Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lãnh Đạo Bằng Sự Khiêm Nhường

Trong một thời đại mà những người nổi bật, ăn to nói lớn luôn thu hút mọi sự chú ý, lối sống khiêm nhường có thể được xem như là một điểm yếu. Nhưng sức mạnh của Giáo hoàng Francis lại bắt nguồn từ chính đức khiêm nhường của ông. Đi lại chỉ bằng chiếc xe Ford Focus, từ chối sống tại căn hộ giáo hoàng xa hoa, quan tâm chăm sóc đến người nghèo ‒ những hành động này thể hiện một hình mẫu lãnh đạo mà từ lâu chúng ta không còn được trông thấy. Giáo hoàng đã trở thành một trong những người được bàn luận nhiều nhất trên thế giới, một nhân vật tôn giáo được tôn kính nhất, một nhà lãnh đạo giàu phẩm hạnh. Lãnh đạo bằng sự khiêm nhường sẽ chỉ cho bạn cách để có thể trở nên giàu lòng trắc ẩn, đáng tin cậy cũng như tăng tính hiệu quả trong công việc. Tác giả Jeffrey A. Krames đã diễn giải những quan điểm và hành động của Giáo hoàng thành những chiến lược thực tiễn mà bất kỳ ai cũng có thể áp dụng. - Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa mọi người. - Chú trọng nâng cao thế mạnh của người khác. - Cân nhắc và tham khảo mọi ý kiến. - Giao tiếp với mọi người, bất kể vị trí của họ trong công ty. Và nhiều nguyên tắc nữa… Đây không chỉ là cẩm nang thiết thực đối với các nhà quản lý, lãnh đạo mà còn là cuốn sách hữu ích dành cho bất kỳ ai mong muốn kết nối với người khác bằng sự lịch thiệp và chân thành. *** Đây không chỉ là một cuốn sách nữa của tôi viết về nghệ thuật lãnh đạo, mà còn là một cuốn sách mang nhiều tính cá nhân. Tôi không phải là một tín đồ Công giáo, cũng không theo đạo Thiên chúa. Tôi là con cháu của những người sống sót qua nạn diệt chủng Holocaust. Cha tôi sinh ra tại Ba Lan và mất tất cả người thân dưới tay Đức Quốc xã. Câu chuyện kinh hoàng của ông đã được Tổ chức Shoah thu âm lại ‒ một tổ chức do đạo diễn lừng danh Steven Spielberg thành lập sau khi ông thực hiện bộ phim Danh sách của Schindler (Schindler’s List). Mẹ tôi sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Frankfurt. Bà trở thành trẻ mồ côi khi chuyển tới Anh với hàng ngàn đứa trẻ khác trên chuyến tàu Kindertransport vào cuối năm 1938. Tôi chưa bao giờ đề cập đến những điều này trong các cuốn sách khác của mình vì nó không phù hợp. Nhưng lần này tôi cảm thấy cần nói ra, vì đó chính là động lực lớn thôi thúc tôi viết nên cuốn sách này. Cha mẹ tôi ‒ thành viên của những gia đình Do Thái sùng đạo ‒ đã bị cỗ máy giết người của Hilter gây tổn thương nghiêm trọng. Đối với họ, Thế chiến thứ hai chưa bao giờ kết thúc cả. Họ phải sống với những mất mát quá lớn cũng như từng chứng kiến và hứng chịu những hành động tàn bạo không có nhân tính. Đã có vô số nghiên cứu về hệ quả của Holocaust đến thế hệ sau của những người sống sót. Đối với tôi, đó là nỗi sợ hãi mỗi khi rời khỏi căn hộ nhỏ ở Bronx ‒ cảm giác bất an trước những hiểm họa rình rập xung quanh. Tôi bị nhiễm suy nghĩ đó từ cha mình, Baruch Krames. Ông không tin tưởng bất kỳ ai sau hai năm trốn chạy phát xít. Trong thời gian đó, ông đã phải sống như một con thú trong rừng, lấy trộm đồ ăn của nhà giàu để chia cho những người sắp chết đói tại khu Do Thái. Những gì cha tôi trải qua và chứng kiến đã ám ảnh ông suốt cả cuộc đời. Ông đã tận mắt nhìn thấy người em trai của mình bị bắn khi ông và các anh trai chạy trốn khỏi lũ phát xít. Ông cũng đã nhìn thấy không chỉ một lần hàng trăm xác người Do Thái chồng chất trên những chiếc xe của quân đội Đức như vật liệu xây dựng trên công trường. Tất nhiên, tôi không phải chứng kiến những cảnh tượng đó nhưng chúng cũng hằn sâu trong tâm trí tôi. Holocaust là chủ đề cho một cuốn sách khác nhưng tôi cảm thấy cần nói đến ở đây vì tôi luôn có thể cảm nhận sâu sắc nỗi đau của cha mẹ mình. Như thể tôi sinh ra trong một gia đình ma ‒ hồn ma những người thân đã mất của cha mẹ tôi dưới thời Hitler. Thế nên, tôi luôn trân trọng lòng tự tôn của người khác. Đó cũng là lý do tôi cực kỳ nhạy cảm khi ai đó xâm phạm những gì tôi coi là giá trị cốt lõi trong cá tính tạo nên con người mình. Vậy tất cả những điều này có liên quan gì đến một cuốn sách nói về nghệ thuật lãnh đạo của Giáo hoàng Francis? Một thời gian ngắn sau khi đảm nhận cương vị Giáo hoàng vào tháng 3 năm 2013, Francis nổi bật với hình tượng một người chống Hilter ‒ một người tôn trọng phẩm hạnh và đề cao con người bất kể màu da, tầng lớp, xuất thân. Ông là lời đáp trả của thế kỷ XXI đối với tội ác diệt chủng từ thế kỷ XX. Đoạn trích sau đây từ bài thuyết giảng nổi tiếng nhất của Giáo hoàng Francis đã nhấn mạnh điều này: “Điều răn ‘Chớ giết người’ đã khẳng định quan điểm bảo vệ giá trị cuộc sống con người. Ngày nay, chúng ta cũng phải ‘nói không’ với nền kinh tế đặc quyền đặc lợi và bất bình đẳng.” Con số có thể cho thấy sự trái ngược giữa hai nhà lãnh đạo thế giới này. Hầu hết mọi người đều biết rằng Hitler đã giết hại hơn sáu triệu người Do Thái. Điều ít người biết là trong năm 2013, năm đầu tiên của Giáo hoàng Francis