Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cảm Ơn Ký Ức

Khi Joyce xuất viện, sau một vụ tai nạn đau lòng, cùng với tương lai mờ mịt và một cuộc hôn nhân tan vỡ, cô trở về sống với người cha già. Không lâu sau, một cảm giác mạnh mẽ trỗi dậy trong cô. Ký ức cô chứa đựng những việc mà cô chưa hề trải qua và cô không thể giải thích tại sao … Làm sao để bạn biết rõ một người chưa từng gặp? Ký ức của Joyce Conway chứa tất cả những điều mà cô không hiểu làm cách nào mình biết! Cô cảm giác “quen” với từng con hẻm nhỏ rải sỏi - nơi cô chưa từng đặt chân đến. Và đêm nào, cô cũng mơ thấy một bé gái mái tóc vàng hoe. Justin Hitchcock đã ly dị vợ. Anh cô đơn và lúc nào cũng bồn chồn không yên. Anh đến Dublin để giảng dạy về nghệ thuật và gặp một nữ bác sĩ quyến rũ, người đã khuyến khích anh tham gia hiến máu nhân đạo. Đã lâu lắm rồi, anh mới làm một việc xuất phát từ tận sâu thẳm trái tim của mình… Số phận đã đẩy đưa Joyce và Justin gặp nhau. Sau rất nhiều những trắc trở, cuối cùng, họ đã tìm được một nửa yêu thương của mình. “Hơn cả sự cảm động. Đó là điều có thể nói về quyển tiểu thuyết thần kỳ của Cecelia Ahern” *** Khi đi hiến máu, người ta sẽ không biết được máu của mình sẽ được tặng đến ai. Các cơ quan quản lý sẽ bảo mật tất cả những thông tin vì đây là lòng thiện nguyện và để tránh những phiền phức về sau cho cả hai phía. Nhân vật nam chính của câu chuyện đã đi hiến máu vì lời mời của cô bạn gái anh mới quen, cô ấy là một bác sĩ xinh đẹp. Anh chàng cứ luôn mong muốn được biết rõ rằng, ai là người nhận được máu mà anh ta hiến tặng, anh muốn được nhận lời cảm ơn, muốn người nhận máu của anh thể hiện lòng biết ơn với anh. Một người phụ nữ đã sảy thai, rất đau khổ, cô ấy được truyền vào cơ thể dòng máu của anh. Và bắt đầu từ đây đã có rất nhiều điều kỳ lạ xảy ra với cuộc đời của cả hai người. Tất cả những ký ức của người đàn ông, kể cả ký ức đẹp hoặc rất buồn, kể cả những bí mật được giấu kín của người đàn ông xa lạ, người phụ nữ được nhận máu của anh đều nhìn thấy rất rõ như của chính mình, như bản thân đã chứng kiến tất cả những điều đó. Cô còn nói được một số ngôn ngữ khác mà cô chưa từng tiếp xúc, cô còn hiểu được lịch sử của những công trình kiến trúc mà cô chưa từng biết tới. Vì đó là công việc, đam mê của người đã tặng máu cho cô, anh ta là giảng viên chuyên ngành về kiến trúc. Rồi những cuộc gặp gỡ tình cờ giữa họ, những lần cố tình gần gũi, tìm hiểu về nhau mà không để cho người kia biết hoặc khi đã sắp được chạm mặt nhau rồi không thể gặp nhau được cứ diễn ra, khiến họ càng mong muốn chạm mặt, để người kia hiểu được lòng mình, họ dần yêu nhau, rồi yêu nhau. Quyển sách không phải chỉ là tình yêu của hai con người đã từng đi qua một cuộc hôn nhân tan vỡ, không phải chỉ hấp dẫn vì sự bí ẩn của tạo hóa. Nó còn hấp dẫn, sâu sắc vì tình cha con, tình vợ chồng của những người già, tình bạn bè, tình anh em. Nó còn hấp dẫn bởi cách kể chuyện lôi cuốn, ngôn ngữ hài hước, phải đến chương cuối cùng hai người đã yêu nhau ấy mới chính thức gặp nhau và nói lời xin lỗi, lời yêu thương ấm áp. Mình tìm được quyển sách này trong một đống sách giá rẻ khổng lồ ở một hội sách, hình như chỉ có 10 nghìn đồng. Nhiều khi chúng ta thường đánh đồng giữa giá cả và giá trị. Mình đã để cuốn sách trong tủ mấy năm nay, không đọc nó vì phải ưu tiên đọc những cuốn sách đắt tiền hơn. Câu chuyện này đọc vào một chiều mưa, một ngày cuối tuần hay trong một chuyến đi