Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gặp Gỡ Cuối Năm

“Gặp gỡ cuối năm” – đúng như cái tên của nó – kể về cuộc gặp gỡ tại một bữa tiệc tất niên. Chị Hoàng – chủ nhà, chủ trì – đã khiêm nhường thông báo trước là bữa tiệc “rất xoàng”, vì thế, mỗi vị khách có mặt cần phải góp một câu chuyện thật hay để bữa tiệc thêm phần hấp dẫn. Điểm qua các thực khách được mời dự tiệc tất niên, có thể khẳng định đây là cuộc gặp gỡ của trí thức thuộc nhiều thế hệ khác nhau, từng đứng ở các vị trí chính trị đối lập nhau. “Gặp gỡ cuối năm”, như vậy,  là ‘hội nghị bàn tròn’ của những người trí thức về các vấn đề xã hội. Mỗi nhân vật đề cập đến một vấn đề khác nhau nhưng tất cả đều hướng đến trả lời câu hỏi: Phải sống thế nào trong năm mới, trong tương lai khi năm cũ, quá khứ đã khép lại? Qua cuộc gặp gỡ, đối thoại của các nhân vật, người đọc được phản tỉnh: Nên sống giản dị, thuận theo tự nhiên, không tham lam, không vị kỉ, nên hết sức tỉnh táo để không lầm đường lạc lối, không xa rời mục tiêu chung của dân tộc, nên là một lực đẩy chứ đừng là lực cản trong hành trình đi lên của đất nước…   Về tác giả: Nhà văn Nguyễn Khải (1930 - 2008) là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Các sáng tác của ông thường gắn liền với những bước chuyển mình của đất nước, thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, vì thế ông được gọi là nhà văn thời sự. Nhà văn Nguyễn Khải đã nhận rất nhiều giải thưởng, trong đó có Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1982) cho tiểu thuyết "Gặp gỡ cuối năm"; Năm 2000, ông vinh dự được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II. *** Mỗi dịp tết đến xuân về, đọc lại Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, độc giả vẫn “gặp gỡ” nhiều điều thú vị. Tiểu thuyết được viết năm 1981, cách đây đã 37 năm, trong một sinh quyển ít nhiều khác biệt. Nhưng những vấn đề đặt ra trong truyện vẫn chưa cũ, vẫn có sức quyến rũ đối với người đọc hôm nay.   Gặp gỡ cuối năm – đúng như cái tên của nó – kể về cuộc gặp gỡ tại một bữa tiệc tất niên. Chị Hoàng – chủ nhà, chủ trì – đã khiêm nhường thông báo trước là bữa tiệc “rất xoàng”, vì thế, mỗi vị khách có mặt cần phải góp một câu chuyện thật hay để bữa tiệc thêm phần hấp dẫn. Bà chủ nhà bí ẩn này như đang muốn lắng nghe, đồng thời muốn bày tỏ một điều gì đó quan trọng khi năm cũ kết thúc, năm mới bắt đầu.   Cuộc gặp gỡ tiến diễn hết sức tự nhiên. Việt – nhà văn quân đội, người kể chuyện – đến sớm nhất. Sau Việt là anh Quý – luật sư, từng là viên chức của bộ ngoại giao ở chế độ cũ. Anh từng rất thành công trong sự nghiệp nhưng rồi anh bị rơi vào mặc cảm thất bại. Sau bao nhiêu trải nghiệm cuộc sống, bây giờ anh muốn né tránh mọi chuyện, cười nói như một kẻ vô tâm. Nhưng đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, trong thâm tâm anh là cả “một nỗi niềm, một chí hướng, một nhớ tiếc nào đó”. Đến thứ ba là vợ chồng anh Hảo. Anh Hảo là luật sư được đào tạo ở Pháp, từng làm tri huyện nhưng sớm treo ấn từ quan để đi theo kháng chiến, từng được giao giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền cách mạng. Là một “công tử” đi làm cách mạng, có lúc anh được tin tưởng, có lúc bị nghi ngờ nhưng lúc nào anh cũng sống đúng là mình, “dám nói to những điều anh cho là đúng”. Người đến thứ tư là anh Đại, đã tám mươi tuổi nhưng vẫn rất galant và hóm hỉnh. Anh trước kia là kĩ sư hóa học được đào tạo ở Đức, không theo khuynh hướng chính trị nào nhưng ủng hộ nhiệt tình tất cả các phong trào yêu nước. Anh bị bắt, bị tù đày, bị mất hết gia sản cũng chỉ vì yêu nước. Đến thứ năm là anh Chương và Bình. Anh Chương là người có hai bằng tiến sĩ, một luật, một văn chương. Anh từng giữ các chức vụ quan trọng: viện trưởng một viện đại học, bộ trưởng quốc gia giáo dục, làm thượng nghị sĩ trong nhóm đối lập. Sau khi hòa bình được tái lập anh phải đi cải tạo rồi trở về làm một người dân thường, tâm tính đã có nhiều thay đổi. Còn Bình thì trẻ, đẹp trai, lịch thiệp, năng động, mới tốt nghiệp đại học vài năm nhưng đã là giám đốc một công ti. Theo nhận xét của anh Hoàng thì Bình “lịch sự, tinh tế như Pháp mà lại nhanh chóng, thiết thực như Mĩ”. Đến thứ sáu là Quân. Dưới cái vỏ bên ngoài là một nhà báo quốc tế, Quân tham gia công tác tình báo đã nhiều năm. Từng gặp rất nhiều loại người, phải đối diện với rất nhiều hiểm nguy nhưng Quân vẫn một lòng vì lí tưởng cách mạng. Quan điểm sống của Quân rất rõ ràng: “Quốc gia hữu sự, kẻ thất phu còn phải gánh trách nhiệm huống hồ là anh trí thức”, “Làm người đã khó, làm trí thức lại càng khó hơn. Hàng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn, lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời”.   Điểm qua các thực khách được mời dự tiệc tất niên, có thể khẳng định đây là cuộc gặp gỡ của trí thức thuộc nhiều thế hệ khác nhau, từng đứng ở các vị trí chính trị đối lập nhau. Sự góp mặt của các nhân vật có cuộc đời không hề “nhạt nhẽo” này dự báo câu chuyện đêm giao thừa sẽ có nhiều bất ngờ thú vị.   Cuộc gặp gỡ diễn ra trong không khí thân mật ấm cúng và đầy cởi mở như ý của chủ nhà. Chỉ trong thời gian một bữa tiệc, bao nhiêu câu chuyện hấp dẫn đã lần lượt được kể ra, chuyện xưa có, chuyện nay có, chuyện kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa, khoa học… đều có. Sau mỗi câu chuyện, người dự tiệc lại đưa ra những lời bàn thể hiện quan điểm cá nhân của mình. Hình như trong lòng mỗi người đều ăm ắp tâm sự, chỉ mong có cơ hội để được phơi trải, giãi bày. Từ câu chuyện về cách ứng xử kì quặc để thể hiện khí tiết của Nguyễn Thế Truyền, Quân cho rằng đó là kiểu “trí thức trùm chăn” và anh nêu rõ quan điểm của mình về cách hành xử cần có của người trí thức khi đất nước lâm nguy. Câu chuyện về “chú Phùng” và các mối quan hệ phức tạp đầy bất ngờ của nhân vật này với nhân viên C.I.A thể hiện nhận định riêng của Quân về các mối quan hệ phức tạp của các nước trong chiến tranh Việt Nam. Vấn đề lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong làm ăn kinh tế, mối liên hệ giữa miếng cơm manh áo và lí tưởng sống, sức mạnh của đồng tiền… được Bình nói đến bằng những câu chuyện đời thường hết sức sinh động. Rồi câu chuyện về những ngày sống ở Mã Đảo của anh Đại. Thoạt đầu tưởng chỉ là một câu chuyện “nhạt” của một ông già đã mất hết sự minh mẫn, nào ngờ chứa trong đó là nhiều câu chuyện về âm mưu, thủ đoạn và sự giành giật đến kinh hoàng. Rồi câu chuyện về thiền của anh Chương, anh Hảo cũng được mọi người hưởng ứng sôi nổi. Đâu chỉ là chuyện thiền, đó còn là chuyện nhận thức cuộc sống, lựa chọn cách sống, tâm thế sống trước những biến động. Câu chuyện tử vi số mệnh cũng thu hút sự quan tâm của cả người già và người trẻ. Từ chuyện tử vi, vai trò của con người trong việc chủ động hoán cải số mệnh đã được củng cố. Anh Chương không ngần ngại bày tỏ nỗi đau đời, sự mệt mỏi của bản thân trong cảnh ngộ hiện tại. Câu chuyện tranh giành quyền lực và sự chi phối của đồng tiền đến việc hình thành đại cục trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước kia được anh Chương và Quân nói đến một cách say sưa. Anh Đại và Bình quan tâm đến mối quan hệ giữa đồng tiền và nhân cách… Cứ thế, mỗi câu chuyện hé mở một điều mới mẻ về sự thật trong quá khứ, sự thật đang diễn ra và cuộc đối thoại bình đẳng cất lên những tiếng nói cá nhân sâu sắc.   Gặp gỡ cuối năm, như vậy, là “hội nghị bàn tròn” của những người trí thức về các vấn đề xã hội. Trong “hội nghị” này không có sự phân biệt tuổi tác, vai vế, tư cách chính trị, mỗi người đều được quyền nói thẳng nói thật những nhận thức, quan điểm cá nhân của mình. Tác phẩm ra đời năm năm sau khi chiến tranh kết thúc. Đây là lúc những khách mời nhìn lại lịch sử, nhìn lại chính mình sau độ lùi thời gian cần thiết để rút ra bài học cho hiện tại và tương lai. Quân và Quý có chung nhận định, không ai có thể đứng ngoài chính trị, ngay cả những người nói là họ không quan tâm đến chính trị thì “không quan tâm” đã là một thái độ chính trị rồi. Vì thế mà mỗi người, đặc biệt là mỗi trí thức, phải hết sức thận