ thật sự của họ. Thay vào đó, mẹ ngượng nghịu giơ tay vẫy, để lộ cánh tay gầy gò dưới nếp gấp của chiếc khăn choàng đen, còn bố thì xộc thật nhanh vào cửa nhà ga đang mở khi giao thông buổi sáng gầm rú trên con phố bận rộn. Sau đó, mẹ cúi đầu và tiếp tục cuốc bộ đến tiệm giặt ủi địa phương nơi bà làm việc. Tôi thở dài và rời khỏi cửa sổ. Tôi cần làm điều gì đó có ích hơn. Tại sao tôi lại cứ theo dõi bố mẹ? Bởi tôi đã lớn tồng ngồng nhưng vẫn ru rú trong nhà và vô công rỗi việc. Nếu sơ sảy, tôi rồi cũng sẽ như mẹ. Rụt rè, cam chịu, bán mình vào công việc chẳng đồng dư. Thế nhưng, tôi lại bắt gặp một ý niệm khác về bố và mẹ sau ngần ấy thời gian. Sự say sưa trên khuôn mặt mẹ khi bà đọc tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc trong đêm, thể loại mà bố coi thường. Cách mà bố cố với lấy khuỷu tay mẹ khi ông đi phía sau, rồi ông chợt nhận ra, và rụt tay lại. Tôi ngang qua tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, và dừng mắt nơi tấm áp phích treo trên tường - gần như khuất sau mớ giấy tờ lộn xộn và đống giặt ủi. Đó là một câu nói của Willa Cather mà tôi luôn yêu thích: “Trái tim của một người luôn là một khu rừng tối, bất luận nó kề cận với chủ nhân như thế nào”. Tôi không chắc mình có tin vào xúc cảm nhưng những lời của bà ấy thì không bao giờ làm tôi thất vọng. Căn hộ chật chội của chúng tôi vẫn còn phảng phất hương trầm mẹ thắp sáng nay trên bàn thờ bà ngoại. Bà mất ở Amsterdam một tuần trước. Bà sống ở đó với gia đình Tan, gồm có chị họ của mẹ, dì Helena; chồng của dì, dượng Willem; và cậu con trai Lukas, ba mươi ba tuổi, bằng tuổi chị gái tôi, Sylvie. Tôi chưa gặp bà bao giờ nhưng nỗi đau buồn mà mẹ mang như một con thác đổ dồn lên lòng tôi đến ngập lụt. Quầng mắt mẹ tấy đỏ và buốt rát. Mấy đêm rồi, trong khi bố trốn trong phòng ngủ, tôi nắm chặt lấy tay mẹ khi bà nằm co ro trên ghế sofa, nén tiếng khóc, cố ngăn dòng lệ ào chảy bằng một miếng khăn giấy cũ nhàu. Hôm nay tôi cũng mặc đồ đen, vì mẹ, trong khi bố vẫn ăn vận như thường ngày. Không phải là ông không quan tâm. Chỉ là ông không thể để chúng tôi nhìn thấy cảm xúc ấy. Chị Sylvie sống cùng bà và gia đình dì Helena tại Hà Lan trong suốt chín năm đầu đời và chị vừa bay trở lại đó vào một tháng trước, ngay khi nghe tin bà ốm. Chị cũng đang quản lý một dự án tư vấn cho công ty của mình tại đó. Chị Sylvie rực rỡ, lớn hơn tôi bảy tuổi, đã kéo theo cuộc sống hào nhoáng ở châu Âu về tới căn hộ sặc mùi bắp cải của chúng tôi ở phố Queens khi tôi chỉ mới hai tuổi. Thường sẽ có một sự phân chia đều giữa các chị em gái về sự xinh đẹp và thông minh, nhưng trong gia đình tôi, cả hai phẩm chất ấy đều thuộc về chị. Và tôi, chỉ là một cái bóng, suy cho cùng, chỉ là một âm vọng nhạt nhẽo. Nếu tôi không yêu chị Sylvie rất nhiều, thì tôi hẳn sẽ rất ghét chị ấy. Làm thế nào mà một sinh vật xuất sắc như Sylvie lại được sinh ra từ những người trần tục như mẹ và bố? Cứ mỗi khi tôi học với bất kì giáo viên nào từng dạy chị Sylvie, họ đều thốt lên rằng, “Ah, em là em gái của Sylvie Lee đây mà” với đầy ắp những mong đợi. Và tôi sẽ dõi chờ khi những hy vọng cao ngút ấy của họ bỗng chốc biến thành sự hoang mang trước vẻ chậm chạp và đần độn mà tôi thể hiện. Tiếp đó họ sẽ thất vọng, và cuối cùng, là sự thờ ơ. Sylvie từng theo học tại Đại học Princeton, nhận bằng Cử nhân Kỹ thuật Hóa từ Viện Công nghệ Massachusetts, đi làm một vài năm, sau đó trở lại trường học để lấy tiếp bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh từ Harvard. Bây giờ chị ấy là một chuyên gia tư vấn quản lý, một công việc mà tôi không bao giờ hiểu được dù cho chị có cố giải thích bao nhiêu lần. Cũng như tôi, Sylvie rất mê đồ ngọt, nhưng khác hẳn với tôi, chị ấy không bao giờ lên cân. Tôi đã từng trố mắt nhìn chị ăn lần lượt hết từng cái bánh trứng mà chẳng hề ảnh hưởng gì đến vòng eo thanh thoát, như thể nội lực mãnh liệt bên trong chị sẽ đốt cháy đám calo kia, tiêu hủy hết mọi thứ mà chị ấy nạp vào. Sylvie từng bị nhược thị khi còn nhỏ và đeo miếng che mắt trong nhiều năm. Giờ thì thứ duy nhất không hoàn hảo trên khuôn mặt đáng yêu của chị ấy là mắt phải có phần lác nhẹ khi chị ấy mệt mỏi. Hầu hết mọi người đều không nhận thấy, nhưng đôi khi tôi cũng tự an ủi mình với khiếm khuyết nhỏ này của Sylvie - Thấy chưa, chị ấy cũng không hẳn đã hoàn hảo. Tôi tiến đến hộc tủ gồ ghề, nơi tôi đã cẩn thận bọc và giấu một chùm lô quất nhỏ màu cam. Nếu tôi để chúng trên mặt bếp bằng nhựa vinyl và để bố bắt gặp một con ốc sên yếu ớt ẩn mình giữa những quả mọng này, bố chắc sẽ giết nó. Bố làm việc trong một chợ cá ở khu phố Tàu. Ông buộc phải trở nên vô cảm với cái chết - trước những con cá nằm ngoi ngóp trên mặt thớt gỗ cho đến khi ông kết liễu chúng bằng con dao pha trên tay mình. Con ốc nhỏ với lớp vỏ trong mờ vẫn còn lóp ngóp bò trên một trong những quả lô quất và trông nó có vẻ ổn. Bất cứ điều gì đủ mạnh để tồn tại trên hành trình gian nan từ Trung Quốc thì xứng đáng có cơ hội để sống tiếp. Tôi lấy một cái túi nhựa đã qua sử dụng, nhẹ nhàng bỏ quả lô quất và con ốc sên vào đó, rồi bước đến cửa. Tôi giũ nhẹ chiếc áo khoác mỏng và cầm lấy ví cùng điện thoại. Trước khi bước ra ngoài, tôi tháo cặp kính dày cộm màu tím và nhét chúng vào túi áo. Tôi cũng chẳng buồn đeo kính áp tròng. Sự hợm hĩnh và biếng nhác hòa vào cuộc sống trong thế giới mờ ảo của tôi gần như mọi lúc. Tôi lê bước qua vài tòa nhà tiến đến công viên nhỏ gần đó. Vẫn còn sớm, nên một số cửa hàng vẫn đóng cửa im lìm, và tôi rùng mình khi một làn gió lạnh buốt quét xuống vỉa hè bê tông. Một mùi hôi thối xộc lên từ nhựa đường quẩn quanh, dọc khắp các tòa nhà trống hoắc như hù dọa tôi. Một người mẹ đang kéo một đứa trẻ nhỏ bẩn thỉu đằng sau vội ngoảnh mặt khi đi ngang qua tôi. Không ai nhìn vào mắt ai nơi đông người, quạnh quẽ và tẻ nhạt này - không ai cả, ngoại trừ những kẻ đang cố gây sự. Lúc này, một nhóm người đang lang thang trước ô cửa sổ vỡ ở cửa hàng với tấm biển to oạch về thứ gì đó giảm giá năm mươi phần trăm. Không hơn không kém, họ chỉ như những vệt đen trong tầm nhìn hạn chế của tôi khi rú lên sau lưng tôi, “Nỉ-hào cô em! Có thể cho anh gửi cái“trứng cuốn” vào “miếng chả” của cô em không?” rồi phá lên bằng một tràng cười khản đặc. Họ phải nói mấy lời đần độn này mỗi ngày sao? Miễn là họ vẫn giữ khoảng cách, sự mờ ảo trong tầm nhìn khiến tôi thoải mái như trong một cái kén. Khi gần như mù, tôi có thể vờ như mình cũng bị cũng điếc. Một ngày nào đó, tôi sẽ tiếp tục chương trình học của mình tại Đại học Thành phố New York và hoàn thành chứng chỉ giảng dạy để tôi có thể thoát khỏi nơi này. Tôi sẽ rời xa cả mẹ và bố. Việc tôi đã bỏ học năm ngoái cũng chẳng đáng lo ngại. Tôi có thể làm được. Tôi đã có bằng cử nhân tiếng Anh. Tôi gần tới đích rồi. Tôi có thể thấy chính mình đang đứng trước một lớp học đầy những đứa trẻ. Chúng đang lắng nghe, cười vui trước những câu chuyện cười tôi kể, đôi mắt mở to trước sự rực rỡ của văn học mà chúng đang đọc, và tôi sẽ không bỏ sót bất cứ một từ nào. Tỉnh lại đi, Amy. Tất cả những gì mày có thể làm bây giờ là một vị cứu tinh ốc sên, đó cũng không hẳn là một biến chuyển tồi đâu. Sylvie và tôi đều theo đạo Phật, và một số ý niệm, như tất cả những gì trân quý trong cuộc sống, vẫn ở lại với chúng tôi. Khi còn nhỏ, chúng tôi thường rượt đuổi nhau quanh căn hộ với lưới bắt bướm, cố bắt ruồi và rồi lại thả chúng ra. Thế nhưng, như được chứng thực bởi bố và những-sinh-vật-biển- khác, tôn giáo chỉ tồn tại cho đến khi ta giáp mặt với sự khắc nghiệt của cuộc sống thường nhật. Công viên vẫn đang hồi sinh sau mùa đông khắc nghiệt và tôi vật vã tìm cho mình một vị trí đẹp rợp lá. Tôi rón rén gập người giữ con ốc giữa ngón trỏ và ngón cái khi điện thoại di động đổ chuông. Tôi nhảy lên và suýt thả rơi con ốc. Tôi đặt nó xuống, xoay xở để kéo điện thoại ra khỏi áo khoác, và nheo mắt để đọc số. Tôi vừa định trả lời thì người gọi đã cúp máy. Dãy số rất dài, bắt đầu với 31+. Tôi đã nhìn thấy đầu số này trước đây trên điện thoại của Sylvie. Là một