nghỉ dưỡng thì phù hợp biết mấy. – Nhân Trần *** Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính là Joyce Conway và Justin Hitchcock với các tình tiết rất kịch tính, éo le. Joyce là giảng viên môn nghệ thuật và kiến trúc tại trường cao đẳng Joyce có một cuộc hôn nhân hạnh phúc với người chồng tên Conor, không lâu sau đó một vụ tai nạn đau lòng khi đứa con đầu lòng mong ngóng từng ngày với tất cả niềm hãnh diện đã ra đi, khiến cho cuộc hôn nhân tan vỡ cùng với tương lai mù mịt, cô trở về sống với người cha già. Không lâu sau, một cảm giác mới mẻ trỗi dậy trong cô. Ký ức của cô chứa đựng những việc mà cô chưa hề trải qua và cô không biết giải thích tại sao, không hiểu làm cách nào mà mình biết… Cô cảm giác quen với từng con hẻm nhỏ rãi sỏi- nơi cô chưa từng đặt chân đến và đêm nào cô cũng mơ thấy một bé gái có mái tóc vàng hoe… Làm sao mà bạn biết rõ một người mà mình chưa từng gặp… Justin Hitchcock với cuộc sống hôn nhân tan vỡ và có một cô con gái tên Bea, anh cô đơn và lúc nào cũng bồn chồn không yên, khi anh đến Dublin để giảng dạy thì gặp một người bác sĩ quyến rũ, người đã khuyến khích anh tham gia hiến máu nhân đạo. Đã lâu lắm rồi anh mới làm một việc xuất phát từ tận sâu thẳm trái tim để rồi chính giây phút ấy có một sợi dây vô hình đã gắn kết anh với Joyce. …”Cô ao ước có một đưá bé, hay một cô bé giống như cháu… Cháu là hình ảnh đẹp nhất của mẹ. Phải chi cũng có một đứa trẻ, một đứa trẻ cũng có đôi mắt của cô, cái mũi của cô”. Thật sự việc bị mất đi điều thiêng liêng ấy – đứa con của mình khiến cô hoàn toàn sụp đổ, mọi thứ xung quanh với cô chỉ còn là một màu đen u ám, mỗi một ngày trôi đi hình ảnh đứa bé ấy, hình ảnh căn phòng cho trẻ sơ sinh hiện lên trong đầu cô, dày vò cô, bao nhiêu nước mắt, đau đớn tuyệt vọng và cả sự bế tắc mà cô không thể chia sẽ hay thoát khỏi và cũng chính câu chuyện bi thương này. Nhưng thật may khi bên cạnh cô có một người bố luôn che chở và dõi theo. “Thật đấy con ạ. Bố tin rằng có một thiên đường, ở trên kia, trên cả những đám mây. Tất cả những người từng ở đây rồi một ngày nào đó sẽ lên trên ấy. Ngay cả những người mắc tội tày đình, Đức chúa trời vẫn sẽ tha thứ. Bố tin là như thế “. Vào thời điểm “không có con, không có chồng, không có mẹ và sắp tới là không có nhà” tài sản duy nhất mà cô có bây giờ là bố. Cô mất đi tất cả mọi thứ thế nhưng cô có vài thứ nho nhỏ mà cô chưa từng có trước đó. Và thật sự kì tích, sức sống trong cô trỗi dậy mạnh mẽ khi gắp được định mệnh của cuộc đời mình. Sự tình cờ khi cô và anh chàng Justin cùng vào một tiệm hớt tóc. Và thêm một điều đặc biết là anh từng hiến máu cùng với lúc cô được truyền máu khi bị hư thai… “Người đàn ông giữ cánh cửa và mỉm cười. Đẹp trai. Gương mặt tươi tắn. Cao. Vai rộng. Có dáng thể thao. Hoàn hảo”. Ngay từ lần gặp đầu tiên, Justin rất có ấn tượng trong lòng cô. “Tôi nhìn vào trong gương và nhìn thấy trong đó một mẫu người ở mức trung bình về mọi mặt. Một chút mệt mỏi, một chút buồn nhưng không rơi vào tuyệt vọng. Tôi nhìn người đàn ông bên cạnh mình và tôi thấy anh cũng y như vậy” giữa hai người thực sự có rất nhiều điểm chung, “cảm giác như anh từng biết cô ta nhưng thực tế anh chưa từng biết cô ta”. Không thế giải thích tại sao khi mà cả hai đều có chung một cảm giác vừa thân thuộc nhưng cũng lạ lẫm… Điều khiến chúng ta bất ngờ nhất chính là máu của anh được truyền vào người cô. Các nhà khoa học giải thích rằng, trong trái tim có