Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngợi Ca Sống Chậm

Những ngày này, nền văn hoá của chúng ta dạy rằng nhanh là đúng. Và để nhanh được, chúng ta đã phải trả giá bằng tất cả: công việc, ăn uống, sức khoẻ, các mối quan hệ và đời sống dục tình của chúng ta. Cuốn sách kỳ diệu của Carl Honoré đã thách thức sự tôn thờ tốc độ bằng cách chứng minh: Sống chậm mới là thời thượng. Sống lành mạnh hơn trong một thế giới hiện đại cuồng nộ, tạo lập sự cân bằng nhanh và chậm, điều độ, tự chủ và minh triết. Những điều tra đầy hứng thú của Honoré soi sáng phương thức mới mẻ để sống trọn vẹn đời ta một cách viên mãn, hiệu quả, trong triết lý sâu sa của chậm. " Hãy đọc cuốn sách này mỗi ngày một chương - để thông điệp mang tính đột phá của nó ngấm vào trong bạn, hoàn toàn thay đổi cuộc đời bạn " Bill Mackibben, tác giả của The End of Nature " Cuốn sách này đã phản kháng một cách đầy thuyết phục với lối sống gấp vô tình và đưa ra những gợi ý thật cụ thể, hấp dẫn về những cách thức để kéo dài khoảnh khắc sống " Los Angeles Times " Truyền cảm hứng gấp triệu lần bất kỳ cuốn sách nào về đổi thay lối  sống..." Sunday Express *** Nhà tâm lý học và triết gia người Mỹ William James từng nói: “Cuộc đời có đáng sống không? Tất cả phụ thuộc vào người sống nó.” Bạn có đáp án cho câu hỏi này rồi chứ? Nếu để ý bạn sẽ thấy cuộc sống giống như cầu vồng bảy sắc vậy, nhiều màu sắc rực rỡ nhưng cũng không thiếu những mảng màu u ám. Khi thì bạn muốn giang tay ôm cuộc sống này thật chặt, lúc khác bạn lại muốn vùi nó xuống tận đất sâu. Đôi khi bạn cảm thấy mệt mỏi với những kế hoạch nối tiếp thất bại, nhưng có lúc bạn lại háo hức bắt tay vào những dự định mới mẻ. Đôi khi bạn chỉ muốn chạy trốn khi công việc và cuộc sống chồng chất những phiền phức, nhưng có lúc bạn lại thấy bận rộn đem đến sự tự tin và năng động. Đôi khi bạn chỉ biết ngồi than thân trách phận vì cuộc đời mình sao hẩm hiu đến vậy, nhưng có lúc bạn lại ngạc nhiên với sự cứng rắn và mạnh mẽ của chính mình. Dù cuộc sống có thế nào, bạn vẫn phải lựa chọn một phương thức sống và sống đến tận cùng. Sống chậm lại, rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi sẽ giúp bạn làm điều đó. Cuốn sách không kỳ vọng mang đến cho bạn những cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, nó chỉ giúp tâm hồn bạn bớt chông chênh hơn khi sợ hãi và chán ghét cuộc sống mà thôi. Cuốn sách là những bài viết nhỏ, dưới cái nhìn của cô gái trẻ mới bước ra từ cuộc sống sinh viên và chân ướt chân ráo thành nhân viên văn phòng. Những trải nghiệm chưa đủ nhiều và chưa thật sâu sắc nhưng rất gần gũi với các bạn trẻ. Những điều mà tác giả viết ra không giống như những câu chuyện hạt giống tâm hồn bay bổng, nó chân chất như những cuộc “tám” chuyện giữa các bạn trẻ với nhau. Bạn sẽ tìm thấy điểm tựa trước những tình huống như làm sao để thoát khỏi nỗi sợ hãi, làm sao đối diện với sự thay đổi, xác định mục đích sống cho mình như thế nào… Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn cảm thấy cuộc đời lạc quan và tươi mới hơn. *** Con người sinh ra rồi kết hôn, sống rồi chết, đều ở giữa vòng náo loạn điên cuồng đến mức bạn tưởng như họ sẽ phát điên. WILLIAM DEAN HOWELLS, 1907. Vào một buổi trưa chan hòa ánh nắng hè năm 1985, chuyến du lịch châu Âu thời niên thiếu của tôi tới chặng dừng trên một quảng trường ở ngoại ô Rome. Chuyến xe buýt quay về thành phố đã chậm hai mươi phút và vẫn chưa thấy bóng dáng đâu. Tuy vậy, sự chậm trễ chẳng làm tôi phiền lòng. Thay vì đi đi lại lại trên vỉa hè hoặc gọi điện cho công ty xe buýt để phàn nàn, tôi mở máy nghe Walkman, rồi ngả người trên ghế băng, lắng nghe Simon và Garfunkel hát về nỗi hân hoan được chậm rãi và làm cho thời khắc kéo dài. Từng chi tiết của quang cảnh ấy đã in sâu trong ký ức tôi: hai chú nhóc đá bóng quanh đài phun nước thời Trung cổ; những cành cây lòa xòa quệt trên nóc bức tường bằng đá; một quả phụ già nua xách túi rau về nhà. Mười lăm năm thoắt trôi qua, mọi sự đều đã thay đổi. Khung cảnh giờ chuyển thành sân bay Fiumicino nhộn nhịp của thành Rome và tôi là một phóng viên nước ngoài đang vội vã bắt chuyến bay về nhà ở Luân Đôn. Thay vì thư thái lấy chân đá sỏi cuội trên đường, tôi lao vội qua phòng chờ khởi hành, thầm nguyền rủa những ai cắt ngang đường mà lại đi chậm hơn. Đáng lẽ nghe dân ca từ chiếc Walkman rẻ tiền, tôi lại nói chuyện bằng điện thoại di động với một biên tập viên cách xa hàng ngàn cây số. Bên cửa lên máy bay, tôi nhập vào cuối một hàng người dài dằng dặc, ở đấy chẳng có việc gì để làm ngoại trừ, đúng vậy, việc không làm gì cả. Duy có điều tôi không chịu được cảnh không làm gì cả ấy nữa. Để chờ đợi cho hữu ích, cũng là để bớt sốt ruột, tôi đọc lướt một tờ báo. Chính lúc đó, mắt tôi bắt gặp một bài viết sau này gợi cho tôi cảm hứng viết cuốn sách về sự chậm rãi. Những dòng chữ bắt tôi dừng lại giữa đường ấy là: “Chuyện kể một phút trước giờ đi ngủ.” Giúp các bậc cha mẹ thu xếp ổn thỏa với bọn trẻ mất-thời-giờ, nhiều tác giả đã rút gọn các câu chuyện cổ kinh điển thành những mẩu hoàn chỉnh mất đúng sáu mươi giây. Hãy thử tưởng tượng Hans Christian Andersen mà bắt gặp những mẩu tóm tắt lỗi lạc này thì sẽ ra sao. Phản ứng đầu tiên của tôi là reo lên Eureka! Khoảng thời gian này tôi thường bị kẹt vào một cuộc-chiến-buổi-tối-gay-go với cậu con trai hai tuổi, cháu rất thích những câu chuyện dài đọc bằng giọng trầm bổng êm tai. Tuy vậy, mỗi buổi tối tôi lái cháu sang những chuyện cực ngắn và đọc thật nhanh. Chúng tôi thường cãi cọ. Cháu kêu: “Bố đọc nhanh quá.” Hoặc, trong khi tôi đi ra cửa, “Con muốn chuyện nữa cơ!” Một phần trong con người tôi cảm thấy cực kỳ ích kỷ khi làm qua quít thủ tục trước giờ đi ngủ, nhưng phần kia đơn giản không sao cưỡng nổi mong muốn mau mau chuyển sang các mục còn lại trong thời gian biểu của bản thân – nào là bữa tối, thư điện tử, đọc báo chí, hóa đơn thanh toán, thêm chút ít công việc cơ quan, phần điểm tin quen thuộc trên truyền hình. Làm một cuộc dạo chơi dài dòng, lê thê qua thế giới của Tiến sĩ Seuss[1]không phải là một chọn lựa. Nó quá chậm chạp. Vì vậy, thoạt nhìn, loạt truyện Một-phút-trước-giờ-đi-ngủ nghe ra tuyệt vời đến khó tin là thật. Đọc một mạch sáu hay bảy “truyện”, chỉ mất chưa tới mười phút – còn gì có thể tốt hơn? Tiếp đó, khi tôi bắt đầu tự hỏi liệu Amazon có thể giao cho tôi cả bộ sách ấy chóng đến độ nào, lập tức cảm giác ăn năn xuất hiện dưới dạng một câu hỏi vặn: phải chăng tôi đã hoàn toàn mất trí? Lúc hàng người rồng rắn tiến đến cửa soát vé cuối cùng, tôi cất tờ báo và bắt đầu suy nghĩ. Toàn bộ cuộc sống của tôi té ra là một cuộc tập luyện trong vội vã, trong dồn nén ngày càng nhiều vào từng giờ. Tôi là một kẻ keo cú kè kè chiếc đồng hồ bấm giờ, bị ám ảnh phải tiết kiệm từng khoảnh khắc thời gian, ở chỗ này một phút, ở chỗ kia vài giây. Và tôi không đơn độc. Mọi người quanh tôi – đồng nghiệp, bạn bè, gia đình – đều bị cuốn vào vòng xoáy ấy. Năm 1982, Larry Dossey, một bác sĩ người Mỹ, đã đặt ra thuật ngữ “căn bệnh thời gian” để mô tả một tín điều ám ảnh là “thời gian đang trôi đi, không còn đủ thời gian, và bạn phải nhanh hơn, nhanh hơn nữa mới hòng bắt kịp.” Những ngày này, cả thế giới mắc bệnh thời gian. Tất cả chúng ta đều thuộc cùng một giáo phái tôn sùng tốc độ. Đứng trong hàng người chờ chuyến bay trở về nhà ở Luân Đôn ấy, tôi bắt đầu vật lộn với những câu hỏi nằm ở tâm điểm cuốn sách này: Vì sao chúng ta luôn vội vã như vậy? Đâu là phương thuốc cho căn bệnh thời gian? Liệu có thể, hoặc thậm chí có nên ao ước, chậm lại chăng? Trong những năm đầu của thế kỷ hai mươi mốt này, mọi người mọi vật đều chịu sức ép phải khẩn trương hơn. Cách đây không lâu, Klaus Schwab, người sáng lập đồng thời là Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đã giải thích rõ nhu cầu tăng tốc bằng những từ ngữ trần trụi sau đây: “Chúng ta đang chuyển từ thế giới cá lớn nuốt cá bé sang thế giới nhanh nuốt chậm.” Lời cảnh báo ấy vang xa tới tận bên kia thế giới thương mại kiểu Darwin. Trong thời đại bận rộn hối hả này, mọi thứ là cuộc chạy đua với chiếc đồng hồ. Guy Claxton, nhà tâm lý học Anh, cho rằng tăng tốc là bản năng thứ hai của con người: “Chúng ta mới phát triển một tâm lý nội tại là tốc độ, tiết kiệm thời gian và tối đa hóa hiệu quả, tâm lý ấy đang mạnh lên từng ngày.” Nhưng giờ đây, đã đến lúc phải thách thức nỗi ám ảnh của chúng ta rằng làm gì cũng phải nhanh hơn. Tốc độ không phải lúc nào cũng là cách tối ưu. Quá trình tiến hóa tuân theo nguyên lý thích nghi nhất thì tồn tại, chứ không phải là nhanh nhất. Hãy nhớ ai đã thắng trong cuộc đua giữa rùa và thỏ. Trong khi chúng ta hối hả sống, nhồi nhét nhiều hơn cho từng giờ, chúng ta đang tự căng mình đến điểm tới hạn. Tuy vậy, trước khi