trọng, “từng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn”, “lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời”. Anh Chương – người một thời lầm lỡ – khẳng định, đã là trí thức thì không ai bán nước cả, anh Hảo thành công do đi đúng đường, còn mình thất bại là do buổi đầu lựa chọn đường đi không đúng. Với anh Đại và Bình thì con người cần có lòng tự trọng. Khi đất nước có ngoại bang xâm lược, lòng tự trọng thể hiện ở việc đóng góp sức người sức của cho đất nước, ở thái độ bất hợp tác với kẻ thù; còn thời bình, lòng tự trọng thể hiện ở việc chiến thắng những ham muốn vật chất của cá nhân, dám từ chối quyền lợi cá nhân khi quyền lợi ấy mâu thuẫn với lợi ích tập thể. Bình quyết liệt hơn khi nói tới vấn đề đồng tiền…   Mỗi nhân vật đề cập đến một vấn đề khác nhau nhưng tất cả đều hướng đến trả lời câu hỏi: Phải sống thế nào trong năm mới, trong tương lai khi năm cũ, quá khứ đã khép lại? Anh Quý nguyện sẽ không vì “mưu cái lợi riêng mà nỡ phá phách sự nghiệp chung”. Anh Chương chỉ mong muốn được trở về với gia đình, làm một người chồng, người cha tốt. Anh Hảo vẫn tiếp tục chọn cách sống thuận theo tự nhiên bởi anh đã tìm thấy ở đó sự an lạc. Bình khẳng định, nếu người trẻ để sức mạnh đồng tiền cám dỗ thì sẽ mất tất cả. Quân mong muốn được là “một cái gì đó trong khoảnh khắc ta đang sống, là một sức đẩy dẫu là yếu ớt vào cái dòng lưu chuyển chung”. Chị Hoàng tỉ mẩn chuẩn bị bữa tiệc mà mỗi món là một món khoái khẩu đối với từng khách mời; chị còn chọn mặc bộ quần áo đẹp nhất, sang nhất trong thời khắc chuyển giao năm cũ và năm mới. Chị Hảo, chị Bơ cũng góp thêm mấy món ăn thật tết, thật truyền thống mà mình kì công làm để mời mọi người… Dù mỗi người mang một nỗi niềm, một tâm sự riêng nhưng đến giờ phút giao thừa, không ai bảo ai, tất cả cùng hân hoan nâng li chúc mừng năm mới. Qua cuộc gặp gỡ, đối thoại của các nhân vật, người đọc được phản tỉnh: Nên sống giản dị, thuận theo tự nhiên, không tham lam, không vị kỉ, nên hết sức tỉnh táo để không lầm đường lạc lối, không xa rời mục tiêu chung của dân tộc, nên là một lực đẩy chứ đừng là lực cản trong hành trình đi lên của đất nước…   Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải đã vượt lên giới hạn của buổi tiệc tất niên thông thường khi năm hết tết đến của một gia đình để trở thành cuộc gặp gỡ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là cuộc gặp gỡ cần thiết của các thế hệ, của những trải nghiệm sống, những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong quá khứ để có thêm bài học cần thiết cho hiện tại và tương lai. Tác phẩm này cứ vẫn tươi mới chừng nào con người không thôi thiện chí và khát vọng làm mới mình, làm mới cuộc đời. *** T ôi là người đến đầu tiên trong đám khách được bà chị tôi mời tới ăn bữa cơm cuối năm. Theo chị nói, Tết này chị không ăn Tết, chỉ làm một mâm cơm cúng tối Ba mươi, ngày mồng Một đóng cửa không tiếp khách, ngày mồng Hai xoa mạt chược, ngày mồng Ba ngủ, từ ngày Bốn trở ra mọi sự lại như năm cũ. Cũng chẳng có năm cũ và năm mới, ngày hôm qua và ngày mai, ngày ngày đều giống nhau, người người thì tàn tạ, tiền bạc hiếm hoi dần, tin vui thưa vắng dần, nhưng vẫn cứ phải sống, chẳng có ai chết, họ nội họ ngoại suốt năm năm nay không có một ai chết. Người bảy mươi sắp sang tuổi bảy mốt, người tám mươi sắp sang tuổi tám mốt, như vẫn còn muốn sống thêm cả chục năm nữa, lạ thật, quái quỷ thật, trêu chọc nhau thật. Tôi nói: - Nhưng sang ngày mai chị vẫn cứ phải thêm một tuổi, ví như năm nay chị sáu mươi, qua đêm nay tuổi chỉ sẽ là sáu mươi mốt. Chị Hoàng vội xua tay: - Không khiến nịnh, nỡm ạ. Năm nay tao sáu tư, sang năm đã là sáu nhăm. - Đấy nhé, vẫn cứ là "sang năm". - Ừ, ừ, có ai bảo ngày hôm nay không là ngày cuối cùng của một năm đâu. Nhưng ngày mai là ngày gì? Là ngày đầu tiên của một năm mới à? Với các anh thì phải, nhưng với tôi vẫn là một năm cũ, mãi mãi là một năm cũ, mỗi năm mỗi cũ đi! Mỗi năm mỗi cũ đi, có lẽ đúng, với chị là đúng. Người chị mập hơn, các thớ thịt trên mặt như lỏng ra, chảy dần