Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tây Vực Liệt Vương Ký

“Gia Tư Đinh trước khi chết nói với Huyền Trang rằng: “Trong bình có quỷ…” Ấy vậy mà lại có ma quỷ thật. Con quỷ trong chiếc bình nhìn thấu dục vọng của chúng sinh, khuấy đảo cả một vùng Tây Vực vốn đã bất ổn nay lại càng hỗn loạn hơn. Chiếc bình của vua Đại Vệ đi đến đâu, nơi đó máu chảy nhuộm đỏ sa mạc, ánh nắng mặt trời không thể chiếu rọi. Nhưng ma quỷ có thần thông quảng đại đến mức một tay che kín cả bầu trời…” *** Bộ sách 81 Án Tây Du gồm có: Đại Đường Nê Lê Ngục Tây Vực Liệt Vương Ký Đại Đường Phạm Thiên Ký Đại Đường Đôn Hoàng Biến *** Reviewer: Điền Yên —– Tập 2 này hay không thua gì tập 1, các câu chuyện lồng ghép vào nhau, khi ta vừa tưởng đây là kẻ chủ mưu thì lại lòi ra một boss khác to hơn. Bối cảnh của truyện là phần sau của tập 1 nhưng không đọc tập 1 mà bay vào tập 2 cũng không quá mức lạ lẫm. Sau khi phá vỡ một âm mưu tày đình nhắm vào hoàng đế Trung Hoa thì Huyền Trang lại tiếp tục đường Tây Du, và lần này thì nâng level lên phá án xuyên quốc gia. Ở Tây Vực lưu truyền câu chuyện về Chiếc bình của vua Đại Vệ, giống như thần đèn, hắn cho ngươi 3 điều ước, sau khi điều ước số 3 hoàn thành, ngươi phải trả tự do cho hắn. Chiếc bình này là vật trấn quốc của Tát San Ba Tư suốt 400 năm. Có chiếc bình trong tay, không kẻ thù nào xâm phạm được vương quốc. Bởi vì quốc vương không bao giờ ước đủ 3 điều, cứ xong điều 2 thì truyền cho kế hoàng đế, cứ như thế lừa gạt, lợi dụng chiếc bình để duy trì thái bình thịnh trị. Nhưng sức hút của chiếc bình quá lớn, ai mà chẳng ôm ấp những khát vọng khó thành, bỗng nhiên xuất hiện một vị thần có thể biến chúng thành hiện thực, ngay đến người thiền tâm trấn định như Huyền Trang cũng không khói có chút lung lay, đừng nói những người dã tâm sâu nặng. Chính vì thế, chiếc bình trở thành vật bị tranh đoạt khắp Tây Vực. Nhưng thực tế hơn cả chiếc bình, đó là Con đường Tơ Lụa, các quốc gia nhỏ đều phải dựa vào con đường này mà tồn tại, chỉ cần tuyến đường thay đổi là có thể dẫn đến sự hưng thịnh hay suy tàn của cả vương quốc.Nhân vật chính trong cuộc chiến giành Con đường Tơ Lụa trong Tây Vực liệt vương ký là Yên Kỳ và Cao Xương. Mối tình như Romeo và Juliette của Tam hoàng tử Cao Xương và công chúa Yên Kỳ trở thành công cụ chính trị, có điều, ở đây khác một chút. Công chúa Yên Kỳ xinh đẹp cơ trí, từ nhỏ đã biết mình nặng gánh giang san nên hoàn toàn khinh bỉ chàng hoàng tử si tình tội nghiệp không màng vương vị. Nhưng nếu có thể lợi dụng tình yêu của chàng để đạt được mục đích thì nàng không ngại diễn một vở kịch tình yêu thống thiết. Tam hoàng tử này, ban đầu tôi cực kỳ ngứa mắt vì chàng ta ngoài tình yêu với Long Sương công chúa ra thì chẳng để ý tới bất kỳ cái gì. Giang sơn xã tắc, cha mẹ huynh đệ, danh dự mặt mũi chỉ là mây bay, chàng sẵn sàng tung hê tất cả chỉ vì một nụ cười của giai nhân. Sao trên đời lại có cái loại đàn ông bạc nhược ngu xuẩn thế không biết?! Long Sương Nguyệt Chi nghĩ thế, tôi đồng tình với nàng, cả thiên hạ không ai nghĩ khác, trừ Chu công công – người chăm sóc cho hoàng tử từ nhỏ. Trong mắt ông, chàng là người thông tuệ nhất. Mãi khi đọc đến cuối truyện tôi mới nhận ra Chu công công đã đúng. Không phải chàng là boss cuối, toàn bộ câu chuyện đều là mưu kế của chàng như tôi đã đoán mò ban đầu mà tận đến phút cuối cùng, Khúc Trí Thịnh vẫn là 1 người chỉ đặt Long Sương Nguyệt Chi làm mục tiêu tối thượng. Đó chính là điểm cao minh của chàng, biết rõ mình muốn gì, luôn một mực bám đuổi mục đích, không hề suy chuyển, bất chấp thế nhân, nhưng về sau, trên con đường Tây Du với Huyền Trang, chàng đã học được nhiều điều, biết buông bỏ mà không từ bỏ.Thực ra, gây ấn tượng sâu sắc nhất với tôi trong bộ truyện này là hai câu chuyện. Câu chuyện thứ nhất có thể viết thành một bộ ngôn tình. Khi đọc lịch sử, tôi luôn suy nghĩ về số phận của các nàng công chúa hòa thân – những cô gái chân yếu tay mềm gánh trọng trách của cả dân tộc, phải phát triển duy