những tế bào thông minh có khả năng ghi nhớ kí ức. Thế nghĩa là nếu trái tim vẫn giữ được sự thông minh ấy, thì khi máu- thứ được bơm trực tiếp từ trái tim- truyền từ người này sang người khác, nó có thể mang theo cả những ký ức đó luôn ”nghe có vẻ thật điên rồ nhỉ nhưng làm sao có thể giải thích khi mà những hình ảnh lóe lên trong tâm trí như tia chớp rất nhanh và sắc nét“ hình ảnh về một người đàn ông đang đứng ở cầu thang. Một em bé trong vòng tay của tôi. Một bé gái có tóc vàng hoe. Một bài hát quen thuộc… Và thế là cô bắt đầu tìm kiếm anh, tìm kiếm sự thật rằng những ký ức tại sao luôn xuất hiện. Không chỉ riêng cô mà Justin cũng đang không ngừng tìm kiếm người mà anh đã cứu sống, anh có chứng sợ hãi với kim tiêm, nhưng khi gặp được một bác sĩ tên là Sarah khuyến khích anh, anh mới có đủ can đảm một làm một việc có ích chính vì thế mà anh thật sự rất mong muốn tìm ra người anh đã truyền máu nhưng sự thật thì không thể, mọi thứ đều giấu kín. Tưởng chừng như chẳng còn một chút hi vọng nào cho anh thì cô con gái Bea đã mở đường cho anh và mọi thứ đều được giải bày, khi anh nói cho cô con gái điều mình mong muốn người được truyền máu sẽ thực hiện như là gửi lời cảm ơn hay mỗi buổi sáng anh sẽ nhận được món quà ở trước cửa và…, anh đã nhận được. Một giỏ bánh nướng xốp. Và tấm thiếp với từng chữ một trên đó làm anh lạnh cả lưng sống “Cảm ơn… Đã cứu sống cuộc đời tôi”, sau đó là một tờ báo và không có mẫu giấy nào kèm theo, “Anh tâp trung nhìn vào trang nhất. Trên những dòng chữ nổi bật ở một góc nhỏ của trang, anh chú ý đến một lời hướng dẫn, trang 42”. “Người đã nhận máu, mãi mãi biết ơn và ao ước được nói lời cảm ơn với Justin Hitchcock, người hiến máu và là người anh hùng, đã cứu sống cuộc đời tôi. Xin cảm ơn!” Cảm xúc của anh rất hạnh phúc và sung sướng, anh ra khỏi nhà , nhìn ngược xuôi cả con đường và hét lớn “Cảm ơn”, “Tôi rất háo hức để được đọc cái này. Anh vẫy tờ báo lên trong không khí”, “Tôi rất mừng vì bạn còn sống”. Cảm giác được cứu sống một người, làm một việc tốt thật sự rất tuyệt vời, vì bạn, vì những con người đang phải đối mặt với bệnh tật, họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ bằng cả tấm lòng với sự chân thành, sâu sắc nhất có thể, rồi nỗi buồn cũng sẽ qua đi khi nhận ra có rất nhiều người bên cạnh bạn, quan tấm lo lắng cho bạn. Và rồi… một sự kết thúc rất ngọt ngào, họ đã giải bày nỗi lòng của mình, những mâu thuẫn cho một sự tình cờ và bắt đầu cuộc hành trình mới cho cuộc sống của mình. Chúng ta không thể giải thích những ký ức, việc truyền máu kỳ quặc ấy nhưng đều chạm đến trái tim chúng ta là cách mà họ đã vượt qua mọi thứ như thế nào. Bao nhiêu nước mắt, đau đớn tuyệt vọng đến nhường nào nhưng vì mọi người, tình mẹ, tình cha và tình yêu đã giúp họ lấy lại niềm tin, như một sức sống luôn ẩn chứa, thôi thúc bên trong và sẵn sàng dâng trào lên bất cứ lúc nào. “Khi bị kịch xảy ra, bạn sẽ nhận ra rằng bạn, người chịu bi kịch, sẽ trở thành người làm mọi việc để cho người khác thoải mái”… ❤ – Nhi Trần Mời các bạn đón đọc Cảm Ơn Ký Ức của tác giả Cecelia Ahern.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Narcisse và Goldmund - Hermann Hesse