xuống. Tóc chưa bạc nhưng thưa nhiều, nhìn rõ cả da đầu. Cũng là cũ rồi, mỗi năm mỗi cũ, tôi thầm nhắc lại rồi bật cười: - Bữa cơm tất niên gì mà lạ, không có người mới ra, chỉ có những người cũ đi. - Mày thì sao? - Cũng đang cũ dần đi. - Năm mươi ngoài chỉ có cũ đi chứ mới ra thế nào được. Tôi trách: - Một lũ người ọp ẹp, cũ kỹ ngồi cạnh nhau, ngắm nhìn nhau để đón hy vọng một năm mới! Cái trò chơi độc ác này chắc là phát minh của riêng chị. Chị Hoàng nhìn chăm chú những ngón tay mới sơn móng đỏ chót, cười nhạc không nói gì. Bà chủ đã tiều tụy tang thương, mà cái nơi để trú nấp, để vào ra cũng tả tơi, lở lói, tan nát, là phòng chờ của nhà ga, là quán trọ của tỉnh lẻ, chứ không thể là nơi của một gia đình. Từ hai năm nay chỉ có hai vợ chồng già sống với nhau tại số nhà này, còn con trai, con dâu và các cháu nội đã lần lượt ra nước ngoài bằng nhiều đường bí mật khác nhau, phiêu bạt tại nhiều nơi nhưng đều bình an cả. Người ở lại sống để chờ đợi đến lượt mình cũng sẽ ra đi, tất nhiên là phải đi thật đàng hoàng, có giấy xuất cảnh và nhập cảnh, có tiễn và có đón. Nhưng là bao giờ? Là tháng sau? Là năm tới? Cái đó còn tùy ở sự may rủi, ở mệnh trời. Lại mệnh trời! Bà con trong này mười người có đến chín tin ở mệnh trời. Ông đồng bà cốt nở như sâu. Trong các khoản tiền chi hàng tháng có một khoản chi cho việc xem tướng số, "mua hy vọng" người ta bảo thế, không có hy vọng thì sống làm sao? Ông anh tôi là một trường hợp ngoại lệ. Ông là một viên chức gương mẫu, là cái đinh, cái vít của một guồng máy hành chính tinh xảo, là giáo sư trường Quốc gia Hành chánh thời chế độ cũ. Tóm lại, là người chỉ tin ở những gì trong phạm vi hiểu biết và tính toán của chính mình, trong tầm tay với của chính mình. Thậm chí đến sự buồn, vui, mừng, giận cũng có thể tự kiềm chế được. Một gương mặt bất động, một dáng đi lặng lẽ, tiếp chuyện ai thì nghe và nhìn, chỉ nói khi rất cần, tiếp nhận chứ không ban phát, thi hành chứ không bàn luận, cần sự chuẩn xác chứ không cần sự bay bướm, là người rất hiền và rất lành như nhận xét của cả họ, là "type" viên chức hoàn hảo nhất, theo nhận xét của riêng tôi. - Anh đi đâu nhỉ? - tôi hỏi - Chiều Ba mươi vẫn có người mời xoa à? - Đi làm đẹp, hớt tóc, cạo râu, đón xuân mới. Tôi cười ngờ vực: - Ồ, ông già còn lạc quan nhỉ? - Cũng buồn rồi, nóng ruột lắm rồi, có bữa chị để ý thấy mặt anh đỏ bừng, hai bàn tay nắm chặt lại nện khe khẽ lên tay ghế. Muốn điên lắm đấy. - Còn chị? Chị Hoàng nhìn tôi, mắt nhìn như dại đi: - Chị hả? Chị đã trải qua các thời kỳ. Bây giờ thì trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng. Có thể, chị nói là có thể lát nữa, trước đông đủ mọi người chị sẽ nói rõ cái ý định sắp tới của chị. Tôi vẫn cười cợt: - Chị có thể cho em biết trước được không? Chị vẫn nhìn tôi chằm chặp: - Không, không thể cho biết trước được. Tối nay đối với anh chị sẽ là một tối không bình thường. Chuyện gì thế nhỉ? Chuyện gì có vẻ nghiêm trọng đến thế nhỉ? Nhưng phải đợi lát nữa. Những ai sẽ có mặt tại nhà này trong lát nữa? o O o Người khách đến sau tôi là anh Quý, xuất thân luật sư, sau làm viên chức của Bộ ngoại giao các chính quyền của chế độ cũ. Một nhà ngoại giao cũng có tên tuổi, nghe người ta bảo thế, bạn thân của cả hai anh chị tôi từ vài chục năm nay và hiện giờ là khách xoa mạt chược những ngày chẵn của gia đình. Thoạt làm quen tôi không ưa anh lắm. Anh cười đùa như một kẻ vô tâm, tránh né mọi sự bình phẩm và hoàn toàn không có ý kiến gì về thời cuộc. Mỗi lần gặp tôi chỉ trò chuyện với anh qua loa, vì cái ông già lễ phép và lãnh đạm chẳng có gì buộc tôi phải chú ý. Nhưng có một bận nghe anh đọc và bình một đoạn thơ trong "Ly Tao" của Khuất Nguyên, tôi mới nhận ra mình đã hiểu lầm người. Cái ruột trong rất khác với cái vỏ ngoài. Anh cũng có một nỗi niềm, một chí hướng, một nhớ tiếc nào đó. Bữa ấy tôi hết lời tán tụng cái giọng đọc thơ của anh vì không tiện đả động tới cái khác. Nhưng chính anh lại gợi: "Cậu chỉ khen cái giọng thôi à?". Tôi nóng mặt: "à, có cả cái khác nữa chứ, cái