tại Rome, các sự kiện và các buổi lễ mi-xa của ông thu hút hơn sáu triệu người đến dự, rất nhiều trong số họ là người mới gia nhập hoặc vừa trở lại Giáo hội. Có vô vàn bằng chứng về sự khiêm nhường và nhân văn của Giáo hoàng Francis. Trước khi trở thành Giáo hoàng, Tổng giám mục Jorge Mario Bergoglio(1) thường ra ngoài vào ban đêm ở Buenos Aires để giúp đỡ người nghèo. Giờ đây, ở vị trí Giáo hoàng, ông giao phó cho một Tổng giám mục khác làm việc đó. Trước thời điểm diễn ra Mật nghị Hồng y và được lựa chọn làm Giáo hoàng, Bergoglio đã ở tại một nhà tập thể đơn sơ trong vùng. Trong bài thuyết trình với tư cách là Giáo hoàng mới, Francis quyết định không đứng trên bục phát biểu như những người tiền nhiệm. Thay vào đó, theo như Hồng y Timothy Dolan, ông đã nói, “Tôi đứng ở dưới này”. Trong buổi tiệc sinh nhật 77 tuổi vào tháng 12 năm 2013, Giáo hoàng Francis đã mời bốn người vô gia cư đến dự sinh nhật. Đó không phải là cách để quảng bá hình ảnh như các chính trị gia thường làm mà bởi ông cảm thấy thoải mái nhất khi ở bên cạnh những người này. Trong năm đầu tiên làm Giáo hoàng cũng như thời gian tại Argentina, Francis luôn thể hiện là một người khiêm nhường. Tuy nhiên, khiêm nhường không có nghĩa ông là một nhà lãnh đạo hời hợt. Giống như tất cả những nhà lãnh đạo nổi bật, ông có vô số công việc cần giải quyết. Trên thực tế, theo những phóng viên đã theo dõi Bergoglio nhiều năm, ông là một người luôn quan tâm đến các vấn đề xã hội và chính trị. Ông cũng là một người có trí tuệ lớn nhưng ít được chú ý bởi lối sống khiêm nhường của mình. “Ông không phải là một thiếu nữ ngây thơ bước vào thế giới”, Elisabetta Pique, một nhà báo Argentina quen biết Bergoglio từ những năm 1990 và là tác giả cuốnsách Francisco: Vida y Revolucion (Francis: Cuộc đời và cách mạng) đã miêu tả vấn đề ông phải đối mặt tại Rome, “Ông gần như đã phải chiến đấu với một bộ phận của Giáo triều Rome.(2)” Một nhà báo khác đã sử dụng từ “không thương xót” để miêu tả cách điều hành của Francis. Nhà báo Mark Binelli của tạp chí Rolling Stone viết rằng, “Bergoglio đã thể hiện mình là một người thi hành pháp luật có khả năng ra lệnh đầy uy lực để phục vụ mục đích cao cả hơn.” Giáo hoàng Francis rõ ràng là một nhà điều hành sắc sảo. Ông đã loại bỏ một loạt lãnh đạo bảo thủ ra khỏi Giáo triều, những người có thể ảnh hưởng đến kế hoạch hành động của Giáo hoàng trong quá trình biến Giáo hội trở nên cởi mở và tập trung hơn vào việc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người. Không phải ngẫu nhiên mà một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của Giáo hoàng Francis, Về thiên đường và trái đất, lại được chấp bút cùng Abraham Skorka, một giáo sĩ Do Thái nổi tiếng người Argentina và cũng là một người bạn của ông. Cũng chẳng ngẫu nhiên mà cuốn sách đó miêu tả việc Bergoglio và Skorka đã dành nhiều năm để “xây dựng cầu nối giữa Thiên chúa giáo, Do Thái giáo và thế giới nói chung.” Với tư cách là Giáo hoàng, Francis thách thức những người bảo thủ cực đoan trong Giáo hội bằng cách mở lòng với những người mà các Giáo hoàng khác không bao giờ lưu tâm: Ông rửa chân cho tù nhân (bao gồm hai nữ tù nhân, việc này đã gây tranh cãi không nhỏ với những bậc trưởng lão trong Giáo hội; chưa từng có Giáo hoàng nào rửa chân cho phụ nữ); ông cũng đã ôm một người nhiễm trùng da, điều mà nhiều người không dám làm. Việc Giáo hoàng ghét thói lãng phí và khoe khoang tài sản không có gì đáng ngạc nhiên, đặc biệt là đối với các giám mục, và ông thể hiện quan điểm của mình bằng hành động. Cuối năm 2013, Giáo hoàng Francis (tạm thời) “trục xuất” một giám mục người Đức bởi ông này đã trơ tráo sử dụng số tiền khổng lồ 31 triệu euro để xây dựng một ngôi nhà riêng bề thế. Một cuộc điều tra đã được thực hiện để quyết định tương lai của “vị giám mục treo” này. Cuối tháng 3 năm 2014, “vị giám mục treo” người Đức đã bị trục xuất khỏi giáo phận của mình vĩnh viễn. Giáo hoàng Francis nhận thấy trong Giáo hội không có chỗ cho kẻ tiêu xài lãng phí, nhất là khi trên thế giới còn quá nhiều người nghèo đói. Giáo hoàng đã thể hiện cái nhìn của ông đối với vấn đề này: Tại sao một người vô gia cư già cả chết đi thì chẳng ai bận tâm, nhưng thị trường chứng khoán mất hai điểm lại là tin tức thời sự cơ chứ? Hình ảnh con người ông được gói gọn trong một câu nói. Giáo hoàng Francis cho chúng ta thấy thế giới đang đi chệch hướng và các giá trị bị đảo lộn. Kể cả cách lựa chọn tông hiệu ‒ lấy cảm hứng từ Thánh Francis thành Assisi ‒ cũng thể hiện với thế giới rằng ông sẽ tập trung vào tầng lớp người nghèo, cũng như những người bệnh tật và yếu đuối nhất trong xã hội chúng ta. Thánh Francis thành Assisi sống vào đầu thế kỷ XIII và trở thành vị thánh bảo trợ của động vật và hệ sinh thái. Dù sinh ra trong gia đình giàu có, Thánh Francis đã từ bỏ tất cả những gì mình sở hữu kể cả quần áo để làm theo lời dạy của Chúa Jesus, “Không sở hữu vàng bạc hoặc đồng xu nào trong ví, không túi hành lý, không