Tập tu ở tu viện Mariabronn, Narcisse nổi bật bởi năng lực trí tuệ và văn hoá của mình. Người ta giao phó cho thầy cậu học sinh Goldmund mà thân sinh cậu ta muốn định phận làm một tu sĩ: để chuộc tội cho cuộc sống xáo động trong quá khứ của thân mẫu cậu. Narcisse kết bạn với chú em thông minh ấy. Thầy cảm nhận khuynh hướng của cậu không phải ở tu viện, và giúp cậu chọn con đường đi. Từ ấy, Goldmund lao vào sống lang thang: trải qua các cuộc phiêu lưu tình ái, cậu tha thiết bắt gặp được tiện mạo lý tưởng của người phụ nữ "Êva vĩnh cửu", gương mặt thần tượng có thể thay cho thân mẫu cậu đã qua đời. Goldmund trải qua mọi nỗi gian truân, phạm nhiều lỗi lầm trong cuộc sống nay đây mai đó. Không phải Goldmund không ý thức về bản ngã, các điều đối lập nhau trong tâm hồn và xúc cảm của mình. Trong một giờ khắc suy tư tỉnh táo và sâu lắng, cậu quyết định trở thành một nhà điêu khắc: nghệ thuật là phương sách để tìm cái đẹp. Tuy vậy, cậu lại ra đi, cuốn hút theo cuộc sống lang thang... Narcisse và Goldmand kết thân với nhau; tư chất, lối sống, số phận của họ khác nhau, nhưng họ có những điểm gặp để hiểu và yêu quý nhau, để bổ sung cho nhau, khi còn trẻ cũng như về sau này.  *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** M ùa hè trôi qua, hoa phù dung, cúc lam, hoa cây đen và cúc sao tàn rơi, ếch nhái trong ao im tiếng, lũ cò bay lên cao, chuẩn bị ra đi. Bấy giờ Goldmund lại trở về. Một chiều mù sương, cậu trở về, không vào tu viện mà đi thẳng đến cổng vào gian xưởng của mình. Cậu đi bộ, không có ngựa nữa. Erich hoảng hốt khi thấy thầy bước vào. Chú thợ bạn nhận ra ngay thầy qua cái nhìn đầu tiên, con tim chú nhưng muốn bay ra đón thầy, nhưng dường như đây là một người hoàn toàn khác lạ: Một Goldmund giả, già đi nhiều năm, bộ mặt gần như tàn tạ, đầy phong trần, héo hon, nhăn nheo, bệnh hoạn, đau khổ, nhưng không để lộ mình đang đau đớn mà điểm một nụ cười nhân từ và kiên nhẫn. Goldmund kéo lê bước chân vật vã và dường như rất uể oải, mệt nhọc. Cậu Goldmund biến dạng và không ai nhận ra ấy chăm chăm nhìn chú thợ bạn trẻ với một con mắt kỳ lạ. Chuyến trở về của cậu rất kín đáo; cậu ứng xử như mình vừa ở căn phòng bên cạnh, như thể mới chốc lát vừa rồi, cậu đã ở đây. Chìa bàn tay cho người học trò, cậu không nói gì, không chào hỏi, chỉ bảo: “Ta cần ngủ”, có vẻ rất mệt nhọc. Cậu cho Erich đi nơi khác và sang phòng của mình ở bên cạnh gian xưởng. Nơi đây, cậu dỡ mũ và đánh rơi xuống đất, cởi giày và lại bên chiếc giường. Trong góc phòng, dưới lớp rào che, cậu nhận ra pho tượng Đức Mẹ Đồng Trinh của mình, ra một dấu hiệu tỏ ý bạn bè nhưng không dở lớp vải che và không chào hình ảnh ấy. Ngược lại, cậu xuất hiện ở khung cửa sổ nhỏ, nhìn thấy Erich ở ngoài sân đang bối rối, và cậu lên tiếng réo gọi: - Erich, cháu không cần báo với bất cứ ai là ta đã trở về. Ta đang rất mệt. Từ bây giờ đến mai, còn thời gian. Sau đó, cậu để nguyên quần áo đang mặc, nằm lăn ra giường. Hồi lâu, không ngủ được, cậu ngồi dậy, nặng nề bước lại gần bức tường có treo một chiếc gương soi và đưa mắt nhìn vào đó. Cậu qua sát chăm chú lão Goldmund từ trong gương nhìn cậu: Một bộ mặt quen biết nhưng lại như xa lạ, đối với cậu nó dường như không thực sự hiện hữu, và cậu không hề cảm thấy có chút quan hệ nào. Cậu chỉ nhớ những bộ mặt khác từng quen biết: Một ít vì thầy Niklaus, một chút về vị hiệp sĩ già ngày trước đã ra lệnh may cho cậu một bộ áo quần đung thời trang, cũng có phần thánh Jacques trong ngôi nhà thờ, vị thánh Jacques cao niên, nhiều râu, dưới chiếc mũ khách hành hương có vẻ rất già, rất già và da xạm, tuy vậy vẫn toát ra một ấn tượng vui vẻ và nhân từ. ... Mời các bạn đón đọc Narcisse và Goldmund của tác giả Hermann Hesse.