bên trong, cái tâm tư của anh!". Anh cười ha hả: "Tôi nhìn vào cậu để đọc đoạn thơ này, cậu phải thế nào tôi mới đọc được hay đến thế chứ?" Bà chị tôi nói dằn dỗi: "Còn tôi chỉ là cái túi thịt trong con mắt các người, có phải không?". Anh vẫn cười: "Thế bà còn muốn gì hơn nào". Họ vẫn ăn nói với nhau chớt nhả, suồng sả như vậy, nhưng chẳng ai giận ai cả, bè bạn với nhau những mấy chục năm mà. Rồi anh khoe cũng có làm nhiều thơ lắm, làm cho mình chứ không dám đọc cho ai nghe. "Cái tâm mình thì thật mà chữ nghĩa sao nó cũ kỹ, khuôn sáo thế. Thì ra, cái sáo của nghề ngoại giao đã thấm nhiễm vào tôi quá lâu rồi", anh tự thú nhận như vậy. Mời các bạn đón đọc Gặp Gỡ Cuối Năm của tác giả Nguyễn Khải.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trái Tim Tuổi 19 - Tony Parsons
Bạn mất gì khi bỗng dưng trẻ lại? Và bạn được những gì? Bạn sống cuộc sống của mình như thế nào? Bạn nên quan tâm dến hành tinh và xã hội ở mức độ nào so với những người mà bạn thương yêu? Bạn có muốn trở thành người bạn của con cái hoặc cha mẹ mình không? Đến lúc nào bạn mới thôi bắt cha mẹ chăm sóc mình để bắt đầu lo lắng cho họ? Ở độ tuổi nào thì một người đàn ông trở nên lố bịch khi mặc chiếc quần jeans bó sát? Trái tim tuổi 19 là hành trình kiếm tìm lời giải, kiếm tìm sự khai sáng, là câu chuyện về việc bạn trưởng thành như thế nào, làm thế nào để từ bỏ những giấc mơ tuổi trẻ và theo đuổi những mục tiêu cao đẹp hơn, và liệu có bao nhiêu cơ hội để bạn thực hiện điều đó. - George Bailey được trao tặng một món quà mà tất thảy chúng ta đều mơ ước: đó là cơ hội được sống thêm lần nữa. Sau một cơn đau tim ở tuổi 47, George được thay tim của một cậu bé 19 tuổi, và bỗng dưng mọi thứ đổi thay.   Anh không còn là ông bố nghiêm khắc, luôn dõi theo nhất cử nhất động của cậu con trai và cô con gái đang tuổi lớn. Anh trở thành bạn của các con. Anh yêu vợ hết mực, Song đã không còn là một người chồng đúng nghĩa. Và anh muốn thay đổi cả thế giới...  "Một câu chuyện rất thật về cách chúng ta vẫn loay hoay tìm kiếm tình yêu và sau khi có được rồi, chúng ta lại đạp đổ đi...đôi khi chỉ vì điều đó dễ dàng hơn"   -Observer *** Được sống thêm lần nữa là món quà kỳ diệu của cuộc sống, cũng giống như Chúa vừa ném vào đống lửa đang tắt của chúng ta thêm một que củi vậy. Với ngòi bút dí dỏm, tinh tế, tác giả Tony Parsons mang đến cho người đọc câu chuyện cảm động và ý nghĩa về giá trị của cuộc sống trong cuốn Trái tim tuổi 19. Cuốn sách kể lại chuyện, sau cơn đau tim, viên cảnh sát bàn giấy George Bailey, 47 tuổi, được thay trái tim của một cậu bé 19 tuổi. Xuất viện, George trở lại với cuộc sống của mình, thế nhưng, anh sớm nhận ra mọi thứ không còn như xưa. Anh làm tình với vợ, đam mê và mãnh liệt như một chàng trai 19. Anh thấy đồng cảm với tham vọng cứu vớt hành tinh của cô con gái nhỏ, và gần như trở thành người bạn của cậu con trai lớn hơn là một ông bố. George không biết được rằng điều này lại trở nên tồi tệ. Cuộc sống của anh đã đảo lộn. Vợ của George, Lara, chợt nhận ra sống cùng chồng chẳng khác nào sống cùng một cậu bé mới lớn. Mệt mỏi vì phải một mình gánh vác trọng trách nuôi dạy con cái và hụt hẫng vì người chồng mình yêu thương dường như trở thành một người khác, Lara muốn rời xa George. Thế nên, tạm thời anh chuyển đến sống cùng bố mẹ. Anh thường xuyên say khướt vì chẳng biết mình thực sự là ai. Anh khao khát được quay về cuộc sống bên vợ và hai con như trước kia. Vì thế, Geogre quyết định tìm hiểu món quà được trao tặng, trái tim đang đập trong lồng ngực mình đến từ đâu. Trong thời gian này, anh dần nhận ra nhiều điều mới mẻ và giá trị trong cuộc sống. Tony Parsons vừa là nhà văn vừa là nhà báo viết mảng âm nhạc tại Anh. Ông là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết bán chạy như: One For My Baby (2001), Man and Wife (2003), The Family Way (2004), Stories We Could Tell (2006), My Favourite Wife (2007), Starting Over (2009) và Men From the Boys (2010). Mời các bạn đón đọc Trái Tim Tuổi 19 của tác giả Tony Parsons.