trì mối quan hệ giữa 2 quốc gia, phải đóng vai trò gián điệp công khai. Các nàng có khác gì chất tử, là con tin đưa đến dị quốc, quan hệ hai nước tốt đẹp thì nàng được tử tế, bằng không, sự khó khăn mà các nàng phải đối mặt thật khó tưởng tượng nối. Nếu quốc gia của nàng bị diệt vong, nàng chỉ là con bài vứt đi. Chết không chết được vì còn phải gánh trách nhiệm với lưu dân sống sót, sống cũng không xong, nhất là khi trượng phu của nàng là một kẻ khốn nạn. Vũ Văn Ngọc Ba là công chúa thời Tùy Mạt, sang Cao Xương hòa thân. Năm đầu tiên, phu thê ân ái, nhưng sang năm tiếp theo, nhà Tùy sụp đổ, vương triều Cao Xương bị đảo chính, nàng cùng hoàng tộc Cao Xương phải nương nhờ Đột Quyết. Một nàng công chúa vong quốc như nàng thì còn có tác dụng gì ngoài nhan sắc? Chồng nàng đẩy nàng lên giường quý tộc Đột Quyết, cố giành chút lợi ích. 6 năm lưu lạc là 6 năm nàng chịu đủ khuất nhục, đến khi giành lại được vương quyền, hắn vẫn phong nàng làm vương phi nhưng đêm đêm hàng hạ tra tấn nàng, khiến toàn thân nàng đầy vết thương thê thảm, khiến tâm hồn nàng chết tàn chết lụi. Nhưng nàng không dám tự sát vì con dân nàng vẫn còn sống, vì nàng tìm được một người yêu nàng. Người ấy vì nàng mà ủ mưu mười mấy năm, chỉ cần hắn lên ngôi, nàng sẽ là vương phi của hắn. Nhưng cả nàng và hắn lại đều chỉ là quân cờ trong một ván cờ của người khác. Người này cũng vì oán hận mà âm thầm lập kế 20 năm, không ngại hủy hoại ngàn vạn người. Trí tuệ của y thật khó lòng đo đếm được. Rốt cuộc, Ngọc Ba – nàng công chúa hòa thân của vong quốc vẫn không thể đến được với người mình thương. “Nhà gả ta tới phương trời xa, tới vùng dị quốc vua Ô Tôn cai trị. Lều vải thay nhà, tường là chăn dạ, lấy thịt thay cơm, sữa dùng thay nước. Ở nơi này thường đau lòng tưởng nhớ, muốn làm cánh hạc tìm về lại cố hương.” Và câu chuyện thứ hai khiến tôi nhớ đến Bạch Dạ Hành, dù người ấy đang ở dưới ánh mặt trời chói lọi vẫn như bước đi trong bóng tối u ám vĩnh hằng. Câu chuyện này, nếu tôi kể ra thì sẽ lộ hết bí mật. Huyền Trang là mắt xích kết nối tất cả những câu chuyện này. Là Phật tử nhưng dường như ngài theo chủ nghĩa duy vật, ngay từ đầu đã không tin ma quỷ, không tin chiếc bình kia thực sự có thần yêu trấn yểm mà đã dự đoán có người bày ra mưu ma chước quỷ hòng xáo động lòng người. Ngài làm mọi kế hoạch thay đổi, là người chứng kiến nỗi bi thương, lòng tham hận của con người, ý chí tới Thiên Trúc thỉnh kinh của ngài càng thêm sắt đá. Bằng lòng nhân từ và trí thông minh của mình, ngài đã phá giải bí mật lưu truyền hơn 400 năm về Chiếc bình của vua Đại Vệ. Nhưng dù sao, ngài cũng chỉ là một cá nhân nhỏ nhoi trong dòng chảy lịch sử, bánh xe số phận không vì ngài chặn mà dừng lại. Người phải chết vẫn chết, người không phải chết cũng chết. Hành sự tại nhân, thành sự tại thiên, người tính không bằng trời tính, tưởng đã xong hết rồi mới đau đớn nhận ra bao công lao khổ cực của mình bấy lâu chỉ đổ ra sông ra biển, toàn bộ kế hoạch đã hỏng ngay từ bước đầu tiên. Văn phong tác giả vẫn như tập 1, viết rất chắc tay, tìm hiểu kỹ càng lịch sử, lồng những chi tiết có thật vào tác phẩm tưởng tượng của mình. Lời văn vừa gay cấn vừa hóm hỉnh. Ví dụ như đoạn Huyền Trang và Khúc Trí Thịnh bị bắt, ném xuống một cái giếng hoang: “- Sư phụ, đệ tử sợ chết. – Khúc Trí Thịnh thành thật nói – người dùng Phật pháp khuyên răn đệ tử đi. – Bần tăng không có cách nào dùng Phật pháp để khuyên răn con, – Huyền Trang tiếp tục ngáp. – Tại sao? – Khúc Trí Thịnh buồn bực. – Bởi vì… – Huyền Trang duỗi chân ra cho hỏi mái một chút, nước tron giếng ào ào vang lên, – trong lòng bần tăng đang niệm A Di Đà Phật, khi sợ chết, ta lập tức nghĩ rằng có lẽ sau khi chết rồi vừa nhắm mắt lại liền có thể nhìn thấy Phật. Như vậy bản thân lại cảm thấy vui vẻ. Nhưng con thì sao? Trong lòng con chỉ nhớ đên Long Sương Nguyệt Chi, nếu vừa nhắm mắt mà lại nhìn thấy Phật A Di Đà, con chắc là không thấy vui vẻ đâu.” Dịch giả của tập 2 này cũng rất tốt. Truyện có khoảng hơn chục lỗi chính