đi sâu hơn, cũng xin nói rõ một điều: cuốn sách này không phải là lời tuyên chiến chống lại tốc độ. Tốc độ đã giúp tái tạo thế giới chúng ta theo những cách kỳ diệu và tự do. Liệu có ai muốn sống thiếu Internet và đi lại bằng máy bay phản lực? Vấn đề là tình yêu tốc độ của chúng ta, nỗi ám ảnh của chúng ta muốn sản xuất được ngày càng nhiều trong thời gian ngày càng ít đã trở nên thái quá, đã thành cơn nghiện, thành sự sùng bái. Thậm chí khi tốc độ bắt đầu phản pháo, chúng ta vẫn viện tới tín điều phải-gấp-gáp-hơn. Rớt dài trong công việc ư? Hãy đăng ký một kết nối Internet nhanh hơn. Không có thì giờ cho cuốn tiểu thuyết mua dịp Giáng sinh ư? Học cách đọc nhanh hơn. Chế độ ăn kiêng không tác dụng? Thử hút mỡ. Quá bận rộn không kịp nấu ăn? Hãy mua lò vi sóng. Tuy vậy vẫn có một số việc không thể, và không nên, tăng tốc. Chúng cần thì giờ; chúng cần sự chậm rãi. Khi bạn tăng tốc những gì không nên tăng tốc, khi bạn quên cách chậm lại, bạn sẽ phải trả giá. Trường hợp phản tốc độ khởi đầu từ nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản hiện đại sản sinh nền thịnh vượng khác thường, nhưng cái giá phải trả là tàn phá các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhanh quá mức Mẹ Thiên nhiên có thể tái tạo. Hàng ngàn dặm vuông rừng mưa Amazon bị đốn chặt hàng năm, trong khi sự đánh bắt vô độ bằng lưới quét đã đưa giống cá tầm, cá mú Chilê và nhiều loài cá khác vào danh sách nguy cơ tuyệt chủng. Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh quá mức, ngay cả vì lợi ích của chính nó, khi áp lực phải tới đích đầu tiên chừa lại quá ít thời gian cho khâu kiểm tra chất lượng. Hãy quan sát ngành công nghiệp máy tính. Trong những năm gần đây các nhà sản xuất phần mềm bắt đầu có thói quen hối hả tung ra thị trường các sản phẩm trước khi cho thử nghiệm đầy đủ. Kết quả là một nạn dịch sự cố, lỗi phần mềm rồi trục trặc phần cứng gây thiệt hại cho các công ty mỗi năm hàng tỉ đô la. Tiếp đó là vấn đề chi phí nhân lực trong chủ nghĩa tư bản-tăng tốc. Vào những ngày này, chúng ta tồn tại để phục vụ cho nền kinh tế chứ không phải vì cái gì khác. Nhiều giờ liên miên trong công việc làm chúng ta mất hiệu năng, dễ nhầm lẫn, không vui vẻ và phát ốm. Phòng mạch đông chật những người mắc các chứng do stress gây ra: mất ngủ, đau nửa đầu, cao huyết áp, hen suyễn và rối loạn tiêu hóa. Cung cách lao động hiện nay cũng xói mòn tinh thần lành mạnh của chúng ta. Một hướng dẫn viên đời sống làm việc tại Luân Đôn nói: “Kiệt lực là bệnh ta gặp chủ yếu ở những người ngoài tuổi bốn mươi. Hiện giờ, theo tôi quan sát, cả nam giới lẫn phụ nữ trạc tuổi ba mươi, thậm chí hai mươi tuổi, cũng hoàn toàn kiệt lực.” Cung cách làm việc đúng đắn, vốn dĩ có thể lành mạnh trong điều độ, đang dần dần vuột khỏi tầm tay. Hãy xem xét tình trạng “ngại đi nghỉ” tràn lan, ác cảm với việc có một ngày nghỉ thực thụ. Trong một điều tra ủa Reed trên năm ngàn công nhân Anh, 60% nói họ sẽ không dùng hết phép trong năm 2003. Trung bình, người Mỹ bỏ quên đến một phần năm số thời nghỉ có đài thọ. Thậm chí ốm đau cũng không còn níu được người lao động hiện đại xa rời nhiệm sở; cứ năm người Mỹ thì có một người gượng dậy đi làm trong khi đáng ra nên yên vị trên giường hay đi khám bác sĩ. Để có thể hình dung viễn cảnh đáng sợ về hậu quả mà hành vi này gây ra, hãy đừng nhìn đâu xa hơn nước Nhật, nơi người dân bản xứ có một từ - karoshi – vốn có nghĩa “chết vì lao lực.” Một trong những nạn nhân nổi tiếng nhất của karoshi là Kamei Shuji, một nhân viên môi giới nhiều tham vọng thường đều đặn làm việc chín mươi giờ một tuần trong suốt thời kỳ bùng nổ thị trường chứng khoán Nhật Bản những năm cuối thập kỷ tám mươi. Công ty nơi anh làm việc đã tuyên truyền rùm beng về khả năng chịu đựng siêu phàm của anh trong các bản tin, các cẩm nang đào tạo nghề, biến anh thành chuẩn mực vàng cho tất cả các nhân viên noi theo. Trong một phá bỏ nghi thức, việc hiếm khi xảy ra ở Nhật, người ta yêu cầu Shuji huấn luyện cho các đồn nghiệp lão làng về nghệ thuật bán hàng, điều chồng chất thêm stress lên đôi vai đơn độc của anh. Khi quả bong bóng chứng khoán Nhật Bản nổ tung năm 1989, Shuji thậm chí còn làm việc nhiều giờ hơn để cứu vãn kinh doanh ế ẩm. Năm 1990, anh đột tử do một cơn đau tim. Anh lúc ấy mới hai mươi sáu tuổi. Dầu một số người nêu Shuji ra như câu chuyện cảnh báo, song cung cách làm-việc-chí-chết vẫn ăn sâu bám rễ ở Nhật. Năm 2001, chính phủ báo cáo kỷ lục 143 nạn nhân karoshi. Những người chỉ trích nêu con số người chết hàng năm do lao động quá sức ở Nhật Bản lên tới hàng ngàn. Tuy vậy, từ trước khi có karoshi dự phần, lực lượng lao động đã kiệt quệ lắm rồi. Hội đồng An toàn Quốc gia ước tính stress trong công việc khiến mỗi ngày hàng triệu người Mỹ chểnh mảng công việc, tiêu hao của nền kinh tế mỗi năm trên 150 tỷ đô la. Năm 2003, stress thay cho bệnh đau lưng trở thành nguyên nhân hàng đầu gây ra nạn vắng mặt không lý do chính đáng ở Anh. Lao động quá sức còn nguy hiểm cho sức khỏe xét về nhiều phương diện khác. Nó chừa quá ít thời gian và sức lực cho rèn luyện thân thể, khiến chúng ta thích uống quá nhiều cồn hoặc dùng những đồ ăn tiện lợi. Không phải ngẫu nhiên các nước nhanh nhất thường là béo nhất. Có tới môt phần ba người Mỹ và một phần năm người Anh hiện nay mắc chứng béo phì bệnh lý. Thậm chí Nhật Bản cũng đang có tình trạng tăng cân. Năm 2002, điều tra dinh dưỡng toàn quốc cho thấy một phần ba đàn ông Nhật trên ba mươi tuổi bị béo phì. Để duy trì nhịp độ với thế giới hiện đại, để tăng tốc, nhiều người, ngoài cà phê, còn tìm đến các chất kích thích công hiệu hơn. Côcain vẫn là liều thuốc bổ trợ ưa thích trong giới chuyên nghiệp văn phòng, song amphêtamin, còn có tên gọi khác là “tốc độ”, đang nhanh chóng đuổi kịp. Sử dụng chất kích thích tại công sở Mỹ tăng đột biến 70% kể từ năm 1998. Nhiều nhân viên ủng hộ loại mêthaphêtamin tinh thể, giải phóng mãnh liệt trạng thái hưng phấn và tỉnh táo, kéo dài gần như cả ngày làm việc. Nó cũng tránh cho người sử dụng cảnh ba hoa đáng xấu hổ thường là tác dụng phụ của loại bạch phiến hít. Vấn đề là ở chỗ các dạng ma túy công hiệu thuần tốc độ dễ gây nghiện hơn heroin, kết quả sau một lần hút có thể gây ra suy nhược, kích động và hành vi bạo lực. Một lý do khiến chúng ta cần chất kích thích là vì nhiều người ngủ không đẫy giấc. Làm việc nhiều như thế, lại có ít thời gian như vậy, ngày nay trung bình người Mỹ mỗi đêm ngủ ít hơn một thế kỷ trước chín mươi phút. Nam Âu, mảnh đất thiêng của la dolce vita (cuộc sống nhàn dật), giấc ngủ trưa đã nhường chỗ cho công việc theo giờ hành chính: chỉ có bảy phần trăm người Tây Ban Nha còn chợp mắt sau bữa ăn trưa. Ngủ không đủ có thể tổn hại đến hệ tim mạch, hệ miễn dịch, sinh ra bệnh tiểu đường, bệnh tim, gây khó tiêu, cáu bẳn và trầm cảm. Mỗi đêm ngủ ít hơn sáu tiếng có thể làm suy yếu điều phối của hệ thần kinh vận động, ngôn ngữ, phản xạ và óc xét đoán. Sự mệt nhọc dự phần vào một vài trong số những thảm họa tồi tệ nhất của kỷ nguyên hiện đại: Chernobyl[2], Exxon Valdez[3], Three Mile Island[4], Union Carbide[5] và tàu con thoi Challenger[6]. Buồn ngủ gây ra nhiều vụ đụng xe hơi hơn uống rượu. Trong một cuộc thăm dò dư luận mới đây của Viện Gallup, 11% tài xế Anh thừa nhận từng ngủ gật trên vô lăng. Một nghiên cứu của Ủy ban Quốc gia Mỹ về Rối loạn Giấc ngủ quy tội một nửa tai nạn xe cộ là do mệt nhọc. Gộp tất cả với xu hướng say mê tốc độ, kết quả là thảm cảnh trên đường. Tai nạn xe cộ hiện đứng ở mức 1,3 triệu vụ/năm trên toàn thế giới, hơn gấp đôi so với năm 1990. Mặc dù, ở những nước phát triển, các quy chuẩn an toàn đã giúp giảm bớt con số tử vong, Liên hiệp quốc dự báo rằng đến năm 2020 giao thông đi lại sẽ là nguyên nhân gây tử vong lớn thứ ba trên thế giới. Ngay lúc này, mỗi năm có trên bốn chục ngàn người chết và một triệu sáu người bị thương dọc các tuyến đường bộ châu Âu. Sự nôn nóng của chúng ta khiến ngay cả vui chơi giải trí cũng trở nên nguy hiểm hơn. Mỗi năm, hàng triệu người trên thế giới khốn khổ vì thương tật liên-quan-đến-thể-dục-thể-thao. Đa phần bởi thúc ép cơ thể quá mạnh, quá nhanh, quá sớm. Ngay cả yoga cũng không miễn nhiễm. Một người bạn của tôi mới đây bị sái cổ do luyện yoga trước khi cơ thể của cô sẵn sàng. Nhiều người khác còn gặp phải những tai nạn trầm trọng hơn. Ở Boston, bang Massachusetts, một giáo viên thiếu kiên nhẫn đã làm vỡ xương chậu một nữ sinh khi ép em này vào tư thế xoạc. Một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi hiện giờ bị liệt vĩnh viễn một mảng cơ đùi phải sau khi giãn dây thần kinh xúc giác trong buổi luyện yoga tại một phòng tập thời thượng quận Manhattan. Điều không tránh khỏi là một cuộc sống vội vã có thể trở nên hời hợt. Khi vội vàng, chúng