Những Dải Trắng Trên Nền Đen - Ruben David Gonzalez Gallego
Ruben David Gonzalez Gallego. Cái tên thật bất thường với một người viết bằng tiếng Nga, lần đầu tiên xuất hiện vào năm 2001 trên tờ báo Sự kiện và Bình luận, và trong chương trình Ghi chép từ cô nhi viện phát trên Đài tự do của Nga.  Cuộc đời của Ruben David Gonzalez Gallego còn ly kỳ hơn cả số phận anh hùng và huyền thoại của tác giả Thép đã tôi thế đấy, Nicolai Oxtrovski.  Sinh năm 1968, Ruben là cháu ngoại của Ignacio Gallego, tổng bí thư đảng cộng sản Tây Ban Nha. Mẹ anh, Aurora Gallego, được gửi sang Moscva để “cải tạo”, gột sạch những tư tưởng phương Tây được bà hấp thụ trong những năm học ở Pháp. Ở Moscva, bà quen với chàng sinh viên người Venezuela. Kết quả của cuộc tình bị ngăn cấm là hai đứa trẻ sinh đôi, một chết ngay sau khi sinh, một bị liệt não bẩm sinh. Sau một lần đứa trẻ lên cơn, người mẹ được thông báo là nó đã chết. Sự thật là nó được đưa đến cô nhi viện dành cho trẻ tàn tật. Rồi từ đó bắt đầu những chuyến di chuyển liên miên tới các bệnh viện và cô nhi viện, nơi mà hai thìa cháo kiều mạch đã là đặc sản, nơi người ta quở trách lũ trẻ khi cho chúng ăn, rằng chúng đang tranh phần của các phi công vũ trụ. Một cuộc sống địa ngục sau khi bị tuyên bố là đã chết.  Nhưng câu chuyện có một kết cục thật không tưởng, trái với những gì đáng lẽ phải xảy ra, Ruben không những sống được mà còn có một cuộc sống bình thường như mọi người. Anh tốt nghiệp Cao đẳng Thương mại, hai lần lấy vợ, có hai đứa con gái, có dịp ra nước ngoài để hiểu rằng còn có một thế giới nơi những người như anh được giúp đỡ, được cổ vũ, được khâm phục. Ba mươi năm sau, anh tìm lại được mẹ mình, cùng  bà trở về sống tại quê hương.  Giải thưởng Booker Open Russia, một giải thưởng văn học danh giá của Nga, lần đầu tiên trong mười hai năm tồn tại đã được trao cho một người Tây Ban Nha, hơn nữa lại được trao cho một tác phẩm đầu tay. Và hoàn toàn xứng đáng. Cuốn tiểu thuyết Những dải trắng trên nền đen, được viết dưới dạng tập truyện ngắn, cũng như chính cuộc đời của Ruben đã làm đảo lộn mọi quan niệm thông thường về hạnh phúc. Một người có tất cả vẫn có thể là bất hạnh, còn kẻ bị tước bỏ mọi điều lại là người hạnh phúc nhất. Anh đã chứng minh một chân lý giản dị và xưa cũ, rằng con người không chỉ là một mớ cơ bắp và thần kinh, con người có tâm hồn và tâm hồn có thể tồn tại ngoài thể xác ngay cả khi người ta còn sống. “Tôi chỉ ghi ra giấy cuộc đời của mình. Không phải để lưu lại, mà chỉ để cho một số ít người cần đọc nó.” – Ruben nói. Cuốn sách viết về sự thật dã man, đen tối và nghiệt ngã, mà không một chút hận thù, chỉ tràn ngập ánh sáng của tình yêu.Những dải trắng trên nền đen.  Nhà xuất bản hội nhà văn *** Đôi khi mọi người hỏi tôi, những điều tôi viết có thật không.   Các nhân vật của tôi có thật ngoài đời không.  Tôi xin trả lời có, chúng có thật; thật hơn cả thật. Tất nhiên các nhân vật của tôi được gom lại từ những thay đổi bất tận trong những chuyến di chuyển bất tận được các cô nhi viện. Nhưng những điều tôi viết là sự thật.  Điểm đặc biệt duy nhất trong sáng tác của tôi, sáng tác xa rời, đôi khi là mâu thuẫn với hiện thức cuộc sống, là quan niệm, có thể hơi duy cảm, đôi khi đến mức hưng phấn. Tôi luôn luôn cố tránh viết về điều tồi tệ.  Tôi biết cuộc sống và văn học đã đầy u ám. Tôi đã phải chứng kiến quá nhiều tàn nhẫn và độcác của con người. Tôi muốn viết về cái thiện, về chiến thắng, về niềm vui và tình yêu.  Tôi viết về sức mạnh. Sức mạnh tinh thần và thể xác. Sức mạnh có trong mỗi chúng ta. Sức mạnh phá tung mọi rào chắn và chiến thắng. Mỗi một câu chuyện của tôi đều kể về chiến thắng. Thậm chí cậu bé trong truyện buồn “Thịt băm viên” cũng chiến thắng. Chiến thắng hai lần. Lần thứ nhất, giữa vô vàn kiến thức không cần thiết, trong hoàn cảnh không có dao bên mình, cậu đã chọn ra được ba từ duy nhất có tác dụng đôi với đối thủ. Lần thứ hai, khi quyết định ăn thịt băm viên, tức là quyết định sống.  Chiến thắng dàng cho cả những người mà bước thắng lợi duy nhất là tự nguyện rời bỏ cuộc sống. Người sĩ quan hy sing trước thế đang lên của kẻ thù, chết theo điều lệ, là người chiến thắng. Tôi kính trọng những người như vậy. Dù vậy, điều cốt yếu trong con người ấy là những đồ chơi nhồi bông. Tôi tin rằng suốt đời khâu những con gấu và thỏ nhồi bông khó hơn nhiều một lần tự cứa cổ. Tôi tin, trên cán cân xã hội niềm vui sướng trẻ thơ khi có đồ chơi mới sẽ nặng hơn bất cứ chiến công quân sự nào.  Cuốn sách này kể về tuổi thơ của tôi. Một tuổi thơ khủng khiếp, đáng sợ nhưng dù sao vẫn là tuổi thơ. Để giữ tình yêu cuộc đời, để lớn và trưởng thành, đứa  trẻ không cần gì nhiều: một mẩu mỡ, miếng bánh kẹp giò, một vốc chà là, bầu trời xanh, vài cuốn sách, những lời nói ấm áp tình người. Thế là đủ, thế là quá đủ.  Nhân vật của cuốn sách này là những người mạnh mẽ, rất mạnh mẽ. Con người thường hay phải mạnh mẽ. Và nhân hậu. Không phải ai cũng cho phép mình nhân hậu, Không phải ai cũng có thể vượt qua được rào chắn thiếu cảm thông. Lòng tốt thường bị coi là yếu đuối. Thật buồn. Làm người rất khó, nhưng có thể được. Để làm được điều đó không nhất thiết phải đứng được trên hai chi sau. Không nhất thiết. Tôi tin thế.  Ruben David Gonzalez Gallego Mời các bạn đón đọc Những Dải Trắng Trên Nền Đen của tác giả Ruben David Gonzalez Gallego.
Lặng Nhìn Đời Qua Những Thanh Âm - Jan-Philipp Sendker
Vì sao mưa rơi trong lòng người dù bên ngoài nắng rạng, và vì sao nỗi buồn chẳng viện cầu nguyên nhân… Bắt đầu từ tiền đề “bất hạnh chỉ là chút sẩy tay của tạo hóa”, câu chuyện trôi tuột về một quá khứ bão bùng.Một cô gái thị thành New York, một ngày ngủ dậy không thấy người cha thành đạt và phong độ của mình đâu nữa. Ông biến mất, một cách thong thả, đường hoàng, không che giấu vết tích, chỉ bặt vô âm tín khi người ta nhặt được hộ chiếu của ông rơi vãi ở Thái Lan. Cô gái hỏi mẹ mới biết, bà không rõ ông là ai, ông từ đâu đến sau ba mươi lăm năm chung sống. Giữa những vật dụng cha để lại, cô gái tìm được một lá thư tình không bao giờ gửi, đề một địa chỉ ở Đông Nam Á xa xôi.Theo địa chỉ cô tìm đến, nhưng chưa thấy cha đâu, cô đã bị ném vào một quá khứ chông gai đến huyền hoặc. Quá khứ ấy, trải ra giữa thiên nhiên dịu dàng, có gió ngan ngát, có nắng ngai ngái, có chiều buông thật chậm, có không khí mơn man tinh tế của từng khoảnh khắc trong ngày. Lòng sẽ dịu êm đến khôn cùng khi đi qua từng trang giấy. Mắt sẽ chảy những dòng lệ ngọt ngào nhất khi nhận ra, bất hạnh cũng không là gì hơn những chướng ngại tạm thời, bình thản vượt qua thì có thể đi rất xa và bởi thế, đây còn là cuốn sách cổ vũ tinh thần theo cách thức tự nhiên hết sức.Nó chứa đựng những miêu tả tinh tế, tỉ mỉ về cảm xúc và giác quan, về môi trường sống dị đoan lạc hậu nhưng lại là nơi con người có thể lớn lên trong trẻo và trung thực với bản thể; về cách đối xử khác nhau của cha mẹ trước khiếm khuyết của con cái tác động thế nào đến cuộc đời và tâm hồn chúng; về một mối tình rực rỡ không phải nhờ màu sắc mà nhờ âm thanh, tỏa sáng dưới bóng đổ của những dãy núi khắc khoải gió mùa. Và về một Myanmar vốn ở gần mà vẫn xa chúng ta, nay bỗng thân quen đến lạ qua ngòi bút không biên giới của một tác giả người Đức. *** Tôi bắt gặp ánh mắt của người đó. Hai con ngươi trũng sâu, ông ta lom lom nhìn tôi. Thật ra, mấy người trong quán trà đều đang tọc mạch dõi theo tôi, nhưng ông ta là kẻ táo tợn hơn cả. Chừng như tôi là thứ sinh vật ngoại lai ông ta chưa thấy bao giờ. Tôi cố lờ đi và liếc quanh quán trà. Một cái lán nhỏ, vài ba bộ bàn ghế trên nền đất khô bụi bặm. Sát bức vách phía xa kê chiếc tủ kính bày bánh ngọt và bánh gạo bám đầy ruồi. Cạnh đó, nước pha trà đang sôi sùng sục trong chiếc ấm đặt trên bếp ga. Những chai soda màu cam được chất trong mấy thùng gỗ ở góc. Tôi chưa từng tới nơi nào tồi tàn đến thế. Nóng như đổ lửa. Mồ hôi mẹ, mồ hôi con túa ra từ thái dương và cổ. Quần jeans bết vào người. Tôi ngồi trên ghế, băn khoăn chưa biết làm gì thì ông ta đứng dậy, tiến lại gần. “Cô gái trẻ, tôi thành thật xin lỗi vì sự mạo muội này,” ông ta lên tiếng và ngồi xuống bàn tôi. “Tôi biết như vậy thực khiếm nhã, nhất là khi chúng ta chưa hề quen biết, hoặc ít nhất, với cô, tôi hoàn toàn xa lạ. Tên tôi là U Ba. Tôi đã được nghe rất nhiều về cô. Tôi biết chứ, điều đó cũng không có nghĩa tôi được phép hành xử lỗ mãng thế này. Hẳn cô khó chịu lắm khi bị một kẻ lạ hoắc bắt chuyện trong một quán trà ở thành phố lạ, tại một vùng đất cũng xa lạ nốt. Tôi hiểu chứ, thực đó, nhưng tôi mong, đúng hơn là tôi cần được hỏi cô một câu. Tôi đã chờ đợi cơ hội này bao lâu nay, giờ cô đang ở ngay đây, tôi thật không thể chỉ ngồi nhìn và im lặng. “Chính xác thì tôi đã đợi bốn năm. Bao buổi chiều, tôi cứ đi đi lại lại trên con đường chính bụi mịt mù, nơi xe buýt sẽ thả xuống vài vị khách du lịch lạc bước đến nơi đây. Thi thoảng, vào những ngày hiếm hoi có máy bay đáp xuống từ thủ đô, nếu thu xếp được, tôi sẽ tới cái phi trường tin hin ấy để kiếm tìm cô. “Đằng đẵng bao tháng ngày. “Tôi không có ý trách cô đâu. Xin đừng hiểu lầm. Tôi chỉ là một lão già chẳng biết mấy nữa sẽ nhắm mắt xuôi tay. Người dân nước tôi mau già, lại còn chết trẻ. Cái kết của cuộc đời tôi sắp sửa gần kề. Nhưng tôi còn một câu chuyện chưa kể, câu chuyện dành riêng cho cô. “Cô cười. Có lẽ cô nghĩ tôi mất trí, khùng điên, không thì cũng lập dị? Cô có lý do để tin như vậy. Nhưng tôi xin cô, xin cô đừng quay mặt đi. Đừng để vẻ ngoài của tôi đánh lừa. “Ánh mắt cô đang mất dần kiên nhẫn. Làm ơn, hãy giúp tôi thỏa nguyện. Không có ai đang đợi cô, đúng chứ? Cô tới một mình, tôi cũng đoán vậy. Cho tôi xin ít phút. Hãy ngồi đây cùng tôi thêm chút nữa thôi, Julia. “Cô bất ngờ phải không? Đôi mắt nâu xinh đẹp của cô đang mở to, và lần đầu tiên, cô nhìn thẳng vào tôi. Ắt cô kinh ngạc lắm. Cô đang tự hỏi làm thế nào tôi biết tên cô khi chúng ta còn chưa hề gặp mặt, chưa kể, đây là lần đầu tiên cô đến đất nước này. Cô thầm nghĩ hay tôi thấy nhãn tên của cô đâu đó, trên áo khoác hoặc chiếc ba lô nhỏ. Không đâu. Tôi biết tên cô, ngày và thậm chí cả giờ cô cất tiếng khóc chào đời. Tôi biết tất cả về cô bé Jule thích nhất được nghe cha kể chuyện. Tôi còn có thể nói ngay tác phẩm cô bé yêu thích nhất: Chuyện chàng hoàng tử, công chúa và cá sấu. Mời các bạn đón đọc Lặng Nhìn Đời Qua Những Thanh Âm của tác giả Jan-Philipp Sendker.