tả và ngữ pháp. Giá bìa 186K nhưng với lượng trang sách này thì giá đó là xứng đáng. Sách nặng 850g, nằm đọc chỉ sợ rơi vào mặt thì lại được lý do chính đáng đi làm lại mũi. Cùng một hình vẽ, màu cát rất hợp với cái tên truyện vì vùng Tây Vực luôn làm tôi nghĩ đến gió, cát và sa mạc. Truyện hay, đáng đọc. Vô cùng ngóng chờ tập 3 và các tác phẩm khác của Trần Tiệm, Dang Thi Quynh Anh *** Công Nguyên năm 628, Đại Đường năm Trinh Quán thứ hai. Mùa xuân tháng Hai. Tại lưu vực Lưỡng Hà cách Trường An một vạn bốn nghìn dặm, đế quốc Tát San Ba Tư[1] (Sassan) đã tồn tại được bốn trăm năm, đúng vào năm trị vì thứ ba mươi tám của vị hoàng đế vĩ đại cuối cùng - Khố Tư Lỗ đệ nhị[2] (Khosrow II). Khố Tư Lỗ đệ nhị đã già yếu và sa đọa. Ba mươi tám năm trước, sau khi phế vị rồi giết chết phụ vương mình, ông ta đã dành hai mươi năm để càn quét Bái Chiêm Đình[3] (Đế quốc Đông La Mã/Byzantium), chinh phục Tiểu Á Tế Á[4] (Anatolia), cướp sạch Tự Lợi Á (Syria), chiếm đóng An Điều Khắc[5] (Antiochia), Đại Mã Sĩ Cách[6] (Damascus), Gia Lộ Tát Lãnh[7] (Jerusalem) và toàn bộ Ai Cập[8], thánh vật của Bái Chiêm Đình - cây thập giá hành quyết Chúa Gia Tô (Chúa Jesus) - cũng trở thành chiến lợi phẩm cho ông ta tùy ý đem ra khoe mẽ, trưng giễu trên đường diễu binh, dưới sự trị vì của ông ta Tát San Ba Tư đã chuyển biến, đạt đến đỉnh điểm của sự huy hoàng. Sau đó, chỉ mất vỏn vẹn có hai năm để Khố Tư Lỗ đệ nhị đưa đế chế của mình từ đỉnh cao huy hoàng trượt dài xuống đáy sâu trụy lạc. Vị hoàng đế xấu xa của Bái Chiêm Đình là Hi Lạp Khắc Lược[9](Heraclius) và người Đột Quyết bí mật câu kết với nhau, chia làm hai cánh quân, từ hai mặt trận phía đông và tây đánh úp vào, đại quân của Hi Lạp Khắc Lược thế như chẻ tre, đánh thẳng từ Tiểu Á Tế Á tới Thái Tây Phong[10] (Ctesiphon). Trong thủ phủ của đế quốc, nơi nơi đều là những quý tộc ấp ủ tham vọng riêng, là những vị tướng quân cao ngạo không chịu tuân phục hoàn toàn, là những người dân thường đang chờ đợi thời cơ tạo phản và đám nhi tử lòng dạ hiểm ác khó lường. Ánh mặt trời chiếu rọi lên cung điện Thái Tây Phong, hương liệu an thần được đốt trong lư hương bằng ngọc lưu ly tỏa ra làn khói xanh nhàn nhạt, hòa trong ánh mặt trời, chờn vờn giữa tẩm cung nguy nga lộng lẫy. Khố Tư Lỗ đệ nhị mệt mỏi tỉnh dậy, nhưng xem chừng không muốn mở mắt ra. Hai năm nay lão hoàng đế mắc phải bệnh kiết lị, tháo dạ nghiêm trọng khiến sức khỏe suy sụp hẳn, cũng khiến cho tính tình càng trở nên cáu kỉnh, nóng nảy. Trong suy nghĩ, Khố Tư Lỗ đệ nhị hoài niệm đến hành cung Hải Nhĩ Vượng[11] (Dastgerd), nơi đó khiến ông ta nhớ đến những ngày tháng ở cùng với ái phi Hi Lâm[12] (Shirin). Ông ta vì nàng mà cho xây dựng cung điện Tháp Cách Địch Tư[13] (Behistun), vòm mái điện dát vàng, nạm bạch ngọc làm thành mặt trời, mặt trăng và các vì sao, kết hợp cùng nhiều cơ quan vận hành phức tạp, để khi bọn họ nằm trên giường, có thể nhìn thấy được sự chuyển động của mặt trời và sự thay đổi của bốn mùa. Mặc dù năm nay Hi Lâm đã gần năm mươi tuổi, ông ta vẫn cho rằng nàng là người phụ nữ đẹp nhất trên thế gian này. Đáng tiếc, hành cung Hải Nhĩ Vượng đã bị hoàng đế Hi Lạp Khắc Lược phá hủy, lúc này gã vẫn đang nán lại ở ngoài thành Thái Tây Phong chưa muốn dời binh, chờ đợi thời cơ giáng cho Tát San Ba Tư một đòn trí mạng. Nhớ đến Hi Lâm, gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị dịu dàng hẳn, ông ta quyết định nghe theo lời khuyên nhủ của Hi Lâm, lập hài tử của nàng là Mã Nhĩ Đan Sa (Mardanshah) làm thái tử, mặc dù đứa nhỏ mới chỉ sáu tuổi. Vậy thì đã sao? Ta vẫn là vua của Tát San Ba Tư, vua của vạn vua, vua của toàn vũ trụ! Khố Tư Lỗ đệ nhị hạ quyết tâm, gắng cựa người ngồi dậy, thì bất chợt có một bàn tay xuất hiện trong làn khói hương an thần chờn vờn trước mắt, áp lên trán và dùng sức ấn cơ thể ông ta nằm xuống giường. Khố Tư Lỗ đệ nhị còn chưa kịp phản ứng, đã thấy có thêm vô số bàn tay xuất hiện trong màn khói hương, cổ, tay và chân của ông ta đều bị giữ chặt, bị đè ép trên giường thành hình chữ đại (大). Sự tình quái lạ xảy ra trong nháy mắt, dường như đang có rất nhiều người khéo léo phối hợp cùng với nhau để đối phó với ông ta, nỗi sợ hãi khôn cùng dâng trào, nhưng lão hoàng đế không nhìn thấy bóng dáng những người đó. Khố Tư Lỗ đệ nhị cố há miệng ra, muốn kêu thét lên, nhưng miệng đã bị bịt chặt lại, bọn họ dùng một cái kìm bằng đồng xanh kẹp lấy một viên trầm an thần còn cháy đỏ lửa ra khỏi lư hương rồi nhét vào miệng ông ta. Lão hoàng đế không ngừng giãy giụa, phát ra những tiếng kêu rên rỉ vì đau đớn. Nhưng chiếc kìm kia vẫn đâm sâu vào trong cổ họng của ông ta, cho đến tận khi viên trầm nóng nghẹn lại trong cổ họng mới thôi. Cơn đau xé họng cùng sự khó thở đã khiến cho Khố Tư Lỗ đệ nhị ngất lịm đi. Cũng không biết qua bao lâu, Khố Tư Lỗ đệ nhị giật mình tỉnh lại trong cơn đau co giật, ông ta thấy trưởng tử của mình là Hi Lỗ Gia[14](Shiruya) đang kính cẩn đứng bên đầu giường. Hai mắt của Khố Tư Lỗ đệ nhị trợn ngược lên, nhất thời quên cả đau đớn, vì giờ ông ta đã nhận ra Hi Lỗ Gia đang khoác trên người bộ triều phục dành cho hoàng đế, tay nắm quyền trượng, đầu đội vương miện vàng. Lão hoàng đế cảm thấy tức tối vô cùng, nhưng cổ họng lại chỉ phát ra được những tiếng ú ớ không rõ ràng, cùng cơn đau bỏng rát đến khó chịu. “Suỵt!” Hi Lỗ Gia dùng tay nhẹ nhàng áp xuống, che miệng phụ vương của mình, rồi lại chỉ ra phía ngoài cửa sổ, “người nghe đi!”. Lúc này, những âm thanh nhiễu loạn ào ạt như sóng thần ập tới từ phía ngoài cung điện, Khố Tư Lỗ đệ nhị chú tâm lắng nghe, sắc mặt của ông ta cũng dần biến đổi. Đó không phải là tiếng sóng thần ập tới, mà là tiếng reo hò của vô số người. Tiếng reo hò từ xa vọng đến gần, càng lúc càng rõ ràng, cho đến khi vang rần làm chấn động cả tầng mái của cung điện - “Hoàng đế Ca Ngõa Đức (Kavadh)!”. “Ca Ngõa Đức đệ nhị”, Hi Lỗ Gia sửa lại, “chính là con, Hi Lỗ Gia.” Khố Tư Lỗ đệ nhị nằm đờ người ra, suy sụp hoàn toàn, lão hoàng đế hiểu được rằng mình đã bị phế truất, giống như ba mươi tám năm trước, ông ta phế truất ngôi vị của phụ vương mình là Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức đệ tứ[15] (Hormizd IV). “Phụ vương đáng kính của con, vị vua của vạn vua Ba Tư, người có biết tại sao con lại phải thiêu cháy cổ họng của người như vậy không?” Ca Ngõa Đức đệ nhị cười khẽ, “vì con không thể để người đọc câu thần chú đó được. Cũng giống với cách người từng làm trước khi soán ngôi của tổ phụ thôi, người đã khiến tổ phụ mù cả hai mắt. Tát San Ba Tư vĩ đại có thể tồn tại được suốt bốn trăm năm nay đều dựa cả vào sự bảo hộ từ Chiếc bình của vua Đại Vệ[16] (David), nên suốt ba mươi tám năm nay, dẫu cho người có dốc hết binh lực đi gây chiến, xa hoa lãng phí, hoang dâm vô đạo, cũng không có ai dám chống đối người cả. Ma lực từ Chiếc bình của vua Đại Vệ khiến cho vạn quốc khiếp sợ, đến Bái Chiêm Đình cường đại là thế cũng phải run sợ dưới ánh hào quang chói lọi của nó, để mặc cho quân đội của người giày xéo. Vậy tại sao chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi, sức mạnh của đế quốc chúng ta lại suy giảm, phải run sợ trước lưỡi đao của quân đội Bái Chiêm Đình và người Đột Quyết? Lẽ nào câu thần chú của người đã hết tác dụng rồi sao?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị nhắm mắt lại. “Nói cho con biết đi, phụ vương vĩ đại!” Ca Ngõa Đức đệ nhị lôi ra một tờ giấy đay của phương đông đã được cắt vuông vức, đặt trước ngực của Khố Tư Lỗ đệ nhị, rồi đưa cho ông ta một cây bút lông ngỗng, “Chiếc bình của vua Đại Vệ đang ở đâu? Con muốn là chủ nhân mới của nó và lại có được ba điều ước toàn năng. Con sẽ dẫn dắt Tát San Ba Tư đạt tới đỉnh cao huy hoàng thêm lần nữa, kiến lập nên một đế quốc hùng mạnh trước nay chưa từng có”. Trên gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị bỗng hiện lên một nụ cười lạnh lẽo, lão hoàng đế hất tay viết lên tờ giấy đay: "Chiếc bình của vua Đại Vệđã rời khỏi Ba Tư. Ngươi sẽ không bao giờ có được nó”. “Nó ở đâu?” Ca Ngõa Đức đệ nhị chết sững rồi đột nhiên nổi giận đùng đùng, “nói cho con biết, nó ở đâu?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị bật cười ha hả rồi viết lên tờ giấy: “Quê hương của tờ giấy này”. “Quê hương của tờ giấy này ư?” Ca Ngõa Đức đệ nhị suy nghĩ một lúc, hắn biết rằng tờ giấy này có xuất xứ từ Đại Đường ở phương đông, là giấy đay Ích Châu ngự dụng của cung đình Đại Đường, do đám người Túc Đặc[17] (Sogdiana) tham tài háo lợi kia đã liều mình vượt qua Con đường Tơ lụa dài hơn một vạn dặm để vận chuyển tới Ba Tư. “Không… không…” Ca Ngõa Đức đệ nhị khó mà tin được, “Đây là bảo vật trấn quốc của Tát San Ba Tư ta, đã truyền thừa suốt bốn trăm năm nay, sao người có thể đưa nó đến tận Đại Đường cách đây hơn vạn dặm được?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị tiếp tục viết: “Mưu lược của bậc đế vương, ngươi không hiểu đâu. Một năm sau, khi Chiếc bình của vua Đại Vệ đến được hoàng cung Đại Đường, cục diện thế giới này sẽ chao đảo, Tát San Ba Tư sẽ lại được trùng sinh. Còn ngươi, nhi tử của ta, cả đời này ngươi sẽ luôn phải sống dưới cái bóng của ta, bị oai danh huy hoàng của ta che lấp”. “Không!” Ca Ngõa Đức đệ nhị gào thét tuyệt vọng, hai tay bóp chặt lấy cổ của Khố Tư Lỗ đệ nhị, vẻ mặt dữ tợn, cơ bắp co giật: “Người đã hủy hoại cơ đồ vương nghiệp của con, con sẽ ban cho người chút tôn nghiêm cuối cùng của bậc đế vương, để người chết sạch sẽ, không có đổ máu!”. Cổ họng của Khố Tư Lỗ đệ nhị run lên, phát ra những thanh âm ọ ọe, trước mắt tối sầm, nhưng nét mặt của ông ta lại tựa như đang cười, trong nụ cười ấy hàm chứa cả những giọt nước mắt. Mời các bạn đón đọc Tây Vực Liệt Vương Ký của tác giả Trần Tiệm & Lucia Nanami (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bộ Năm Lừng Danh Tập 4: Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu - Enid Blyton
Bộ năm lừng danh là câu chuyện về những đứa trẻ ham thích phiêu lưu mạo hiểm. Trong thế giới mà bia gừng và thịt nguội là chế độ ăn chủ yếu, Julian, Dick, Anne và George dành phần lớn thời gian lang thang hết chỗ này đến chỗ khác. Trong đó, George thực ra là con gái, nhưng vì muốn làm con trai nên cô bé cắt ngắn tóc và hành động như con trai. George rất ghét mỗi khi người ta gọi mình bằng tên thật, Georgina. Cô bé có một chú chó tên Timmy và cả một hòn đảo cho riêng mình. Đúng thế, hầu hết những đứa trẻ đều có chó, nhưng cha mẹ của George sở hữu đảo Kirrin và để cô bé chạy rông như thể đó là sân chơi vậy. Và thế là bộ năm lừng danh có chuyến phiêu lưu đầu tiên của mình trong Bộ năm trên đảo giấu vàng. Đã gần 70 năm trôi qua kể từ lần đầu được xuất bản, Bộ năm lừng danh vô cùng sống động của Enid Blyton tiếp tục làm say mê hàng triệu bạn nhỏ trên toàn thế giới. Bộ sách đã nhiều lần được chuyển thể truyền hình, điện ảnh, hoạt hình, truyện tranh, kịch bản sân khấu, trò chơi điện tử. Còn tác giả Enid Blyton thì vững vàng trong hàng ngũ những nhà văn thiếu nhi kinh điển và cuốn hút nhất thế kỷ XX. Bộ Năm Lừng Danh đã xuất bản tại Việt Nam gồm có: Bộ NămTrên Đảo Giấu Vàng Chuyến Phiêu Lưu Mới Bộ Năm Chạy Trốn Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu Bộ Năm Chinh Chiến Dưới Lòng Đất *** Enid Mary Blyton (11 tháng 8 năm 1897 – 28 tháng 11 năm 1968) là nữ nhà văn người Anh chuyên viết truyện thiếu nhi. Bà còn có bút danh khác là Mary Pollock. Enid Blyton nổi tiếng với nhiều loạt truyện dựa trên những nhân vật quen thuộc và dành cho mọi lứa tuổi. Sách của bà được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bán được hơn 600 triệu bản. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của bà là Noddy trong quyển sách dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ đạo của Enid nằm ở dòng văn học phiêu lưu mạo hiểm dành cho thanh thiếu niên. Những bộ truyện thuộc thể loại này bao gồm Bộ năm lừng danh, The Secret Seven và The Five Find-Outers and Dog. Ngoài ra, bà còn viết truyện ngắn và thơ nhưng ít được biết đến hơn. Các tác phẩm của Enid Blyton đôi khi cũng có yếu tố phép thuật. Đến tận ngày nay, chúng vẫn được ưa chuộng ở Khối Thịnh vượng chung Anh và nhiều nước trên thế giới. Trong suốt 40 năm, bà viết gần 800 quyển sách và chúng đã được dịch ra gần 90 thứ tiếng. Tác phẩm tiêu biểu Bộ truyện The Wishing-Chair, 1937 – 2000 Bộ truyện The Circus, 1938 – 1942 Bộ truyện The Secret, 1938 – 1953 Bộ truyện The Magic Faraway Tree, 1939 – 1951 Bộ truyện The Naughtiest Girl, 1940 - 1950 Bộ truyện The St. Clare's, 1941 – 1945 Bộ truyện The Famous Five, 1942 – 1963 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Bộ năm lừng danh, NXB Hội Nhà Văn, Nhã Nam, 2011) Bộ truyện Malory Towers, 1946 -1951 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Tòa tháp Malory, NXB Văn Học, 2010) Bộ truyện The Mistletoe Farm, 1948 - 1950 Bộ truyện The Secret Seven, 1949 – 1963 Bộ truyện The Barney Mystery, 1949 – 1959 *** MỘT NGÀY đẹp trời, ngay đầu kỳ nghỉ lễ Phục sinh, bốn đứa trẻ và chú chó bắt đầu chuyến du lịch bằng tàu hỏa. “Sắp đến nơi rồi,” Julian, cậu bé cao lớn khỏe mạnh với vẻ mặt kiên định, nói. “Gâu,” chú chó Timothy kêu lên đầy phấn khích, chú đang cố gắng nhìn ra ngoài cửa sổ. “Ngồi xuống, Tim,” Julian nói. “Để Anne còn xem với chứ.” Anne là em gái cậu. Nó thò đầu ra ngoài cửa sổ. “Chúng ta đang tiến vào Ga Kirrin!” nó nói. “Em rất hy vọng cô Fanny sẽ ở đó để đón chúng ta.” “Chắc chắn rồi!” Georgina, chị họ cô bé, nói. Cô nhóc trông giống con trai hơn là con gái, vì mái tóc rất ngắn, lại còn xoăn tít thò lò. Nó cũng có một vẻ mặt kiên định giống Julian. Nó đẩy Anne sang một bên và nhìn ra ngoài cửa sổ. “Được về nhà thích quá,” nó nói. “Tôi thích trường học - nhưng sẽ rất thú vị khi được ở tại Lều Kirrin, dong thuyền ra Đảo Kirrin thăm tòa lâu đài ở đó. Từ hè năm ngoái tới giờ chúng mình có ra đấy đâu.” “Giờ đến lượt Dick,” Julian nói, quay về phía cậu em mình, một đứa có khuôn mặt vui tươi, đang ngồi đọc sách trong góc. “Kirrin đang dần hiện ra trước mắt đấy, Dick ạ. Em có thể dừng đọc một lúc được không?” “Thật là một cuốn sách hấp dẫn,” Dick nói rồi ập sách lại. “Câu chuyện phiêu lưu kỳ thú nhất mà em từng được đọc!” “Xì! Em cá là nó chẳng kỳ thú bằng vài chuyến phiêu lưu mà chúng ta đã trải qua đâu!” Anne lập tức nói. Đúng là năm đứa chúng, tính cả chú chó Timmy vốn luôn chia sẻ mọi thứ với bọn trẻ, đã cùng nhau trải qua những chuyến phiêu lưu cực kỳ ngoạn mục. Nhưng giờ đây xem ra chúng sắp có những ngày nghỉ yên bình, với những chuyến tản bộ dài trên các vách núi, và có thể chúng sẽ dong thuyền của George tới hòn đảo Kirrin của cả bọn. “Học kỳ này anh đã học cực kỳ chăm chỉ ở trường,” Julian nói. “Anh có thể tận hưởng một kỳ nghỉ lễ đây!” “Cậu gầy đi đấy,” Georgina nói. Chẳng ai gọi cô nhóc bằng cái tên đó. Tất cả đều gọi nó là George. Cô nhóc sẽ không bao giờ trả lời khi người ta gọi nó bằng bất cứ cái tên nào khác. Julian cười toe toét. “Ồ, anh sẽ sớm phát phì ở Lều Kirrin thôi, đừng có lo! Cô Fanny sẽ lo việc đó. Cô ấy rất giỏi trong việc vỗ béo mọi người. Thật tuyệt khi em lại được gặp mẹ, George ạ. Cô ấy quả là một người rất tốt bụng.” “Phải. Hy vọng kỳ nghỉ này bố sẽ vui vẻ,” George nói. “Chắc là vậy thôi vì mẹ bảo ông vừa hoàn thành khá thành công một vài thí nghiệm mới.” Bố của George là nhà khoa học, luôn phải nghiên cứu phát triển những ý tưởng mới. Ông thích không gian yên tĩnh, đôi khi ông trở nên cáu kỉnh nếu không thể có được sự yên tĩnh mà ông cần hay mọi việc không diễn ra chính xác như ông muốn. Bọn trẻ thường nghĩ Georgina rất giống bố ở cái tính khí nóng nảy! Nó cũng có thể phát cáu kinh khủng khiếp khi mọi thứ không như ý muốn. Cô Fanny đã chờ sẵn ở ga để đón chúng. Bốn đứa trẻ nhảy xuống sân ga và lao tới ôm bà. George lao tới đầu tiên. Nó rất yêu quý người mẹ dịu dàng của mình, người luôn cố gắng che chở cho nó khi bố nó nổi cáu. Timmy thì nhảy tưng tưng xung quanh và vui sướng sủa vang. Chú chó rất thích mẹ của George. ... Mời các bạn đón đọc Bộ Năm Lừng Danh Tập 4: Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu của tác giả Enid Blyton.
Bố Già Trở Lại! - Mark Winegardner
Hơn bốn mươi năm trước, Mario Puzo - tiểu thuyết gia người Mỹ đã cho ra đời cuốn Bố già (The Godfather), một tác phẩm được rất nhiều người ưa chuộng. Bố già là một trong những cuốn sách xuất bản có số lượng phát hành lớn nhất thế giới. Hãng phim Francis Ford Coppola cũng đã dựng thành phim. Đến nay, nhà tiểu thuyết gia Mark Winegardner sẽ lại tiếp tục câu chuyện Bố già với tác phẩm Bố già trở lại (The Godfather’s returns). Đó là vào năm 1955, sau khi đã toàn thắng trong cuộc chiến máu lửa với các gia đình tội ác ở New York, Bố già Michael Corleone ra sức củng cố quyền lực, cứu cuộc hôn nhân của mình với cô sinh viên Mỹ Kay Adams khỏi đổ vỡ và chuyển mọi hoạt động của gia đình sang phần bên này của biên giới pháp luật. Nhưng để hoàn tất ba mục tiêu này, Michael còn phải đối phó với đối thủ nguy hiểm nhất là Nick Geraci, một cựu võ sĩ quyền Anh đã leo lên các nấc thang xã hội bằng việc học và tốt nghiệp nghề luật sư, dù lúc nào hắn cũng là một sát thủ kinh khủng nhất của cánh Corleone. Độc giả nào từng thắc mắc chuyện gì đã xảy ra khiến bố già Michael phải ra lệnh cho thủ hạ bắn chết chính anh của mình là Fredo Corleone sẽ được giải đáp trong Bố già trở lại của Mark Winegardner. *** Mark Winegardner nhận bằng Thạc sĩ Văn chương về viết truyện ( Master of Fine Arts in Fiction Writing) tại Đại học George Mason và xuất bản quyển sách đầu tay ở tuổi hai mươi sáu, khi còn trên ghế nhà trường. Những quyển sách của ông đã được chọn là những sách hay trong năm bởi The New York Times Book Review, Los Angeles Times, Chicago Sun Times, USA Today và Thư viện Công New York. Tác phẩm của ông đã xuất hiện trong nhiều ấn phẩm gồm GQ, Playboy, Family Circle, American Short Fiction, Ladies’ Home Journal, Parents và The New York Times Magazine. Nhiều truyện của ông được chọn như là Truyện ngắn Xuất sắc của Năm trong The Best American Short Stories. Ông cũng là thành viên của các Chương trình Viết văn Liên kết. Hiện nay ông là Giáo sư và Giám đốc của Chương trình Viết Sáng tạo tại Đại học Bang Florida ở Tallahassee, Florida. *** Vào một chiều xuân lạnh, thứ hai năm 1955, Michael Corleone gọi Nick Geraci về gặp ông ở Brooklyn. Khi Ông Trùm mới bước vào ngôi nhà của người cha quá cố ở Long Island để gọi điện thoại, hai thuộc hạ ăn mặc giống như những con khỉ dính đầy dầu mỡ đang ngồi xem sô múa rối trên truyền hình, chờ kẻ phản bội của Michael đến nộp mạng và thích thú ngắm hai đầu núm vú của cô gái tóc vàng diễn với các con rối. Michael, đơn độc, đi vào căn phòng hơi cao hơn ở một góc mà người cha quá cố vẫn thường dùng làm văn phòng. Ông ngồi sau cái bàn xoay nhỏ trước đây là bàn làm việc của Tom Hagen. Bàn giấy của tay consigliere . Michael lẽ ra đã gọi điện thoại từ nhà riêng- Kay, vợ anh và mấy đứa nhỏ sáng nay đã rời nhà để về thăm bên ngoại ở New Hampshire- ngoại trừ chuyện điện thoại nhà của ông bị nghe lén. Đường dây khác trong nhà này cũng thế. Ông hành xử theo kiểu đó để đánh lạc hướng những thính giả sỗ sàng. Nhưng cách đấu dây sáng tạo dẫn đến điện thoại nơi văn phòng này – và dây chuyền hối lộ để bảo vệ nó- đủ sức cản trở cả một đạo binh cớm. Michael quay số. Ông không có sổ ghi địa chỉ và số điện thoại mà chỉ dựa vào sự khéo tay theo thói quen để nhớ các số cần liên lạc. Ngôi nhà lặng yên. Mẹ ông đang ở Las Vegas với em gái ông, Connie, Đến tiếng chuông reng lần thứ hai thì vợ Geraci trả lời. Ông chỉ biết sơ về cô ta nhưng vẫn gọi cô bằng tên (Charlotte) và hỏi thăm mấy con gái của cô. Thường thì Michael tránh dùng điện thoại và trước nay ông chưa từng gọi đến nhà cho Geraci. Theo thông lệ thì lệnh lạc đưa ra đều được đệm qua ba lớp người truyền để bảo đảm chẳng có cái gì bị lần dấu cho đến Ông Trùm. Charlotte trả lời giọng run run đối với những câu hỏi lịch sự của Michael và đi gặp chồng. Nick Geraci đã có một ngày thật là dài. Hai con tàu chở đầy heroin, mà không chiếc nào được dự báo sẽ đến từ Sicily, cho đến tuần tới. Thế mà đêm rồi chúng lại lù lù xuất hiện, một chiếc ở New Jersey, chiếc kia ở Jacksonville. Một kẻ kém cỏi hơn có lẽ giờ này đã phải nằm hộp, nhưng Geraci đã biết cách làm cho mọi chuyện trơn tru bằng cách tự tay trao một món quà tặng tiền mặt cho Quĩ trợ cấp của Hội Hữu nghị Quốc tế Tài xế Xe tải với con số hội viên đông đảo ở Florida, và bằng cách đến thăm (với một cống phẩm tầm cỡ!) cho vị đầu lĩnh thuộc Gia đình Stracci, người kiểm soát các bến tàu ở Bắc Jersey. Đến năm giờ, Geraci mệt lữ nhưng đã về nhà ở East Islip, thảnh thơi ngồi ở vườn sau chơi trò móng ngựa với hai đứa con gái của mình. Một bộ lịch sử hai quyển về chiến tranh thời Đế chế La mã mà chàng ta vừa mới bắt đầu đọc được để gần cái ghế dựa nơi phòng riêng để nghiền ngẫm tối nay. Khi điện thoại reo, Geraci đã lai rai vài ngụm ở ly Chivas pha xô đa thứ nhì. Chàng ta đang có mấy miếng sườn kêu xèo xèo trên vĩ nướng và một cặp Dodgers/Phillies để trên chiếc radio. Charlotte, trước đó đang ở trong bếp thu gom phần còn lại của bữa ăn , đi ra đến sân trong, mang theo chiếc điện thoại với sợi dây dài , bộ mặt thất sắc. ... Mời các bạn đón đọc Bố Già Trở Lại! của tác giả Mark Winegardner.
Anh Là Ai? - Hồ Phương
Khi chiếc xe ca chở khách còn cách thành phố Z một quãng khá xa, Trẫn Mẫn đã nhìn thấy thành phố đẹp xinh ấy thấp thoáng hiện lên sau những rừng cây thưa thớt uốn lượn, kéo dài. Anh không khỏi bồi hồi. Những kỷ niệm cũ tưởng đã bị thời gian và công việc chôn vùi, nay như những ngọn lửa nhỏ cùng nhau chấp chới thức dậy. Phải, cách đây đã gần sáu năm, trong chiến dịch mùa xuân 1975, anh đã từng sống ở thành phố này ít nhất cũng được trên ba tháng với tư cách một cán bộ trong ủy ban quân quản đặc trách công tác dân vận và an ninh của một quận trong thành phố. Ba tháng ấy, chắc chắn suốt đời anh sẽ không sao quên. Đó là ba tháng ngây ngất, say sưa, tràn ngập những niềm vui. Ba tháng với vòng hoa nguyệt quế của những người chiến thắng, anh đã sống giữa tình yêu thương ngưỡng mộ và cả sùng kính tràn trề của quần chúng, nhất là tuổi trẻ. Anh vẫn còn nhớ rõ có lẽ không thiếu một gương mặt nào. Nhưng có một gương mặt đã làm cho anh khó quên hơn cả. Đó là Thùy Dương, cô nữ sinh đại học văn khoa năm thứ nhất, một đóa hoa trinh trắng và dịu dàng của thành phố. Cô học ở Sài Gòn. Khi thành phố quê hương được giải phóng, cô đã trở về và lao ngay vào phong trào thanh niên, học sinh với tất cả niềm tin tưởng, say mê. Cô luôn luôn gần gũi anh. Và dần dần anh cảm nhận thấy được một điều xiết bao xúc động: cô nữ sinh ấy đã dành cho anh những tình cảm nồng nàn hoàn toàn khác với tất cả những người cán bộ, chiến sĩ mà cô vẫn hàng ngày gặp gỡ, hoặc cộng tác. Nhưng tiếc thay, giữa lúc tất cả mọi chuyện hãy còn đang ở bước đầu e ấp, hé mở, hai người chưa kịp nói với nhau bất cứ một lời nào thì, đùng một cái, Mẫn được lệnh trở ra Bắc và được vào trường đại học. Mẫn cứ tưởng sẽ được trở về tiếp tục học ở khoa sử trường Tổng hợp, vì trước khi đi bộ đội, anh đã là sinh viên năm thứ nhất ở đó. Nhưng tổ chức lại yêu cầu anh thi vào trường An ninh quốc gia. Từ bất ngờ nọ sang bất ngờ kia, Mẫn hơi buồn, nhưng vốn là một người lính có kỷ luật, quen chịu đựng, anh đã chấp nhận hết, kể cả sau đó ít lâu vì chiều lòng mẹ, anh đã lấy vợ. Đó là một cô nữ dân quân, bạn học cũ từ thời tiểu học. Một cuộc hôn nhân hoàn toàn không bắt đầu bằng tình yêu, giống như hầu hết mọi cuộc hôn nhân xưa cũ của các lớp cha anh trước đây. Tuy vậy, trong mấy năm ở nhà trường, cũng may, anh đã tìm thấy được một niềm vui và ham thích mới: đó là cuộc chiến đấu trên mặt trận thầm lặng. Lẽ ra anh còn có thể thích hơn nếu đó là cuộc chiến đấu ở bên kia chiến tuyến. Còn đây lại là cuộc chiến đấu ở ngay trong hàng ngũ của mình. Tốt nghiệp với những lời phê khá đẹp, Mẫn đã được điều về cơ quan an ninh của quân đội… Cũng không ngờ hôm nay anh đã có dịp trở lại thành phố này. Nhưng anh hiểu: anh trở về đây lần này không phải là để tìm lại cái địa chỉ 20 đường Võ Tánh xiết bao quen thuộc, thân thương của Thùy Dương. Anh về đây cũng đúng là để đi tìm một địa chỉ, nhưng là một địa chỉ của “ma quỷ”. Mẫn trở về thành phố này hôm nay không phải vì nó đang được nổi tiếng về một thắng lợi trong việc dùng mưu phá tan và bắt gọn một tổ chức phản động khá lớn ở địa phương. Không! Mẫn về đây vì một nhiệm vụ đặc biệt… ... *** Hồ Phương là Thiếu tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam và là một nhà văn nổi tiếng, ông đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012. Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương tên thật là Nguyễn Thế Xương, sinh năm 1931 tại Hà Đông, Hà Nội.(có tài liệu ghi 1930, tại Tây Hồ (quận), Hà Nội) Hồ Phương là nhà văn trưởng thành từ "Chiến sĩ Quyết tử" của Thủ Đô sáu mươi ngày đêm khói lửa bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của cha ông, gìm chân quân xâm lược cho cả nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến. Trực tiếp tham gia nhiều chiến dịch lớn suốt những năm chống Pháp trong đội hình của Đại đoàn quân chủ lực đầu tiên của Quân đội là Đại đoàn 308, sau này là Sư đoàn Quân Tiên phong Anh hùng, từ người lính lên Chính trị viên đại đội. Hồ Phương bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tay về bộ đội từ khi mới 17 tuổi. Năm 1949 ông phụ trách một trong những tờ báo đầu tiên của Quân đội là báo Quân Tiên phong của Đại đoàn 308. Từ năm 1955 ông về Tổng cục Chính trị, là thành viên tham gia thành lập tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1957. Nhà văn Hồ Phương từng giữ chức Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1990 ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Hiện nay ông đang là chủ nhiệm hội văn nghệ sĩ Xứ Đoài. Mời các bạn đón đọc Anh Là Ai? của tác giả Hồ Phương.