Chiếc Cầu Trên Sông Drina - Ivo Andritch
Chiếc cầu danh tiếng xây trên sông Drina ở Vichégrad để nối xứ Bosnie với xứ Serbie, cả hai thời đó đều là những tỉnh trong đế quốc Thổ, mới là nhân vật chính trong bộ cố sự chép từ thế kỷ XVI tới năm 1914 đó. “Công trình kiến trúc quí báu, đẹp tuyệt vời” kia trong xứ hẻo lánh ấy làm cho người ta ngạc nhiên và giúp cho tác phẩm có tính cách nhất trí: Chương nào cũng chép một cố sự liên quan tới “chiếc cầu trên sông Drina” Chiếc cầu đó được xây 1571, chương 3 và 4 chép việc xây cầu, những khổ dịch, và đau khổ ghê gớm mà tên hiểm ác Abidaga, người tin cẩn của quan tể tướng, bắt dân chúng chịu âm mưu phá cầu do Radislav tổ chức bị phát giác, Radislav bị bắt giam rồi bị xử tử xóc xiên (cuộc hành trình này thật rùng rợn, bút pháp tả chân thành tàn nhẫn) Nhưng mọi thứ biến cố - hết thảy đều liên quan tới chiếc cầu trên sông Drina - nối tiếp nhau xảy ra trong những thế kỷ sau: nạn lụt, loạn lạc, bệnh dịch, và trên cầu đặt lính canh gác, kiểm tra mọi người qua cầu, vụ tự tử của thiếu nữ diễm lệ Fata, để tránh khỏi một cuộc ép duyên… Bố cố sự dài này xen lẫn nhiều truyện tình cảm hoặc khôi hài, hấp dẫn từ đầu tới cuối. Như trong tập Cố sự Travnik, biến cố lịch sử ghép vào những sự biến cố gia đình. Tác giả là một học giả mà cũng là một nghệ sĩ, mô tả tâm lý rất dài. *** Ivo Andrić là nhà văn Nam Tư đoạt giải Nobel Văn học năm 1961. Ivo Andrić sinh ở làng Dolac, gần Travnik, Bosna và Hercegovina, khi đó thuộc Đế chế Áo-Hung. Tên là Ivan nhưng mọi người thường gọi là Ivo. Bố mất năm Ivo lên 2, mẹ phải đưa con đến ở nhờ một bà dì. Thời trẻ Ivo Andrić sống ở Bosnia nên ông có điều kiện tiếp xúc với nhiều tầng lớp đại chúng của nhiều sắc tộc, nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa khác nhau vùng Balkan. Ông học triết học tại các đại học ở Zagreb, Viên và Kraków. Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra khiến ông phải nghỉ học; sau đó bị bỏ tù do hành động chống Đế quốc Áo. Năm 1923, Ivo Andrić nhận học vị tiến sĩ tại trường Đại học Graz, làm việc tại Bộ ngoại giao Nam Tư. Chức vụ cuối cùng mà ông nắm giữ là Tham tán tại Đại sứ quán Nam Tư ở Berlin. Khi Đức xâm lược Nam Tư năm 1939, Ivo Andrić trở lại Beograd cho tới hết Chiến tranh thế giới thứ hai, sau đó tiếp tục sống ở thủ đô Nam Tư. Ivo Andrić bắt đầu sự nghiệp văn chương với vai trò là nhà thơ: năm 1918 ra đời tập thơ Ex ponto (Từ biển), và hai năm sau là tập Немири Lo lắng. Sau đó, ông tập trung viết truyện ngắn. Cuốn đầu tiên là Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez), xuất bản năm 1920, được coi là một trong những tác phẩm nổi trội trong cuộc đời sáng tác của Ivo Andrić. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, ông gần như bị quản thúc tại nhà; không thể tham gia cuộc kháng chiến chống phát xít, ông tập trung sáng tác. Năm 1941 - 1945 ông viết bộ sách có tên gọi chung "Bộ ba Bosna" với ba tiểu thuyết trở thành kiệt tác, На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina), Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka) và Госпођица (Tiểu thư); trong đó nổi tiếng nhất là Nhịp cầu trên sông Drina, kể về cuộc chiến giữa những người Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo trong lịch sử mấy trăm năm của Bosna. Ivo Andrić đạt tới đỉnh cao danh tiếng sau chiến tranh và trở thành một trong những nhà văn hàng đầu của Liên bang Nam Tư (mà Bosna là một trong sáu thành viên), vào Đảng Cộng sản và giữ chức Chủ tịch Hội Nhà văn Nam Tư. Năm 1948, ông giới thiệu cuốn Nove pripovetke (Những câu chuyện mới) viết về vấn đề con người xã hội lúc bấy giờ, về tâm lý của con người trong chiến tranh, về thời kì hậu chiến. Năm 1960, ông cho xuất bản tuyển tập truyện ngắn Lica (Những gương mặt). Ivo Andrić cũng viết một số khảo luận, trong đó nổi bật là Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya). Năm 1961 ông được nhận giải Nobel vì tài năng nghệ thuật sử thi "cho phép đặt ra những vấn đề và những số phận con người gắn với lịch sử đất nước một cách đầy đủ nhất". Ông mất năm 1975 ở Beograd. Tác phẩm: Ex ponto (Từ biển, 1918), tập thơ Немири (Lo lắng, 1919), tập thơ Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez, 1920), tiểu thuyết Pripovetke (Truyện ngắn, 3 tập, 1924, 1931, 1936), truyện ngắn На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina, 1945), tiểu thuyết Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka, 1945), tiểu thuyết Госпођица (Tiểu thư, 1945), tiểu thuyết Nove pripovetke (Những câu chuyện mới, 1948), tập truyện Проклета авлија (Khu vườn bị nguyền rủa, 1954), truyện vừa Lica (Những gương mặt, 1960), tuyển tập truyện Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya, 1961), tiểu luận Омерпаша Латас (Omer-Pasha Latas, in sau khi mất vào năm 1977) *** Bối cảnh của truyện này là xứ Bosnie – Herzégovine, nhưng trong vài chương xứ Serbie cũng thường được nhắc tới; mà những xứ đó, đa số độc giả chưa được biết, nên chúng tôi giới thiệu ít hàng dưới dây để độc giả dễ hiểu truyện. Chúng ta thường nghe nói đến Nam Tư Lạp Phu (tiếng Pháp là Yougoslavie có nghĩa là xứ của dân tộc Slave phương Nam, mà Slave trỏ một giống người ở Trung Âu, nhất là Đông âu như dân tộc Ukraine, Serbie, Croatie, Nga, Bảo Gia Lợi …) và Thống chế Ti to, vị anh hùng Nam tư theo chế độ cộng sản. Ông có tinh thần quốc gia mạnh mẽ, ngày càng xích gần lại với Tây Âu. Bosnie – Herzégovine và Serbie nay là hai trong sáu tiểu bang của Liên bang Cộng hòa Nhân dân Nam Tư, bốn tiểu bang kia là Croatie, Slovénie, Monténégro, Dalmatie. Liên bang đớ nằm trên bờ vịnh Adriatique, phía Tây ngó qua Ý, phía Đông Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, phía Bắc giáp Áo, phía Nam giáp Hy Lạp; dân số năm 1954 khoảng 17 triệu, kinh đô là Belgrade, trên tiểu bang Serbie. Bosnie – Herzégovine và Serbie là hai tiểu bang giáp nhau, rộng nhất, dân số mỗi tiểu bang năm 1954 khoảng bốn triệu. Cả hai đều nhiều núi, từ thế kỷ XIX trở về trước nguồn lợi canh là canh nông và mục súc. Kinh đô của Bosnie – Herzégovine là Sarajevo, của Serbie là Belglade. Dân hai xứ đều là giống Slave, hiện nay khoảng một phần ba theo Hồi giáo, hai phần ba theo Ki tô giáo. Lịch sử của họ rất gian truân, có lẽ nhờ vậy mà họ anh dũng và có tinh thần quốc gia mạnh. Mới đầu họ lệ thuộc La Mã, qua thế kỷ VII mới thành lập những tiểu quốc gần như độc lập: Bọsnie – Herzégovine, Serbie. Họ phải chống với những dân tộc ở chung quanh: Hi Lạp, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi. Thế kỷ IX họ theo Ki tô giáo. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Cầu Trên Sông Drina của tác giả Ivo Andritch.
Về Phía Mặt Trời - Matthew Quick
Không cần những tình tiết giật gân, tiểu thuyết của Matthew Quick hấp dẫn người đọc bởi câu chuyện cảm động, nhẹ nhàng với lối kể chuyện dí dỏm. Không giống như một số tác giả cùng thời, hướng ngòi bút đến những câu truyện trinh thám giật gân hồi hộp hay các câu chuyện tình cảm lãng mạn. Ngòi bút của Matthew Quick giàu tính nhân văn, anh tập trung vào những câu chuyện đời thường với những con người chịu nhiều tổn thương trong cuộc sống. Hai nhân vật Pat và Tiffany trong tiểu thuyết Về phía mặt trời là một ví dụ. Pat, một anh chàng vừa rời khỏi bệnh viện tâm thần, và Tiffany - cô gái trẻ góa bụa bỗng tìm thấy nhau. Họ giúp đối phương chữa lành những vết thương và tìm lại niềm tin trong cuộc sống. Cái kết hạnh phúc của Pat và Tiffany là minh chứng mạnh mẽ nhất về sức mạnh của tình yêu. Đến nay các tác phẩm của Matthew Quick đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, được vinh danh tại lễ trao giải PEN/ Hemingway Award, lọt vào chung khảo LA Time Book Prize. Năm 2013, Matthew Quick lọt vào danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới của tạp chí Time. *** Matthew Quick sinh năm 1973 tại Oaklyn một thành phố có lịch sử hơn 100 năm thuộc tiểu bang New Jersey, Mỹ. Năm 1996, anh tốt nghiệp đại học La Salle với bằng kép về văn học Anh và Sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, Matthew Quick trở thành một giáo viên dạy văn ở một trường trung học ở New Jersey. Sau thời gian dài, đứng trên bục giảng, năm 2004, Matthew Quick bỏ nghề giáo để tập trung cho sự nghiệp sáng tác. Năm 2008, cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh The Silver Linings Playbook được xuất bản. Ngay lập tức cuốn sách đã nhận được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Trong suốt nhiều tuần, đây là cuốn sách bán chạy nhất theo tạp chí The New York Time. Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt với tựa Về phía mặt trời. Năm 2012, cuốn tiểu thuyết này đã được đạo diễn David O. Russell đưa lên màn ảnh rộng và bộ phim đã thắng lớn khi dành được bốn đề cử quan trong nhất của giải Oscar: Phim xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Nữ diễn viên người Mỹ, Jennifer Lawrence đã dành giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai Tiffany. Đến nay, Matthew Quick đã cho ra đời 6 cuốn tiểu thuyết. Tác phẩm mới nhất của anh với tựa đề Every exquisite thing sẽ được ra mắt vào đầu năm 2016 tại Mỹ. Độc giả Việt Nam biết đến Matthew Quick qua 3 cuốn tiểu thuyết đã được dịch ra tiếng Việt: The Silver Linings Playbook (tựa tiếng Việt:Về phía mặt trời), Boy21 và Chết đi cho rồi, Leonard Peacock. *** Chẳng cần ngước lên tôi cũng biết Mẹ lại đến thăm đột xuất. Vào mùa hè bao giờ bà chả sơn móng chân màu hồng; và tôi nhận ra hình vẽ hoa trên đôi dép da, đôi dép Mẹ mua lần trước khi bà ký giấy cho tôi ra khỏi nơi xấu xa này và đưa tôi đến khu mua sắm. Lần này, Mẹ lại bắt gặp tôi mặc áo choàng tắm khi tôi đang tập một mình trong sân, và tôi mỉm cười vì biết bà sẽ quở trách bác sĩ Timbers, sẽ hỏi ông ta sao phải nhốt tôi nếu suốt ngày bỏ mặc tôi một mình. “Con định chống đẩy đến bao giờ hả Pat?” Mẹ nói khi tôi bắt đầu lượt một trăm thứ hai, không nói chuyện với bà. “Nikki-thích-một-người-có-thân-trên-săn-chắc,” tôi nói, thổ ra từng từ sau mỗi cái chống đẩy, nếm vị mồ hôi mặn chảy vào mép. Trời tháng Tám sương mù dày đặc, thật lý tưởng để đốt chất béo. Mẹ đứng nhìn một đôi phút, rồi bà làm tôi bất ngờ. Bà nói, giọng run rẩy, “Hôm nay con muốn về nhà với mẹ không?” Tôi thôi chống đẩy, quay mặt lên nhìn Mẹ, nheo mắt vì ánh ban trưa trắng xóa – và tôi có thể nói ngay rằng Mẹ rất nghiêm túc, vì trông bà lo lắng, chừng như đang phạm sai lầm, và Mẹ hay vậy khi bà thật lòng nói gì đó, còn bình thường khi không buồn phiền hay lo sợ thì bà cứ nói huyên thuyên cả giờ không ngớt. “Nhưng con phải hứa không được đi tìm Nikki nữa,” bà nói thêm, “con có thể về nhà và sống với bố mẹ cho đến khi chúng ta tìm cho con một công việc và một chỗ sống ổn định.” Tôi lại tiếp tục chống đẩy, mắt dán vào con kiến đen óng đang bò trên ngọn cỏ ngay dưới mũi, nhưng tầm nhìn tôi còn thấy cả những giọt mồ hôi từ trên mặt nhỏ xuống đất. “Pat à, con chỉ cần nói là sẽ về ở với mẹ, mẹ sẽ nấu cho con ăn, và con có thể đi thăm các bạn cũ và bắt đầu quay về cuộc sống bình thường. Mẹ xin con. Mẹ cần con đồng ý. Chỉ vì mẹ thôi, Pat à. Mẹ xin con đấy.” Tôi chống đẩy nhanh hơn, cơ ngực dồn dập, lớn lên - đau, nóng, mồ hôi, thay đổi. Tôi không muốn ở chỗ xấu xa này, nơi không ai tin vào tia hy vọng, vào tình yêu, hay những kết thúc có hậu, nơi người ta cứ bảo tôi rằng Nikki sẽ không thích dáng vẻ mới của tôi, và rằng nàng cũng không muốn gặp tôi khi thời gian cách ly kết thúc. Nhưng tôi cũng sợ những người trong cuộc đời cũ của tôi sẽ không hào hứng như tôi đang cố gắng lúc này. Cho dù có thể, nếu mà suy nghĩ cho rành rẽ ra, thì tôi cần thoát khỏi những tay bác sĩ ác ôn và những mụ y tá xấu xa kia - với cơ man nào là thuốc với cả cốc giấy - và vì qua mặt Mẹ sẽ dễ dàng hơn rất nhiều qua mặt mấy y bác sĩ kia, nên tôi nhảy dựng lên, đứng trên hai chân mà nói, “Con sẽ về sống với mẹ cho đến khi hết thời gian cách ly.” ... Mời các bạn đón đọc Về Phía Mặt Trời của tác giả Matthew Quick.
Quo Vadis (Tiếng Việt)
Đề tài tiểu thuyết lịch sử Quo vadis (1895 -1896) là cuộc khủng bố các tín đồ Thiên chúa giáo thời Nerô bạo chúa ở Cổ La Mã. Với những giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật lớn lao, ngay từ khi ra đời, Quo vadis đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Tác phẩm đã gây nên những chấn động mạnh trong giới văn học nghệ thuật thế giới. Quo vadis nhanh chóng được dịch ra nhiều thứ tiếng. Từ lúc sinh thời, tác giả đã nhận được bản dịch Quo vadis bằng các tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Nga, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Tiệp Khắc, Hunggari, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Acmênia, Phần Lan, Lítva, Nhật và Ả Rập. Cho đến nay, Quo vadis đã được dịch ra trên bốn mươi thứ tiếng khác nhau. Tác phẩm cũng rất nhiều lần được đưa lên sân khấu và màn ảnh ngay từ những năm xa xưa nhất, đồng thời nó cũng trở thành đề tài của không ít công trình khảo cứu, không những chỉ ở Ba Lan mà trên phạm vi thế giới. Chuyển đạt lời văn của H.Sienkievich đến bạn đọc là một khó khăn lớn đối với người dịch, đặc biệt là trong trường hợp Quo vadis, bởi lẽ tiểu thuyết đề cập đến một thời đại, một nền văn hóa xa xưa có nhiều khác biệt với bạn đọc Việt Nam ngày nay. Để phần nào hỗ trợ cho bạn đọc trong việc tìm hiểu tác phẩm, chúng tôi có soạn thêm phần chú thích (bố trí ở cuối tập II) đề cập đến một số tên người và địa danh có trong tác phẩm nhưng không phổ biến lắm ở ta. Chúng tôi hy vọng rằng, mặc dù có những khiếm khuyết và hạn chế khó tránh khỏi, bản dịch Quo vadis từ nguyên bản tiếng Ba Lan sẽ là một dịp để bạn đọc tiếp xúc với Henryk Sienkievich, một nhà văn kiệt xuất, người đại diện xứng đáng cho nền văn học cổ điển rất phong phú của dân tộc Ba Lan *** Henryk Adam Aleksander Pius Sienkiewicz là nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1905. Ông thường ký dưới các tác phẩm của mình bằng bút hiệu Litwos. Henryk Adam Alexandr Sienkiewicz là con trai một địa chủ quý tộc nghèo sống ở nông thôn. Đến tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến động trong nền kinh tế, gia đình chuyển về Warszawa. Học xong trường gymnazy năm 1870, ông vào học Đại học Warszawa, lúc đầu học luật và y khoa, sau chuyển sang văn và sử. Sienkiewicz là cộng tác viên thường xuyên của các báo Przegląd Tygodniowy, Gazeta Polska, Niwa, Słowo và bắt đầu gây được sự chú ý với tiểu thuyết Namarne (Phí hoài, 1871), các truyện ngắn Stary sluga (Người đầy tớ già, 1875), Hania (1876), đồng thời ông cũng trở thành một nhà báo được thừa nhận tài năng. Năm 1876, tờ Gazeta Polska cấp tiền cho Sienkiewicz đi Mỹ với điều kiện đổi lại là ông phải viết một loạt bài về Hoa Kỳ; ở đây ông tham gia vào những thử nghiệm xây dựng trại xã hội chủ nghĩa không thành ở Anahaim (gần Los Angeles). Từ 1878 ông trở về châu Âu, đi nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết. Năm 1879, Sienkiewicz trở thành chủ bút một tờ nhật báo mới ở Ba Lan; ba lần lấy vợ; vợ đầu có hai con nhưng chết sớm. Sau khi về Ba Lan, Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm dài hơi và nổi tiếng với bộ ba tiểu thuyết Potop (Trận hồng thủy), Pan Wolodyjowski (Ngài Wolodyjowski), Ogniem i mieczem (Bằng lửa và gươm) - viết về các sự kiện diễn ra hồi thế kỉ 17 trong thời gian chiến tranh giữa người Ba Lan với người Kazakh, với người Thụy Điển và với người Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó Sienkiewicz viết hai tiểu thuyết về cuộc sống hiện đại là Bez dogmatu (Không có giáo điều) và Rodzina Polaniekich (Gia đình Polaniecki), còn vào những năm 1895-1896 - tiểu thuyết Quo vadis nói về cuộc sống dưới triều đại của hoàng đế Nero thời cổ La Mã đã mang lại danh tiếng thế giới cho ông. Năm 1900, Henryk Sienkiewicz được những người hâm mộ quyên tiền đủ để mua một trang trại nhