Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Thừa Thứ 14

Thời gian mười bốn ngày đã trôi qua quá nửa, những câu chuyện cũng ngày một đặc sắc. Sự trùng hợp kì lạ giữa những câu chuyện từ đâu mà có? Là "đạo văn" hay ẩn giấu một bí mật gì? Cậu bé lao ra từ nghĩa địa hoang vắng bị một vụ tai nạn xóa sạch mọi kí ức. Không biết chữ, không có cảm giác đau, sức khỏe phi thường, sở thích ăn thịt sống... cậu ta rốt cục là người hay ma quỷ? Trò chơi tử thần vẫn tiếp tục, điều gì đang đợi những "người chơi"? "Người tổ chức" sẽ tung thêm những "chiêu" gì mới? Mục đích của kẻ đó là gì? Bí ẩn nào sắp được hé lộ? Nếu ai đó trước khi đọc hết bộ sách này mà suy luận ra “người tổ chức” là ai và phân tích được nguyên nhân, thì chắc chắn chỉ số IQ phải trên 150. Hãy nhớ rằng, kể từ khi lật mở trang sách đầu tiên, bạn đã rơi vào vòng xoáy của chính trò chơi này. *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14 Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam.   Bộ 1/14 gồm có: Trò Chơi Tử Thần Khách Trọ Và Xác Sống Lời Cảnh Báo Người Thừa Thứ 14 14 Ngày Kinh Hoàng *** P hía sau anh, một bóng đen đáng sợ đang từ từ đến gần. Mọi sự chú ý của anh lúc này đều đổ dồn vào xấp giấy kia, anh không mảy may phát hiện thấy gì. Bóng đen đó càng lúc càng áp sát, chỉ đến khi đổ bóng lên sàn nhà trước mặt, anh mới giật mình, quay ngoắt đầu lại. Là Sa Gia. Cô đang cúi người đứng ngay phía sau Nam Thiên, trợn trừng hai mắt, nhìn anh chằm chằm. Nam Thiên sợ đến mức lưng toát mồ hôi lạnh. Anh nuốt nước bọt, hỏi, “Sao cô vào đây?” “Tôi cũng muốn hỏi anh thế.” Sa Gia nói. Đúng rồi, mình đang ở trong phòng Từ Văn - bấy giờ Nam Thiên mới ý thức được. Anh liếc nhìn xác Từ Văn cạnh bên. May là một góc của chiếc chăn đơn đã che kín khuôn mặt xác chết. Anh định thần, quay sang dối diện Sa Gia, hỏi, “Vừa rồi cô làm gì đằng sau tôi vậy?” “Cửa phòng này không khóa. Tôi vào, thấy anh quay lưng lại phía mình, ngồi xổm dưới sàn nhà xem xét gì đó. Vì tò mò, tôi đã rón rén tới phía sau, định ngó xem anh đang nhìn gì.” “Sao cô lại vào phòng Từ Văn?” Sa Gia đứng dậy, cố tránh nhìn vào cái xác của Từ Văn, “Tôi đâu muốn vào đây. Thực ra tôi qua bên phòng tìm anh, thấy anh không có đó, mới nghĩ có thể anh ở bên này.” “Cô tìm tôi có việc gì?” Sa Gia thoáng trầm ngâm rồi mới nói, “Tôi sợ, định tìm anh nói chuyện một lát. Tôi muốn anh... ở cùng với tôi.” Nam Thiên suy xét, trước đó anh cảm thấy hình như Sa Gia rất có thiện cảm với mình. Thế nhưng, anh vẫn nghi hoặc. “Cô tin tôi vậy sao? Cô không sợ tôi chính là hắn - ‘người tổ chức’?” Sa Gia mím môi, im lặng hồi lâu, “Nói thật, tôi không tài nào đoán ra ai là hắn. Tôi thấy không ai giống, nhưng có lúc lại thấy ai cũng giống.” Cô ngẩng đầu, nhìn thẳng Nam Thiên, “Kể cả anh, tôi cũng không dám khẳng định. Vậy nhưng... anh có là hắn, thì tôi cũng biết rồi.” Nam Thiên sững sờ nhìn Sa Gia, “Vì sao?” Sa Gia nhìn Nam Thiên với ánh mắt dịu dàng, tình cảm, “Bị mời tới đây và tham gia trò chơi sống còn này, mỗi ngày tôi đều sống trong nghi kị sợ hãi. Tôi cảm thấy, đại đa số những người ở đây chỉ lo nghĩ cho sự an toàn và lợi ích của bản thân, với người khác lại có ý phòng bị và thù địch. Chỉ anh là khiến tôi cảm thấy có đôi phần ấm áp, ở cạnh anh tôi thậm chí còn thấy an toàn. Trực giác mách bảo tôi, anh là người đáng tin tưởng và trông cậy.” Nam Thiên nhớ lại, lúc mới tới nơi tách biệt này, mười bốn người họ chuẩn bị ngồi vào mười bốn chiếc ghế ở đại sảnh, biểu hiện của Sa Gia rõ ràng là có phần lo lắng bất an. Khi đó, trong anh đã có một thôi thúc được bảo vệ người con gái này, nên đã kéo tay cô, bảo cô ngồi ở ghế của mình. Có lẽ chính hành động nhỏ này đã khiến cô cảm động? Dẫu thế nào thì ở nơi đặc biệt này, giành được sự tin tưởng của ai đó đều là chuyện rất đáng mừng. Nam Thiên cảm kích nhìn Sa Gia, “Cảm ơn cô đã tin tôi.” “Hi vọng anh cũng có thể tin tưởng tôi.” Sa Gia nhìn thẳng vào mắt Nam Thiên nói, “Ở đây, tôi không hi vọng tất cả mọi người đều đối xử chân tình với mình, chỉ cần chúng ta tin tưởng nhau là tôi mãn nguyện rồi.” Nam Thiên có thể cảm nhận thấy sự chân thành từ câu nói của Sa Gia. Anh cũng như Sa Gia, không cách gì đoán biết được người trước mặt mình có phải là “người tổ chức” hay không. Nhưng, anh tình nguyện đánh cược, kết đồng minh với cô gái dịu dàng đáng yêu này hẳn sẽ an toàn và đáng tin hơn là với Hoang Mộc Chu mưu sâu kế hiểm hay Chris thần bí khó đoán. Ít nhất, anh có thể nhận ra tình cảm của Sa Gia đối với mình, là chân thành và không hại anh. Nghĩ tới đây, Nam Thiên nói, “Được, hi vọng chúng ta có thể hợp tác, đối đãi thật lòng thật dạ, cùng nhau tìm ra hắn. Sáu ngày sau, chúng ta cần phải sống để rời khỏi nơi này!” “Ừm!” Sa Gia lộ vẻ tán thành. Đã chọn tin tưởng Sa Gia, Nam Thiên quyết định nói cho cô nghe phát hiện và phân tích về hoàn cảnh hiện giờ của mình. Anh nói, “Cô có biết vì sao tôi đến phòng của Từ Văn không?” Sa Gia bất giác liếc mắt nhìn xác Từ Văn, rùng mình, “Tôi đoán, anh muốn xem qua xác Từ Văn, xem liệu có phát hiện thêm gì không.” “Không phải, tôi vào đây không phải để xem xét thi thể anh ấy, mà là để xem xét căn phòng này.” Sa Gia trừng lớn mắt, “Phòng anh ấy có gì đặc biệt à?” “Hôm qua (chính xác là ngày trước nữa, Nam Thiên không nhận ra giờ đã quá 0 giờ), và cũng chính là ngày Thiên Thu kể chuyện. Tôi tới phòng này tìm anh ấy. Tôi dự định nói chuyện với từng người theo số thứ tự, hi vọng thăm dò được một số thông tin, hay tìm ra