ta qua quýt bề ngoài, không thiết lập được mối ràng buộc thực sự với thế giới và những người xung quanh. Như Milan Kundera đã viết trong tiểu thuyết ngắn Chậm rãi (1996) của ông: “Khi mọi việc xảy ra quá nhanh, chẳng ai có thể chắc chắn về bất cứ điều gì, bất cứ điều gì hết, ngay cả về chính bản thân mình.” Tất cả những gì ràng buộc chúng ta lại với nhau và làm cho cuộc sống đáng sống – cộng đồng, gia đình, bè bạn – phát triển trên một nền tảng không bao giờ có đủ: thời gian. Trong một cuộc thăm dò dư uận gần đây của hãng ICM, phân nửa số người Anh trưởng thành than thở thời gian biểu dồn dập làm cho họ mất hết liên lạc với bạn bè. Hãy xem xét tác hại do sống trong làn cao tốc gây ra cho đời sống gia đình. Với ai nấy đi đi về về, những mẩu giấy dán trên cánh tủ lạnh hiện là hình thức thông tin chủ yếu của nhiều gia đình. Theo con số do chính phủ Anh công bố, trung bình các bậc phụ huynh đang làm việc dành thời gian xử lý thư điện tử gấp đôi thời gian chơi cùng con cái. Ở Nhật Bản, các ông bố bà mẹ ngày nay gửi con vào những trung tâm giữ trẻ hai-mươi-bốn-giờ-liền. Khắp thế giới công nghiệp, trẻ em rời trường trở về căn nhà trống trải nơi chẳng có ai lắng nghe những câu chuyện, những tâm tư, thành tích học tập cùng bao nỗi sợ hãi của chúng. Trong một cuộc thăm dò ý kiến thanh thiếu niên Mỹ do tạp chí Newsweek thực hiện năm 2000, 73% nói các bậc cha mẹ dành quá ít thời giờ cho con cái họ. Có lẽ lũ trẻ là khổ sở nhất vì chứng cuồng tăng tốc. Chúng cũng đang lớn lên nhanh hơn bao giờ hết. Nhiều trẻ em ngày nay bận bịu không kém gì cha mẹ, cố gắng sắp xếp sổ ghi nhớ vốn bị nhồi nhét đủ thứ từ phụ đạo sau-giờ-lên-lớp đến những bài học dương cầm và tập bóng đá. Một bức biếm họa mới đây đã nói lên tất cả: hai cháu gái nhỏ đứng ở bến xe buýt của nhà trường, trong tay mỗi cháu có thời gian biểu cá nhân. Cháu này nói với cháu kia: “Được rồi, tớ sẽ lùi môn ba lê lại một giờ, thay lịch tập thể dục, hoãn cả học dương cầm… còn cậu chuyển giờ học viôlông sang thứ Năm và bỏ buổi tập bóng đi… như vậy chúng mình sẽ rảnh từ 3h15’ đến 3h45’ thứ Tư ngày 16 để đi chơi.” Sống như những người trưởng thành đầy đủ năng lực chẳng còn đâu thời giờ cho những thú vui làm nên thời thơ ấu: tán gẫu với bạn bè, chơi đùa không có sự giám sát của người lớn, mơ mộng vẩn vơ. Nó cũng gây hại cho sức khỏe, bởi trẻ em ít có khả năng chống chọi với chứng mất ngủ và stress, là cái giá phải trả cho lối sống hối hả. Các bác sĩ tâm lý chuyên điều trị chứng lo âu ở trẻ vị thành niên nhận thấy ngày nay các phòng chờ chật kín trẻ em mới năm tuổi đã khổ sở vì đau dạ dày, đau đầu, mất ngủ, suy nhược và rối loạn tiêu hóa. Tại nhiều nước công nghiệp, số vụ thanh thiếu niên tự tử gia tăng. Và chẳng có gì là lạ, nếu xét tới gánh nặng nhiều trẻ em phải đương đầu ở trường. Năm 2002, Louise Kitching, một thiếu nữ Anh mười bảy tuổi ở Lincolnshire đã nức nở bỏ chạy khỏi phòng thi. Em học sinh xuất sắc này sắp viết bài thi thứ năm trong ngày, mà chỉ được nghỉ giải lao mười phút giữa giờ. Nếu chúng ta tiếp tục nhịp độ kể trên, nạn sùng bái tốc độ sẽ chỉ càng trở nên tồi tệ. Khi người người lựa chọn sống nhanh, lợi thế của sống nhanh sẽ mất, buộc chúng ta phải sống nhanh hơn nữa. Cuối cùng, còn lại cho chúng ta là một cuộc chạy đua vũ trang trên nền tốc độ, mà chúng ta đều biết cuộc chạy đua vũ trang kiểu ấy rồi sẽ kết thúc ở đâu: trong thế bí tàn nhẫn của Sự Hủy Diệt-Lẫn nhau-Chắc chắn. Nhiều thứ đã bị hủy hoại. Chúng ta đã quên mất csach hân hoan chờ đợi sự việc, cả cái cách tận hưởng giây phút thành tựu. Các nhà hàng cho biết những thực khách vội vã ngày càng thích vừa thanh toán hóa đơn và gọi taxi vừa ăn tráng miệng. Nhiều người hâm mộ rời các sự kiện thể thao thật sớm, chẳng kể đến tỉ số sít sao, chỉ vì muốn tranh thủ giành đường. Tiếp đến là tai họa của tội ôm đồm nhiều việc cùng một lúc. Làm hai việc đồng thời xem ra có vẻ hết sức thông minh, hết sức hiệu quả, hết sức hiện đại. Song thông thường cái đáng nói là cả hai việc đều không được tốt. Giống nhiều người khác, tôi đọc báo trong lúc xem tivi – rốt cuộc thấy mình tiếp thu cả hai kém hẳn. Trong thời đại của no-đủ-thông-tin, dồi-dào-dữ-liệu, lướt-kênh-truyền-hình, chơi-game-máy-tính, chúng ta đã đánh mất nghệ thuật tiêu khiển để chậm lại và ngồi một mình với những suy nghĩ của riêng mình. Sự buồn chán – danh từ tự nó khó lòng tồn tại 150 năm trước – lại là một phát minh hiện đại. Mất hết mọi cảm giác phấn hứng, chúng ta bồn chồn, hoang mang, trông chờ điều gì đó, bất kể điều gì, ngõ hầu tận dụng hết thời gian. Lần cuối cùng bạn thấy ai đó chỉ ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ toa tàu là khi nào vậy? Tất cả mọi người đều quá bận đọc báo, chơi game hình, nghe iPod, làm việc trên máy tính xách tay, càu nhàu vào điện thoại di động. Thay vì suy nghĩ cặn kẽ, hoặc để cho một ý tưởng nung nấu tận đáy lòng, ngày nay bản năng của chúng ta là chộp lấy miếng ngon gần nhất. Trong chiến tranh hiện đại, các phóng viên thực địa và bình luận viên tại trường quay tung ra hàng lô phân tích tức thời những sự kiện vừa mới xảy ra. Thông thường nhận định của họ té ra là nhầm lẫn. Song những ngày này chuyện đó chẳng hề gì: trên mảnh đất của tốc độ, ai phản ứng tức thời sẽ làm vua. Cùng với việc sử dụng vệ tinh và các kênh thông tin hai mươi bốn giờ liên tục, truyền thông đại chúng điện tử bị chi phối bởi nhân dạng mà một nhà xã hội học người Pháp gán cho cái tên “nhà tư duy nhanh nhạy” – người không để lỡ nhịp có thể gọi ra câu trả lời liến thoắng cho bất cứ câu hỏi nào. Về một phương diện nào đó, ngày nay tất cả chúng ta đều là những nhà tư duy nhanh nhạy. Sự nôn nóng của chúng ta không thể nguôi dịu đến mức, như nữ nghệ sĩ-tác gia Carrie Fisher châm biếm, ngay “hài lòng tức thời cũng quá mất thì giờ.” Điều này phần nào lý giải tâm trạng phẫn nộ kinh nghiệm sôi sục ngay bên dưới bề mặt cuộc sống hiện đại. Bất kỳ ai, hoặc bất cứ thứ gì bước vào con đường chúng ta đi, khiến chúng ta chậm lại, ngăn chúng ta đạt được đúng thứ mình cần khi mình muốn, đều trở thành địch thủ. Vì vậy, thụt lùi dù nhỏ nhất, trì hoãn dù chớp nhoáng nhất, một thoáng chậm trễ chẳng đáng kể chút nào, ngày nay cũng có thể gây ra xung nộ vỡ-mạch-mà-chết ở những người lúc khác rất bình thường. Những bằng chứng kiểu giai thoại nhan nhản khắp mọi nơi. Tại Los Angeles, một người đàn ông gây sự đánh nhau ngay tại quầy thu tiền của siêu thị chỉ vì khách hàng đằng trước ông ta gói buộc hàng quá lâu. Một phụ nữ cào xước sơn chiếc ô tô đụng phải bà ta trong bãi đỗ xe ở Luân Đôn. Ủy viên quản trị một công ty lao bổ vào tiếp viên hàng không khi chuyến bay của ông này buộc phải lượn vòng phi trường Heathrow thêm hai mươi phút trước khi hạ cánh. “Tôi muốn hạ cánh ngay bây giờ!” Ông ta quát to, hệt một đứa trẻ hay quấy nhiễu: “Bây giờ, bây giờ, bây giờ!” Một chiếc xe giao hàng dừng bên ngoài nhà hàng xóm của tôi, buộc xe cộ phía sau phải đợi trong khi anh tài xế dỡ một chiếc bàn con. Chỉ trong phút chốc, nữ doanh nhân trạc tứ tuần trong chiếc xe đầu tiên đập ghế thình thình, tay khua khoắng, đầu lắc tới lắc lui. Tiếng rền rĩ khàn khàn từ yết hầu vuột ra cửa xe để ngỏ. Giống một cảnh trong bộ phim Người trừ tà[7]. Cho rằng cô ta lên cơn động kinh, tôi chạy xuống dưới nhà toan giúp đỡ. Nhưng lúc tôi đến vỉa hè, thì hóa ra cô chỉ cáu bẳn vì tắc đường. Cô nhoài người ra ngoài cửa xe, gào lên với không ai cụ thể. “Anh mà không rời cái xe tải chết tiệt ấy di, tôi sẽ giết chết anh.” Người giao hàng nhún vai tỏ vẻ đã quen chứng kiến cảnh ấy, đoạn trượt vào sau vô lăng và lái xe đi. Tôi mở lời định khuyên Cô To Mồm nguôi giận, nhưng lời nói của tôi chìm nghỉm trong tiếng lốp xe của cô ta xiết trên lớp đường nhựa. Đây là đích đến cho nỗi ám ảnh của chúng ta với sự nhanh và tiết kiệm thời gian. Giận dữ đường bộ, cáu kỉnh đường không, tức tối khi mua bán, bực bội trong quan hệ, khó chịu ở văn phòng, tức giận trong kỳ nghỉ và rồ dại trong phòng tập. Nhờ ơn tốc độ, chúng ta sống trong thời đại của sự rồ dại. Sau lần giác ngộ bất ngờ với câu-chuyện-trước-giờ-đi-ngủ tại phi trường thành Rome, tôi quay trở về Luân Đôn với một sứ mệnh: tìm hiểu cái giá của tốc độ và triển vọng chậm lại trong một thế giới bị ám ảnh phải ngày một nhanh hơn. Tất cả chúng ta đều than phiền về các kế hoạch làm việc điên rồ, nhưng liệu đã có ai thực sự làm gì chống lại nó hay chưa? Có, ấy thế mà có. Trong lúc phần còn lại của thế giới tiếp tục rú ga om sòm, một thiểu số đáng kể ngày càng tăng đang lựa chọn không làm gì ở công suất tối đa. Trong mỗi một nỗ lực con người bạn có thể nghĩ tới, từ tình dục, lao động, rèn luyện thân thể đến ăn uống, chữa bệnh, thiết kế đô thị, những nổi loạn này đang làm điều không tưởng – chúng