giày dép, không người tùy tùng.” Thánh Francis thành Assisi hẳn sẽ bằng lòng với Giáo hoàng Francis đương thời. Tuy nhiên, lời nhận xét của Giáo hoàng về người vô gia cư và chỉ số chứng khoán Dow Jones là một thanh kiếm hai lưỡi: Ngoài việc tiết lộ đáng kể về Francis, nó cũng bộc lộ thách thức lớn nhất trong việc viết một cuốn sách về nghệ thuật lãnh đạo xoay quanh nhân vật đặc biệt này. Francis thường bị chỉ trích do khuynh hướng chống chủ nghĩa tư bản của mình. Tuy nhiên, ông không phải là người chống công nghiệp hoá. Ông chỉ có cái nhìn phê phán đối với các tập đoàn lớn khi hàng nghìn người lao động bị sa thải, ông viết rằng: “Nền kinh tế không còn là một biện pháp cứu trợ mà là một loại chất độc mới. Điều này thể hiện qua mưu toan tăng lợi nhuận bằng cách cắt giảm nhân công và gia tăng số lượng người thất nghiệp.” Tại sao không nên coi đây là lời phản đối giới kinh doanh? Trong cùng một bài tông huấn mà ông có viết về “những người thất nghiệp”, ông cũng đã viết về tính cao quý của thương nghiệp và đặc biệt là các hoạt động kinh doanh tạo điều kiện cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn: “Kinh doanh cũng là một nghề, và là một nghề cao quý nếu những người dấn thân vào nghề này hiểu rằng họ có cơ hội để làm những điều ý nghĩa lớn lao hơn trong cuộc sống. Từ đó, họ có thể phục vụ lợi ích chung bằng cách nỗ lực gia tăng của cải trên thế giới và đưa tất cả mọi người thoát khỏi đói nghèo... Tôi tin chắc một điều rằng: những thay đổi vĩ đại của lịch sử xảy ra khi hiện thực được nhìn nhận từ những người được coi là ngoài rìa xã hội hơn là những người ở trung tâm.” Vì vậy, mặc dù các chuyên gia vẫn luôn chỉ trích khuynh hướng bài trừ doanh nghiệp của Giáo hoàng Francis, nhưng những lời chỉ trích đó hoặc quá đơn giản hoặc chưa đầy đủ, và một số trường hợp là hoàn toàn sai lầm. Tuy nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa, Francis là người bài trừ thói tham lam, cụ thể là bất bình đẳng thu nhập. Giáo hoàng Francis đã hùng hồn nói về nguyên nhân cơ bản của sự bất bình đẳng thu nhập đang không ngừng gia tăng. “Từ đó, sinh ra một chế độ chuyên chế mới, vô hình nhưng đơn phương và không ngừng nghỉ áp đặt những quy tắc và luật lệ của riêng nó. Cơn khát quyền lực và vật chất là không có giới hạn. Ở hệ thống này, có một nguyên tắc duy nhất là nó có xu hướng hủy hoại tất cả những gì cản trở sự gia tăng lợi nhuận, kể cả những thứ mỏng manh như môi trường chẳng hạn, cũng không được bảo vệ trước lợi ích thị trường.” Nhằm ngăn chặn thói tham quyền và ham vật chất, Giáo hoàng Francis đã khiển trách những thành viên Giáo hội mua xe đắt tiền, yêu cầu họ mua ô tô đã qua sử dụng, và ủng hộ số tiền chênh lệch cho trẻ em nghèo đói, vô gia cư. Đầu năm 2014, Oxfam, một tổ chức chống đói nghèo tại hơn chín chục quốc gia công bố: 85 người giàu nhất thế giới sở hữu nhiều tiền hơn 3,5 tỷ người nghèo nhất trên thế giới cộng lại. Điều này có nghĩa là 1% người giàu nhất thế giới kiểm soát 46% (gần một nửa) tài sản của cả thế giới. Với con số này, ai có thể chỉ trích Giáo hoàng khi ông yêu cầu những người giàu nhất phải cho đi nhiều hơn? Tuy nhiên, điều này không thể giảm bớt khó khăn trong việc viết một cuốn sách xoay quanh một nhân vật với mục tiêu lớn nhất là tạo ra sân chơi bình đẳng về kinh tế. Nhưng đây không chỉ là một cuốn sách về nghệ thuật kinh doanh, mà còn là một cuốn sách về nghệ thuật lãnh đạo. Để tránh nhầm lẫn sau này, đây là định nghĩa về lãnh đạo sẽ được sử dụng xuyên suốt trong cuốn sách này: Lãnh đạo là khả năng chia sẻ một tầm nhìn và kêu gọi người khác cùng thực hiện. Có một sự mỉa mai là khái niệm này được đưa ra bởi vị lãnh đạo của một trong những tập đoàn lớn mạnh và lâu đời nhất, người đã sa thải hơn 125.000 người lao động: Jack Welch, nguyên CEO của General Electric (được Tạp chí Fortune bình chọn là Nhà lãnh đạo của thế kỷ và là đối tượng của một vài cuốn sách tôi từng viết). Jack Welch và Giáo hoàng Francis tuy có thể bất đồng trong nhiều vấn đề nhưng họ có chung một số quan điểm chính về lãnh đạo. Ví dụ, Welch hay so sánh công ty 100 tỷ đôla với một cửa hàng tiện ích tại góc đường. Điều đó có nghĩa là ông yêu cầu tất cả nhân viên nắm rõ từng sản phẩm trên kệ hàng cũng như các khách hàng thân thiết. Welch và Giáo hoàng Francis cũng đồng tình với nguyên tắc kinh doanh sau: Điểm nổi bật của bất kỳ lãnh đạo nào là cách họ dẫn đầu làm gương. Đây là điểm nổi trội của Giáo hoàng Francis. Ông có lối sống giản dị hơn tất cả những người tiền nhiệm. Trước khi trở thành Giáo hoàng, Francis từng được biết tới với hình ảnh ông sử dụng phương tiện công cộng và sống tại căn hộ nhỏ ở Buenos Aires. Sau khi trở thành Giáo hoàng, ông đã rời bỏ tòa nhà của Giáo hoàng tại Vatican để sống tại một lưu xá với hai phòng ngủ đơn giản. Francis sống với nguyên tắc đặt người khác lên trước mình và coi bản thân là người đầy tớ: “Đừng quên quyền lực đích thực là phụng sự”, Giáo hoàng Francis đã tuyên bố trong lễ nhậm chức như vậy. Phụng sự là chủ để xuyên suốt trong cuốn sách này. *** Trước khi tiếp tục, tôi muốn khẳng định bản thân không phải là tác giả đầu tiên so sánh nghệ thuật lãnh đạo trong Giáo hội với các tổ chức như doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, và các loại hình khác. Một trong những người đầu tiên làm điều này là Peter Drucker, “cha đẻ của mô hình quản lý hiện đại”. Tôi coi cuốn sách năm 1946 của ông, Khái niệm về công ty (Concept of the Corporation), dựa trên nghiên cứu quy mô đầu tiên về một doanh nghiệp lớn (General Motors), là cuốn sách nền tảng của các sách kinh doanh hiện đại, và rất nhiều ý tưởng trong cuốn sách này vẫn phù hợp cho đến tận bây giờ. Drucker viết rằng: “Mọi xã hội đều cần những tổ chức mà bản chất không liên quan đến mục tiêu xã hội. Ví dụ, bản chất của gia đình là tồn tại sinh học nhưng đây không phải là mục tiêu tồn tại của xã hội. Điều này tương tự với một nhà thờ mà vương quốc của nó không nằm trong thế giới này mà thuộc về một nơi vượt khỏi xã hội.” Drucker sau đó đã bổ sung: “Khi tổ chức xã hội gặp khó khăn hoặc không thể thực hiện được giá trị đạo đức cơ bản, khi đó chúng ta sẽ có một cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng… Điều thường bị bỏ qua là sự bình đẳng về cơ hội và địa vị của mỗi cá nhân trong mối quan hệ tương quan với nhau.” Điều này được Giáo hoàng Francis lặp lại: “Các lãnh đạo chính phủ và tổ chức tài chính cần lưu ý mở rộng tầm nhìn, đảm bảo tất cả các thành viên đều có công ăn việc làm, được giáo dục và chăm sóc sức khoẻ đàng hoàng.” Giáo hoàng Francis cũng bình luận về sự chuyển dịch của cấu trúc xã hội: “Cấu trúc xã hội thay đổi mà không tạo ra niềm tin và thái độ mới thì sớm muộn gì cũng sẽ trở nên mục ruỗng, ngột ngạt và vô tác dụng”. Trong cuốn sách Quản lý trong thời điểm chuyển đổi lớn (Managing in a Time of great Change), Drucker cũng đã viết về cấu trúc mới: “Việc đấu tranh với xu hướng chuyển đổi cấu trúc là khó khăn trong thời gian ngắn và vô vọng về lâu về dài. Xu hướng này sẽ tự giảm dần hoặc tự đổi chiều… một số sẽ không đổi và có thể hoàn toàn biến mất.” Ông tiếp tục, “Thay đổi lớn trong năng lực kiến tạo tài sản đã được sử dụng cho việc giải trí, chăm sóc sức khỏe và giáo dục.” Giáo hoàng Francis cũng từng nói: “Sự thay đổi về mặt cấu trúc yêu cầu từng linh mục cũng phải thay đổi theo chiều hướng sao cho công tác của Giáo hội cởi mở và tiếp cận đến từng người.” Đầu năm 2014, Francis kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới họp bàn tại Davos, Thụy Sĩ để xem xét vai trò to lớn của họ đối với trật tự thế giới: “Tôi yêu cầu các bạn hãy đảm bảo rằng tài sản phục vụ con người, chứ không chi phối con người.” Điều đáng chú ý là nhiều bài viết của Drucker có cùng quan điểm và suy nghĩ như Giáo hoàng Francis. Họ chia sẻ nhiều điểm tương đồng khác, trong đó có đức tính khiêm nhường, cả hai đều sống khiêm tốn so với năng lực của bản thân. Họ đều là người có tư tưởng sáng suốt. Kể cả cách diễn đạt của họ cũng tương đồng. Thực tế, sau khi nghiên cứu hầu hết các CEO vĩ đại cuối thế kỷ XX, tôi không nghĩ có một lãnh đạo doanh nghiệp nào có thể viết đầy đủ về bản chất toàn cầu của doanh nghiệp và tài sản như Giáo hoàng Francis. Đó là lý do vì sao lời nói và hành động của ông lại có trọng lượng đến vậy. Ví dụ, khi nói về cuộc khủng hoàng năm 2008 – 2009, trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu và bất bình đẳng thu nhập, thật khó để tranh cãi với tuyên bố này của Giáo hoàng: “Vậy mà một số người vẫn tiếp tục bảo vệ cho lý thuyết ‘thẩm thấu’(3), cho rằng kinh tế phát triển hỗ trợ thị trường tự do, mang lại bình đẳng, và cơ hội được tiếp cận thế giới.” Francis có thể tự mô tả mình là một “tội nhân” ‒ ông từng nói: “Một người theo đạo tự coi mình yếu đuối và có tội không phải để giảm ánh mắt soi xét anh ta màlà để phát triển bản thân. Điều này đem lại lợi ích cho tất cả mọi người.” ‒ nhưng không thể phủ nhận Francis là một lựa chọn phù hợp, với công việc phù hợp, vào thời điểm phù hợp. Tôi xin lưu ý về cách giả định và tiếp cận của mình trước khi viết cuốn sách: Cho dù Giáo hoàng Francis đặt ra mục tiêu phá bỏ hiện trạng bất bình đẳng thu nhập, bài giảng và hành động của ông là ví dụ phù hợp cho lãnh đạo của bất kỳ tổ chức nào. Một vấn đề quan trọng khác đó là cách tiếp cận cuốn sách. Đây là cuốn sách viết về Giáo hoàng Francis, không phải là cuốn sách của Giáo hoàng. Vì vậy, tôi chịu trách nhiệm về nội dung của cuốn sách này. Đây là cách nhìn của tôi về lời nói và hành động của Giáo hoàng. Hơn nữa, tôi không phải là một nhà thần học cũng chẳng là một chuyên gia trong lĩnh vực Công giáo. Chuyên môn của tôi là về quản trị lãnh đạo. Tôi đã từng phỏng vấn và nghiên cứu rất nhiều nhà lãnh đạo doanh nghiệp xuất sắc nhất thế kỷ XX và một vài người thế kỷ XXI. Quan điểm của tôi về Giáo hoàng Francis sẽ khác so với quan điểm của Giáo hội Công giáo hoặc một nhà thần học. Tôi nhìn ông qua một lăng kích thế tục