người từ Hà Lan - có lẽ là anh họ xa của tôi, Lukas, bởi anh ấy không bao giờ gọi cho tôi. Anh ấy hay nói chuyện với chị Sylvie. Tôi dò thử phí cuộc gọi cho Lukas ở Amsterdam rồi lưỡng lự. Hy vọng anh ấy sẽ gọi lại. Tôi đi thẳng tới một tiệm đĩa. Tôi thích la cà ở một trong những chốt phát nhạc của họ nhưng hầu như chẳng mua thứ gì. Bụng tôi thắt lại khi nghĩ đến núi tiền vay sinh viên, chất chồng theo từng tấm bằng. Nhiều năm luẩn quẩn, cố gắng xác định những gì tôi muốn làm với cuộc đời mình trước khi quyết định chọn việc đi dạy - nhưng rồi, tật nói lắp lại trở lại khi tôi đứng trước nhóm thực tập. Dù tôi gần như đã bỏ được, nhưng nỗi sợ hãi về việc nói lắp đã chứng minh rằng nó luôn mạnh mẽ như nó vốn có: tất cả những khuôn mặt trống rỗng đó, sự hoảng loạn như một cái chăn dày khiến tôi nghẹt thở. Đôi lúc, tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên an phận là một kẻ nhập cư thất học như mẹ và bố. Vài con chim non rời tổ và vút cao, như chị Sylvie, những con khác thì bối rối, và run rẩy, rồi rơi bổ xuống đất. Cuối cùng, tôi không thể đối diện với các bạn cùng lớp và giáo viên của mình nữa. Và chị Sylvie, tất nhiên, là người bảo lãnh cho tôi khi các khoản vay của tôi vượt quá thời gian gia hạn. Chị ấy đã thanh toán mà không nói một lời. Chị Sylvie, khá giả, ít nhất là so với tôi, nhưng chị ấy không giàu đến mức có thể gánh vác thêm một khoản chi phí mà không cảm thấy hề hấn gì. Chị và chồng chị, anh Jim, thậm chí còn đang nặng vai khoản vay sinh viên hơn cả tôi, anh Jim thì không kiếm được nhiều tiền từ công việc tư vấn hướng nghiệp tại một trường công lập ở Brooklyn. Mặc dù có tiền thừa kế, nhưng bố mẹ của anh cho rằng người trẻ nên tự kiếm tiền, thế nên anh ấy sẽ không nhận được một xu nào cho đến khi họ mất, ngoại trừ món quà khôi hài mà họ đã cho anh khi cưới chị Sylvie. Còn tôi, thay vì phụ giúp bố và mẹ, những người đã làm lụng vất vả nhiều năm trời, thì tôi lại đang sống trong căn hộ của họ và ăn bám họ hằng ngày. Tôi hiện tại vẫn lông bông, mặc dù khả năng đánh máy của tôi rất nhanh - cũng là kỹ năng duy nhất mà tôi có, nhưng công việc thì khan hiếm. Do kinh tế mà thôi, tôi phân bua với tất cả, nhưng tất nhiên là tôi rõ hơn ai hết, bởi chỉ có tôi mới hiểu rõ nhất về mình. Chị Sylvie nói rằng tôi không có đủ tiềm năng, tôi bực dọc và bảo chị ấy thôi đi, để cho tôi yên. Trong cửa hiệu, tôi đi đến quầy nhạc cổ điển và bắt đầu thư giãn ngay khi giọng hát mượt mà, êm ái của Anna Netrebko phát ra từ chiếc loa. Cô ấy hát bài Verdi. Các kệ đĩa CD nằm gọn gàng bên cạnh các bảng xếp hạng âm nhạc và những thùng đĩa nhựa nối tiếp nhau. Những cây guitar và vĩ cầm cũ xếp thẳng hàng trên tường. Tôi thật sự thích cái cách mùi giấy, đồ sơn mài và nước tẩy hương chanh tỏa hương. Zach, một anh chàng đáng yêu, đã đi làm trở lại. Ít nhất, tôi tin là anh ấy hấp dẫn. Rất khó để chắc chắn khi không có kính - thứ giúp tôi không bị “đứng hình” nếu đến gần anh ta. Đối với tôi, những đường nét trên khuôn mặt và cơ thể của anh ấy thật lôi cuốn, tôi yêu giọng nói của anh ấy - ấm áp, hào sảng và trong trẻo. Anh ấy luôn có vẻ như đang mỉm cười với tôi. “Này, Amy. Tuần này cậu muốn nghe gì?” Tôi cố gắng thể hiện sự thân thiện trên khuôn mặt mình nhưng dường như tôi đang biến nó trở nên nhăn nhó đến mức ngượng nghịu. “Anh có gợi ý nào không?” Anh ấy chỉ việc để cho khách hàng nghe thử các đĩa nhạc nhưng dường như chưa bao giờ lưu tâm đến những lần lượn lờ của tôi trong cửa hiệu. “Vậy, Joseph Szigeti thì sao?” Tôi hăng hái đến mức quên cả xấu hổ. “Tôi vừa đọc một bài báo về bản thu Prokofiev Concerto No.1 in D của anh ấy.” “Đang rất sốt đấy,” anh ấy nói và lấy ra một đĩa CD. “Anh ta là minh chứng rằng kỹ thuật hoàn hảo không phải là tất cả.” Ngay khi chúng tôi đi đến quầy nghe, điện thoại của tôi đổ chuông. “Xin lỗi”, tôi lí nhí nói. “Tôi phải nghe máy.” Tôi cúi đầu và rời cửa tiệm. Tôi bắt máy và ngay khoảnh khắc nghe thấy giọng anh Lukas, tôi biết có chuyện chẳng lành xảy ra. Đường truyền đầy nhiễu sóng, có thể do cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương. Tôi lấy tay bịt tai bên kia lại để cố nghe rõ hơn. “Amy, anh cần nói chuyện với Sylvie ngay,” Lukas nói. Giọng anh ấy căng thẳng và đầy gấp gáp với ngữ điệu Hà Lan của anh nặng hơn là tôi nghĩ. Tôi nhíu mày. “Nhưng chị ấy đang ở Hà Lan chỗ anh mà.” Anh ấy thở mạnh đến mức tôi có thể nghe thấy nó qua điện thoại. “Sao cơ? Không có, cô ấy đã bay về đó vào thứ bảy. Giờ này phải đến nơi rồi chứ. Em không nghe tin gì từ chị em sao?” “Nhà em còn không biết là chị ấy đang về. Em mới nói chuyện với chị ấy sau đám tang của bà. Khi đó là khi nào nhỉ? Thứ năm, phải không? Em nghĩ chị ấy sẽ ở lại lâu hơn. Chị ấy cũng có nhắc đến dự án của chị ở đấy vẫn chưa xong.” “Sylvie vẫn không trả lời điện thoại. Anh rất muốn nói chuyện với cô ấy”. Rõ ràng, một người có trách nhiệm như chị Sylvie sẽ báo cho chúng tôi biết ngay nếu chị ấy quay lại. Chị ấy lẽ ra đã đến gặp mẹ và kể cho mẹ nghe về bà. Tim tôi bắt đầu đập mạnh như có một vết cắt dưới da. Phải có một vài lời giải thích đơn giản nào đó chứ. Tôi cố gắng trấn an: “Đừng lo lắng, em sẽ xem chuyện gì đang xảy ra.” “Uhm, làm ơn hãy tìm hiểu xem có chuyện gì nhé. Khi nào tìm thấy cô ấy, bảo Sylvie gọi cho anh, được chứ? Ngay lập tức nhé.” Một khoảng lặng rợn người. “Anh hy vọng cô ấy sẽ không có chuyện gì.” Tôi vội đeo kính và nhanh chóng đến tiệm giặt khô nơi mẹ làm việc. Mùi kinh khủng của hơi nước và hóa chất bao trùm lấy tôi khi tôi đẩy cánh cửa mở. Tôi thấy mẹ đang đứng sau một cái quầy dài, lí nhí một thứ tiếng Anh bập bẹ với một người phụ nữ ăn vận đẹp đẽ, mái tóc vàng óng ả sau lưng. “Chúng tôi rất bực khi một cái cúc áo đã bị long ra sau khi nhận lại mớ đồ này.” Bà khách vừa nói vừa đẩy về phía mẹ một chiếc áo sơ mi sọc của nam. “Vô cùng xin lỗi bà!”. Khuôn mặt nhỏ bé của mẹ dường như thêm gầy gò và xanh xao trong bộ quần áo đen, đôi mắt sưng lên vì khóc. “Tôi sẽ sửa nó”. Người phụ nữ gõ bộ móng tay được cắt tỉa cẩn thận lên mặt quầy. Giọng bà ta vừa cáu gắt vừa ra vẻ trịch thượng, như thể bà ấy đang nói chuyện với một đứa trẻ phạm lỗi. “Chất lượng dịch vụ thật sự không tốt như chúng tôi mong đợi, đặc biệt là sau khi lên giá đấy.” “Rất xin lỗi bà!”, mẹ lặp lại. Tôi nhìn trừng trừng về phía tấm lưng xương xẩu của bà ta. Tôi muốn nói với bà ấy rằng chủ cửa hiệu tăng giá chứ mẹ tôi chẳng được lợi gì trong đó. Mẹ thậm chí còn chưa được tăng lương trong suốt từng ấy năm làm việc ở đây - phải đứng suốt cả ngày, khiêng hàng đống quần áo nặng trịch, rồi giặt, ủi và sửa chúng. Nhưng miệng tôi cứ ngậm chặt. Tôi đợi cho đến khi bà khách mắng mỏ mẹ xong và rời đi. Mặc dù đang buồn, nhưng khi thấy tôi, nụ cười lại làm bừng sáng khuôn mặt mẹ. Tuy có thể hiểu một ít tiếng Hoa, nhưng tôi không bao giờ học nói cho đàng hoàng, vì vậy mẹ luôn nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh. “Sao con lại ở đây, Amy?” Tôi đã định không làm mẹ lo lắng nhưng tôi nhận ra mình đang ghì chặt cổ tay bà, vò nát chiếc áo blouse vải polyester mỏng manh. “Anh họ Lukas vừa gọi cho con. Anh ấy nói, chị Sylvie đã bay về nhà vào cuối tuần trước, nhưng chị ấy không nhấc máy.” “Ay yah.” Mẹ thảng thốt lấy tay che miệng. Đôi mắt to đen của bà trợn trắng. “Nó không nói với chúng ta là nó về. Nó nhất định vẫn ổn. Chỉ là nhầm lẫn gì đó thôi. Con gọi anh Jim chưa?” “Con đã thử mọi cách nhưng anh ấy không trả lời. Không có vụ rơi máy bay hay chuyện gì xảy ra, phải không mẹ?” “Tất nhiên là không! Con đang nói bậy gì vậy!” Mẹ vuốt trán ba lần bằng bàn tay trái gầy guộc để xua đuổi những xui xẻo trong lời nói tôi vừa thốt ra. Mẹ nhìn chằm chằm tôi cho đến khi tôi cúi người để mẹ có thể làm điều tương tự với tôi. Tôi và mẹ có chiều cao gần như nhau và khi chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trong gương ở cửa hàng, tôi mới chợt nhớ rằng tôi trông giống bà đến mức nào - ngoại trừ việc tôi đeo một cặp kính dày và không thể nào so sánh với hình ảnh của mẹ khi còn trẻ. Mẹ từng là cô gái đáng yêu nhất trong làng chúng tôi ở Quảng Đông. Bây giờ ở độ tuổi 50, làn da của mẹ vẫn đẹp với một vài nếp nhăn mờ, lớp kem mềm mượt làm nổi bật đôi mắt ấm áp, và có gì đó dịu dàng nhưng hoang dã trong ánh mắt của bà, như một chú nai vàng trong rừng thông. “Con đi đến nhà chị đi. Xem chuyện gì xảy ra. Hãy lấy chìa khóa, trong lọ gừng khô ở nhà.” “Con có chìa khóa riêng. Chị Sylvie có đưa cho con trước khi chị ấy đi. Nhưng mẹ có chắc không, mẹ?” Tôi thấy ngại khi nghĩ đến việc vào nhà chị Sylvie mà không có sự cho phép. Tâm trí tôi rối loạn: Nếu anh Jim ở đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Và điều gì có thể xảy ra với chị Sylvie? “Chắc, chắc chắn mà,” mẹ khẳng định. “Con hãy đi ngay đi! Nhanh lên!” Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Sylvie Lee của tác giả Jean Kwok & Liên Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tư Duy Lại Nghệ Thuật Bán Hàng
Là một nhân viên bán hàng, mỗi ngày bạn đều phải đối mặt với hàng loạt câu hỏi: - Tại sao tôi không thể có thời gian cho các khách hàng tiềm năng? - Tại sao tôi lại không thấy được những email và cuộc gọi quan trọng? - Làm sao xử lý với sự hạn chế của nhà cung cấp? - Làm sao để nổi bật so với những đối thủ cạnh tranh tương tự? … Câu trả lời cho những câu hỏi này sẽ biến đổi từng ngày trong thị trường hiện đại. Tác phẩm “Tư duy lại nghệ thuật bán hàng” xuất hiện kịp lúc để giúp bạn thay đổi suy nghĩ và hành động, từ đó trở nên nổi bật, làm việc nhanh hơn và đạt được doanh số bán hàng lớn hơn. *** Mọi thứ bắt đầu từ đây T ôi viết cuốn sách này chỉ với một mục đích: thách thức bạn thay đổi hoàn toàn tư duy bán hàng truyền thống. Bằng cách bỏ qua những tư duy thông thường trong môi trường bán hàng hiện nay, thay thế bằng những phán đoán phi thường, bạn sẽ trở nên nổi bật và đạt được những hợp đồng có giá trị hơn. Tôi thành lập doanh nghiệp của mình vào năm 2002 – một việc làm khá ngu ngốc vào thời điểm đó. Bong bóng dot-com nổ tung và sự kiện 11/9 làm rung chuyển cả hành tinh. Thế giới chìm sâu vào hỗn loạn và bất ổn. Nhưng vì sứ mệnh của mình, tôi đã làm việc, dẫn dắt và cố vấn cho những người bán hàng trong suốt hai thập kỷ. Và tôi đã nhận thấy: khi những tiến bộ công nghệ thay đổi cách con người giao tiếp, kinh doanh và mua bán, những người bán hàng tài năng và những chủ doanh nghiệp lại lao vào ngõ cụt. Giới kinh doanh đã thay đổi, còn họ thì không. Tua nhanh đến năm 2017. Ngày nay, không hề thiếu những cuốn sách, bài giảng online, trang blog, đồ họa, video, trang web hướng dẫn, giải thích từng bước phức tạp của nghệ thuật bán hàng hay dạy về social selling*. Nhưng vẫn còn thiếu thứ gì đó. Vì, dù có hàng trăm lời khuyên, tôi vẫn tiếp tục phải nghe những câu hỏi giống nhau của những người bán hàng từ mọi ngành công nghiệp trên khắp thế giới: * Social selling: hình thức bán hàng bằng tài khoản cá nhân trên mạng xã hội. • Làm thế nào để trở nên thật nổi bật nếu đối thủ cũng cung cấp lợi ích như tôi? • Làm thế nào để tiếp cận khách hàng nhanh hơn? • Làm thế nào để quá trình tìm kiếm khách hàng tiềm năng** dễ dàng hơn? Và làm thế nào khách hàng có thể dễ dàng tìm thấy tôi? ** Tiếng Anh là: Prospecting process. • Làm thế nào để vượt qua những đối thủ đã có chỗ đứng trong giới? • Làm thế nào để tạo doanh thu từ những khách hàng tiềm năng? • Làm thế nào để bán được hàng mà không cần phải giảm giá sản phẩm? • Làm thế nào để có thể hoàn thành hết những điều quan trọng trên chỉ trong vòng 24 giờ một ngày? Tại sao những câu hỏi như thế này vẫn chưa được trả lời nhỉ? Khi mới vào nghề, hầu hết những lời khuyên bạn nhận được là: hãy tập trung vào việc bán “cái gì”. Chính suy nghĩ này đã tạo ra một thế hệ những người làm việc máy móc. Nhiều người trong số đó vốn rất thông minh nhưng lại đi làm những việc cực kỳ ngu ngốc. Và khi cấp trên yêu cầu gọi điện nhiều hơn, gặp mặt khách hàng nhiều hơn, nhanh nhanh chóng chóng chốt đơn hàng, mọi việc càng trở nên điên rồ. Những người khác thì chỉ đi theo một lối mòn, làm những điều quen thuộc, làm những điều đối thủ đã làm và nhầm tưởng con đường mòn ấy là đường chân trời. Cuốn sách này buộc những người bán hàng phải rời bỏ lối mòn. Nó đòi hỏi bạn phải suy nghĩ… và sau cùng là tư duy một cách khác biệt về những vấn đề cần giải quyết. Nó cung cấp lý do “tại sao”: Tại sao khó khăn này lại dai dẳng đến vậy, tại sao những giải pháp này không có tác dụng, vậy mà giải pháp khác lại hiệu quả. Và cung cấp phương thức “làm thế nào”: cách để làm việc thông minh hơn, cách đẩy nhanh tiến trình bán hàng trong thế giới nơi những người mua hàng đang đứng trước cơn sóng thần của vô số những lời mời chào, cố gắng ganh đua, giành lấy sự chú ý của họ. Một mặt, hỡi những người bán hàng, chúng ta chưa từng có cơ hội nào tốt đến vậy. Ta có một hệ thống các kênh xã hội giúp ta xác định, kết nối và tìm hiểu về những khách hàng tiềm năng. Công nghệ giúp lưu trữ, sắp xếp và tận dụng thông tin để phát triển phân khúc khách hàng hiện hành và tìm thêm những phân khúc mới. Mặt khác, khách hàng đang mất dần niềm tin vào những người bán. Email, những lời rao vặt khẳng định sẽ đem đến lợi nhuận, giảm thiểu chi phí hay nâng cao hiệu suất giờ đây bị xem như thư rác hoặc chiêu trò quảng cáo vô căn cứ. Nếu những khách hàng tiềm năng của bạn hài lòng với tình hình hiện tại, họ sẽ có nhiều cách để tránh tiếp xúc với bạn. Và nếu khách hàng cần một người bán, họ sẽ tự tìm hiểu, nói theo ngôn ngữ của chúng ta, họ sẽ tự thực hiện quá trình “rà soát đặc biệt”*. Dù đúng dù sai, họ sẽ có những phán đoán và ấn tượng nhất định về bạn, về công ty và sản phẩm của bạn trước khi bạn kịp nói gì. * Tiếng Anh là “due diligence”: Khái niệm dùng chung cho hoạt động khảo sát, thẩm định, đánh giá, phân tích một dự án, một hoạt động kinh doanh hoặc một hoạt động thực hiện trên cơ sở các tiêu chí đã đề ra từ trước. Bán hàng không phải là vấn đề gì quá to tát và trừu tượng. Nó là điều bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Vấn đề là nó khiến bạn tốn nhiều thời gian, công sức và tiền bạc vào những điều ngu ngốc. Hệ quả chính là chu trình bán hàng chậm*, những thương vụ đàm phán không đem lại lợi nhuận, thậm chí là thất bại. Tất cả những điều trên ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty bạn – và thu nhập của chính bạn. * Tiếng Anh là “slow sale cycle”. Cuốn sách này sẽ truyền tải đến bạn cách tư duy phản trực giác, chỉ ra sự sai lầm của câu nói “Always Be Closing” (Chốt giao dịch mọi lúc mọi nơi) và đem đến một kiểu bán hàng ABCs mới, có thể mang lại đơn hàng lớn nhanh hơn. Nó loại bỏ những câu nói rập khuôn hẳn kiểu “rao vặt thang máy”**, “giá trị độc đáo” và “kỹ thuật chốt đơn hàng” trong từ điển của những người bán hàng thông minh. Nó sẽ nhắc nhở bạn, dù cho công nghệ và các phương tiện truyền thông đang phát triển nhanh như thế nào, chính con người mới là nhân tố quyết định có mua hàng hay không. Và con người là những cá nhân cảm tính, khó đoán với nhiều quan điểm khác nhau. ** Thuật ngữ bán hàng: Tiếng Anh là “elevator pitches”, kỹ thuật chào hàng nhanh, gọn, nhằm nhanh chóng chốt đơn hàng. Cuốn sách này sẽ ném bạn vào hiện thực rằng, nếu bạn muốn vượt qua những thách thức trong nghề, bạn phải thay đổi tư duy. Mỗi phần của cuốn sách sẽ làm sáng tỏ những lý lẽ thông thường khiến những người bán hàng vô tình khiến những thách thức lớn nhất chồng chất thêm. Nó cũng truyền tải những suy nghĩ khác biệt và hành động thiết thực để thúc đẩy doanh số bán hàng. Cuốn sách này không nhằm mục đích thay thế hay đối đầu với những cuốn sách tuyệt vời viết về đề tài bán hàng khác. Điều tôi muốn là khiến những cuốn sách ấy trở nên có giá trị hơn sau khi bạn kết thúc cuốn sách này. Mục đích của nó là khơi gợi suy nghĩ và thúc đẩy hành động. Nó không tập trung vào quy trình bán hàng phức tạp hay đàm phán. Nếu những cuốn sách khác tập trung vào những thứ bạn “phải làm”, thì cuốn sách này nêu ra những điều bạn phải “làm ngược lại”. Bạn sẽ muốn đặt nó giữa mặt bàn, trên ghế hay trong xe ô tô, coi nó như một huấn luyện viên trong sự nghiệp. Nó sẽ thay đổi cách tư duy của bạn khi cần phải thực hiện một cuộc gọi chào hàng, cuộc hẹn đầu tiên với khách hàng hay trong một bài thuyết trình quan trọng. Chân lý cơ bản là: Thành quả có được là nhờ hành động. Hành động có được là do suy nghĩ. Khi bạn thay đổi cách suy nghĩ, bạn thay đổi kết quả - tất cả điều này chính là lẽ không thường. Tìm kiếm thành quả từ cuốn sách này Chúng ta đang sống trong thế giới của những đoạn video ngắn nhằm kích thích sự chú ý. Sự thật là khả năng tập trung của chúng ta chỉ tương đương một con muỗi mắt. Ta muốn tư duy khéo léo, nhưng ta cũng muốn tư duy thật nhanh. Vậy hãy tư duy thật đơn giản, thích hợp và khả thi. Và trên hết, hãy khiến chúng đem lại kết quả hữu hình. Và tôi viết cuốn sách này cho những con muỗi mắt. Mỗi chương với độ dài tầm vết muỗi cắn được viết bằng ngôn ngữ của bạn và được chứng minh bằng những câu chuyện về người tốt, người xấu và tên vô lại: người bán hàng chân chính, những con số thống kê đáng giật mình và những thành công có được nhờ thay đổi sự nghiệp. Đây là 5 mẹo để đảm bảo bạn sẽ nhận được điều gì đó từ cuốn sách này: Cài đặt lại Hãy đọc Chương 1 trước để cài đặt lại cách tư duy của bạn. Đọc nó với một cái đầu tò mò – tò mò về quan điểm, về cách thức bán hàng, và về công việc của chính bạn. Bạn sẽ không đồng ý với tất cả mọi thứ, vậy cũng không sao. Tôi sẽ chỉ yêu cầu bạn suy nghĩ thật kỹ về mọi ẩn ý đằng sau những con chữ trên trang giấy, trước khi lật sang những trang sau. Sau đó, hãy chuyển sang những chương khác, mang tư duy mới khi tìm hiểu về từng bước trong tiến trình bán hàng, và dừng lại ở Chương 8, chương sẽ đem lại tư duy quản lý thứ tài sản số một mà bạn sở hữu: bản thân bạn. Đọc lướt Tôi khuyến khích bạn đọc cuốn sách một lần từ đầu đến cuối, rồi lướt qua những chương có liên quan khi cần thiết. Gặp khó khăn khi tìm khách hàng tiềm năng? Nhảy qua Chương 2 và 3 để hiểu rõ mục đích của bản thân. Bị quá tải với khối lượng công việc? Ngụp lặn qua Chương 8 để lấy lại sự tập trung. Đang cần viết một bản kế hoạch đề xuất? Đọc lại Chương 5 trước khi thuyết phục khách hàng thất bại. Và nếu bạn cần thứ gì đó có căn cứ? Quay lại Chương 1 để tìm lại những điều không thường. Cam kết Hãy suy nghĩ về hoạt động bán hàng của bạn. Từ cuốn sách này, hãy chọn ra điều có thể đem lại nhiều lợi ích nhất, và cam kết thực hiện nó. Đừng thử làm mọi thứ, nếu không rốt cuộc bạn sẽ chẳng hoàn thành được thứ gì. Thiết lập một thói quen mới. Chỉ khi bạn thành thạo một nhân tố trong những lẽ không thường này thì mới được chuyển sang những nhân tố tiếp theo. Hứa hẹn Cam kết trước đông người giúp bạn có khả năng thành công cao hơn, vì thế hãy rủ bạn bè của mình. Rủ tất cả mọi người trong nhóm đọc cuốn sách này. Dùng những buổi gặp mặt cả nhóm để thảo luận một mẹo nào đó trong một trường hợp cụ thể ở ngoài đời. Lập ra thử thách hằng tháng cho nhóm. Và cùng nhau cam kết chia sẻ những câu chuyện thành công vào những buổi gặp mặt trong tương lai. Quay lại Ngày nay, bạn sẽ thấy rất nhiều cuốn sách đã lỗi thời ngay khi bạn truy cập trang web Amazon. Tôi không muốn cuốn sách này bị tác động bởi thời gian. Những điều đặc biệt và khác thường trong cuốn sách này sẽ còn tồn tại lâu hơn sự nghiệp của bạn. Vì thế, đừng quăng nó trên giá hay để nó nằm ngủ đông trên kệ tủ nào đó. Hãy coi nó như một huấn luyện viên cá nhân khi cần thiết. Một cuốn sách tự lực cho những siêu sao trong ngành bán hàng. Hãy quay lại đọc những trang sách này thật nhiều lần, cho đến khi những điều khác thường trong đây trở thành những thói quen hằng ngày của bạn. Hãy tận hưởng cuốn sách này nhé. *** Vì tính bảo mật và riêng tư nên tôi đã thay đổi tên một vài người bán hàng được nói đến trong những chương sau. Mời các bạn đón đọc Tư Duy Lại Nghệ Thuật Bán Hàng của tác giả Jill Harrington.
Những Cô Gái Mỹ - Mạng Xã Hội Và Cuộc Sống Thầm Kín Của Tuổi Dậy Thì
T ừ khi còn là một cô bé, tôi đã có thói quen đọc sách rồi cứ thế ngủ thiếp đi. Trong suốt cuộc đời của mình, tôi thường cố đọc thêm mấy trang sách trong tình trạng ngủ gà ngủ gật và tỉnh giấc khi ánh đèn vẫn sáng và cuốn sách thì nằm trong tay… Khi tôi 10 tuổi và 12 tuổi là thời của Biên Niên Sử Narnia, Giết con chim nhại, và Jane Eyre. Tôi luôn mê mẩn Raymond Chandler, Patricia Highsmith và James M. Cain - những tác giả vĩ đại về đề tài trinh thám, tội ác. Đọc sách với tôi cũng giống như hơi thở, cần thiết cho việc tồn tại và suy nghĩ. Nhưng thời gian gần đây, khi đọc qua từng trang sách, tôi thấy đầu óc mình cứ vẩn vơ nghĩ đến chiếc điện thoại. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Tôi có đang bỏ lỡ điều gì đó không? Một trong những nguyên nhân tôi cho rằng có thể lý giải sự phân tâm của mình đó là bởi trong hai năm rưỡi qua, tôi đang nghiên cứu về một cuốn sách viết về phái nữ và mạng xã hội. Tôi đã thực hiện một chuyến đi qua 10 bang (New York, New Jersey, Virginia, Florida, California, Arizona, Texas, Indiana, Delaware, và Kentucky) và nói chuyện với những cô gái từ 13 đến 19 tuổi về cuộc sống của họ trên mạng xã hội cũng như ở ngoài đời. Sau khi gặp gỡ và nói chuyện, tôi dõi theo tài khoản của những cô gái ấy trên mạng, xem họ đăng lên những gì, cuộc sống của họ ra sao. Và dù rằng họ biết tôi là một trong những người đọc thông tin của họ trên các diễn đàn được mở công khai, cảm giác bị theo dõi vẫn có, cảm giác mà các cô gái thường gọi là “bị đeo bám”, khiến tôi nhiều lần tự hỏi: Tôi đang làm gì? Chúng ta đang làm gì? Tôi sử dụng các ứng dụng mà các cô gái thích, chẳng hạn như Yik Yak – một ứng dụng được ví như Twitter ẩn danh. Ra đời vào năm 2013 bởi hai người đàn ông trẻ gặp nhau tại Đại học Furman ở South Carolina, Yik Yak được biết đến nhiều bởi học sinh trung học và sinh viên đại học. Giống các ứng dụng ẩn danh khác, Yik Yak cũng từng được nhiều kênh thông tin cho rằng có liên quan đến những vụ hăm dọa trên mạng, và vì vậy nhiều trường phổ thông và đại học đã cấm ứng dụng này. Nhưng trong bán kính năm dặm tính từ nơi tôi có thể xem được các bài đăng – khu vực bao gồm một vài trường trung học của thành phố New York và trường đại học New York – những người sử dụng Yik Yak đang nói lên những băn khoăn mà cũng là mối bận tâm của giới trẻ ở các lứa tuổi khác nhau: Tôi có hấp dẫn không? Sau này có ai yêu tôi không? Tôi sẽ chịu đựng người bạn cùng phòng khó ở của tôi thế nào đây? Rất nhiều bài đăng trên Yik Yak là về tình dục. Và nhiều bài trong số đó thể hiện những điều mới so với những gì chúng ta từng biết về giới trẻ. Lúc đầu, tôi thấy rất khó chịu khi đọc những bài như vậy, nhưng khi tôi thấy quen dần, những bài đăng này không quá khác biệt nữa. Trên các mạng xã hội, những thứ gây phiền toái, khó chịu sẽ dễ dàng trở nên bình thường sau những lần được đăng lại một cách rộng rãi. Và sau đó, vào một buổi tối thứ Bảy, tháng 10, năm 2015, khi tôi đang lướt qua Yik Yak trên điện thoại thay vì đọc một cuốn sách, tôi đã nghe thấy một điều mà ngay cả những người dùng Yik Yak thường xuyên cũng thấy choáng váng. “Trời ơi, Syracusesnap”. “LMFAO (cười rớt mông) Syracusesnap.” “Syracusesnap là gì?” – mọi người hỏi. Ai cũng muốn biết. Ai cũng cần phải biết. Syracusesnap là một trang Snapchat Story, nhưng hình ảnh và video có thể xem được trong vòng 24 giờ sau khi đăng thay vì chỉ một đến mười giây như một Snap bình thường. Ra đời vào năm 2011 bởi ba anh em kết nghĩa đến từ Stanford, cho đến nay, theo lời của Snapchat, các câu chuyện ‘Stories’ của ứng dụng này là chức năng phổ biến nhất, với hơn một triệu lượt xem mỗi ngày. Nhưng chẳng có mấy trang Story đạt độ lan truyền cao. Còn Syracusesnap, chỉ trong vài giờ sau khi ra đời, đã được giới trẻ và sinh viên khắp nước Mỹ tham gia. “Tiếng tăm của Story lan truyền còn nhanh hơn cả một bài đăng của Gossip Girl”, The Tab – trang web của một trường đại học, và cũng là tổ chức duy nhất viết về điều này cho biết. Trong một thời đại mà sự riêng tư gần như không còn được bảo mật, thì vẫn còn những thứ chỉ tồn tại trong thế giới của giới trẻ, ẩn mình trong không gian trực tuyến, không cầu kỳ, và Syracusesnap là một trong số đó. “Chẳng mấy chốc mà không chỉ có sinh viên của [trường Đại học] Syracuse nhảy theo ‘cơn sốt’ này”, The Tab chia sẻ. Các bài đăng và câu chuyện từ những trường như Pitt, Cornell và trường Đại học NYU cũng được đưa vào đây – điều này có nghĩa là những trường khác cũng đang tham gia Syracusesnap và đăng ảnh trên ứng dụng này. “Trường ‘Cuse đang tỏa sáng’ và ‘Ước gì chúng ta đi học ở trường ‘Cuse!’ là những dòng chia sẻ cùng các bức ảnh” – The Tab cho biết. “Tất cả mọi người đều ghi @Syracusesnap trên Snapchat. Không cần khách sáo,” ai đó đã đăng lên như vậy. Điều gì đã gây ra sự phấn khích này? Syracusesnap có những bức hình giới trẻ uống bia rượu, sử dụng chất kích thích trong phòng ký túc xá, và đặc biệt nhất là những tấm ảnh của các cô gái khỏa thân. Một vài tấm ảnh còn được trang trí với hình ảnh hoạt hình bóng đá và được liên tưởng đến tuần lễ hội ngộ hàng năm mang tên “Orange Central” của trường Syracuse. Trông nó giống như thành quả mà một chuyên gia truyền thông đã lồng ghép ảnh khiêu dâm với không khí trường học để khiến Syracuse trông như một bữa tiệc trường tuyệt nhất. Nhưng chúng ta sẽ nói thêm về chuyện đó sau. Trước đây đã từng có những câu chuyện Snapchat Stories tai tiếng của các trường đại học, thực ra, những trang này có thể được tìm thấy ở nhiều trường khắp cả nước. Đây là một loại chuyện châm biếm nổi loạn của chức năng Campus Stories trên Snapchat – một chức năng khác của ứng dụng này mà nhiều trường học tài trợ và quản lý. Những câu chuyện loại này thường đưa ra hình ảnh của các sinh viên trong những thời khắc vui tươi và đầy cảm hứng – lúc ở khán đài reo hò khi chiến thắng trận đấu bóng, hoặc lúc đi đến giảng đường. Năm 2015, Đại học Sun Devil Nation của bang Arizona đã trở nên nổi tiếng với những bức hình sinh viên trong trường khua khoắng những túi cần sa và hít co-ca-in. Theo Thời báo Bruin – tờ báo của Trường Đại học California thuộc Los Angeles, UCLAyak – tên tài khoản Yik Yak của trường này – có những tấm hình rõ ràng là khiêu dâm và những đoạn phim lặp lại “cứ vài giây một”. Vị sinh viên ngành tâm sinh lý ẩn danh tạo ra tài khoản này đã chia sẻ với tờ Bruin rằng anh hoàn toàn không ngạc nhiên với sự trần trụi này: “Đây chỉ là vấn đề sớm hay muộn. Đây chính là lý do Snapchat ra đời.” Anh còn cho biết anh ngờ rằng một vài đoạn phim đã được lên kịch bản từ trước và họ tạo ra chúng để gây sốc cho mọi người. Những hướng dẫn sử dụng của Snapchat đã cấm những nội dung thể hiện rõ tính khiêu dâm, và công ty này thường xuyên xóa đi các trang Snapchat Stories vi phạm quy định trên, nhưng ngay khi bị xóa, những nội dung này lại xuất hiện trở lại dưới tên một tài khoản khác. Vậy thì điều gì đã làm cho Syracusesnap có sức lan truyền mạnh đến vậy? Tối thứ Bảy đến, khi giới trẻ còn đang mải loan tin cho nhau về những câu chuyện tai tiếng của mình, thì nội dung trên Story của tài khoản này lại trở nên mạnh bạo hơn nữa. Hình ảnh của hai cô gái đang cùng nhau làm cái điều mà mọi người hay gọi là “đi đường cửa hậu”. “Syracusesnap điên mất rồi (cười rớt mông),” @ Alexus_x30 chia sẻ. @vmankss thì nói: “Ok, tất cả mọi người trên Syracusesnap cần đến sự cứu rỗi của CHÚA”. @lexhallmark lo lắng: “Nếu ba mẹ tôi mà nhìn thấy Syracusesnap, họ chắc chắn sẽ bắt tôi chuyển trường”. “Tôi đã có một vết nhơ gột cả đời không sạch vì đã tải về ứng dụng Syracusesnap, ôi Chúa ơi mắt tôi đã thấy gì thế này,” @t victoria chia sẻ. Khi tôi xem những gì được chia sẻ trên trang Story này bằng điện thoại của mình, tôi thấy xung quanh tôi đầy những nội dung mà chính tôi đã muốn nói đến trong bài viết về các cô gái và mạng xã hội. Có yếu tố lan truyền, lan đi mạnh mẽ, nhanh chóng trên mạng trực tuyến, cảm giác thôi thúc rằng có điều gì đó ở ngoài kia cần được biết đến và chia sẻ, còn nếu không, bạn sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Khi một bức ảnh hai cô gái đánh nhau xuất hiện, Syracusesnap bắt đầu cho thấy những dấu hiệu của sự khác biệt so với các trang Campus Stories không chính thống. Bạo lực không phải là một đặc tính đặc trưng của những tài khoản này, nhưng các vụ xô xát giữa hai người con gái là nội dung thường thấy ngày nay trong các chương trình truyền hình và các bộ phim được yêu thích. “Ôi trời ơi, con gái đánh nhau LOL”. Nhưng khi Syracusesnap đưa ra một bức hình của một chàng trai đang đe dọa một bạn gái (mặt của hai người không bị lộ), thì ngay cả những người tham gia Yik Yak hiền lành nhất cũng phải lên tiếng. “Gửi anh chàng đang đặt tay lên cô gái kia, tôi mong anh sẽ bị một trận đòn,” một ai đó đã chia sẻ như vậy. Sau ngày Snapchat đóng và cấm chức năng kể chuyện Story, người ta xôn xao hỏi nhau nó đã biến đâu mất rồi – người ta có thể nhìn thấy nó ở đâu chứ, thứ mà bấy lâu nay ai cũng nói đến? “Yeti,” “Yeti,” những người dùng Yik Yak đăng lên như vậy. “Yeti là gì?”, mọi người hỏi. Yeti - Campus Stories là một ứng dụng trên điện thoại di động ra đời vào năm 2015, là một sự kết hợp của Snapchat và Yik Yak. Trang của Yeti tại cửa hàng Apple iTunes nêu rõ rằng chỉ những người dùng đủ 17 tuổi trở lên mới có thể tải phần mềm này (nhưng ai kiểm tra chứ?), đồng thời cảnh báo rằng Yeti có thể bao gồm những nội dung “Ít gặp/ Bạo lực thực tế cấp nhẹ” và “Thường gặp/ Nội dung người lớn cường độ mạnh/ Chủ đề khiêu dâm,” cũng như liên quan đến việc sử dụng ma túy. Khi Yeti ra đời, tờ Daily Dot gọi đây là “sự nhân bản của Snapchat với nội dung người lớn” và dự đoán rằng Yeti sẽ dựng lên một sân thi đấu giữa các trường đại học. Con trai trường nào nóng nảy nhất? Kỳ nghỉ mùa xuân của ai hư đốn nhất? Bồ của chàng trai nào “nóng bỏng” nhất? Các bài blog trên Tumblr sớm xuất hiện “các nàng Yeti” và “Các cô gái của Yeti – Campus Stories” “nóng bỏng nhất” trong hàng dài trang ảnh khỏa thân, bán khỏa thân mà chủ nhân của các trang blog cho là các “bức ảnh chụp màn hình” từ ứng dụng. Khi tôi viết thư điện tử cho giám đốc truyền thông của Yeti – Ben Kaplan, 23 tuổi – hỏi về những bức hình này, rằng liệu chúng đã thực sự xuất hiện trên Yeti và liệu tác giả của những bức ảnh có cho phép chúng được chia sẻ không. Ben nói anh ta chưa từng nhìn thấy những trang blog này trước đây và rằng Yeti “không có bất cứ liên quan gì đến chúng”. Anh chàng mang họ Kaplan nói: “Thật không may là chẳng có phần mềm nào trên thế giới này (mà tôi biết tới) có khả năng nhận biết liệu những người xuất hiện trong bức ảnh đã cho phép người chụp được sử dụng hay chưa”. Câu trả lời này khiến tôi tự hỏi: “Chà chà, tại sao những nhà phát triển phần mềm lại chưa từng nghĩ đến quyền chia sẻ hình ảnh khỏa thân nhỉ?” Một điều lạ về chuyện này là khi bạn vào Yeti, bạn sẽ thấy nội dung ở đây tương đối nhẹ nhàng. Khi tôi ghé qua các tài khoản Yeti của trường Đại học New York, Texas A&M, Penn State và các trường khác, tôi thấy hàng đống hình ảnh tự chụp theo phong cách gợi cảm (chu môi và khoe khe ngực), cũng như những bức ảnh chụp đồ ăn và các sinh viên tỏ ra ngớ ngẩn, rồi cả hình ảnh sinh viên khoe chất ma túy (ống hút cần sa và co-ca-in)... Thực ra, Syracusesnap tuyên bố rằng họ đã chuyển qua Yeti sau màn trình diễn ngông cuồng của mình, nhưng những bức hình táo bạo kia lại chưa từng xuất hiện ở Yeti. Tất cả điều này có nghĩa gì? Một nguồn thông tin ở bộ phận hành chính Đại học Syracuse cho hay anh ta tin rằng Syracusesnap thực ra là do Yeti sáng lập. Không một ai trên mạng xã hội có vẻ nghĩ tới khả năng này, tuy nhiên, ngay khi anh ta nói với tôi điều đó, tôi thấy đây không phải là một điều phi thực tế. Hình ảnh cuối cùng xuất hiện trên Syracusesnap là hình ảnh logo của Yeti – những cột thẳng đứng nhiều màu giống màn hình các kênh ti vi thử nghiệm. “Snapchat đang cấm tài khoản của chúng tôi”, là thông điệp đi kèm với logo. “Chúng tôi sẽ chuyển Story của mình sang trang YETI CAMPUS STORIES, có thể tải về từ Apple/ Google Playstore.” Giọng điệu y chang một tin quảng cáo. Vậy thì có phải Syracusesnap chỉ là một chiêu thức marketing? Có phải chính Yeti đã thúc đẩy cho cuộc tranh luận về tài khoản trên Yik Yak và Twitter diễn ra? Ben Kaplan viết trong email của mình rằng Yeti không hề liên quan đến Syracusesnap, và rằng anh ta chưa từng nghe thấy điều này. Ben cũng nói anh ấy nghĩ rằng việc đưa lên logo của Yeti “có thể là để giảm thiểu những bối rối trong quá trình chuyển giao?”. Ben nhấn mạnh: “Yeti là sự cập nhật sống động của TẤT CẢ NHỮNG GÌ diễn ra tại trường”. Vậy thì ai là người sáng lập ra Syracusesnap? Khi tôi trao đổi với Hannah Malach, một sinh viên của trường Syracuse và cũng là người viết bài cho tờ The Tab, cô nói rằng, theo cô được biết, chưa ai trong trường đã phát hiện ra danh tính của người tạo ra tài khoản này. Khi tôi hỏi liệu cô đã nghe nói đến Yeti trước khi biết về Syracusesnap, cô đáp “Tôi đã không biết về Yeti, và cho đến giờ, vẫn có nhiều người chưa biết về nó.” Tôi đã phỏng vấn các sinh viên và có một vài người cũng nói rằng họ chưa từng biết đến Yeti – Campus Stories. Tính đến buổi tối tháng 10 đó, trang Twitter và Instagram của tài khoản này, có chưa đến 6.000 và 3.000 người tham gia, mặc dù nó đã tồn tại gần 1 năm. Khi chúng ta nói đến văn hóa mạng xã hội, chúng ta muốn nói gì? Tôi cho rằng đây là một đề tài quan trọng, vì mạng xã hội là nơi hầu hết các cô gái Mỹ đang sống. “Chúng tôi ở đó 24 giờ, 7 ngày” là lời chia sẻ của một cô gái 13 tuổi ở Montclair, New Jersey – “Đó là tất cả những gì chúng tôi làm”. Có thể một cô gái tuổi mới lớn sẽ nói, điều này không hoàn toàn đúng, về nghĩa đen. Họ còn đi học, chơi thể thao, giao du với bạn bè, chăm sóc anh chị em trong gia đình; có nhiều người còn đi làm, họ làm các công việc tình nguyện, thực hiện những sở thích của mình, và đọc sách nữa, mặc dù giới trẻ ngày nay đọc ít hơn trước nhiều, đây là điều mà một vài nghiên cứu đã chỉ ra là do sự gia tăng của công nghệ trong cuộc sống. Các bậc phụ huynh và giáo viên sẽ than phiền thế này: “Chúng suốt ngày lên mạng”. Khi được hỏi kỹ hơn, nhiều bậc phụ huynh và giáo viên phải thừa nhận, chính họ cũng dành nhiều thời gian trên các trang mạng xã hội. Tất cả chúng ta đều đang gắn chặt mình với các thiết bị di động theo những cách mà chúng ta chưa từng tưởng tượng ra chỉ một vài năm trước. Nhưng trên thực tế, trong tất cả các nhóm tuổi của người Mỹ, các cô gái mới lớn là những người sử dụng mạng xã hội nhiều nhất. Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, vào năm 2015, 88% các cô gái Mỹ mới lớn, tuổi từ 13-17, có thể tiếp cận với một chiếc điện thoại di động, và 73% sở hữu điện thoại thông minh. 92% lên mạng hàng ngày từ một thiết bị di động, và 24% lên mạng “hầu như liên tục”. Các cô gái tuổi từ 13-17 có xu hướng tiếp cận với điện thoại thông minh, máy tính hoặc máy tính bảng nhiều hơn các chàng trai, và theo Pew, “các cô gái trẻ sử dụng các trang mạng xã hội, chủ yếu là các trang có nhiều hình ảnh, để chia sẻ nhiều hơn so với các bạn khác giới cùng độ tuổi”. Số lượng các cô gái sử dụng mạng xã hội hàng ngày tăng cao không phụ thuộc vào hoàn cảnh, xuất xứ, nền giáo dục, thu nhập của gia đình, cũng như việc họ đang sống tại nông thôn hay thành thị. Vào năm 2015, Facebook, Instagram, Snapchat, Twitter và các trang chia sẻ ảnh trực tuyến như Pinterest là các trang phổ biến nhất với các cô gái Mỹ. Theo các nghiên cứu, các cô gửi đi 30 tới hơn 100 tin nhắn mỗi ngày. Đề tài nghiên cứu của tôi tập trung vào lý do tại sao các cô gái lại lên mạng “mọi lúc”, và họ làm điều gì trên mạng, tuy nhiên tôi thấy mình cũng cần lưu tâm về lượng thời gian rất lớn mà họ đang dành cho việc lên mạng trước khi đi sâu vào tìm kiếm câu trả lời cho hai câu hỏi trên. Liệu có phải họ nghiện mạng xã hội không? Nếu bạn hỏi, có thể nhiều cô sẽ trả lời là đúng. Các từ “bị nghiện” và “sự ham mê”, “bị ám ảnh” và “mang tính ám ảnh” xuất hiện nhiều lần trong các câu hỏi phỏng vấn của tôi với hơn 200 cô gái mới lớn khi họ nói về việc họ sử dụng điện thoại thông minh, lượng truyền thông và mạng xã hội mà họ đang sử dụng. Còn cách nào khác đâu để bạn có thể đưa ra các đặc tính của một hoạt động chiếm tới 9-11 giờ mỗi ngày (số giờ khác nhau theo các nghiên cứu được trích dẫn khác nhau)? Trong giới nghiên cứu, vẫn chưa có kết luận về việc liệu nghiện mạng xã hội có giống như nghiện ma túy và bị phụ thuộc vào ma túy hay các chất khác hay không, dù rằng các thông tin đang được đăng tải lên ngày một nhiều rằng việc sử dụng mạng xã hội giúp các trung tâm của hệ thống củng cố não bộ sáng lên và khiến các hoóc- môn nhảy múa. Các cô gái cũng nói về “sự phấn khích” mà các nhà nghiên cứu cho rằng sẽ xuất hiện trong não bộ của các cô khi họ nhận được những lượt “thích” trên các bài đăng và ảnh. Và dù họ không biết đến các nghiên cứu này, họ cũng biết cảm giác của sự phấn chấn khi những bức ảnh được nhiều người ca ngợi, cũng như cảm giác thất vọng khi các bài đăng không nhận được phản hồi, hay tệ hơn, là bị chê bai hoặc “ném đá”. Có một thực tế mới bất thường và nó đã đến rất nhanh, đó là, chưa bao giờ như lúc này, hầu như tất cả các cô gái Mỹ đang tham gia vào cùng một việc trong phần lớn thời gian của họ. Và sự thay đổi lớn trong cách các cô gái sử dụng thời gian của mình đã tạo ra một sức ảnh hưởng lớn đến cách suy nghĩ và hành động, cũng như việc các cô kết bạn, hẹn hò như thế nào. Nhưng các ảnh hưởng đó như thế nào? Khi chúng ta nói về mạng xã hội, chúng ta nói chúng ta đang ở “trên mạng”, cũng tương tự như cách chúng ta nói chúng ta đang trên đường đi chơi vậy. Dường như chúng ta đang trải nghiệm nó như là một hành trình thực tế tới một điểm đến nào đó, nhưng đây không phải là một điểm trung gian, nó được tạo ra bởi những người làm kinh tế, và một phần lớn của nó đến từ Thung lũng Silicon. Những cô gái tôi phỏng vấn năm 2013 tỏ ra ngại ngần với nạn phân biệt giới tính trong cuộc sống của họ hơn so với những cô gái tôi phỏng vấn năm 2014. Thời gian trôi qua, các cô gái và phụ nữ tiếp tục lên tiếng trên mạng, phái nữ dường như thức tỉnh. Họ cũng nói về những điều tương tự - “kẻ tàn bạo”, “kẻ chẳng ra gì”, và đặt ra những tiêu chuẩn kép để trừng phạt người khác giới, nhưng họ đã thể hiện chính mình bằng một quan điểm phê phán mới mà nhiều cô gái nói họ đã học được từ các bài đăng và bài báo họ đọc được trên các trang mạng xã hội. Không phải những thứ vật chất xung quanh các cô gái đã thay đổi, mà tư duy của các cô đã thay đổi, và các cô dường như mạnh dạn hơn để nói về mọi thứ theo cách mà mới chỉ một năm trước đây các cô không dám, vì những nội dung ấy có thể khiến người ta đánh giá các cô là những người theo “chủ nghĩa nữ quyền”, và không ai muốn bị gắn mác như vậy, dù cho từ ấy có nghĩa là gì đi nữa. Rất nhiều thần tượng của các cô gái ngày ấy – Katy Perry, Taylor Swift, Kelly Clarkson, Shailene Woodley, và nhiều người khác – lo sợ bị gắn mác “chủ nghĩa nữ quyền”. “Tôi không theo chủ nghĩa nữ quyền”, Lady Gaga đã khẳng định vào năm 2009. Nhưng vào năm 2014, điều gì đó đã thay đổi, và những hình mẫu của các cô gái đã bắt đầu trân trọng từ này hơn. Quan trọng hơn cả, họ nhận ra rằng có những sự bất bình đẳng trong cuộc sống của phái nữ cần được chỉ rõ. Emma Watson đã trình bày một bài thuyết trình được công khai rộng rãi tại Liên hợp quốc, nêu rằng “Đấu tranh vì quyền lợi phụ nữ bấy lâu nay thường bị gắn liền với việc thù ghét đàn ông. Nếu tôi chỉ dám chắc một điều, thì đó là, việc này cần phải chấm dứt.” Watson đã hối thúc phái nam cùng với phái nữ trở thành “những người ủng hộ giới tính bình quyền”. Taylor Swift cũng đã thay đổi, về cùng nhóm với chủ nghĩa nữ quyền. Còn Beyonce đã biểu diễn tại Lễ trao giải MTV Video Music Awards trước một tấm bảng dài gần 4 mét ghi rõ CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN. “Đó là một điều lớn, rất lớn”, một cô gái 14 tuổi ở New York chia sẻ. “Nó giống như là, Beyonce, trời ạ”. Nhưng rồi đến cuối năm 2015, bạn lại thấy sự xuất hiện của Syracusesnap. Văn hóa của mạng xã hội lại bị xáo trộn, và dường như không còn mấy để tâm tới sự phản kháng của chủ nghĩa nữ quyền hay những người muốn xóa bỏ những mặt còn đang gặp nhiều khó khăn của chủ nghĩa này. Và người chịu thiệt là các cô gái. Hàng ngày, thậm chí hàng giờ, trên chiếc điện thoại, các cô phải hứng chịu những lời nhục mạ và những thứ có khả năng làm tổn hại đến trạng thái tinh thần tích cực và lòng tự trọng của các cô. Đây không phải là một cuốn sách viết về việc các cô gái đã trở thành nạn nhân như thế nào. “Nạn nhân” không phải là một từ tôi muốn dùng để nói về những cô gái mà tôi đã gặp, vẫn đang tồn tại và phát triển trong một môi trường mà, phần lớn thời gian, đã trở nên quá thù địch với các em. Điều này đã xảy ra thế nào, khi mà ngày càng nhiều sinh viên nữ tốt nghiệp đại học, khi mà ngày càng có nhiều nữ giới là lãnh đạo trong nhiều lĩnh vực. Chúng ta hay nghe người ta nói, rằng những cô gái Mỹ là những cô gái danh tiếng và thành công nhất trên thế giới. Nhưng hãy nói điều đó với một cô gái 13 tuổi bị gọi là một “con điếm” và cảm thấy mình không thể bước chân vào lớp học vì tất cả mọi người sẽ nhìn em, nhắn tin cho nhau bàn bạc về em. “Chúng ta cần tìm lời giải cho câu hỏi tại sao những người phụ nữ có thể tạo nên bước tiến dài trên những đấu trường dành cho mọi người, hơn là sàn đấu của chính mình”, là chia sẻ của bà Elizabeth Amstrong, giáo sư xã hội học chuyên về tình dục và giới tính, trường Đại học Michigan. “Phân biệt giới tính đã được xếp vào những phạm vi mới mà phụ huynh không thấy và không hiểu, bởi cách họ dùng mạng xã hội rất khác”, Katie – một sinh viên tại Barnard chia sẻ. “Họ nghĩ rằng ‘Ồ, làm gì có chuyện có điều gì sai xảy ra ở đây, Snapchat và Instagram chỉ là trò chơi thôi mà.’” Nhưng nếu nó chỉ là một trò chơi, thì nó cũng khác với bất cứ trò nào chúng ta từng c
Làm Chủ Cuộc Chơi, Thay Đổi Cuộc Đời
Hoàn cảnh không tạo nên con người, chúng chỉ phơi bày họ. ― JAMES ALLEN ― Ngày xửa ngày xưa, có một người đàn ông đã hủy hoại đời mình ở tuổi 32. Mặc dù nhiều người tin rằng, ta có thể đánh giá nhân cách của một người dựa vào phản ứng của họ trong lúc gian nan và khi lâm vào đường cùng, chẳng có gì trong cuộc đời người đàn ông cho thấy anh ta đã sẵn sàng để vượt qua những thử thách trước mặt. Bạn sẽ không bao giờ biết một người có thể đạt được những gì nếu mong muốn của người ấy đủ mãnh liệt. Vào ngày 10/06/1996, người này đứng bất động trong phòng giam – một căn phòng hệt như bao phòng giam khác đã trở thành nhà của anh trong hơn 6 năm qua – và tuyệt vọng trước tin tức vừa nhận được về sự ra đi của cha mình. Anh nhìn xoáy vào đôi mắt cũng đang chằm chằm nhìn anh trong chiếc gương trầy xước bằng thép không gỉ trong nhà tù chôn vùi mình. Qua những ký tự khắc ngang dọc của tù nhân trước đây, anh thấy hình ảnh của một gã bỏ ngang trung học, thất nghiệp, thất bại 3 lần và sống cả quãng đời trưởng thành khổ sở đến tuyệt vọng. Từ lúc nào chẳng hay, anh chỉ biết đến nhà giam, đói nghèo và sự chật vật. Anh không có tiền, không có hy vọng và rõ ràng, không có tương lai. Anh chưa bao giờ có một công việc ổn định hoặc sở hữu một ngôi nhà, và anh đã bỏ rơi đứa con trai 3 tuổi của mình. Anh chưa bao giờ làm một việc đáng kính trọng trong đời. Vừa nhìn chằm chằm diện mạo trong gương, tiếc thương người cha đã khuất, đứa con trai anh bỏ rơi và cuộc đời mà mình lãng phí, anh vừa ngẫm nghĩ câu nói của Ralph Waldo Emerson1: 1 Ralph Waldo Emerson (1803–1882) là nhà viết tiểu luận, nhà thơ, triết gia người Mỹ, và cũng là người đi đầu trong phong trào tự lực cánh sinh và chủ nghĩa siêu việt. “Ta trở thành những gì ta luôn nghĩ tới.” Anh tập trung vào câu nói và lặp lại với bóng hình phản chiếu trên tấm gương thép không gỉ. “Ta trở thành những gì ta luôn nghĩ tới.” Anh chăm chú suy nghĩ từng từ trong lúc ngắm nghía hình ảnh khốn khổ của mình: Anh đang già đi, mặt anh đã có nhiều nếp nhăn mà mới hôm qua, anh còn không thấy. Thời thiếu niên và thanh niên của anh đã lao đi với một tốc độ kinh hoàng. Và giờ anh đang ở đâu? Già đi ngay trước mắt mình. Sao lại thế? Sao anh lại để mọi thứ mất kiểm soát đến thế? Có phải đã quá muộn để hành động rồi không? Đó là câu hỏi cấp bách nhất, vì dù sao đi nữa, anh sẽ không nhìn thấy đường phố cho đến ngưỡng 40 tuổi. Anh lại nghĩ về câu nói của Emerson: “Ta trở thành những gì ta luôn nghĩ tới.” Rồi anh tự hỏi: Còn gì cho cuộc đời không? Phải làm sao mới tìm ra câu trả lời? Anh có chút khả năng nào để thay đổi số phận nghiệt ngã này không? Anh thật sự có thể trở thành một con người khác chỉ bằng cách nghĩ về một điều khác hay sao? Bất chấp những khó khăn tưởng như nan giải, anh quyết định tìm kiếm câu trả lời. Anh bắt đầu hành trình lập ra một kế hoạch cuộc đời, sau này anh gọi là kế hoạch thành đạt. Anh tập trung suy nghĩ về một cuộc đời hiệu quả, hữu nghĩa và thực hiện những hành động tương ứng với ý nghĩ mới mẻ này. Mặc dù, triển vọng đổi đời bằng cách thay đổi suy nghĩ có vẻ khá ngớ ngẩn, anh đã tuyệt vọng đến mức quyết định cứ thử xem sao. Thậm chí, anh còn bị ám ảnh bởi ý nghĩ, mình có thể thay đổi số mệnh chỉ đơn giản bằng cách nghĩ khác đi. Và anh đã làm được. Thời điểm được phóng thích sau lần chuyển trại thứ ba và cuối cùng vào 7 năm sau, anh đã có bằng cử nhân và thạc sĩ Quản trị Kinh doanh. Vào năm 2002, chỉ một năm trước khi được trả tự do, anh được tuyên dương vì đã cứu sống một quản giáo. Bất kể trở ngại và khó khăn chồng chất, anh vẫn tiếp tục gây dựng một cuộc sống giàu có và chính trực. Anh nối lại liên hệ với con trai và nuôi dạy con trở thành một thanh niên xuất sắc. Anh xây dựng một công ty nhỏ từ tay trắng, tăng doanh thu lên 20 triệu đô la chỉ trong 60 tháng và góp mặt vào danh sách các công ty tư nhân tăng trưởng nhanh nhất nước Mỹ trong năm 2009 trên tạp chí Inc.. Anh còn mua những căn nhà xinh đẹp ở vùng núi Colorado và bãi biển Maui. Anh chia sẻ câu chuyện của mình trong cuốn hồi ký Upside of Fear: How One Man Broke the Cycle of Prison, Poverty, and Addiction (tạm dịch: Mặt tốt của nỗi sợ hãi: Cách vượt thoát vòng luẩn quẩn của tù tội, nghèo đói và nghiện ngập). Cuốn sách giành được rất nhiều giải thưởng và được những tên tuổi lớn trong lĩnh vực phát triển cá nhân và tổ chức như Tiến sĩ Stephen R. Covey và Tony Robbins quảng bá. Cuối cùng, anh trở thành một trong những diễn giả có sức lan tỏa mạnh mẽ và năng động nhất nước. Anh chia sẻ công việc của mình với tổ chức Napoleon Hill Foundation và những người khai sáng như Mark Victor Hansen. Trên cùng một sân khấu với chuyên gia bán hàng huyền thoại, Tom Hopkins, anh đã dạy vô số chuyên viên bán hàng quá trình vượt 25 năm nghèo đói và khổ sở sang một cuộc đời khác biệt với những thành công trong kinh doanh. Dù là kẻ thua thiệt nhất trong những người thua thiệt và có cơ hội thành công ít nhất trong những kẻ nỗ lực cầu may, anh đã hình thành nên một cuộc đời đáng kính và thành đạt. Tôi biết rõ câu chuyện của người đàn ông ấy vì đó chính là câu chuyện của tôi. Tôi chính là người đàn ông đó. Tôi là Weldon Long. Sau hơn hai thập niên thất bại và sống chật vật, với 13 năm sau bức tường xi măng và kẽm điện, tôi đã thoát ra, trở thành một người khác và gây dựng nên cuộc đời mà mình từng mơ ước khi ở trong phòng giam lạnh lẽo. Cuộc sống và việc kinh doanh của tôi đã thay đổi mãi mãi nhờ sức mạnh của sự nhất quán. Đó là một nguồn lực mạnh mẽ đến mức có thể tạo ra những điều không tưởng và biến đổi hoàn toàn số mệnh con người, nhưng lại tinh tế đến mức rất dễ dàng và thường xuyên bị bỏ qua. Tôi đã sử dụng sức mạnh của sự nhất quán. để đưa bản thân từ cuộc sống nghèo khổ và tuyệt vọng đến sự giàu có, hạnh phúc và bình yên trong tâm trí. Đó là điều đã thay đổi mọi thứ trong cuộc sống và việc kinh doanh của tôi. Tôi sẽ chia sẻ với bạn quá trình thực hiện từng bước đơn giản này để giúp bạn tạo ra những cấp độ thành công mới trong doanh thu và sự nghiệp kinh doanh của mình. Mời các bạn đón đọc Làm Chủ Cuộc Chơi, Thay Đổi Cuộc Đời của tác giả Weldon Long.
Những Cậu Bé Hỏa Tiễn - Homer Hickam
Nỗ lực biến ước mơ thành hiện thực. Một câu chuyện cảm động và đầy cuốn hút về tuổi trẻ dám mơ ước và nỗ lực để biến giấc mơ thành hiện thực. Cậu bé Homer Hickam sinh ra tại Coalwood - một vùng mỏ nghèo hẻo lánh của miền Tây Virginia, Mỹ. Tương lai của đa số trẻ em Coalwood là trở thành thợ mỏ; Homer với sức học trung bình và không có một năng khiếu đặc biệt nào, cũng sẽ khó lòng thoát khỏi vùng đất ấy. Nhưng một ngày kia, khi được chứng kiến vệ tinh Sputnik của Nga bay ngang bầu trời, cậu bé 14 tuổi bỗng bùng lên niềm khao khát chế tạo tên lửa để khám phá vũ trụ. Homer tập hợp nhóm bạn thân lại để chế tạo tên lửa. Và trái hỏa tiễn đầu tiên không bay lên bầu trời đêm như các bạn trẻ mong muốn mà như một trái bom làm nổ tung hàng rào vườn hồng của mẹ, biến Homer thành một “hiện tượng” chẳng lấy gì làm hay ho trong thị trấn. Mặc dù vậy, người mẹ tuyệt vời và khác người của Homer lại ra sức ủng hộ cho ý tưởng “điên rồ” của con, bất chấp sự ngăn cản của người chồng. Bà muốn gieo vào lòng con trai một khát vọng, một niềm đam mê để cậu có thể tìm ra con đường thoát khỏi khu mỏ, vùng đất mà theo bà đang dần tàn lụi vì sự cạn kiệt tài nguyên. Nhờ sự hỗ trợ của mẹ và cô giáo dạy hóa Riley, Homer đã thành lập Tổ chức tên lửa Big Creek. Những bạn trẻ ấy phải đối mặt với biết bao rào cản - rào cản về tri thức, những khó khăn về vật chất và cả rào cản vô hình từ bạn bè, gia đình - những người không ủng hộ dự án của họ. Tự mày mò nghiên cứu khoa học, những trái hỏa tiễn đầu tiên mang lại cho nhóm không ít rắc rối cùng những bi hài kịch cười ra nước mắt. Các bạn trẻ này đã nỗ lực bằng mọi cách, kể cả việc vô tình vi phạm pháp luật, để tìm kiếm các nguyên vật liệu chế tạo tên lửa... Với quyết tâm và niềm mơ ước được gia nhập đội ngũ kỹ sư NASA để khám phá vũ trụ, Homer và các bạn từng bước chinh phục được bầu trời Coalwood và tình cảm của người dân vùng mỏ này. Nhóm bạn trẻ đã đạt được huy chương vàng tại Hội chợ Khoa học Toàn quốc năm 1960 với sáng chế của họ. *** Đôi dòng về Những cậu bé hỏa tiễn Dám mơ ước và biến ước mơ thành hiện thực - đó chính là một trong những thông điệp chính của cuốn sách này. “Tên lửa không bay lên nếu không được ai châm ngòi” - O’Dell, một thành viên của nhóm thường lặp đi lặp lại câu nói này. Những quả tên lửa cũng như những khát vọng của tuổi trẻ và những khát vọng ấy sẽ mãi chỉ là mơ ước nếu không có một ai “châm ngòi” cho chúng. Tuổi trẻ luôn tràn đầy hoài bão lớn, song làm sao để biến chúng thành hiện thực lại là cả một hành trình đầy gian nan mà cũng thật thú vị nếu ai dám vượt lên chính mình như những cậu bé vùng mỏ nghèo xứ Coalwood. Một lần khi ngắm nhìn mặt trăng, những cậu bé hỏa tiễn nhận ra rằng từ khi quan tâm đến vấn đề khám phá vũ trụ thì mọi khái niệm về mặt trăng đã thay đổi. “Chúng tôi phóng đi một chiếc phi thuyền nhỏ, vượt qua khỏi giới hạn vật lý của nó; vượt qua những rặng núi cheo leo, qua khỏi những sự lừa dối và nước mắt của những phản đối gay gắt ban đầu; ngưỡng mộ những miệng núi lửa, những vùng tối và những ngọn núi của mặt trăng. Vậy thì một ngày nào đó, tôi tự nhủ rằng chúng tôi sẽ đến đó.” Chính cậu bé Homer Hickam, nhân vật chính và là tác giả của cuốn sách, sau này đã trở thành một kỹ sư NASA đúng như mơ ước thuở nhỏ. Đúng như nhận xét của tiến sĩ Mark A. Hill, Giám đốc Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ (IIE) tại Việt Nam, “...câu chuyện của Homer Hickam, một câu chuyện về hy vọng, kiên trì, thắng vượt nghịch cảnh không chỉ giới hạn ở nước Mỹ, mà là một câu chuyện phổ quát diễn ra ở mọi quốc gia trên địa cầu này. Những cậu bé hỏa tiễn kể về niềm tin, “một niềm tin vững chắc vào một điều gì đó không có chứng cứ,” niềm hy vọng về điều mình chưa từng thấy.” Và sự chân thực của cuốn sách đã tạo nên sức lay động lớn với trái tim độc giả. Những cậu bé hỏa tiễn là một tác phẩm đầy sức cuốn hút với giới trẻ. Bên cạnh câu chuyện chế tạo tên lửa, tác giả đã đưa người đọc đến với một vùng đất Mỹ hẻo lánh thuộc miền Tây Virginia, khám phá cuộc sống của những người thợ mỏ những năm 1950. Tác phẩm thật gần gũi với những câu chuyện tình yêu ngọt ngào và cũng không kém phần chua xót, những trăn trở của tuổi trẻ... Tác giả đã khắc họa những chân dung nhân vật thật sống động, chân thực. Homer Hickam được ngợi ca là một người kể chuyện tài tình và rất có duyên, người đã xóa nhòa ranh giới của tiểu thuyết và hồi ký. Điều đó khiến cho Những cậu bé hỏa tiễn có sức lan tỏa lớn đến hàng triệu người đọc trên thế giới. Cuốn sách được dịch ra 8 thứ tiếng và được sự đón nhận nồng nhiệt của rất nhiều trường phổ thông, đại học trên toàn nước Mỹ, trở thành động lực để các bạn trẻ học tập, nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học, nghệ thuật. Năm 1999, bộ phim October Sky ra đời dựa theo cốt truyện của Những cậu bé hỏa tiễn cũng thực sự tạo nên một cơn sốt trên màn bạc. Tại Việt Nam, trong tháng 8 vừa qua, Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ (IIE) cũng đã phát động một cuộc thi “Biến giấc mơ thành hiện thực” (Turning dreams into reality), dựa trên cảm hứng của tác phẩm Những cậu bé hỏa tiễn, dành cho học sinh, sinh viên trên cả nước. *** Đôi dòng về tác giả Homer H. Hickam (19/2/1943), sinh trưởng tại Coalwood, miền Tây Virginia, Mỹ. Ông tốt nghiệp trường trung học Big Creek vào năm 1960, sau đó là Cao Đẳng Kỹ Thuật Virginia và nhận bằng cử nhân Kỹ sư Công nghiệp vào năm 1964. Ông cũng là một cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết sách, hầu hết là về những chuyến phiêu lưu dưới biển và về sau là về những cuộc chiến của Mỹ trong Thế Chiến Thứ 2. Sau đó ông làm việc cho NASA, huấn luyện các phi hành gia về những kiến thức và kinh nghiệm khoa học khi lên đến quỹ đạo. Homer Hickam được xếp vào danh sách một trong những tác giả có sách bán chạy nhất tại Mỹ. Homer Hickam là tác giả của hai cuốn sách được hoan nghênh thời “hậu” Những cậu bé hỏa tiễn: Con đường Coalwood (The Coalwood Way- 2000) và Bầu trời đá (Sky of Stone - 2001). Ông cũng viết Giao lộ Torpedo (Torpedo Junction - 1989), Trở lại mặt trăng (1999) và nhiều tiểu thuyết khác, tác phẩm mới nhất là Chiếc mũ bảo hộ màu đỏ (Red Helmet - 2008). Đầu tháng 9.2009, Homer H. Hickam có chuyến viếng thăm Việt Nam để trò chuyện với sinh viên ở Hà Nội và TP.HCM xung quanh chủ đề “Biến ước mơ thành hiện thực”. Đồng thời, tác giả cũng tham gia trao giải cho cuộc thi Turning dreams into reality, do IIE tổ chức. *** Nhận xét của báo chí quốc tế về Những cậu bé hỏa tiễn “[Hickam] là một người kể chuyện tài tình (...) Chắc chắn rằng đây là câu chuyện mà tác giả kể cho chính bản thân mình. Một câu chuyện đầy thú vị và trong sự nghiệp của Homer H. Hickam, Jr., ông đã vượt qua rào cản cuộc sống để trở thành một kỹ sư NASA, huấn luyện các phi hành gia trước khi vào không gian - chính điều đó đã làm cho cuốn sách này thực sự khác biệt.” - The New York Times Book Review “Hickam có một câu chuyện tuyệt vời để kể cho chúng ta... Những cậu bé hỏa tiễn chắc chắn sẽ gợi nên một nỗi hoài nhớ trong lòng bất kỳ ai đã từng lớn lên ở thời kỳ đầu của cuộc đua vào vũ trụ, nhưng câu chuyện này còn hơn thế nữa...” - The Philadelphia Inquirer “Một câu chuyện sôi nổi đưa ra một vấn đề đặc sắc... thông điệp của niềm hy vọng trong một thời đại của sự hoài nghi.... Có lẽ tất cả chúng ta có một điều gì đó để học từ sáu cậu bé, những người đã dám vượt qua mọi giới hạn... và quyết tâm gửi những giấc mơ vút lên trời cao.” -The San Diego Union-Tribune “Thật khó quên... Không giống như nhiều hồi ký khác, cuốn sách này mang đến cho đời sống không chỉ kinh nghiệm của một cá nhân. Nó còn mang đến cho đời sống một thị trấn đã mất của Coalwood, miền Tây Virginia.” - USA Today Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Hỏa Tiễn của tác giả Homer Hickam.