đang dọn chỗ cho sự chậm rãi. Và tin tức tốt lành chính là nhiều việc đang dần giảm tốc. Bất chấp những lời cằn nhằn bất mãn kiểu Cassadran[8] từ giới doanh nhân yêu tốc độ, chậm hơn lại thường có nghĩa tốt hơn – sức khỏe dồi dào hơn, lao động hiệu quả hơn, kinh doanh thành công hơn, cuộc sống gia đình êm đẹp hơn, tập luyện dẻo dai hơn, nấu nướng ngon hơn và tình dục hạnh phúc hơn. Trước đây chúng ta đã từng như vậy. Vào thế kỷ mười chín, dân chúng đã cưỡng lại sức ép tăng tốc theo những cách quen thuộc với chúng ta ngày nay. Các nghiệp đoàn đòi thêm nhiều giờ giải trí. Cư dân thành thị bị stress tìm nơi trú ẩn và phục hồi sức khỏe ở chốn thôn quê. Các họa sĩ và nhà thơ, nhà văn và thợ thủ công tìm kiếm nhiều cách hòng bảo tồn giá trị thẩm mỹ của sự chậm rãi trong thời đại máy móc. Tuy vậy, ngày nay, phản ứng dữ dội với tốc độ đang chuyển sang xu hướng chủ đạo khẩn cấp hơn bao giờ hết. Mệt mỏi tận gốc rễ, trong các nhà bếp, nơi công sở, phòng hòa nhạc, nhà máy, phòng tập thể dục, phòng ngủ, nhà hàng xóm, phòng trưng bày nghệ thuật, bệnh viện, trung tâm giải trí và trường học gần nhà bạn, ngày càng có nhiều người không chịu chấp nhận mệnh lệnh vô lý nhanh hơn luôn luôn là tốt hơn. Và trong nhiều hành động giảm tốc đa dạng của họ ẩn chứa mầm mống của Phong trào Chậm Toàn Cầu. Giờ là lúc phải định nghĩa thuật ngữ của chúng ta. Trong cuốn sách này, Nhanh và Chậm hàm ý rộng hơn nhiều, chứ không chỉ miêu tả sự thay đổi tốc độ đơn thuần. Chúng chính là giản lược về cách sinh tồn, hoặc triết lý sống. Nhanh là bận rộn, kiểm soát, xông xáo, vội vàng, phân tích nhanh nhạy, stress, hời hợt, nôn nóng, tích cực chủ động, số-lượng-trên-chất-lượng. Chậm có nghĩa ngược lại: thư thái, cẩn trọng, tiếp thu, điềm tĩnh, trực giác, không vội vàng, kiên nhẫn, suy nghĩ thấu đáo, chất-lượng-trên-số-lượng. Tức là tạo lập những kết nối thực sự và có ý nghĩa – với con người, văn hóa, công việc, dinh dưỡng và mọi thứ. Nghich lý là ở chỗ Chậm không phải lúc nào cũng có nghĩa là chậm. Như chúng ta sẽ tìm hiểu, thực hiện một nhiệm vụ theo cách Chậm thường mang lại kết quả nhanh hơn. Cũng có thể tiến hành công việc nhanh trong lúc vẫn duy trì một khuôn khổ tư duy chậm. Một thế kỷ sau khi Rudyard Kipling[9]viết hãy giữ lý trí của bạn trong khi hết thảy chung quanh đang loạn trí[10], con người mới học cách giữ điềm tĩnh, cách duy trì nội tâm thư thái, ngay cả khi họ phải vắt chân lên cổ cho kịp thời hạn công việc hoặc đưa bọn trẻ đến trường đúng sít giờ. Một trong những mục đích của cuốn sách này là chỉ ra cách làm sao được như vậy. Bất chấp phát ngôn của một vài người chỉ trích, phong trào Chậm không nhằm tiến hành mọi việc theo tốc độ sên bò. Cũng không phải một nỗ lực bột phát kiểu Luddite[11], hòng kéo toàn thể hành tinh trở về thời kỳ tiền công nghiệp không tưởng nào đó. Trái lại, phong trào tập hợp những người như các bạn và tôi, những người muốn sống tốt hơn trong một thế giới hiện đại, tốc-độ-cao. Chính vì thế, triết lý sống Chậm có thể tóm tắt chỉ trong một từ duy nhất: cân bằng. Hãy nhanh khi đáng để nhanh, chậm khi cần chậm. Hãy cố gắng sống ở cung bậc mà các nhạc sỹ gọi là tempo giusto – nhịp chuẩn. Người đề xướng hàng đầu việc giảm tốc là Carlo Petrini, sáng lập gia người Ý của Phong trào Đồ ăn Chậm, một phong trào quốc tế chuyên tâm cho quan niệm rất văn minh là những thứ ta ăn nên được trồng cấy, chế biến và tiêu thụ ở nhịp độ khoan thai. Tuy bàn ăn là mặt trận chủ yếu, song Đồ ăn Chậm vượt xa một lời bào chữa cho những bữa trưa kéo dài. Tuyên ngôn của nhóm là lời hiệu triệu chung tay chống lại căn bệnh sùng bái tốc độ dưới mọi hình thức: “Thế kỷ của chúng ta, vốn dĩ đã khởi đầu và đang phát triển dưới biển hiệu của văn minh công nghiệp, thoạt tiên phát minh ra máy móc sau lấy máy móc làm chuẩn mực cho đời sống. Chúng ta thành nô lệ của tốc độ và thảy đều chịu thua con vi rút âm ỉ kia: Cuộc sống Gấp gáp, nó phá vỡ thói quen của chúng ta, len vào đời sống riêng tư của nhà chúng ta và buộc chúng ta ăn Đồ ăn Nhanh.” Vào một chiều hè nóng bức ở Bra, thị trấn nhỏ Piedmontese, vốn là đại bản doanh của phong trào Đồ ăn Chậm, tôi gặp Petrini để chuyện phiếm. Đơn thuốc của ông dành cho đời sống là một gợi ý hiện đại rất đáng hoan nghênh. “Nếu lúc nào anh cũng chậm, thì anh là xuẩn – và đó hoàn toàn không phải là mục tiêu chúng tôi nhắm tới,” ông nói với tôi. “Chậm nghĩa là anh làm chủ nhịp sống của mình. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, chính anh quyết định phải nhanh đến cỡ nào. Nếu hôm nay, tôi muốn nhanh, thì tôi nhanh; ngày mai tôi muốn chậm, tôi sẽ chậm. Cái mà chúng tôi đang đấu tranh giành giật chính là quyền định đoạt nhịp sống của riêng mình.” Triết lý sống hết sức giản đơn ấy đang góp tiếng nói trong nhiều lĩnh vực. Tại các công sở, hàng triệu người đang cố gắng – và sắp đạt tới – mức cân bằng hợp lý hơn giữa công việc và đời sống. Trong phòng ngủ, người ta khám phá thú vui của tình dục chậm, thông qua Tantra[12] và các dạng khác nhau của giảm tốc làm tình. Quan niệm Chậm hơn là tốt hơn tạo nền móng cho sự bùng nổ các chế độ tập luyện – từ yoga đến Thái Cực quyền – và y học thay thế - từ thảo dược đến liệu pháp vi lượng đồng căn – dùng phương pháp nhẹ nhàng toàn diện tiếp cận cơ thể con người. Khắp mọi nơi, các thành phố sửa sang cảnh quan đô thị để khuyến khích dân chúng giảm lái xe và tăng cường đi bộ. Nhiều trẻ em cũng sửa soạn rời làn cao tốc, vì các bậc cha mẹ bớt dần lịch học cho chúng. Rõ ràng, phong trào Chậm phần nào trùng khớp với cuộc thập tự chinh chống toàn cầu hóa. Những người đề xướng cả hai phong trào đều tin rằng chủ nghĩa tư bản tăng tốc chào mời chiếc vé một chiều tới kiệt lực, cho hành tinh này và nhân loại sống trên đó. Họ cho rằng chúng ta có thể sống tốt hơn nếu chúng ta tiêu dùng, sản xuất và làm việc với một nhịp độ hợp lý hơn. Tuy nhiên, cùng với những người chống toàn cầu hóa ôn hòa, các nhà hoạt động vì sự lắng mình Chậm lại cũng không khăng khăng xóa bỏ sạch trơn chế độ tư bản. Đúng hơn, họ cố tìm cho nó một khuôn mặt nhân bản. Bản thân Petrini cũng nói về “toàn cầu hóa đúng mực.” Dù vậy phong trào Chậm sâu sắc và rộng khắp hơn nhiều cải cách kinh tế đơn thuần. Lấy đích nhắm là vị chúa tốc độ giả hiệu, phong trào dò đến cốt lõi những gì cần có để làm người trong kỷ nguyên của con chip silicon. Tín điều Chậm có thể sinh lợi khi áp dụng theo lối dần dần. Nhưng để có được lợi ích toàn diện từ phong trào Chậm, chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa, và triệt để cân nhắc phương pháp tiếp cận mọi vấn đề. Một thế giới Chậm đích thực không gì khác hơn một cuộc cách mạng về lối sống. Phong trào Chậm mới đang hình thành. Nó chưa có tổng hành dinh hoặc trang web, chưa có lãnh tụ duy nhất, chưa có đảng phái chính trị để chuyển tải các thông điệp. Nhiều người quyết định lắng mình mà không hề cảm thấy là bộ phận của một trào lưu văn hóa, chưa nói gì đến một cuộc thập tự chinh toàn cầu. Tuy thế, cái đáng kể là một thiểu số ngày càng tăng đang lựa chọn chậm thay vì tốc độ. Mỗi một hành động giảm tốc chính là tạo thêm cú hích cho phong trào Chậm. Giống quần chúng chống toàn cầu hóa, đám đông chủ trương chậm lại đang rèn những mắt xích, tạo đà và mài giũa triết lý của họ thông qua các hội nghị quốc tế, Internet và truyền thông đại chúng. Các Nhóm Chậm-Nhà-Nghề đang mọc lên khắp mọi nơi. Một số, chẳng hạn Đồ ăn Chậm, tập trung chủ yếu vào một lĩnh vực của đời sống. Các Nhóm khác mở rộng hơn triết lý Chậm. Trong số này có Câu lạc bộ Thư Thả ở Nhật, Quỹ Bây giờ Chậm trụ sở tại Mỹ và Hiệp hội châu Âu về Giảm tốc Thời gian[13]. Phần lớn phát triển của phong trào Chậm khởi phát từ phối kết hợp. Nhóm Đồ ăn Chậm hiện đã cho ra các nhóm con kế tiếp. Dưới ngọn cờ của các Đô thị Chậm, trên sáu chục thành phố Ý đang nỗ lực chuyển mình thành những ốc đảo êm đềm. Thị trấn Bra cũng là quê hương của Tình dục Chậm, một xu hướng nhằm xua đuổi sự hùng hục vội vã ra khỏi phòng ngủ. Tại Mỹ, học thuyết Petrini đã gợi hứng cho một nhà giáo dục hàng đầu phát động phong trào “Giáo dục Chậm ở nhà trường.” Mục đích của tôi trong cuốn sách này là giới thiệu phong trào Chậm tới đông đảo độc giả, giải thích phong trào bênh vực cái gì, hiện tiến triển ra sao, vấp phải những trở ngại nào và vì sao đem lại điều gì đó cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, những động cơ của tôi không hoàn toàn vị nhân sinh. Tôi là người say tốc độ, vì vậy cuốn sách này cũng là một cuộc hành trình hết sức cá nhân. Ở phần cuối hành trình ấy, tôi muốn tìm lại vài cảnh êm đềm cảm nhận được lúc chờ chuyến xe buýt nọ tại thành Rome. Tôi muốn có thể đọc sách cho con trai mà không phải liếc đồng hồ. Giống hầu hết mọi người, tôi muốn tìm ra con đường để sống tốt hơn nhờ vào tạo lập thế cân bằng giữa nhanh và chậm.   Mời các bạn đón đọc Ngợi Ca Sống Chậm của tác giả Carl Honore.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