hơn, từ đó phân tích các nguyên tắc lãnh đạo mà ông đã thực hiện và giảng dạy. Tôi ngạc nhiên bởi con đường khác biệt mà Giáo hoàng lựa chọn để biến Giáo hội trở nêncởi mở và thu hút quần chúng hơn. Cuối tháng 5 năm 2014, Giáo hoàng Francis đã nói với các phóng viên trên chuyến bay trở lại Rome (sau chuyến công du Trung Đông) về vấn đề cho phép linh mục kết hôn: “Cánh cửa luôn mở”. Trong suốt cuốn sách này, bạn sẽ thấy Giáo hoàng đã “mở cửa” rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như vấn đề ly hôn và hôn nhân đồng tính. Những tuyên bố gây choáng váng này đã giáng mạnh vào các thành viên cánh hữu cực đoan của Giáo hội nhưng cũng đồng thời biến Giám mục Bergoglio thành Giáo hoàng Francis, một hành trình đầy khiêm nhường, phẩm hạnh và can trường. Mời các bạn đón đọc Lãnh Đạo Bằng Sự Khiêm Nhường của tác giả Jeffrey A. Krames.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Marketing Theo Phong Cách Sao Kim - Hermawan KartaJaya
Marketing tại Sao Kim là đầu sách, công trình nghiên cứ u chuyên sâu nhất về khai thác tính nữ trong mỗi khách hàng tiềm năng của chúng ta. Những hiểu biết, đúc kết của tác giả giúp đọc giả có được tầm nhìn của một chiếc máy bay trực thăng, để nắm được những giá trị tổng thể về khách hàng của mình trên hành tinh sao Kim. Để sự khôn khéo của các nhà tiếp thị ngày càng rộng lớn và sâu sắc hơn. Các nghiên cứu, câu chuyện về chinh phục thị trường ngoạn mục ở nhiều ngành hàng trong đầu sách cho thấy, hãy chinh phục trái tim của khách hàng thuộc cả hai giới bằng khả năng thấu cảm những thang bậc cảm xúc và mong muốn của khách hàng. Bằng những hiểu biết về tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học và rất nhiều khoa học khác để làm giàu kiến thức cũng như cách nhìn của bạn về công nghệ tiếp thị bằng cảm xúc ! Về bản chất Tình cảm có sức lan tỏa, vì vậy các nhà tiếp thị hãy bước đi một cách thận trọng ! nhưng hãy lắng nghe, hãy tin vào bản năng, giác quan thứ 6 về sự từng trãi của mình để sáng tạo ra những giải pháp tiếp thị đột phá trong không gian và thế giới cảm xúc, tình cảm của khách hàng! Những người mang tính nữ luôn chú ý tới chi tiết! Khách hàng đang trở nên ngày càng phức tạp và đánh giá mọi thứ rất tỉ mỉ. Vì vậy, nếu không muốn làm khách hàng thất vọng, tác giả khuyến cáo chúng ta đừng bao giờ bỏ qua thứ gì bất kể nó nhỏ bé đến đâu. Bắt đầu từ chính sách của công ty cho tới các sản phẩm của bạn! Như vậy là bạn đã cung cấp cho khách hàng cả những lợi ích cảm xúc tích cực, hãy đảm bảo chắc chắn rằng bạn và cả tất cả các nhân viên của bạn cũng cảm thấy thoải mái để thực hiện chiến lược này…lấy lợi ích cảm xúc làm vũ khí mới để chiến thắng, chinh phục thị trường và thượng đế của bạn. Trong số những phương thức và giải pháp đề cập, tình Mẫu Tử, tình cảm, giá trị gia đình, tình yêu, tính nhân bản, ý thức trách nhiệm cộng đồng xã hội là những suối nguồn ý tưởng, cơ hội lớn để tạo sự khác biệt đột phá trong mục tiêu chinh phục thị trường và khách hàng của các thương hiệu. Tác giả cũng giới thiệu đem đến cho đọc giả những câu chuyện, công cụ để phát huy cao nhất khả năng quảng bá nhờ sử dụng công nghệ thông tin để truyền tải các  thông điệp cảm xúc tới khách hàng của bạn. Bằng cách này, họ sẽ có một mối liên hệ cũng như sự gắn kết, sức hút về tình cảm với công ty và thương hiệu của bạn. Hãy tiếp cận tình cảm của khách hàng bằng những thấu cảm và giải pháp cá thể hoá, thông điệp cá nhân, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn. Hermawan Kartajaya, chủ tịch Hiệp hội Tiếp thị Thế giới là một trong “50 chuyên gia hình thành nên tương lai của tiếp thị” do Viện Hiến Chương Tiếp thị - Vương quốc Anh (CIM-UK) bầu chọn. Ông là sự kết hợp độc đáo giữa một nhà nghiên cứu chiến lược kinh doanh, tư vấn cao cấp đặc biệt trong lĩnh vực tiếp thị. Đầu sách Marketing tại sao Kim của ông khái quát và đút kết 18 nguyên tắc giúp các nhà tiếp thị định hướng và tầm nhìn để xây dựng các chương trình kế hoạch tiếp thị một cách hiệu quả nhất trong không gian cảm xúc tinh tế và nhiều cung bậc này. Chúc các Bạn sẽ tiếp tục khám phá thêm nhiều điều thú vị đang chờ đợi trong những trang sách tiếp sau, chắc chắn rằng những hiểu biết mới này không chỉ giúp các nhà tiếp thị hoàn thiện công việc mà còn giúp mỗi người chúng ta thêm niềm vui, sự lãng mạn và thăng hoa trong cuộc sống, tình yêu và sự nghiệp của mình. TRẦN HOÀNG Chủ tịch Hội Marketing TP.HCM Chủ tịch VietnamMarcom  *** Hermawan Kartajaya, chủ tịch Hiệp hội Tiếp thị Thế giới là một trong “50 chuyên gia hình thành nên tương lai tiếp thị” do Viện Hiến Chương Tiếp thị - Vương quốc Anh (CIM-UK) bầu chọn. Ông là sự kết hợp độc đáo giữa một nhà nghiên cứu chiến lược kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực tiếp thị, với một nhà hoạt động. Ông gia nhập liên đoàn các chuyên gia tiếp thị quốc tế với mô hình được thừa nhận bởi giáo sư Philip Kotler, chuyên gia tiếp thị và giáo sư Warren J.Keegan, chuyên gia tiếp thị toàn cầu. Năm 1989, Hermawan Kartajaya thành lập MarkPlus&Co - hãng tư vấn tiếp thị hàng đầu ở Đông Nam Á. Áp dụng khung chiến lược tiếp thị của Hermawan Kartajaya, MarkPlus&Co đã đổi mới thành công chiến lược tiếp thị của nhiều công ty (công ty trong nước, khu vực và toàn cầu) và nâng cao đáng kể hoạt động của họ. Một số khách hàng chính của MarkPlus&Co như: Singapore Tourism Board, SembCorpParks Holdings, Hewlett-Packard, Microsoft, Yamaha, Goodyear, Indofood, United Tractors, Telkom Indonesia và Bank Rakyat Indonesia. Gần đây, MarkPlus&Co là một hiện tượng trong AsiaCase.com do Nanyang Business School và Ivey Business School thiết lập.  Hermawan Kartajaya là một diễn giả có uy tín quốc tế, đồng thời cũng là tác giả của nhiều cuốn sách trong lĩnh vực tiếp thị. Ông đã được mời với tư cách là diễn giả và giảng viên trong nhiều hội thảo, hội nghị quốc gia và quốc tế, và giảng ở nhiều trường đại học trên khắp thế giới từ châu Á đến châu Âu. Gần đây ông đã đi nhiều đến các nước Đông Nam Á và không ngừng cống hiến những hiểu biết của mình cho cộng đồng tiếp thị ASEAN. Ông đã viết nhiều cuốn sách và bài báo về tiếp thị đã xuất hiện trên rất nhiều ấn phẩm quốc tế. Ông là đồng tác giả với giáo sư Kotler cho ba cuốn sách: Attracting Investors: A Marketing Approach to Finding Funds for your Business (John Wiley & Sons, 2004) (tạm dịch: Thu Hút các Nhà Đầu Tư: Chiến Lược Tiếp thị nhằm Tìm Kiếm Nguồn Vốn cho Hoạt Động Kinh Doanh của Bạn), Rethinking Marketing: Sustainable Marketing Enterprise in Asia (Pearson Education Asia, 2002) (tạm dịch: Suy Nghĩ Lại về Tiếp thị: Doanh Nghiệp Tiếp thị Bền Vững ở Châu Á), Repositioning Asia: From Bubble to Sustainable Economy (John Wiley & Són, 2000) (tạm dịch: Tái Định Vị Châu Á: Từ Nền Kinh Tế Bong Bóng đến Kinh Tế Bền Vững). Ông cũng thường xuyên cộng tác với tạp chí Asia Inc. và Marketing của Singapore. Hermawan Kartajaya cũng tham gia vào nhiều hoạt động cộng đồng với Quỹ Nhi Đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), Tổ Chức Bảo Tồn Quốc Tế (Conservation International), Tổ chức Lãnh Đạo vì Môi Trường và Phát Triển Quốc Tế (Leadership for Environment and Development International). Mới đây ông còn tham gia sáng lập và tổ chức sự kiện Celebrities for Kid @ National Mother’s Day, 1 hoạt động từ thiện của UNICEF dành cho trẻ em tại Indonesia. Mời các bạn đón đọc Marketing Theo Phong Cách Sao Kim của tác giả Hermawan KartaJaya.
Các Nhà Sáng Lập - Maurice Baslé & Francoise Benhamon & Bernard Havance
Các nhà kinh tê học hiện nay đều có nguồn gốc của họ Kinh tế học là một khoa học trẻ tuổi. Những nhà sáng lập ra nó là nhhững người cận đại, việc dạy nó thành một môn chuyên nghiệp chỉ mới khioảng một thế kỷ nay.  Năm 1795, Quốc ước lập ra một chức giáo sư về kinh tế chính trị học ở Trường Sư phạm, chức đó được giao cho Alexandre Vandermonde. Nhưng theo một lời đồn về lịch sử, chính J-B. Say là người khai trương thật sự của việc giảng dạy kinh tế học ở Pháp với giáo trình của ông ở Athénee (A-v- tê-nê) năm 1815-1816, rồi ở Trường Đại học Quốc gia về kỷ thuật và nghề nghiệp năm 1819; Say còn được xác nhận năm 1831 với việc bổ nhiệm ông vào College de France. Chỉ dến năm 1877 nước Pháp mới mở rộng các chức giáo sư Kinh tế học ra tất cả các khoa Luật trong nước.  Không có sự nhập môn nào về kinh tế học tốt hơn việc lướt qua lịch sử các tư tưởng kinh tế. Cách đi ấy cho phép ngược lại nguồn gốc của các khái niệm; nó đem lại cho người ta cả nguồn gốc lẫn cách sử dụng các khái niệm đó. Bằng cách đó mỗi người có thể tìm thấy những nhà sáng lập ra dòng họ tư tưởng của mình. "Lịch sử kinh tế học chứng tỏ rằng các nhà kinh tế học, giống như mọi người khác, đều tưởng bong bóng là đèn lồng và tưởng mình nắm đưọc chân lý, nhưng thật ra tất cả những gì họ có đều dẫn tới cả một loạt những định nghĩa hay những phán xét phức tạp về giá trị được ngụy trang thành-những qui tắc khoa học. Không có cách trình bày nào khác hơn việc nghiên cửu lịch sử kinh tế học [ ] , nó đem lại phòng thí nghiệm rộng lớn nhất để có được một sự khiêm nhưòng cần thiết về phưong pháp luận đối với việc tìm hiểu những thành tựu thật sự của kinh tế hợc. Ngoài ra, đó còn là một phòng thí nghiệm mà mỗi nhà kinh tế học mang theo mình, dù có ý thức hay không ( ) Cần hiểu rõ những gì mình thừa kế được còn hơn là tưởng tượng ra một di sản bị giấu kín ỏ một góc tối nào đó và ở một thử tiếng nước ngoài nào đó".  M. Blaug, tư tưởng kinh tế, Económica, 1987.  Thứ tự xuất hiện của các nhà kinh tế học lớn là rất có ý nghĩa. Mỗi người có những quan hệ với những người đi trước nào đó, dưới dấu hiệu tiếp nối hay đoạn tuyệt Mancur Olson thừa nhận một cách rõ ràng món nợ trí tuệ của mình đối với những nhà lý luận đi trước :  "Tôi có thói quen dẫn lời Newton nói rằng nếu ông có thể nhìn thấy xa hơn những ngưòi khác, thì đó là vì ông đứng lên trên vai của những vị khổng lồ. Nếu Newton đã có thể nói như vậy vào thế kỷ XVII, thì chắc chắn nhà kinh tế học hôm nay cũng chỉ có thể tự coi mình đứng ở vị trí ấy, cho dù tầm hiểu biết cá nhân của mình rộng lớn tới mức nào. Thật ra, anh ta là kẻ kế thừa của một số nhà tư tưởng thiên tài được thừa nhận, như Smith, Ricardo, Mili, Marx, Walras, Wicksell , Marshall và Keynes, cũng như hàng trăm người thông minh, cả nam lẫn nữ, đã tạo ra một công trình quí giá. Trên thực tế, nếu các vị khổng lồ của kinh tế học đã tự mình đứng lên trên vai những ngưòi tiền bối của họ, thì nhà kinh tế học hôm nay cũng đứng trên đỉnh cao của một kim tự tháp mênh mông của những tài năng". Vinh quang và suy thoái của các dân tộc, Bonnel, 1983.  Các tư tưỏng kinh tế là những chân vòm ở trên hiện thực Các tư tưởng kinh tế của quá khứ không phải chỉ là để cho các nhà kinh tế học tương lai tập sự, chúng còn tác động tới hiện thực bằng hai kênh :  - Các tác nhân kinh tế thường xuyên có một tác động dự báo và tiên đoán. Chỉ cần một dự báo đáng lo ngại được đưa ra là các tác nhân kinh tế tác động dự báo theo đó, bằng cách ngăn cản nó xuất hiện hoặc, trái lại, tạo thuận lợi cho nó được thực hiện.  - Việc nghiên cứu những vận động của thị trường chứng khoán hay những cơ chế lạm phát cho thấy rằng các khoa học kinh tế phải tính đến những ý kiến kinh tế hàng ngày của các tác nhân Thông tin và những tri thức kinh tế có thật hay giả định tác động tới hiện thực như vậy - "Cai trị là lựa chọn" : những người cai trị phải có một thứ khuôn đọc về kinh tế để hành động : "Những tư tưởng đúng hay sai của các nhà kinh tế học và chính trị học có một tầm quan trọng lớn hơn điều ngưòi ta thường tưỏng. Nói đúng ra, thế giới gần như chỉ được hưóng dẫn bởi những tư tưỏng đó. Những người hành động nào tưởng mình thoát khỏi những ảnh hưởng của các học thuyết thường là những kẻ nô lệ của một vài nhà kinh tế học của quá khứ Những người cầm quyền sáng suốt tự cho mình noi theo những tiếng nói thương giới thật ra đều chắt lọc từ những không tưỏng nảy sinh trước đó vài năm trong đầu óc của một nhà soạn giáo án nào đó". J. M. Keynes, Lý luận chung về sử dụng lợi tức và tiền tệ, 1936. Mời các bạn đón đọc Các Nhà Sáng Lập của tác giả Maurice Baslé & Francoise Benhamon & Bernard Havance.
Chuyến Đi Bão Táp - Những Câu Chuyện Chưa Kể Về Hành Trình Thống Trị Thế Giới Của Uber - Adam Lashinsky
Uber là một trong những doanh nghiệp thú vị và gây nhiều tranh cãi nhất thế giới, vì ý tưởng đi chung xe thông minh, tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và cả những cáo buộc nặng nề trước quyết tâm theo đuổi thành công bằng mọi giá của CEO Travis Kalanick. Bất chấp tầm quan trọng của công ty này với nền kinh tế và cuộc cách mạng trong ngành vận tải, cũng như trận chiến giành quyền thống trị toàn cầu của Kalanick với giới quan chức chính quyền và các công ty taxi trên khắp thế giới, câu chuyện đầy đủ về Uber vẫn chưa từng được kể. Đây là câu chuyện mà những người khởi xướng các công ty khởi nghiệp, giám đốc các doanh nghiệp truyền thống, độc giả yêu thích công nghệ, những tài xế và người sử dụng dịch vụ gọi xe sẽ bị hút vào qua từng trang sách. Trong Chuyến đi bão táp, Adam Lashinsky – cây bút kỳ cựu của Fortune sẽ vén tấm màn tăng trưởng chóng mặt của Uber từ xuất phát điểm khó khăn đến những kế hoạch mở rộng dịch vụ dựa trên nền tảng và mạng lưới sẵn có của công ty. Uber đang chiến đấu với các đối thủ và nhà cầm quyền khắp nơi trên thế giới để chiếm lĩnh thị trường; họ đã đối mặt với những cuộc biểu tình ở các thành phố lớn như Paris, Rio de Janeiro và Mumbai. Họ đã đối đầu và thất bại trong cuộc chiến đắt đỏ và hao tâm tổn trí với Didi ở thị trường Trung Quốc. Uber cũng tuyển những kỹ sư từ các viện nghiên cứu hàng đầu để phát triển chiếc xe tự hành có khả năng thay thế những tài xế mà họ đã nỗ lực để tuyển dụng. Uber là tiêu đề chính trên các mặt báo mỗi ngày nhưng còn rất nhiều điều về quá khứ và tương lai của công ty này mà chúng ta chưa biết. Lashinky sẽ kể cho chúng ta câu chuyện Uber qua cuốn sách giàu thông tin, được nghiên cứu kỹ lưỡng về công nghệ làm gián đoạn thị trường và vị CEO có tầm nhìn xa nhưng cũng đầy táo tợn. *** UBER Câu chuyện về một huyền thoại trong bình minh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Nguyễn Cảnh Bình Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Công ty Cổ phần Sách Alpha UBER không còn xa lạ với người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ ở các đô thị lớn. Nhưng đó là một công ty còn rất trẻ. Chỉ trong vòng 7 năm kể từ ngày ra đời tại Mỹ, đến nay Uber đã có mặt tại hơn 50 quốc gia và hàng trăm thành phố trên toàn thế giới, dịch vụ Uber giúp giải quyết một nhu cầu lớn của xã hội dựa trên nền tảng (platform) tích hợp nhiều yếu tố công nghệ cho mối quan hệ giữa người có nhu cầu đi xe và xe có thể vận chuyển. Nhờ công nghệ, Uber giúp tiết kiệm chi phí cho người đi xe và người lái xe Uber, giúp tiết kiệm thời gian, góp phần giảm ùn tắc giao thông, tối ưu hóa các nguồn lực xã hội, và hơn thế, còn làm hình mẫu cho