gợi ý gì đó.” “Anh định chủ động tấn công, tìm ra hắn thông qua cách tiếp xúc với mọi người?” Sa Gia hỏi. “Đúng vậy. Tôi nghĩ mình không thể ngồi yên chờ chết. Tôi buộc phải thử tìm ra cách vạch mặt hắn trong mấy ngày còn lại!” “Đúng, ta không thể thụ động chờ chết.” Sa Gia tán thành nói, ngẫm nghĩ một hồi, cô lại lộ vẻ lo lắng, “Thế nhưng nếu làm vậy, liệu anh có thu hút sự chú ý của hắn, khiến bản thân rơi vào nguy hiểm không?” “Tôi nghĩ chắc không đâu.” “Tại sao?” “Vì tôi vẫn chưa kể chuyện.” Sa Gia sững lại, “Là ý gì?” “Cô thử nghĩ xem, hắn hao tổn tâm sức ‘mời’ chúng ta đến đây, chính bởi muốn mười bốn người chúng ta ‘chơi’ trò này cùng nhau, như vậy trò chơi hắn thiết kế mới thành công! Nếu hắn giết ai đó, trước khi anh ta kể câu chuyện của mình chỉ vì vài hành động của người này đã khiến hắn tức giận, trò chơi này sẽ không còn hoàn chỉnh với hắn nữa. Tôi đoán, với kẻ cố chấp như hắn, thích sự kích thích và thách thức kiểu dạng này, đây nhất định không phải kết quả mà hắn muốn. Thế nên, tôi có thể lợi dụng điểm này để tiến hành điều tra!” Nam Thiên nhấn mạnh, “Và giờ xem ra, tôi là người thích hợp làm chuyện này nhất rồi.” “Tại sao?” “Vì tôi là người thứ mười bốn, người kể chuyện cuối cùng.” Sa Gia khẽ há miệng. “Nói tiếp chuyện ban nãy, hôm qua lúc tôi tới tìm Từ Văn, quả thực anh ấy đã cho tôi biết một vài thông tin cực kì quan trọng. Anh ấy nói, phòng anh ấy có ma quỷ quấy nhiễu.” “Cái gì, trong phòng này... có ma quỷ quấy nhiễu ư?”, Sa Gia lộ vẻ kinh hãi, cô ôm chặt cánh tay, rùng mình một cái, “Thật không?” Nam Thiên lắc đầu nói, “Tôi nghĩ, chuyện ma quỷ quấy nhiễu là do ảo giác của anh ấy. Nhưng trong căn phòng này nhất định đã xảy ra chuyện gì đó khác thường! Anh ấy nói, thỉnh thoảng vào buổi tối anh ấy nhìn thấy một bóng người đen thui xuất hiện trong phòng, đôi khi còn nghe thấy cả những âm thanh kì lạ, và tất cả những điều này đều giống với các tình tiết anh ấy kể trong Mối nghi ngờ bóng ma!” Sa Gia bị dọa sợ đến mức mặt mày trắng bệch, hãi hùng tột độ. Nam Thiên tiếp tục nói, “Nghe anh ấy nói vậy, tôi nhận ra căn phòng này có vấn đề nên tôi nghĩ ra chủ ý là đổi phòng của tôi và anh ấy cho nhau. Nhưng Từ Văn lại từ chối. Có lẽ anh ấy không thật sự tin tôi.” Nam Thiên thở dài. Sa Gia nói, “Tôi nhớ anh bảo... trước lúc chết, Từ Văn đã sang phòng anh tìm anh, nhưng anh ấy tìm anh có việc gì?” Nam Thiên thoáng nghĩ, “Đúng rồi! Lúc sang gõ cửa phòng tôi, anh ấy vô cùng khiếp sợ, còn nói mấy lời gì đó rất khó hiểu. Anh ấy nói, buổi tối tôi đã qua phòng tìm và ngủ cùng anh ấy, chính là ở đây.” Sau vài giây hồi tưởng, Nam Thiên tiếp tục, “Từ Văn bảo tôi ngủ trên giường, còn anh ấy nằm bên dưới. Lúc nửa đêm, Từ Văn thấy dưới gầm giường có một đôi mắt đang nhìn mình chằm chằm. Anh ấy sợ điếng người, bò dậy thì phát hiện ra tôi không còn ở trên giường, mới hoảng hốt tới tìm tôi...” Nam Thiên nhìn Sa Gia, “Cô biết không? Tôi hoàn toàn bị những điều anh ấy nói làm cho hồ đồ! Bởi vốn dĩ tôi không đi tìm anh ấy, đừng nói là ngủ chung phòng. Tôi chỉ có thể cho là anh ấy gặp ác mộng. Sau đó, tôi quyết định qua phòng anh ấy xem thử thì chẳng phát hiện thấy gì. Lúc quay lại phòng mình, tôi phát hiện anh ấy đã chết ở phòng tôi! Tiếp đến Hạ Hầu Thân xuất hiện ở cửa phòng. Rồi mấy phút sau, mấy người bọn cô, Long Mã, Bạch Kình, và Hoang Mộc Chu lần theo tiếng động chạy tới. Mọi chuyện là vậy! Sa Gia sợ sệt co người lại, “Trước khi chết, Từ Văn đã xảy ra vài điều kì lạ, quả thực là...” “Quả thực quá lạ lùng, đúng không?” Nam Thiên nói, “Nghĩ mà xem, anh ấy gặp ác mộng, rồi đến tìm tôi, tiếp đó tôi sang phòng anh ấy, bảo anh ấy ở lại phòng tôi và trong mấy phút ngắn ngủi, hung thủ đã xuất hiện như bóng ma, giết chết anh ấy rồi biến mất, quay trở lại phòng mình. Tất cả những chuyện này đúng như vở kịch được sắp xếp bố trí vô cùng khéo léo! Nếu cô tin tôi không phải hung thủ giết Từ Văn thì mức độ li kì của vụ án này quả đúng là phải khiến người ta thán phục!” Nam Thiên bắt đầu trở nên kích động nói, “Như thể hung thủ biết Từ Văn sẽ gặp ác mộng, rồi qua tìm tôi. Đồng thời còn đoán được tôi sẽ ra khỏi phòng mình! Nếu không, sao hắn biết sẽ chỉ có mình Từ Văn trong phòng tôi? Và điểm mấu chốt, nếu mục đích của hắn là giết Từ Văn, vậy tại sao không ra tay trong phòng Từ Văn mà phải dẫn dụ anh ấy sang phòng tôi rồi mới hạ thủ?” Sa Gia ngẫm nghĩ, “Có lẽ, hắn muốn vu oan giá họa cho anh. Hoặc...” Thấy Sa Gia ngừng lại không nói tiếp, Nam Thiên hỏi, “Hoặc sao...?” Sa Gia do dự nói, “Mục tiêu hắn muốn giết liệu có phải là anh chăng?” Nam Thiên chợt thấy rùng mình, “Ý cô là, do sai sót ngẫu nhiên, hắn đã giết nhầm người?” Nói xong, anh lập tức lắc đầu, “Không, tôi không cảm thấy thế. Một kẻ cẩn thận như hắn sao có thể phạm phải kiểu sai lầm như vậy? Hơn nữa, tôi cũng không cho rằng Từ Văn gặp ác mộng, mà là một sự trùng hợp. Bên trong chuyện này nhất định có uẩn khúc.” Sa Gia đột nhiên thốt ra một câu đáng kinh ngạc, “Sao anh biết tên hung thủ này chắc chắn là hắn - ‘người tổ chức’?” Nam Thiên ngây ra, “Ý gì chứ? Không phải hắn, những người còn lại có động cơ gì mà đi giết người?” Sa Gia đáp, “Động cơ thì đương nhiên là có rồi, bớt một người, bớt một kẻ cạnh tranh rồi.” Nam Thiên hít vào một hơi lạnh. Điều trước kia anh hoàn toàn chưa nghĩ đến. Anh bất giác thấy khâm phục cách thức tư duy vượt ra khỏi lề thói thông thường của Sa Gia. Đúng thực là... khả năng này cũng có thể có. Vậy nhưng, anh nghi ngờ hỏi, “Nếu vậy, sao hung thủ lại muốn giết tôi?” Sa Gia nhíu mày phân tích, “Có hai khả năng. Một là, hắn muốn thủ tiêu người có thể uy hiếp hắn giành được chiến thắng; Hai là, dựa trên tiền đề hung thủ không phải là ‘người tổ chức’, cho nên người hắn ta muốn giết chính là kẻ hắn ta tưởng là ‘người tổ chức’!” Nam Thiên vô cùng kinh ngạc, “Ý cô là, tên hung thủ cho rằng... tôi là ‘người tổ chức’?!” “Tôi chỉ đoán thôi.” Sa Gia nói, “Nhưng anh thử nghĩ mà xem, chỉ còn lại sáu ngày nữa. Trước khi trò chơi sống chết này kết thúc, người nghĩ đến cách chủ động tấn công chắc chắn không chỉ mỗi mình anh.” Nam Thiên bất ngờ nhận ra phân tích của Sa Gia đúng là một nhắc nhở vô cùng quan trọng. Anh ngạc nhiên nói, “Tôi chủ động tấn công, chỉ vì muốn âm thầm điều tra mà thôi. Lẽ nào cách thức chủ động tấn công của một người nào đó là giết chết người họ nghi ngờ? Nếu đúng như vậy thì thật đáng sợ!” “Đúng thế, địch thủ của chúng ta không còn chỉ là mỗi ‘người tổ chức’ nữa.” Sa Gia lo lắng nói. Trong môi trường bị giam nhốt, con người thường nghi ngờ, sát hại lẫn nhau... Tình tiết này sao lại khiến người ta thấy quen vậy. Sa Gia thấy Nam Thiên rơi vào trầm tư, hỏi, “Anh đang nghĩ gì?” Nam Thiên ngẩn ra nhìn Sa Gia, “Tôi nghĩ, sao tình huống chúng ta trải nghiệm hiện giờ lại giống câu chuyện Cuộc tấn công của căn bệnh lạ của Uất Trì Thành đã kể đến vậy?” Sa Gia lặng đi, “Ý anh là...” Nam Thiên nhíu chặt mày, “Nghĩ kĩ lại, lúc Uất Trì Thành chết, chúng ta đã kiểm tra thi thể, rút ra kết luận về thời gian tử vong, nhưng đã bỏ qua một vấn đề quan trọng, cái xác đó có chắc chắn là của Uất Trì Thành không? Liệu rằng, hung thủ có lợi dụng điểm mù về mặt tâm lý của chúng ta, khi phát hiện thi thể thấy trong phòng Uất Trì Thành thì nhất định là của Uất Trì Thành, mà dẫn chúng ta đi sai hướng không?” Sa Gia há hốc miệng, mày nhíu chặt lại. Tiếp đó Nam Thiên lại nói, “Sau đấy cũng không ai vào lại phòng Uất Trì Thành. Mãi đến sau khi Long Mã kể xong Dự luật xác sống, chúng ta mới nghĩ đến việc vào căn phòng đó xem xét lại. Nhưng lúc này, xác anh ấy đã biến mất một cách bí hiểm. Sa Gia! Cô không cho rằng trong chuyện này ẩn chứa bí mật sao?” Sắc mặt Sa Gia lại trắng bệch, “Anh nghi ngờ... Uất Trì Thành... thực ra vẫn chưa chết? Thi thể chúng ta nhìn thấy... là giả mạo?” “Không loại trừ khả năng này.” Nam Thiên nghiêm mặt nói, “Nếu đúng vậy, thì ‘người tổ chức’ chính là Uất Trì Thành, người ’chết’ đầu tiên mà tất cả chúng ta hoàn toàn chưa nghĩ tới!” “Còn anh ta ẩn mình trong bóng tối, trong căn phòng bí mật mà cô nhắc tới lúc trước, âm thầm ra ngoài hoạt động đồng thời thao túng trò chơi này...” Sa Gia bất ngờ kêu lên đầy sửng sốt, “A! Chúng ta đã tìm ra đáp án rồi?!” Nam Thiên chậm rãi lắc đầu, “Đừng có kết luận bậy bạ, chúng ta không có chứng cứ để chứng minh cho suy đoán này. Hơn nữa, tình hình hiện giờ lại vô cùng phức tạp. Còn một số chuyện càng khó giải thích hơn nữa.” “Là chuyện gì cơ?” Nam Thiên cẩn thận nhặt xấp giấy dưới đất mà trước đó anh đã tìm thấy ở chỗ chân giường của Từ Văn lên, đưa cho Sa Gia, “Vừa nãy vào phòng này xem xét, tôi phát hiện thấy thứ này ở dưới gầm giường, cô xem đi.” Sa Gia đón nhận, “Bản nháp kiểu này thì trong phòng tôi cũng có.” “Đúng, trong phòng ai trong số chúng ta cũng đều có. Cô xem qua nội dung đi.” Sa Gia lật xem từng trang. Đến trang thứ sáu, cô đột nhiên trợn trừng mắt, bưng chặt miệng, đương nhiên Nam Thiên biết là bởi tại sao, vì trên trang đó ghi: Ý tưởng mới ngày 28 tháng Tư ’Khách đến từ phần mộ’. “Trời ạ, chuyện này là thế nào?” Sa Gia sững sờ hỏi, “Đây không phải câu chuyện Bạch Kình kể à? Sao bản thảo ghi ý tưởng mới của câu chuyện này lại ở trong phòng Từ Văn?” “Hơn thế, tôi còn có thể cho cô biết, đây chính là bút tích của Từ Văn.” Nam Thiên nói, “Sáng hôm qua tôi đến tìm anh ấy thì đã nhìn thấy xấp giấy này. Lúc đó tôi không lật xem phía dưới, mới đọc được dàn ý câu chuyện Mối nghi ngờ bóng ma. Tôi còn khen chữ Từ Văn đẹp. Và anh ấy cũng bảo tôi, anh ấy là người bảo thủ, khi sáng tác luôn luôn dùng giấy bút. Điều đó giúp tôi chứng minh, nội dung xấp giấy này do anh ấy chính tay viết ra.“ “Trời ơi...”, Sa Gia hãi hùng nói, “Từ Văn bị giết trước khi Bạch Kình kể chuyện. Bạch Kình có thể dễ dàng mang câu chuyện này ra kể mà chẳng ngại ngùng gì. Lẽ nào người giết Từ Văn là Bạch Kình? Còn mục đích của cậu ta là giành đoạt được câu chuyện này?” Nam Thiên nhíu chặt mày, “Tôi cũng đã nghĩ qua khả năng này, nhưng có hai điểm có phần không hợp logic. Thứ nhất, Từ Văn là người kể chuyện vào tối thứ hai, đã kể xong câu chuyện của mình rồi, tại sao anh ta còn sáng tác một câu chuyện mới? Đồng thời tại sao bản thảo ghi chép câu chuyện này lại bị Bạch Kình phát hiện ra?” Ngừng lại một lát, như để cho Sa Gia có thời gian nghiền ngẫm, Nam Thiên tiếp tục nói, “Điểm không hợp logic thứ hai là, nếu Bạch Kình lén lấy được ý tưởng câu chuyện của Từ Văn, đồng thời vì chuyện này mà giết anh ấy, vậy sao còn để xấp giấy này lại trong phòng? Cần biết đây là bằng chứng chí mạng! Có sơ suất hơn đi nữa, không thể ngay điều này cậu ta cũng bỏ qua chứ nhỉ?” “Đúng vậy, điều này rất không hợp lẽ thường...” Sa Gia vùi đầu ngẫm nghĩ, “Lẽ nào, có người cố tình giá họa cho Bạch Kình, đồng thời tạo chứng cứ vi phạm giả cho cậu ấy?” “Vấn đề là, làm cách nào lại làm được chuyện này?” Nam Thiên lúng túng nói, “Cứ coi như ai đó có khả năng bắt chước bút tích của Từ Văn, nhưng người đó sao có thể viết ra được những nội dung này trước khi Bạch Kình kể chuyện?” Hai người cùng im lặng, đắm chìm trong dòng suy nghĩ. Độ chừng một phút sau, Nam Thiên nhìn thấy người Sa Gia hơi run rẩy, mắt trừng to sợ hãi, liền vội vàng hỏi, “Sao thế?” “Anh... có nghe thấy âm thanh gì không?” Sa Gia xích lại gần Nam Thiên, mặt lộ vẻ kinh hoàng, ngó trái nhìn phải. “Âm thanh gì?” Nam Thiên vừa tập trung suy nghĩ, không nghe thấy gì. “Hình như tôi nghe thấy trong phòng này có tiếng nói thì thầm... như thể ai đó đang nói chuyện.” Sa Gia sợ hãi ôm chặt lấy Nam Thiên. “Tiếng nói thì thầm? Trong phòng này hiện chỉ có hai người chúng ta mà!?” Nam Thiên cảnh giác nhìn ngó xung quanh, thần kinh căng ra. Hai người họ nín thở, ngay cả hít thở mạnh cũng không dám. Trong phòng dường như có thể nghe thấy nhịp tim đập gấp gáp của bọn họ. Nhưng đã mấy phút trôi qua mà vẫn không nghe thấy âm thanh kì lạ nào. Nam Thiên hỏi Sa Gia, “Vừa nãy có thật là cô nghe thấy tiếng người đang nói chuyện không? Không nghe nhầm chứ?” Sa Gia có phần không chắc chắn, “Tôi... chắc không nghe nhầm đâu, không thể xuất hiện ảo thính một cách kì lạ như vậy chứ nhỉ?” Ngẩn ra mấy giây, lòng Nam Thiên đột nhiên giật thột, Từ Văn nói, lúc ở trong căn phòng này, thỉnh thoảng anh ấy cũng nghe thấy một vài tiếng động kì lạ. Lẽ nào, thứ vừa nãy Sa Gia nghe thấy chính là tiếng động ma quỷ gây ra? Sa Gia rõ ràng cũng đã nghĩ tới điểm này, cô nhào vào lòng Nam Thiên, ôm chặt anh, người run lẩy bẩy. Điều mình chờ đợi đã lâu và rất muốn tìm ra, là sự kì lạ trong phòng Từ Văn, cuối cùng đã xuất hiện rồi? Nam Thiên căng thẳng suy nghĩ. Vậy nhưng, sao âm thanh này chỉ xuất hiện chốc lát, rồi im bặt? Lẽ nào, Nam Thiên bất ngờ nhớ đến một khả năng, âm thanh này là do ma quỷ tạo ra, bởi phát hiện thấy trong phòng lúc này có hai người, nên mới bỗng dưng nín thinh? Nghĩ đến đây, Nam Thiên bóp chặt vai Sa Gia, gấp gáp hỏi, “Sa Gia, vừa rồi cô có nghe rõ tiếng nói đó không, là nói về cái gì...” Câu này còn chưa nói hết, trong đại sảnh ngoài phòng, bỗng nhiên vang lên một giọng nói đáng sợ đã lâu ngày không thấy, đó chính là giọng nói của hắn - “người tổ chức”. Giọng nói được xử lý qua bởi thiết bị biến đổi giọng nói, phát ra từ bốn thùng loa đặt ở trần phòng: “Các vị, xin lỗi đã đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ. Sở dĩ lúc này tôi làm phiền các vị là bởi hiện giờ, chứng cứ ‘phạm quy’ mới đã được hai người trong số chúng ta phát hiện ra. Hai người họ, hiện đang ở trong căn phòng của Từ Văn, người kể chuyện số 2. Nếu có hứng thú, các vị đến phòng này xem qua trước khi bọn họ rời đi. Được rồi, tôi chỉ nhắc một câu như vậy thôi, tạm biệt.” Lạy Chúa, Nam Thiên kinh ngạc tột cùng. Anh và Sa Gia trợn tròn mắt, căng thẳng nhìn nhau - Chuyện này là thế nào? Nhất cử nhất động của chúng ta đều nằm trong tầm mắt của hắn sao? “Chúng ta... làm thế nào bây giờ?” Sa Gia bất lực nhìn Nam Thiên, “Bọn họ chắc chắn sẽ nhanh chóng đến đây. Ta cứ ở đây... đợi à?” Nam Thiên cố gắng bình ổn tâm trạng, để khiến mình bình tĩnh lại, “Ừ, chúng ta không làm việc gì trái lương tâm, không cần phải trốn tránh.” Nam Thiên bước lên trước hai bước, dứt khoát mở cửa phòng, chào đón những người sắp đến với tâm trạng và tư thế tự nhiên thoải mái. Nửa phút sau, người đầu tiên vội vàng tới trước cửa phòng, chính là Long Mã. Trong tất cả mọi người, ông ta hiện giờ gần như là người quan tâm nhất đến việc ai là thủ phạm. Thấy Nam Thiên và Sa Gia ở trong phòng Từ Văn, ông ta ngạc nhiên nói, “Là hai người sao?” Nam Thiên và Sa Gia không tiếp lời. Họ đứng giữa phòng, nhìn mọi người, từng người từng người xuất hiện trước mặt mình, nhìn những ánh mắt nghi hoặc. Mấy phút sau, mọi người gần như đã tập trung đông đủ. Hoang Mộc Chu tới trước mặt Nam Thiên và Sa Gia, ngẩng đầu, dùng ánh mắt dò xét đánh giá họ. Ông ta lại nheo mắt nhìn thi thể Từ Văn nằm dưới sàn nhà, hỏi, “Hai người sao lại ở đây?” Nam Thiên quyết định nói thật, “Vốn dĩ tôi định lặng lẽ đến phòng Từ Văn một mình, xem xét căn phòng của anh ấy. Sa Gia qua phòng tôi tìm tôi, phát hiện tôi không có đấy, đoán tôi ở đây nên đã qua đây tìm được tôi.” Hoang Mộc Chu nheo mắt nói, “Xem xét căn phòng này? Sao? Phòng Từ Văn có gì không ổn ư?” “Tôi nghi vậy.” Nam Thiên bình tĩnh trả lời. “Vậy anh đã phát hiện thấy gì?” Nam Thiên đưa xấp giấy đang cầm trong tay ra, “Đây là thứ tôi tìm thấy dưới gầm giường Từ Văn ban nãy, anh xem qua đi.” Hoang Mộc Chu cầm lấy xấp giấy, những người khác cũng xúm lại xung quanh. Hoang Mộc Chu thấy trên trang đầu tiên đề bản tóm tắt nội dung Mối nghi ngờ bóng ma liền hỏi, “Đây là gì? Dàn ý câu chuyện của Từ Văn sao?” “Đúng. Anh cứ đọc tiếp đi.” Nam Thiên nói. Hoang Mộc Chu lật giở mấy trang sau, giở đến bản tóm tắt của câu chuyện Khách đến từ phần mộ, ông ta cùng những người bên cạnh đến trợn to mắt. “Ý tưởng mới ngày 28 tháng Tư Khách đến từ phần mộ...”, Thiên Thu kinh ngạc há hốc miệng, đồng thời nhìn về phía Bạch Kình, người kể câu chuyện này, “chuyện này là thế nào? Đây chẳng phải là câu chuyện cậu mới kể mấy tiếng trước (ngày 29 tháng Tư) sao? Sao lại trở thành câu chuyện được Từ Văn cấu tứ vào ngày 28 tháng Tư?” Bạch Kình lúc này trợn mắt líu lưỡi, toát mồ hôi lạnh, cậu ta thẫn thờ nhìn chằm chằm vào bản thảo trên tay Hoang Mộc Chu, như thể bị kinh động đến mức không thể thốt thành lời. Hồi lâu sau, cậu ta tức tối lồng lộn gào lên, “Đây là... vu cáo hãm hại và đổ tội oan! Câu chuyện này, một trăm phần trăm là do tôi nghĩ ra!” Mọi người đều không nói gì. Sự thật bày ra trước mắt, tất cả mọi người đều không dám khẳng định Bạch Kình lúc này liệu có đang cố gắng giảo biện cho mình hay không. Bạch Kình cảm giác rõ ràng thấy sự hoài nghi của mọi người đối với mình. Cậu ta hoàn toàn đánh mất khả năng phán đoán sắc bén, quay người hầm hầm nhìn Chris nói, “Chris! Lúc trước cậu cố tình gây khó dễ, gượng ép ám chỉ câu chuyện của tôi là sao chép, khiến mọi người nảy sinh nghi ngờ vô căn cứ về tôi. Giờ, còn làm ra cái loại ‘chứng cứ’ này nữa! Muốn vu oan giá họa cho tôi, đúng không!?” Mời các bạn đón đọc Người Thừa Thứ 14 của tác giả Ninh Hàng Nhất.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Arthur Conan Doyle (Bản Đinh Tị - Thái Hà dịch)
Sherlock Holmes là một nhân vật thám tử hư cấu vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm của nhà văn Arthur Conan Doyle xuất bản năm 1887. Ông là một thám tử tư ở Luân Đôn nổi tiếng nhờ trí thông minh, khả năng suy diễn logic và quan sát tinh tường trong khi phá những vụ án mà cảnh sát phải bó tay. Nhiều người cho rằng Sherlock Holmes là nhân vật thám tử hư cấu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học và là một trong những nhân vật văn học được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới. Đã có rất nhiều vở kịch và bộ phim được sáng tác dựa trên những tác phẩm của Conan Doyle về Holmes, về mặt này có thể so sánh Holmes với những nhân vật hư cấu nổi tiếng khác như Hamlet hay Dracula. Sherlock Holmes được độc giả hâm mộ tới mức đã có rất nhiều hội những người hâm mộ ông được thành lập. Năm 1990 người ta đã mở Bảo tàng Sherlock Holmes ở phố Baker, đây là bảo tàng cho một nhân vật hư cấu đầu tiên được mở trên thế giới. Sherlock Holmes đã xuất hiện trong 4 tiểu thuyết và 56 truyện ngắn của nhà văn Conan Doyle. Hầu như tất cả các tác phẩm đều được viết dưới dạng ghi chép của bác sĩ John H. Watson, người bạn thân thiết và người ghi chép tiểu sử của Holmes, chỉ có 2 tác phẩm được viết dưới dạng ghi chép của chính Holmes và 2 tác phẩm khác dưới dạng ghi chép của người thứ ba. Hai tác phẩm đầu tiên trong số này, 2 tiểu thuyết ngắn, xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Beeton's Christmas Annual năm 1887 và tờ Lippincott's Monthly Magazine năm 1890. Thám tử Holmes trở nên cực kì nổi tiếng khi loạt truyện ngắn của Doyle được xuất bản trên tạp chí The strand Magazine năm 1891. Các tác phẩm được viết xoay quanh thời gian từ năm 1878 đến năm 1903 với vụ án cuối cùng vào năm 1914. *** Một buổi sáng cuối năm 1896, tôi nhận được tờ giấy viết vội của Sherlock Holmes, mời tôi lập tức tới phố Baker ngay. Tới nơi, tôi thấy anh đang ngồi trong một căn phòng mù mịt khói thuốc, trên chiếc ghế đối diện là một phụ nữ đẫy đà đã luống tuổi và có dáng dấp một bà chủ nhà trọ. - Anh Watson, đây là bà Merrilow ở quận South Brixton. - Ông bạn tôi giơ tay giới thiệu - Bà đây không phản đối việc hút thuốc, nên anh cứ mặc sức tận hưởng thú vui của mình. Bà Merrilow muốn kể cho chúng ta nghe một câu chuyện vô cùng thú vị. Và có thể sự việc sẽ còn tiến triển, nên sự có mặt của anh ở đây là vô cùng hữu ích. - Nếu tôi có thể giúp được gì… - Bà Merrilow, chắc bà cũng hiểu rằng nếu tôi tới gặp bà Ronder thì tôi hy vọng có một người làm chứng. Xin bà hãy nói với bà ấy về điều này trước. - Chúa sẽ phù hộ cho ông, ông Holmes ạ! - Người khách nói - Bà ấy rất muốn gặp ông, nên ông có gọi tất cả mọi người trong khu này đến thì bà ấy cũng chả bận tâm gì đâu. - Vậy chiều nay chúng ta nên xuất phát sớm một chút. Trước khi đi, phải đảm bảo là chúng ta đã nắm rõ mọi việc. Bà hãy kể lại tất cả một lần nữa, giúp bác sĩ Watson có thể hiểu được tình hình. Ban nãy bà có nói, bà Ronder đã trọ ở nhà bà bảy năm rồi, nhưng bà mới nhìn rõ mặt bà ấy chỉ một lần duy nhất phải không? Bà Merrilow nói: - Thề có Chúa, tôi ước gì mình chưa bao giờ nhìn thấy mặt bà ấy thì hơn! - Mặt bà ấy bị thương tổn rất nặng nề, phải vậy chứ? - Thưa ông Holmes, không thể gọi đó là một cái mặt người được! Thật là vô cùng khủng khiếp. Một lần, người đưa sữa cho tôi nhác thấy bà ấy đang đứng ngắm cảnh ở cửa sổ tầng trên, anh ta kinh hoàng tới mức làm đổ cả thùng sữa! Lần nọ, bất ngờ tôi chợt nhìn thấy mặt bà ấy, bà ấy lập tức che mặt lại và nói: “Bà Merrilow, chắc bây giờ bà đã hiểu vì sao tôi luôn luôn che mặt bằng tấm mạng này rồi chứ?”. - Bà có biết tí gì về quá khứ của bà ấy không? - Tôi hoàn toàn không biết gì về bà ấy cả. - Khi bà ấy tới thuê nhà, có sự giới thiệu của ai không? - Không, nhưng bà ấy trả bằng tiền mặt và luôn trả trước rất nhiều. Tiền thuê nhà trả cả quý, hơn nữa cũng không hề cò kè mặc cả. Tôi ngần này tuổi rồi, lại bơ vơ một mình trong thời buổi khó khăn, ngài bảo làm sao có thể từ chối được một người khách giàu có và hào phóng như vậy được? - Lý do gì khiến bà ấy chọn thuê căn hộ của bà? - Căn hộ của tôi cách đường khá xa, yên tĩnh hơn so với các căn hộ cho thuê khác. Hơn nữa, tôi chỉ nhận mỗi một người khách trọ; bản thân tôi cũng không có người thân. Tôi đoán rằng bà ấy đã từng thuê nhiều nơi, nhưng bà ấy thích căn hộ của tôi nhất. Bà ấy cần yên tĩnh và không tiếc tiền. - Bà có nói rằng, kể từ khi tới ở, bà ấy chưa bao giờ để lộ khuôn mặt của mình, chỉ trừ một lần duy nhất kia thôi. Đây quả là một chuyện khá đặc biệt và vô cùng kỳ lạ. Do đó tôi hiểu vì sao bà muốn điều tra xác minh nó đến vậy. - Không phải tôi muốn thế, thưa ông Holmes. Với tôi mà nói, chỉ cần có tiền thuê nhà là tôi đã cảm thấy rất hài lòng rồi. Không có vị khách thuê nhà nào yên lặng hơn, ít chuyện hơn bà ấy. - Vậy thì tại sao bà lại tới đây? - Thưa ông Holmes, đó là vì sức khỏe của bà ấy. Bà ấy càng ngày càng yếu đi. Hơn nữa, trong lòng bà ấy có những bí mật rất hãi hùng nào đó. Có lúc bà ấy la to: “Giết người! Giết người!”. Lần khác lại nghe tiếng bà ấy hét toáng: “Đồ súc sinh tàn ác! Đồ yêu ma quỷ quái!”. Bà ấy kêu gào vào lúc nửa đêm, tiếng hét của bà ấy vang dội khắp nhà làm tôi sợ run lên. Sáng hôm sau, tôi lên thăm bà ấy. Tôi chân thành khuyên: “Bà Ronder này! Nếu trong lòng bà có điều gì u uất không thể nói ra, bà có thể tìm tới cha xứ hoặc cảnh sát, biết đâu họ có cách giúp bà”. “Ơn Chúa, tôi không cần tới cảnh sát!” - Bà ấy nói - “Cha xứ thì không thể làm gì để thay đổi được quá khứ. Nhưng trước khi tôi chết, nếu có một ai đó biết được toàn bộ câu chuyện này thì tôi có thể được an ủi phần nào”. Tôi mách cho bà ấy: “Ồ, nếu bà không muốn nhờ cảnh sát, thì bà hãy nhờ đến ông thám tử nổi tiếng mà mọi người đều biết là Sherlock Holmes ấy”. Thưa ngài, xin lỗi vì tôi đã nhanh mồm như vậy. Nhưng bà ấy vừa nghe liền đồng ý ngay: “Đúng rồi, tôi cần một người như thế”. Bà ấy nói: “Tại sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Xin bà hãy mau chóng mời ông ta tới đây, bà Merrilow! Nếu ông ta không chịu tới, bà hãy nói với ông ta rằng tôi là vợ của Ronder, người dạy thú ở đoàn xiếc. Bà chỉ cần nói vậy thôi và cho ông ta cái tên “Abbas Parva””. Bà ấy viết chữ đó lên mảnh giấy đưa cho tôi rồi nói: “Cái tên này sẽ khiến ông ta tới ngay, nếu ông ta đúng là người như tôi nghĩ”. - Đúng là tôi phải đi thật, bà Merrilow ạ! - Holmes nói - Giờ tôi cần trao đổi với bác sĩ Watson một lúc và cuộc nói chuyện này phải kéo dài tới bữa trưa. Khoảng ba giờ chiều, chúng tôi mới có thể tới nhà bà được. Vị khách của chúng tôi vừa lạch bạch bước ra khỏi phòng, vì không còn từ nào có thể miêu tả đúng hơn dáng đi của bà ấy, thì Holmes liền đứng bật dậy, vùi đầu vào lật tìm đống tài liệu trong góc phòng. Vài phút sau, chỉ có tiếng lật giấy “soạt, soạt”, sau đó anh à lên một tiếng đầy thoả mãn. Nghe thế, tôi biết là Holmes đã tìm ra được điều gì đó. Anh ngồi bệt xuống sàn nhà, hai chân khoanh lại, một đống sách to đùng bao quanh, và trên đùi lại có một tập báo đang mở nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle. Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle.
Mười Người Da Đen Nhỏ - Agatha Christie
Mười người phát hiện rằng mình đã bị lừa ra đảo để "trả giá" cho "tội ác" đã gây ra, họ ứng với 10 bức tượng nhỏ đặt trên bàn ở phòng khách. Những ngày sau đó từng người lần lượt thiệt mạng tương tự cái cách bài đồng dao trong phòng mỗi người đã mô tả. Kỳ lạ hơn là sau khi một người qua đời, số tượng trong phòng khách bằng cách nào đó đều giảm đi một. Người đầu tiên thiệt mạng là Anthony Marston, anh ta chết vì ngộ độc với triệu chứng tương tự người bị nghẹn. Sau Marston là Ethel Rogers, bà quản gia chết được chồng phát hiện đã chết vì dùng thuốc ngủ quá liều. Vị tướng Macarthur dường như linh cảm được cái chết sẽ đến nên đã bỏ ăn mà ngồi nhìn ra biển và lảm nhảm một mình, bác sĩ Armstrong sau đó phát hiện ông đã chết vì bị một vật cứng đập vào sau đầu. Người thứ tư thiệt mạng là Thomas Rogers, trong lúc bổ củi chuẩn bị cho bữa sáng, dường như Thomas đã để trượt tay và làm lưỡi búa bay thẳng vào đầu. Là người luôn tin rằng mình không làm gì trái với Đức tin, rằng những người khác chết là do bị Chúa trừng phạt, tuy nhiên Emily Brent cũng không thể sống sót, bà bị tiêm thuốc độc vào cổ sau bữa ăn trưa, vết tiêm trên cổ bà tương tự như vết ong đốt. Buổi tối hôm đó đến lượt quan tòa Wargrave được bác sĩ Armstrong phát hiện đã thiệt mạng vì bị bắn vào đầu trong khi đang đội bộ tóc giả của quan tòa. Bản thân bác sĩ vào ngày hôm sau cũng được những người còn lại phát hiện đã chết đuối ở vách đá. Blore là người thứ tám thiệt mạng trên đảo, viên thám tử tư bị bức tượng trong phòng cô Vera Claythorne rơi trúng đầu trong lúc hai người còn lại đang ở ngoài bờ biển bên xác bác sĩ Armstrong. Rơi vào trạng thái hoảng loạn, Claythorne lừa cướp được súng của Lombard và giết chết tay cựu lính đánh thuê. Cuối cùng cô trở lại phòng và treo cổ tự tử với chiếc ghế và dây thòng lọng do một ai đó đã bày sẵn… Đây là một vụ án mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. *** Mười người da đen nhỏ, nguyên bản tựa gốc tiếng Anh: Ten Little Niggers (10 gã mọi đen nhỏ) hoặc And Then There Were None (Và rồi chẳng còn ai) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà xuất bản Collins Crime Club phát hành lần đầu ở Anh ngày 6 tháng 11 năm 1939[2]. Tác phẩm đôi khi còn được xuất bản (và chuyển thể thành phim) dưới tên Ten Little Indians (10 gã da đỏ nhỏ). Tiểu thuyết nói về vụ án bí ẩn trên hòn đảo Soldier Island với 10 người bằng cách này hay cách khác đã thiệt mạng mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. Đây được coi là một trong những tiểu thuyết hình sự xuất sắc và nổi tiếng nhất của Agatha Christie, trên 100 triệu bản sách đã được bán ra khiến tác phẩm này trở thành tiểu thuyết hình sự bán chạy nhất trong lịch sử xuất bản thế giới. Mười người da đen nhỏ cũng là tác phẩm của Agatha Christie được chuyển thể nhiều lần nhất, cả trực tiếp và gián tiếp, dưới dạng phim điện ảnh, truyền hình và kịch sân khấu. Mời các bạn đón đọc Mười Người Da Đen Nhỏ của tác giả Agatha Christie.
Xác Chết - Carter Brown
Cô gái tóc vàng đã có thể. Cô gái tóc nâu đã sẵn sàng. Và Al Wheeler đã sẵn sàng ... vì tình yêu. Cho đến khi tìm thấy ba xác chết. Cảnh sát California bắt đầu cuộc chạy đua truy tìm hung thủ khi xác chết đầu tiên xuất hiện. Xác chết thứ hai xuất hiện trong một căn nhà phòng. Và rồi người thứ ba. Xác chết là một câu chuyện về những cô gái tóc vàng, và những kẻ tống tiền. Và viên cảnh sát tên là Al Wheeler xuất hiện với mục tiêu ngăn chặn tên sát nhân. *** Annabelle Jackson sôi nổi quảng cáo, “Đó là một nơi ăn chơi thật độc đáo, rồi anh sẽ thấy!” Tôi như một thằng ngố mặc cho Annabelle muốn dẫn đi đâu thì dẫn. Khi Annabelle dừng lại trước tấm bảng cũ kỹ có hai chữ ‘Guốc Vàng’ chạy đèn néon vàng óng, tôi ngước nhìn lên và thấy rõ hàng chữ cũng được chạy đèn néon nổi bật “Minuit - nửa đêm”. Tôi giơ tay gãi đầu, hỏi, “Ở đây à?” Không trả lời, Annabelle chộp tay tôi lôi tới trước một cánh cửa, nơi có cầu thang dẫn xuống nhà hầm. Khi đã chọn được chiếc bàn sát tường ưng ý, tôi kéo ghế ngồi và bắt đầu quan sát xung quanh. Nhà hầm rộng mênh mông nhưng nom nó có vẻ giống một cái hang nhiều hơn là một nhà hàng, chẳng có tới một cái máy điều hòa không khí dù là loại tồi tàn nhất. Không khí nóng bức trộn lẫn mùi nước hoa lan tỏa càng tạo cho tôi một cảm giác khó chịu. Thêm vào đó là thứ ánh sáng lờ mờ của nhà hầm khiến tôi phải cố gắng căng mắt lắm mới nhìn thấy được một mái đầu với mớ tóc vàng đang lắc lư bên cạnh. Tôi chồm tới ghé sát mặt để yên chí rằng mình không nhìn lầm. Một gã hầu phòng béo mỡ, thứ lề mề bất cần việc, cặp mắt láo liên tiến đến, gã chống hai bàn tay bẩn thỉu lên mặt bàn và hỏi một cách xấc xược, “Hai người ăn uống ra làm sao? Kể mau nghe!” Tôi ngáp dài, “Hai scotch có đá. Mà này, lần sau nên lịch sự một chút nhé. Nhớ tráng sạch ly trước khi mang ra cho chúng tôi!” Gã nhe răng cười nhăn nhở, “Tại sao vậy? Đêm nay anh không định thầu hết chỗ này chứ?” Gã trả đòn, rồi nhún vai biến nhanh như gió. Tôi nheo một bên mắt, nhìn cô bạn, “Trước đó anh luôn thắc mắc, không hiểu em sẽ tìm đâu ra thứ hang ổ hắc ám trong Pin City này. Bây giờ mới hiểu ra. Thánh thật!” Cô nàng đáp nhanh, “Nếu chịu khó nhìn chung quanh, anh sẽ nhìn thấy tín đồ ở đây đều có trán bóng lưỡng và những tròng kính dày cộm. Chúng ta đang trong hậu cung của các nhà học giả đấy!” “Quí vị đó chui vào hốc bò tó này làm gì?” “Họ đến vì… Jazz. Đó là bộ sậu gồm Clarence Nesbitt đàn bass, Cubn Carter trống và Wesley Stewart kèn đồng, ba tay này trước đây là những kẻ vô danh tiểu tốt, giờ thì mọi người đều ngưỡng mộ họ.” “Hừ, không có tôi trong số đó đâu nhé.” “Chưa hết, còn một nguyên nhân nữa.” “Nguyên nhân gì?” “Cái này dứt khoái là anh ngưỡng mộ: Nàng Minuit, như tấm biển đề ngoài cửa.” “Chà, hấp dẫn đấy. Nàng trốn đâu, sao không thấy? Biệt danh à?” “Không, nàng có tên Minuit O’Hara, chỉ xuất hiện vào.nửa đêm. Lý do như thế nào, hiện giờ chưa rõ. Còn ít phút nữa…” Tôi cắt ngang, lay nhẹ khuỷu tay Annabelle. “Các ca sĩ lớn đang chờ em, ở nhà anh, trong băng nhựa. Máy thu băng của anh thuộc loại thượng hảo hạng, một trong những…” “Anh khoan kể nốt,” cô chặn lại giọng lạnh tanh. “Annabelle là cô gái không dễ mắc câu!” Rượu Scotch được mang ra và gã hầu phòng béo mỡ đang ném cái nhìn chòng chọc vào Annabelle, trước khi đặt chiếc ly trước mặt nàng. “Ối dào, phù… phù! Xin cho biết.” Gã hít một hơi thật sâu. “Cái gì đây?” “Một cô gái,” tôi quát vẻn vẹn ba chữ tạo thành câu. “Tôi nhắc nhở anh! Có cần hiểu rộng thêm ý nghĩa tôi muốn nói không?” “Mẹ kiếp, đêm nay mình gặp hên..” Thốt xong, hắn phe phẩy chiếc khăn trên tay như chó vẫy đuôi, rồi lỉnh vào bếp. Annabelle đầy hưng phấn, nói với vẻ háo hức, “Anh nghe đấy, ta còn thưởng thức dài dài. Từ New Orleans thuần nhất có thể rút tỉa ra vài câu thơ theo cung cách Chicago. Qua thể điệu Wing anh sẽ túy lúy bằng những tiếng ‘hí… hê’ thoát ra từ…” Lạy chúa, giọng lưỡi của cô nữ tín đồ sùng bái được bộ tam sên trên bục diễn che lấp mất qua bản “Có một đứa ngu”. Tôi lơ đãng nhấm nháp Whisky, những điều nghi ngờ tệ hại nhất của tôi về Annabelle Jackson đã được xác nhận rồi. Khi bài hát vừa dứt, Annabelle quay sang tôi, đôi mắt lóng lánh, cuồng nhiệt. Cô hăm hở, “Anh cảm thấy thế nào?” Tôi nhăn mặt, ngáp dài, “Ồn ào quá,” tôi đáp. “Trong khi anh chỉ cần ấn nhẹ cái nút, âm thanh đã vừa đủ nghe và hàng loạt ca sĩ nổi danh đương thời lần lượt cất giọng…” Annabelle vờ ngơ ngác, “Chúa ơi, ở đâu có?” “Trong băng nhựa! Xin nói thêm, tủ rượu của anh có vô số rượu khai vị. Còn Whisky thì khỏi nói, toàn là thứ còn nguyên con dấu và nhãn hiệu đàng hoàng, chưa hết…” ... Mời các bạn đón đọc Al Wheeler [#6]: Xác Chết của tác giả Carter Brown.
Tiếng Chó Tru Trong Đêm - Erle Stanley Gardner
Truyện rất tuyệt, một trong những #Mason hay nhất tôi từng đọc. Tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn kết phải nói là: Hảo Hảo - Mỳ tép số 1 VN. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** - Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, - Della Street mở cửa. - Ông Mason đang đợi ngài ạ. Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng. - Ngài là Perry Mason? - Ông ta hỏi. - Ngài là luật sư ạ? - Vâng, - Mason đáp. - Xin mời ngài ngồi. Người đàn ông ngả xuống ghế bành, rút thuốc lá nhét một điếu vào miệng và chìa bao thuốc cho Mason. Trầm ngâm ngó bàn tay run rẩy, Mason lắc đầu từ chối. - Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn. Người đàn ông hấp tấp nhét bao thuốc vào túi. Quẹt diêm, tựa khuỷu tay vào tay vịn của ghế và châm thuốc hút. - Thư kí của tôi báo với tôi rằng. - Mason thong thả nói. - ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc. - Về con chó và di chúc, - người đàn ông lặp lại như tiếng vọng. - Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm! Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy. - Tên ngài là gì? - Artur Cartrait. - Tuổi? - Ba mươi hai. - Địa chỉ thường trú? - 4893, Milpas Draiv. - Có vợ hay độc thân? - Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng? - Vâng, - Mason nói, ngước nhìn khách hàng. - Điều đó không quan trọng đối với di chúc, - ông kia cự lại. - Mặc dù thế vẫn cần. - Nhưng tôi đã nói rồi, điều đó không liên quan gì với di chúc của tôi. - Vợ ngài tên là gì? - Paula Cartrait. - Bà ấy sống với ngài chứ? - Không. - Vậy thì ở đâu? - Tôi không rõ. Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay. - Được rồi, - ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, - trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không? - Không. - Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai? - Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không? Mason im lặng gật đầu. - Chúng ta cứ cho rằng, - Cartrait tiếp tục. - theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y? - Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, - Mason đáp. - Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc? - Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác. - Ngài có ý gì? - Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu. Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ. - Ngài muốn để tài sản lại cho ai? - Mason nhắc lại. - Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889. Mason sửng sốt nhướng lông mày. - Cho bà hàng xóm ư? - Cho bà hàng xóm, - Cartrait khẳng định. - Rất tốt. Nhưng hãy lưu ý, ngài Cartrait, ngài đang nói với luật sư của mình. Ngài không nên có bí mật gì đối với tôi. Xin đừng lo, tất cả những điều nói ra tại đây, sẽ ở lại giữa hai chúng ta mà thôi. - Thì tôi có giấu giếm gì đâu! - Cartrait kêu lên nôn nóng. - Tôi không tin chắc vào điều đó, - Mason nhận xét trầm tĩnh. - Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã. - Tôi nói hết rồi. - Hết là thế nào? - Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli. Perry Mason đặt bút xuống bàn. - Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy. - Con chó tru. Mason gật đầu vẻ khuyến khích. - Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết. - Con chó này sống ở đâu? - Trong ngôi nhà bên cạnh. - Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru? - Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli. - Hiểu rồi, - Mason gật đầu. - Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait. Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành. - Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc. - Tôi nghe đây. - Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli. - Ngài có ý nói gì? - Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp. - Điều đó không có ý nghĩa gì, - Mason chậm rãi đáp, - nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ... - Tôi không quan tâm điều đó, - Cartrait sốt ruột cắt lời ông. - Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không? - Điều đó không nhất thiết. - Thế nếu như, - cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, - vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà? - Tôi đã giải thích với ngài rồi, - Mason nhẫn nại đáp, - điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ? - Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi. - Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không? - Tất nhiên không, - Cartrait cắt ngang. - Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả. - Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó. - Ngài phải làm gì đó với con chó này. - Đề xuất của ngài? - Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù. - Dựa trên cơ sở nào? - Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, - Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc. Mason lắc đầu. - Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và... - Tôi biết, tôi biết, - Cartrait cắt lời ông. - Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi. Mason mỉm cười yếu ớt. - Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư. - Không! - Cartrait kêu lên. - Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, - ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. - Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn. Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn. - Thưa ngài Cartrait, - ông thốt ra dè dặt, - nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu? - Tôi mong được như thế. - Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài. - Tốt, - Cartrait đáp. Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi. - Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt? - Vâng. - Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo? - Ngài chưa biết Fouli, - Artur Cartrait nhắc lại. - Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy. - Con chó giống gì? - Bécgiê cảnh sát to tướng. Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười. - Nếu người đưa đơn kiện đã sơ bộ nhờ đến luật sư, kể hết với ông ta tất cả không che giấu điều gì, và trong tương lai tuân thủ các lời khuyên của luật sư, thì trong khi xem xét tố tụng về sự buộc tội giả trá, điều đó sẽ có lợi cho người kiện. Còn bây giờ, tôi muốn làm để sao cho Clinton Fouli không có nguyên cớ đâm đơn kiện ngài lên toà. Tôi sẽ đưa ngài đến gặp trợ lí ngài biện lí khu, người phụ trách những vấn đề tương tự. Tôi muốn để ngài nhắc lại với ông ấy tất cả những gì liên quan đến con chó. Có thể không nhắc tới bản di chúc. Nếu ông ấy quyết rằng điều ngài nói là đủ để có lệnh bắt giam, thì lệnh sẽ được viết. Nhưng tôi cảnh báo trước, ngài không nên giấu giếm gì cả. Hãy đưa ra trước ông ấy tất cả các cứ liệu, và lúc ấy bất cứ đơn kiện nào của Fouli cũng không làm hại được ngài. Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây? - Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, - Mason đáp. - Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy. - Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu. Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm... Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên. - Bị cắm sừng à? - Cô hỏi. - Tôi không biết, - Mason đáp, - nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta. Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ. Dorcas ở đầu dây. Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói. - Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì. - Ông ta cần gì? - Ông ta muốn đâm đơn kiện. - Về lí do gì? - Về con chó tru. - Về... - Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư. - Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế. - Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này. - Chỉ vì tiếng chó tru ấy à? - Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên. - Điều đó là chính xác, - Dorcas đồng ý. - Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ? - Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi. - Tôi sẽ đợi các anh, - ngừng một chút, Dorcas nói. - Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. - Mason đặt ống nói xuống. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #04: Tiếng Chó Tru Trong Đêm của tác giả Erle Stanley Gardner.