1493 - Diện Mạo Tân Thế Giới Của Columbus
1493 – Diện mạo Tân thế giới của Columbus là cuốn sách xuất sắc nhất năm theo tạp chí TIME bình chọn; đồng thời là tác phẩm nổi bật của năm theo New York Times và Washington Post bình chọn. 1493 – Diện mạo Tân thế giới của Columbus là phần tiếp theo của cuốn sách 1491 - Những Khám Phá Mới Về Châu Mỹ Thời Kỳ Tiền Columbus đã được xuất bản bởi Huy Hoàng Book. Tác giả Charles C. Mann không hề làm người đọc thất vọng khi dùng sự hiểu biết sâu rộng của mình để lý giải những gì xảy ra đối với châu Mỹ, đối với thế giới sau sự kiện Columbus tìm ra châu Mỹ. Cuốn sách này đi ngược với những ý nghĩa mà chúng ta thường biết về cuộc phát kiến châu Mỹ. Thay vì tập trung vào việc người châu Âu thay đổi châu Mỹ ra sao, Charles C. Mann lại tập trung vào việc châu Mỹ thay đổi thế giới như thế nào. Sự thay đổi ấy diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, văn hóa, con người, sinh thái học… mà tác giả gọi bằng thuật ngữ: Cuộc trao đổi Columbus. Cuộc trao đổi Columbus mang thực vật từ châu Mỹ tỏa đi khắp thế giới; khoai tây đến với châu Âu; khoai lang cứu đói ở Trung Quốc; và cả những cánh rừng cao su bất tận mà thế giới đang thấy ngày nay cũng xuất phát từ châu Mỹ. Thế giới đang dần tiến tới điều mà các nhà nghiên cứu gọi là “Kỷ nguyên đồng hóa sinh học” – đa dạng sinh học trên trái đất mất đi, các hệ sinh thái dần trở nên giống nhau. Thông qua chuyến hải hành của Columbus, ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, sốt vàng da tới châu Mỹ trong khi nơi đây đang bị khai thác thuộc địa. Chế độ nô lệ cũng từ đây mà hình thành. Thông qua chuyến hải hành đến châu Mỹ của Columbus, các nền kinh tế gặp gỡ, giao lưu với nhau tạo nên mạng lưới kinh tế toàn cầu. Bạn có bao giờ tự hỏi, tại sao người châu Phi sống ở châu Phi, phần lớn người châu Á ở châu Á và phần lớn người châu Mỹ bản địa sống ở châu Mỹ. Ngược lại, người mang dòng giống châu Âu lại có mặt đông đúc ở châu Úc, châu Mỹ và miền Nam châu Phi không? Do người châu Âu ưu việt hơn hẳn các dân tộc khác chăng? Câu trả lời trong cuốn sách này sẽ làm bạn phải ngạc nhiên đấy. *** Review Cuốn sách 1493 - Diện mạo tân thế giới của Columbus là một dẫn chứng cho thấy thế nào là loại sách lịch sử hay nhất. Vòng xoáy sinh tồn khốc liệt Một cuốn sách vừa làm thay đổi cách nhìn của bạn về thế giới, vừa giàu thông tin thú vị. Ấn tượng hơn cả là việc tác giả đã xoay sở, trải nghiệm thực địa đa dạng xuyên qua nhiều quốc gia và xử lý nguồn tư liệu hợp lý trải dài theo nhiều giai đoạn khắc nghiệt của lịch sử. Rực rỡ và thảm hoạ trong hành trình viễn chinh của Columbus. 1493: khởi nguồn từ những cuộc viễn chinh "vĩ đại" của Columbus cùng cộng sự. Hành trình ấy, đầy rẫy hoài nghi - thiên tai - dịch bệnh. Như cánh chim thiên di xuyên Đại Tây Dương, những chuyến hải trình đổi lụa lấy bạc vượt Thái Bình Dương luôn ẩn họa nhiều nguồn lây nhiễm - dịch bệnh. Giấc mơ cuồng vọng vẫn không vì thế mà khép lại, mà chúng được viết tiếp bởi kẻ cuồng danh nhằm xây dựng đế chế cho riêng mình. Biến công nhân thành nô lệ theo đế chế cao su Julio Cesar Arana - con trai một người thợ làm mũ Peru. Đem đến thức ăn lẫn bệnh tật, nạn đói và nụ cười, nguồn dịch và nông sản đa dạng, thuốc trừ sâu và ô nhiễm hay những con ốc bươu vàng ăn tạp giết chết ruộng bậc thang tại nhiều quốc gia vùng Đông Á.. 1493 kèm theo nhiều câu chuyện gai góc, lì lợm của kẻ chinh phục vô tình mang theo mầm dịch bệnh. Giải đáp hàng loạt câu hỏi, hiện tượng: Những nốt sần chứa hoạt chất ung thư trên khoai tây làm thế nào để ức chế. Sự dịch chuyển của nhiều giống loài ra ngoài môi trường phát tích, vì sao lại là khởi nguồn cho việc bùng phát dân số, những mầm bệnh dịch và cả câu chuyện nô lệ đi cùng. Đắt giá hơn, là hàng loạt dẫn chứng, kiến giải thuật ngữ "vàng đen" đánh dấu một cuộc cách mạng công nghiệp rực rỡ. Để rồi, nước mắt "vàng đen" đọng lại nhiều trăn trở với người đọc, vì đâu? 1493 trả lời gần như chỉn chu - khoa học nhất cho toàn bộ quá trình này. Đặc biệt là những nhận định xung quanh cuộc chiến khoai tây. Chúng không chỉ đem giống khoai siêu năng suất tới Châu Âu và Bắc Mỹ, còn mang đến những kỹ thuật trồng khoai tây siêu năng suất, dựa trên việc kế thừa nguồn phân chim khổng lồ từ Peru. Nơi người vùng Andes đã khai thác qua hàng thế kỷ từ những mỏ phân mà các loài chim biển đã để lại, thậm chí có nơi cao gần 45m. Đủ để cuốn hàng trăm chuyến tàu chở phân vượt Đại Tây Dương. Khi cuộc cách mạnh công nghiệp nổ ra, với 3 nhân tố chính: thép, các nguồn nhiên liệu hoá thạch và đặc biệt là cao su. Trong đó, quá trình lưu hoá cao su góp tiếng nói quan trọng trong cuộc cách mạng công nghiệp, mang đến nhiều phát minh vượt trội. Khi cao su nhóm lên ngọn lửa danh vọng cuồng nhiệt, cũng là lúc hàng loạt cánh rừng nhiệt đới biến mất, vì phải dùng củi đốt để làm sôi mủ cao su và làm nhiên liệu cho các chiến thuyền chuyên chở vượt biển. Môi trường bị tàn phá, từng đoàn người nô lệ được triệu hồi để xây dựng đế chế cao su cho riêng mình - Arana. Với nguồn tri thức khổng lồ được cập nhật, logic theo từng giai đoạn qua 4 phần chi tiết trong 1493, cho thấy góc nhìn đa chiều được - mất thông qua cuộc trao đổi Columbus. Khởi nguồn từ cuộc viễn chính, giờ đây Columbus trực tiếp góp phần thay đổi diện mạo Tân Thế Giới. Bắp cùng khoai lang, cây cung cấp lương thực cứu rỗi nạn đói ở Châu Á- Trung Quốc sản phẩm có được từ cuộc viễn chính của Columbus - giờ đây được trồng ở rìa sa mạc Gobi, khu Nội Mông  Di thực giống loài và những câu chuyện bi thương khác Cuộc trao đổi Columbus còn mang thực vật từ châu Mỹ tỏa đi khắp thế giới. Thông qua chuyến hải hành của Columbus, ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, sốt vàng da tới châu Mỹ trong khi nơi đây đang bị khai thác thuộc địa. Chế độ nô lệ cũng từ đây mà hình thành. 70.000 hạt giống cây cao su đến nước Anh vào năm 1876 đã mang lại vinh quang cho Herry Wickham. Ông được phong tước hiệp sĩ năm 74 tuổi, nhờ vào việc chuyển lậu hạt giống. Trở thành vụ "ăn cướp sinh học" nổi bật không giấu diếm. Và quan trọng hơn, chính việc vận chuyển các giống loài có ích ra khỏi môi trường phát tích của chúng, là một phương tiện tối thượng - có lợi cho sự bành trướng của loài người. Thế nên, 1493 lôi cuốn người đọc - các nhà khoa học khi có cơ hội nhìn ngắm lại lịch sử một cách trọn vẹn, đa dạng đậm tính thừa hưởng lẫn khám phá đắt giá, tạo điểm nhấn rực rỡ trong hành trình viễn chinh của Columbus. Điểm nhấn chính từ 1493 còn là bài toán lương thực và nô lệ. Kéo theo nhiều cuộc chiến về di cư - môi trường - bệnh dịch. Biến mầm bệnh, những nông trại phân chim, các loài thực vật, côn trùng bước vào cuộc chiến sinh tồn tàn khốc để phô bày sự mạnh mẽ, tối - sáng của nhân vật trung tâm con người trong vòng xoay định hình diện mạo Tân thế giới của Columbus. Thông qua chuyến hải hành đến châu Mỹ của Columbus, các nền kinh tế gặp gỡ, giao lưu với nhau tạo nên mạng lưới kinh tế toàn cầu. Thúc đẩy thế giới tiến tới "Kỷ nguyên đồng hóa sinh học" – khiến đa dạng sinh học trên trái đất mất đi, các hệ sinh thái dần trở nên giống nhau. Để nhận ra, kiểu chinh phục bản năng sẽ không còn phù hợp dù bạn có là Colo "vĩ đại" trong thế giới Châu Âu. Ngày nay, cuộc trao đổi Columbus đã được tiếp cận và cải biến sao cho phù hợp, để chúng ta - những người thừa hưởng di sản giàu giá trị sống cân đối, đồng hành lựa chọn cuộc sống hướng đến sự tối giản xanh sạch. Tác giả Charles C. Mann, là phóng viên của các tạp chí The Atlantic Monthly, Science và Wired, chịu trách nhiệm mảng khoa học, công nghệ và thương mại. Ông còn là phóng viên tự do của National Geographic, The New York Times, The Wasington Post và là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng. Hiện ông đang sinh sống cùng vợ và các con ở bang Masachusetts. Thành công với loạt tác phẩm cùng chủ đề: 1491, Pháp sư và nhà tiên tri và mới nhất là 1493 của Mann còn đến từ biệt đội săn lỗi ngữ pháp uyên bác, giúp cho Mann vượt qua nhiều  trở ngại trong việc đối mặt ngôn từ, các bản beta giàu trải nghiệm lẫn thử nghiệp, để hoàn thành xuất sắc một ấn bản khoa học, cuốn hút và chuẩn xác.  1493 – Diện mạo tân thế giới của Columbus là cuốn sách xuất sắc nhất năm theo tạp chí TIME bình chọn; đồng thời là tác phẩm nổi bật của năm theo New York Times và Washington Post bình chọn. Sách được mua bản quyền chuyển ngữ và xuất bản từ Huy Hoàng Book.   Đinh Quý Anh Mời các bạn mượn đọc sách 1493 - Diện Mạo Tân Thế Giới Của Columbus của tác giả Charles C. Mann & Liêu Nguyên (dịch).