nhiều ứng dụng và mô hình khởi nghiệp khác. Là một công ty kinh doanh mạng lưới giao thông vận tải dựa trên ứng dụng, Uber có trụ sở tại San Francisco, California, Mỹ và tính đến tháng 8 năm 2017, Uber được định giá khoảng 70 tỷ USD. Không chỉ vậy, sự thành công của Uber đã mở đầu một trào lưu mới: một nền kinh tế chia sẻ. Nhưng đằng sau câu chuyện đó, Uber còn là chủ đề của các cuộc kiện cáo, biểu tình đang diễn ra tại rất nhiều nơi trên thế giới từ các tài xế taxi, công ty taxi truyền thống và chính quyền địa phương. Họ tin rằng đó là một doanh nghiệp taxi bất hợp pháp với các hoạt động kinh doanh không công bằng với các hãng taxi truyền thống. Nhưng bất chấp tất cả những điều đó, đây chắc chắn là cuốn sách quan trọng dành cho tất cả các doanh nhân, nhà đầu tư cũng như những người quan tâm đến sự phát triển của công nghệ ứng dụng và tương lai của xã hội loài người. Khác với nhiều huyền thoại và hiểu lầm về những người khởi nghiệp và cả về Uber, cuốn sách cung cấp những thông tin chân thực, hữu ích và có giá trị cho cả doanh nhân và nhà đầu tư khi bắt đầu khởi nghiệp. Đó chính là câu chuyện về một trong những công ty khởi nghiệp thành công nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng chóng mặt. Cuốn sách kể về hành trình của Travis Kalanick và Garrett Camp, khi họ vất vả gọi một chiếc taxi trong cơn bão tuyết ở Paris. Cũng chính tại nơi đó, ý tưởng về một ứng dụng gọi xe trên chiếc điện thoại thông minh trở nên rõ ràng đối với họ – và Uber ra đời. Hành trình phát triển của Uber, giống như nhan đề cuốn sách, là một chuyến đi bão táp đầy rẫy những khó khăn, trở ngại xuất hiện trên mỗi chặng đường. Và cũng chỉ mới đây thôi, Kalanick đã phải rời khỏi chiếc ghế CEO vì sức ép từ nhiều phía, nhưng thành tựu lớn nhất, sản phẩm thành công nhất của họ: UberX – một chiếc xe nhỏ gọn với sự trợ giúp của công nghệ đã trở nên hữu ích đối với con người. Cuốn sách cũng kể về những thất bại của Uber ở nhiều nơi trên thế giới, như tại Trung Quốc, đó là một thảm hoạ đắt giá khiến Uber thiệt hại hàng tỷ USD. Nhưng bất chấp những điều đó, Uber đã cố gắng để trở thành công ty công nghệ trong ngành kết nối vận tải có giá trị nhất thế giới. Nhưng Uber cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng và gánh chịu nhiều phản đối trên toàn thế giới khi làm đảo lộn ngành dịch vụ taxi truyền thông có lịch sử hàng thế kỷ. Ngay tại Việt Nam, Uber cũng gây ra tổn thất cho những hãng taxi truyền thống như Mai Linh, Vinasun… nhưng nó cũng là nguồn khích lệ lớn lao cho những bạn trẻ mới khởi nghiệp, và cho nhiều doanh nghiệp đang nỗ lực sáng tạo lại mô hình kinh doanh của mình. Dù là cuốn sách viết về một thương hiệu, một công ty khởi nghiệp nhưng Chuyến đi bão táp giống như một cuốn tiểu sử về Kalanick – người đồng sáng lập nên Uber. Cuốn sách tiết lộ những góc cạnh chưa từng được khai thác có thể sẽ giúp bạn trả lời những câu hỏi như Kalanick là người sáng tạo hay một tay cơ hội, một người làm việc nhóm hay một kẻ bắt nạt, cứng đầu hay thực dụng, một viên kim cương thô hay một tên côn đồ vô lương tri? Cuốn sách vô cùng hấp dẫn và có rất nhiều điều đáng để chúng ta học hỏi Uber cũng như Kalanick, con người quyết liệt đằng sau bánh lái công ty toàn cầu này. Mời các bạn cùng đọc và có được cảm nhận cũng như những câu trả lời cho riêng mình. Công nghệ sẽ mang lại những thay đổi lớn lao cho cuộc sống con người, và trong buổi bình minh của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, sự hình thành và phát triển của Uber cũng như những ứng dụng của khoa học và công nghệ vào cuộc sống trở nên hấp dẫn, lôi cuốn tất cả chúng ta.   Mời các bạn đón đọc Chuyến Đi Bão Táp - Những Câu Chuyện Chưa Kể Về Hành Trình Thống Trị Thế Giới Của Uber của tác giả Adam Lashinsky.
Kiểm Chứng Ý Tưởng Kinh Doanh
Bắt đầu kiểm chứng ý tưởng kinh doanh: Bởi có quá nhiểu doanh nhân và nhà đổi mới thực hiện ý tưởng một cách vội vã vì chúng trông thật tuyệt vời với các bài thuyết trình, tạo cảm giác tuyệt vời với các bảng tính và vô cùng hấp dẫn với kế hoạch kinh doanh…chỉ sau này mới học được rằng tầm nhìn của họ hóa ra là ảo giác. Nâng cao kỹ năng kiểm chứng của bạn: Khi bạn đã rất quen thuộc với quá trình kiểm chứng ý tưởng kinh doanh. Bạn đã đọc tất cả các cuốn sách về chủ đề này. Bạn đã chạy một số dự án và xây dựng các sản phẩm khả thi tối thiểu. Bây giờ bạn muốn nâng cấp trò chơi và tang cường kỹ năng kiểm chứng của bạn. Mở rộng quy mô kiểm chứng trong tổ chức của bạn: Bạn được giao nhiệm vụ hệ thống hóa và mở rộng các hoạt động kiểm chứng trong tổ chức. Bạn có kinh nghiệm với chủ đề này và đang tìm kiếm những tư duy thực tế, hiện đại, để mang đến cho các nhóm trong toàn tổ chức của bạn. *** Bộ sách Binh Pháp Cho Doanh Nghiệp gồm có: Kiểm Chứng Ý Tưởng Kinh Doanh Tạo Lập Mô Hình Kinh Doanh Thiết Kế Giải Pháp Giá Trị Tạo Lập Mô Hình Doanh Nghiệp Bất Bại Mời các bạn đón đọc Kiểm Chứng Ý Tưởng Kinh Doanh của tác giả David J Bland & Alex Osterwalder.