Màu Của Nước
Màu Của Nước là cuốn tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride viết để tưởng nhớ người mẹ của mình, một phụ nữ gốc Do Thái da trắng kết hôn với những người đàn ông da đen. Vượt lên bi kịch cá nhân, sự thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi sự phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy mười hai đứa con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Đó cũng là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, cái tôi, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai da đen, đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ. Màu Của Nước ra mắt bạn đọc lần đầu vào năm 1995, trở thành một hiện tượng xuất bản với kỷ lục nằm trong danh sách Sách bán chạy nhất của New York Times trong 100 tuần (hơn 2 năm) , được coi là tác phẩm văn học kinh điển của Mỹ, từng được trao các giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc, và là cuốn sách về người mẹ mà Amazon khuyên mọi độc giả nên đọc. - Trích từ bài giới thiệu của dịch giả Nguyễn Bích Lan. *** 'Màu của nước' - sách về nạn phân biệt chủng tộc Tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride do dịch giả Bích Lan chuyển ngữ vừa ra mắt bạn đọc trong nước.  Nhà văn Mỹ James McBride mất 14 năm để "khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ" - con gái một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1942 ở Mỹ. Vượt lên thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy 12 người con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Cuốn sách là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai - đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ.  Màu của nước được kể với giọng tự sự chân thực, hóm hỉnh, giản dị và không kém phần sâu sắc. Qua đó, tác giả gửi gắm ước mơ xóa nhòa ranh giới phân biệt chủng tộc. Theo James McBride, mỗi con người dù có màu da và xuất thân khác nhau đều cần được đối xử công bằng. Mọi phân biệt, kỳ thị không thể ngăn cản nhân loại chia sẻ tình yêu thương, lòng trắc ẩn. Theo tờ Wall Street Journal, "cuốn sách nói cho chúng ta về sự yếu kém liên quan đến vấn đề chủng tộc của quốc gia và về những khả năng vượt lên sự yếu kém đó". Trang Publisher Weekly đánh giá tác phẩm là tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, "bất cứ ai mang màu da nào, theo tôn giáo nào cũng nên đọc cuốn tự truyện cảm động và khó quên này".                          Màu của nước ra mắt bạn đọc năm 1995. Tác phẩm nằm trong danh sách "Sách bán chạy nhất" của tờ New York Times suốt 100 tuần, từng được trao giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc. Đến nay, tác phẩm bán được 2,5 triệu bản trên toàn thế giới, cuốn sách được dịch ra 16 thứ tiếng và xuất bản ở 20 nước. James McBride sinh năm 1957 tại New York, Mỹ. Ông là nhà báo, nhạc sĩ, nhà văn nổi tiếng. James từng đoạt giải National Book Award (Giải thưởng sách Quốc gia Mỹ năm 2013 với tác phẩm The Good Lord Bird (Con chim đầu đàn).  Vĩ Thanh *** Khi còn nhỏ tôi không biết gì về xuất thân của mẹ mình - Tôi không biết mẹ sinh ra ở đâu, ông bà ngoại của tôi là ai. Khi tôi hỏi về gốc gác của mẹ, mẹ nói: Chúa sinh ra mẹ. Khi tôi hỏi mẹ có phải là người da trắng không, mẹ nói: “Da mẹ sáng màu, rồi lập tức chuyển chủ đề. Mẹ nuôi mười hai đứa con da đen của mẹ, cho tất cả học đại học và hầu như tất cả đều tốt nghiệp đàng hoàng. Các con của mẹ trở thành bác sĩ, giáo sư, nhà hóa học, giáo viên - Tuy nhiên cả mười hai anh chị em chúng tôi không ai biết họ tên thời con gái của mẹ cho đến khi chúng tôi trở thành người lớn. Tôi phải mất tới mười bốn năm khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ - chuyện về con gái của một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1912 - và mẹ tiết lộ chuyện đời mình như một đặc ân dành cho tôi hơn là muốn ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Đây là câu chuyện cuộc đời mà mẹ kể cho tôi nghe, và xen kẽ giữa những trang viết về cuộc đời của mẹ, các bạn cũng sẽ tìm thấy những trang kể về cuộc đời tôi. *** Chết Con muốn mẹ kể về gia đình của mẹ, mà đối với cái gia đình ấy mẹ đã chết từ năm mươi năm trước rồi. Hãy để mẹ yên. Đừng làm phiền mẹ. Gia đình mẹ không muốn có mẹ chút nào và mẹ cũng chẳng hề muốn có họ. Có hỏi thì hỏi nhanh lên rồi kết thúc mau đi. Mẹ muốn ngắm Dallas. Mà này, nếu con là một phần của gia đình ấy, con sẽ không có thời gian dành cho điều vớ vẩn này đâu, không có thì giờ để nghĩ về gốc gác của con đâu. Thà con đi xem phim “Ba Chàng Ngốc” còn hơn là hỏi họ, hỏi cha đẻ của mẹ chẳng hạn, quên chuyện đó đi. Nếu ông ngoại của con gặp con, ông sẽ lên cơn đau tim. Dẫu sao ông cũng chết rồi, nếu không thì bây giờ ông đã một trăm năm mươi tuổi rồi. Mẹ sinh ra là một người Do Thái chính thống vào ngày 1 tháng 4 năm 1921, đúng vào ngày Cá tháng Tư ở Ba Lan đấy con ạ. Mẹ không nhớ tên của cái thị trấn nơi mẹ chào đời, nhưng mẹ còn nhớ tên Do Thái của mình: Ruchel Dwajra Zylska. Ông bà ngoại của con đã xóa cái tên đó khi họ đến Mỹ và đổi tên mẹ thành Rachel Deborah Shilsky, và chính mẹ đã tống khứ cái tên ấy ra khỏi cuộc đời mình khi mẹ mười chín tuổi, không bao giờ sử dụng nó nữa sau khi mẹ đi khỏi Virgina năm 1941 mà không bao giờ quay trở lại. Đối với mẹ, Rachel Shilsky đã chết. Cô ta chết để mẹ, phần còn lại của mẹ, được sống. Khi mẹ lấy cha của con, gia đình mẹ than khóc vật vã. Họ đọc Kinh kaddish và ngồi shiva[1]. Đó là cách người Do Thái chính thống khóc người thân qua đời. Họ cầu nguyện, úp các tấm gương xuống, ngồi trên những cái hộp trong bảy ngày và dùng khăn trùm đầu. Nó có tác dụng thật đấy và có lẽ đó là lý do tại sao giờ đây mẹ không còn là một người Do Thái nữa. Có quá nhiều luật lệ phải tuân theo, quá nhiều điều cấm kỵ và quá nhiều những điều “Mày không thể làm” và “Mày không được phép làm”, nhưng có ai nói họ yêu thương mẹ không nhỉ? Không, trong gia đình của mẹ không ai nói thế với ai. Gia đình mẹ không nói thế. Mọi người nói với nhau những lời đại loại như “Liệu hồn đấy,” hoặc ông ngoại con sẽ nói, “Hãy im miệng trong lúc tao ngủ.” Tên ông ngoại của con là Fishel Shilsky và ông là một giáo sĩ Do Thái chính thống. Ông đã trốn khỏi trại của quân Nga, lẩn sang biên giới Ba Lan và cưới bà ngoại của con trong một cuộc hôn nhân sắp đặt. Ông thường nói rằng khi ông chạy trốn ông phải chạy dưới những làn đạn và khả năng lẩn trốn những gì không tốt cho bản thân tồn tại cùng ông từ khi mẹ biết ông. Bọn mẹ gọi ông là Tateh. Trong tiếng Do Thái “Tateh” có nghĩa là cha. Ông là một con cáo, nhất là trong chuyện tiền bạc. Ông có dáng người thấp, nước da sẫm màu, râu tóc rậm và là người cộc cằn, lỗ mãng. Ông mặc sơ mi trắng, quần đen, quấn một chiếc tallis[2], và những thứ đó giống như đồng phục của ông. Ông mặc cái quần đen đó hoài cho tới khi nó nhẵn bóng và cứng queo đủ để tự đứng được bằng chính hai ống của nó mà không cần xỏ chân, nhưng chỉ Chúa Trời mới có thể cứu con nếu như con đụng phải cái quần đó trong lúc vội, bởi ông ngoại của con không phải là người để đùa giỡn. Ông khó tính lắm. Bà ngoại của con tên là Hudis và bà trái ngược hoàn toàn với ông, rất dịu dàng và nhu mì. Bà sinh năm 1896 ở thị trấn Dobryzn, Ba Lan, nhưng nếu bây giờ con hỏi thông tin thì không ai còn nhớ gia đình bà nữa bởi vì bất cứ người Do Thái nào không rời khỏi đó trước khi quân Hitler tràn vào Ba Lan cũng đều bị giết hại trong cuộc tàn sát người Do Thái rồi. Bà có khuôn mặt xinh xắn, mái tóc đen, gò má cao nhưng bà bị bại liệt. Chứng bệnh đó làm bà bị liệt nửa người bên trái và khiến sức khỏe của bà không được tốt. Tay trái của bà không sử dụng được. Nó bị khòng khèo ở cổ tay và nó cong lên gần đến ngực. Mắt trái của bà gần như bị mù và bà đi cà nhắc, kéo lê cái chân trái bị liệt. Bà là một người phụ nữ ít nói, Mameh yêu quý của mẹ. Đó là lý do tại sao bọn mẹ gọi bà là Mameh. Bà là người mà trong cõi đời này mẹ đã đối xử không tốt khi… Mời các bạn mượn đọc sách Màu Của Nước của tác giả James McBride & Nguyễn Bích Lan (dịch).
Tình Yêu Vị Kem Ý
"Ai đó đã nói người ta đến Ý để nếm mật ngọt tình yêu và vị kem gelato, nhưng đôi khi họ còn tìm thấy nhiều điều hơn thế." Năm mười sáu tuổi, sau khi mẹ qua đời, Lina một mình đến Ý để sống cùng một người được giới thiệu là bố của mình. Nhưng người bố nào lại vắng mặt trong suốt mười sáu năm cuộc đời của con gái mình cơ chứ? Và hơn thế, khi đến nơi Lina mới biết ông ấy đang sống trong một nghĩa trang. Những nỗi buồn mất mát vẫn đeo bám Lina, cùng lúc cô bé phải học cách hòa nhập với cuộc sống mới, tại một nơi hoàn toàn xa lạ, giữa nghĩa trang vắng lặng nơi nước Ý xa xôi. Tình cờ nhận được cuốn nhật kí của mẹ kể về quãng thời gian sống ở Ý trước đây, Lina bị cuốn vào một hành trình đặc biệt. Cô đã đi theo những nẻo đường mẹ cô từng đi, khám phá những vẻ đẹp ẩn giấu lãng mạn và cổ tích của nước Ý, đồng thời cũng hé mở một bí mật đã bị chôn vùi bấy lâu. Bí mật đó sẽ thay đổi tất cả những gì Lina từng biết về cuộc đời mình. Một cuốn sách ra mắt vào mùa hè này, sẽ đưa bạn đến với nước Ý - của tình yêu, tuổi trẻ và những sự lựa chọn trong đời... *** Review Nhi Nguyễn:   “Cháu biết đấy, người ta đến Ý vì nhiều nguyên do, nhưng khi họ ở lại thì chỉ vì hai điều.” “Là gì ạ?” “Tình yêu và kem gelato.” “Tình yêu vị kem Ý” là cuốn tiểu thuyết Young Adult cực kỳ hợp để đọc trong mùa hè, không chỉ bởi vì khoảng thời gian diễn ra câu chuyện là vào mùa hè ngập nắng tại Florence - một trong những thành phố đẹp tuyệt của nước Ý, với kem gelato cùng những công trình kiến trúc cổ kính, đặc trưng cho cả một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật Phục hưng. Cuốn sách này hoàn hảo cho mùa hè của bạn, còn bởi vì nó ẩn chứa một câu chuyện tình yêu bí mật, được kể qua những trang nhật ký của một người đã khuất, dẫn dụ nhân vật chính cùng người bạn của mình đến với một chuyến phiêu lưu tìm ra sự thật cuối cùng, mà mùa hè là mùa của những chuyến phiêu lưu, du lịch, khám phá mà ^^ Khi mẹ của Lina - một cô bé 16 tuổi không biết cha mình là ai - qua đời vì căn bệnh ung thư tuyến tụy, bà đã gửi gắm Lina đến sống với chú Howard - một người bạn cũ của bà thời bà còn học đại học tại Florence. Bà ngoại của Lina ngỡ rằng điều này có nghĩa Howard chính là cha ruột của Lina, và hết sức khuyên nhủ cháu gái mình hãy lên đường đến với miền Trung Ý để đón nhận cha của mình. Lina miễn cưỡng ra đi, đến sống với người đàn ông đã từng có thời thân thiết với mẹ của cô, nhưng đối với cô là hoàn toàn xa lạ, ngay tại nghĩa trang dành cho lính Mỹ đã hy sinh tại Ý trong Chiến tranh thế giới thứ hai - nơi chú Howard là người quản lý. Trước đó, mẹ của Lina đã gửi đến Florence cuốn nhật ký chứa trọn những bí mật về mối tình thuở sinh viên của bà - câu chuyện mà bà chưa bao giờ tiết lộ cho Lina. Lật giở từng trang cuốn nhật ký của người mẹ thân yêu đã mất, Lina khám phá ra một người phụ nữ mạnh mẽ, sống vì đam mê của bản thân, sẵn sàng cãi lời cha mẹ, bỏ học ngành y tá ở quê nhà để thân chinh đến Florence - thành phố của nghệ thuật - theo tiếng gọi của trái tim để học ngành nhiếp ảnh tại Đại học Nghệ thuật Florence. Trên những trang nhật ký ấy, Lina cũng khám phá ra mối tình đắm say giữa mẹ cô và một người đàn ông bà gọi là X, thể hiện qua từng câu từ lãng mạn, ngập tràn yêu đương của một sinh viên 22 tuổi khi đứng trước sự choáng ngợp và những cảm xúc say mê của tình yêu. Liệu X và Howard có phải là cùng một người? Hay còn điều gì ẩn khuất đằng sau những trang nhật ký đó, đằng sau sự nghiễm nhiên cho rằng Howard chính là bố ruột của Lina. Cùng với cậu bạn Ren (tên thật là Lorenzo) mới quen nhưng mau chóng trở thành tình yêu đầu đời của Lina, cô bé đã dấn bước trên một hành trình phiêu lưu vô tiền khoáng hậu để đi đến tận cùng sự thật về danh tính cha ruột của mình, cùng sự thật về mối tình giữa mẹ cô và X. Tất cả đã diễn ra từ Florence đến Rome, giữa những từ ngữ, địa danh, công trình kiến trúc đậm chất Ý, mang đến một bầu không khí vừa nghệ thuật vừa cổ kính cho một chuyến phiêu lưu tìm hiểu về một câu chuyện tình.  Nếu ai biết mình đủ lâu thì sẽ rõ, mình yêu mến, tôn thờ và mê mệt nước Ý, văn hóa Ý, kiến trúc Ý, nghệ thuật Ý đến như thế nào. Và đọc cuốn tiểu thuyết này, đối với mình, giống như thể mình đang thực sự được chu du đến Florence vậy. Từ Ponte Vecchio (nghĩa là “cây cầu cổ”) - nơi ngắm hoàng hôn đẹp muốn rụng tim, vườn Boboli, kem gelato hương vị stracciatella (cái này là kem có vụn chocolate trong đó hay sao đấy các bạn ạ, google thử xem ^^) hay hương bacio (hương chocolate hạt phỉ - hazelnut), palazzo (quảng trường vây quanh bốn cạnh là các tòa kiến trúc) và Piazzale Michelangelo (piazzale cũng là quảng trường, nhưng phải có ít nhất một cạnh có cửa thông ra ngoài. Google bảo thế :D), cho đến bức tượng “The Abduction of the Sabine Women”, tất cả chỉ khiến mình muốn xách ba lô lên và đi ngay đến thành phố Florence nói riêng và vùng Tuscany miền Trung Ý nói chung để được tận mắt ngắm nhìn những công trình, cảnh vật tuyệt đẹp ở đó thôi!!! Đoạn kết của “Tình yêu vị kem Ý” - đúng như tên gọi của câu chuyện - ngọt ngào và rất có hậu, nhưng không phải là không có những trường đoạn gây đau lòng nức nở trước đó để mang đến những cung bậc cảm xúc khác nhau cho độc giả. Các bạn sẽ hồi hộp theo dõi mối tình đầu của Lina và cậu bạn Ren liệu có thành sự thật hay không, khi mà như bao mối tình tuổi mới lớn khác, tình yêu của họ cũng đã trải qua những ngượng ngùng, hiểu lầm và cãi vã. Nhưng trên tất cả, các bạn chắc hẳn sẽ rơi nước mắt vì sự thật về mối tình giữa mẹ Lina và X, cùng quyết định của một người phụ nữ, vì con mình mà phải đành đoạn cắt đứt với người đàn ông mình thực sự yêu. Đó cũng là người phụ nữ, vì tôn trọng mong muốn của người đàn ông mình thực sự yêu ấy mà phải rời xa ông, ôm ấp một mình cái bí mật về bào thai đang lớn dần trong bụng… Thật sự rất tội nghiệp mẹ của Lina, và nếu như bà không mang thai Lina, sự thể có lẽ đã khác đi rất nhiều, bà đã có cơ hội được đến với người đàn ông bà yêu… (view spoiler) Nhưng nếu được lựa chọn lại, mình chắc chắn bà vẫn sẽ lựa chọn có Lina trong đời, và mọi thứ sẽ diễn ra như nó đã diễn ra một lần nữa, để giờ đây một cô bé 16 tuổi như Lina có cơ hội tìm được cho mình một gia đình mới, và cả một tình yêu đầu đời tại một trong những thành phố đẹp nhất và lãng mạn nhất thế giới. Bên cạnh một số lỗi dịch thuật về từ ngữ xưng hô, ngôi thứ, cùng một số lỗi chính tả mà nếu độc giả nào dễ tính thì hoàn hoàn có thể bỏ qua được, “Tình yêu vị kem Ý” vẫn là một cuốn sách tuyệt vời, gây xúc động và cực kỳ lôi cuốn. Mình chỉ tốn có trọn một ngày, từ đêm hôm trước cho đến đêm hôm sau, để đọc xong cuốn sách thôi đó, thể là đủ hiểu nó hấp dẫn đến thế nào rồi ha? Chuyến du hành cùng Lina và Ren qua gần một tuần để giải mã sự thật đằng sau câu chuyện tình của mẹ Lina tại Florence, cùng lý do thực sự bà gửi cuốn nhật ký của mình đến chỗ chú Howard, đồng thời đắm mình trong bầu không khí thấm đẫm chất nghệ thuật và lịch sử nước Ý, thực sự là một trải nghiệm khó quên. Bạn nào yêu thích thể loại tình cảm lãng mạn phiêu lưu tìm hiểu khám phá dành cho Young Adult thì tậu ngay cuốn này đi thôi, đảm bảo sẽ ưng lắm đó :)))) P.S.: Một lần nữa xin được trân trọng cảm ơn Wings Books đã gửi tặng mình cuốn sách này để đọc, review và giới thiệu cho nhiều người khác cùng thưởng thức. *** [#BOOK_REVIEW] ----
Bà Nội Găngxtơ
Bà nội của Ben là một bà nội chuẩn không cần chỉnh - bà có tóc bạc, răng giả, và giấy ăn giắt đầy tay áo. Bà chỉ thích ăn mỗi món bắp cải và chơi trò xếp chữ. Theo Ben thì bà chán kinh khủng. Cho đến khi cậu phát hiện ra bí mật vĩ đại của bà: Bà là một tên trộm nữ trang quốc tế! Hết sảy nhất là bà còn đang lên kế hoạch cho vụ trộm nữ trang đỉnh nhất từ trước đến giờ - trộm bộ Báu vật Hoàng gia từ Tháp London! Đã thế Ben còn có thể tham gia! Thế là tối thứ Sáu ở nhà bà nội bỗng trở thành ngày hào hứng nhất tuần! Và vụ trộm đã kết thúc theo một cách không ai ngờ tới nhất... "Trong tuyệt phẩm này, Walliams đã cân bằng giữa hài kịch đỉnh cao với một thông điệp đầy xúc động." *** Review sách “Bà nội Găngxtơ” – David Walliams Bài review này dành cho những bạn đã và đang tò mò về cuốn sách mà phân vân không biết có nên rước em nó về không? Thì câu trả lời là có nha. Rước lẹ ạ Cuốn truyện vẫn lôi cuốn mình như lần đầu mình đọc nó. Bạn nghĩ nó là một câu chuyện hài hước ư, chỉ một phần thôi. Bởi sâu trong nó là rất nhiều ý nghĩa về gia đình, đời sống xã hội và cả những ẩn khuất của cuộc sống hiện đại, nơi mà những người như bà nội của Ben không tìm được ý nghĩa cho những ngày còn lại ngắn ngủi của bà. Bà nội của Ben là hình mẫu điển hình y hệt như những bà nội khác. Tóc bạc xoăn tít, kính đít chai, răng giả, máy trợ thính đeo trên tai. Bà luôn có khăn giấy dùng rồi trong túi áo khoác và người bà lúc nào cũng sặc mùi bắp cải. Đối với Ben bà nội chán thôi rồi. Thế nhưng rồi trong một ngày chán phải biết khi ở với bà nội, Ben phát hiện ra một chuyện kinh thiên động địa. Bà nội của cậu là một Găng x tơ chính hiệu, một tên trộm nữ trang quốc tế. Khỏi phải nói Ben bàng hoàng cỡ nào, cậu không thể ngờ rằng bà nội của mình lại ngầu bá cháy con bọ chét như thế. Thế rồi cái nhìn của Ben về bà nội quanh ngoắt 180 độ. Cậu hâm mộ bà ghê gớm. Rồi câu chuyện tiếp diễn, mang theo những tình tiết dở khóc dở cười dành cho Ben, mang đến cho cậu biết bao nhiêu là rắc rối. Thế nhưng chính những điều ấy khiến Ben nhận ra một sự thật đến đau lòng, bà nội của cậu cô đơn đến mức nào, và bà yêu cậu tới mức nào. Khoảnh khắc khi Ben chuẩn bị rời khỏi phòng bệnh của bà, cậu ngập ngừng quay lại và nói với bà nội: “Cháu yêu bà, bà nội ạ.” đã thực sự chạm đến trái tim mình. Đó không phải là lời nói an ủi, cũng không phải là sự bồng bột. Mà đơn giản nó là điều đã tồn tại trong trái tim bé nhỏ của cậu nhóc từ lâu rồi, chỉ là bây giờ cậu mới nhận ra nó. Câu chuyện còn có một điểm rất thú vị đối với mình nữa đó là việc Ben có một đam mê mãnh liệt với việc trở thành một thợ sửa ống nước. Eo ôi! Có lẽ là điều đầu tiên mà người lớn nghĩ ngay khi biết được ước mơ của cậu, ngay cả cha mẹ của Ben cũng phải vô cùng thất vọng về cái ước mơ của con trai mình. Trong khi những đứa trẻ cùng trang lứa mơ ước những điều lớn lao, nào là trở thành ngôi sao, trở thành bác sĩ này nọ, thì Ben lại chỉ thích làm một thợ sửa ống nước. Thế thì sao chứ, đó là giấc mơ của một cậu bé và người lớn chúng ta hoàn toàn không có quyền để phán xét nó. Ai cũng có một ước mơ, và chúng ta làm tất cả mọi việc để theo đuổi nó, bằng chính sức lực của mình. Đó vốn đã là một điều tuyệt vời rồi đấy thôi. Mà còn tuyệt vời và lạ lùng hơn nữa là chính cái ước mơ tưởng chừng như dở hơi và quái đản ấy đã giúp cho Ben có một kế hoạch để đời cùng với bà nội ngầu bá cháy của mình. Liệu một cậu nhóc mê sửa ống nước và tay trộm nữ trang quốc tế đã rụng gần hết răng có thực hiện được phi vụ lớn nhất quả đất, mà theo lời Ben là sẽ gây chấn động đến toàn cầu này không. Hai bà cháu sẽ trót lọt chứ? Nếu bạn thực sự tò mò, hãy đọc nó nhé. Câu chuyện không quá dài này sẽ đem đến cho bạn trọn vẹn những cung bậc cảm xúc từ thú vị, hài hước đến những phút chạm nhẹ và sự cảm động tới tận trái tim. Review của độc giả Nguyễn Châu – Nhã Nam reading club *** Cảm ơn mọi người:   Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến một vài người đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này. Đầu tiên là Tony Ross siêu tài năng với những bức tranh minh họa kỳ diệu. Tiếp theo là Ann-Janine Murtagh, người đứng đầu sáng suốt bộ phận sách thiếu nhi của HarperCollins. Nick Lake, người bạn và biên tập viên mẫn cán của tôi. Hai nhà thiết kế tuyệt vời James Stevens - thiết kế bìa và Elorine Grant - xử lý văn bản. Người dàn trang vô cùng tỉ mỉ của tôi, Lizzie Ryley. Samantha White và những nỗ lực giúp sách của tôi được phát hành. Tanya Brennand-Roper đáng mến, người sản xuất phiên bản audio của cuốn sách này. Và tất nhiên là người đại diện văn học luôn thấu hiểu của tôi, Paul Stevens từ công ty Independent. Trên hết, chú muốn cảm ơn các bạn đọc nhí đã đọc sách của chú. Chú chân thành biết ơn vì các cháu đã đến gặp chú ở buổi ký tặng, viết thư rồi gửi cho chú tranh vẽ của các cháu. Chú thực sự thích kể chuyện cho các cháu nghe. Chú cũng mong mình có thể nghĩ ra nhiều câu chuyện hơn nữa. Cứ tiếp tục đọc sách đi nhé, rất tốt cho các cháu đấy! *** “Nhưng mà bà nội chán lắmmmm,” Ben nói. Đó là một tối thứ Sáu giá lạnh của tháng Mười một, và như mọi khi, cậu nhóc ngồi thõng người ở hàng ghế sau xe bố mẹ. Và một lần nữa, cậu lại đang trên đường đến ngủ ở căn nhà khủng khiếp của bà nội. “Người già ai cũng thế.” “Đừng có nói về bà nội con như thế,” bố nói yếu ớt, cái bụng bia tì lên tay lái chiếc xe màu nâu bé tẹo của gia đình. “Con ghét ở với bà,” Ben phản đối. “Ti vi nhà bà không bật được, lúc nào bà cũng muốn chơi xếp chữ và bà còn bốc mùi bắp cải nữa!” “Công bằng mà nói, bà bốc mùi bắp cải thật,” mẹ đồng tình trong khi cố tô nốt son viền lên môi. “Nói thế chẳng giúp được gì đâu vợ,” bố lẩm bẩm. “Cùng lắm mẹ anh chỉ hơi có mùi rau luộc thôi.” “Con đi với bố mẹ được không ạ?” Ben nài nỉ. “Con thích trò khiêu khích,” cậu nói phét. “Người ta gọi đó là khiêu vũ,” bố chữa lại. “Và con không hề thích môn đó. Con đã nói, để bố nhắc lại nhé, ‘Con thà ăn gỉ mũi còn hơn xem thứ nhảm nhí đó’.” Bố mẹ Ben đều rất thích khiêu vũ. Đôi khi Ben nghĩ bố mẹ còn yêu môn đó hơn cả yêu cậu. Có một chương trình truyền hình vào tối thứ Bảy mà bố mẹ không bao giờ bỏ lỡ tên là Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo, nơi các ngôi sao sẽ nhảy cặp cùng vũ công chuyên nghiệp. Thực ra, nếu có một đám cháy ở nhà Ben và mẹ chỉ có thể cứu được hoặc là chiếc giày bịt mũi màu vàng lấp lánh từng được Flavio Flavioli sử dụng (gã vũ công đào hoa người Ý với làn da rám nắng lấp lánh bóng loáng xuất hiện trong mọi kỳ của chương trình truyền hình tiếng tăm kia) hoặc đứa con trai duy nhất của mình, Ben nghĩ mẹ có lẽ sẽ cứu chiếc giày. Tối nay, bố mẹ cậu sẽ đến tận trường quay để xem trực tiếp chương trình Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. “Mẹ không hiểu sao con không chịu từ bỏ cái giấc mơ viển vông muốn trở thành thợ sửa ống nước để nghĩ về khiêu vũ chuyên nghiệp đi Ben ạ,” mẹ nói và đường son môi ngoác hẳn lên tận má khi chiếc xe nẩy tưng trên một con lươn giảm tốc mấp mô. Mẹ có thói quen trang điểm trên xe, khiến cho lúc đến được nơi cần tới, trông mẹ chẳng khác gì một tên hề. “Biết đâu, chỉ là biết đâu thôi nhé, cuối cùng con lại được lên Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo!” mẹ hào hứng nói thêm. “Vì nhảy chồm chồm như vậy thật là ngốc nghếch,” Ben nói. Mẹ hơi thút thít rồi với tay lấy giấy ăn. “Con làm mẹ buồn đấy. Giờ thì yên lặng và ngoan ngoãn đi Ben,” bố trả lời kiên quyết trong khi bật to loa trên xe. Hiển nhiên, đó là một đĩa Bước nhảy hoàn vũ hoàn hảo. 50 tuyệt phẩm vàng của chương trình truyền hình đình đám được in rõ nét trên bìa đĩa. Ben ghét cái đĩa này, không phải chỉ vì cậu đã nghe nó đến cả tỷ lần. Thực tế thì cậu đã nghe quá nhiều lần đến nỗi việc này giờ chẳng khác gì tra tấn. Mẹ Ben làm việc trong một tiệm làm móng trong vùng, “Tiệm sửa móng Gail”. Vì chả có mấy khách nên mẹ và một cô nữa làm việc tại đây (chẳng có gì bất ngờ khi cô đó tên là Gail) gần như cả ngày chỉ toàn ngồi sửa móng cho nhau. Đánh bóng, làm sạch, tỉa móng, giữ ẩm, sơn phủ, gắn móng, sơn bóng, giũa móng, sơn móng, nối dài và vẽ móng. Hai người cứ làm mấy thứ đó cho nhau suốt cả ngày (trừ lúc Flavio Flavioli xuất hiện trên ti vi). Thế nên mẹ sẽ luôn về nhà với bộ móng giả đủ màu dài hết cỡ. Trong khi đó, bố Ben làm bảo vệ trong siêu thị địa phương. Điểm sáng trong hai mươi năm sự nghiệp của bố chỉ là chặn được một ông già đã giấu hai ống bơ thực vật trong quần. Mặc dù bây giờ đã quá béo để đuổi trộm, bố chắc chắn vẫn có thể chặn đường chúng. Bố gặp mẹ khi tưởng nhầm mẹ định thó một túi bim bim của cửa hàng, và chỉ một năm sau hai người lấy nhau. Mời các bạn mượn đọc sách Bà Nội Găngxtơ của tác giả David Walliams & Snorlax (dịch).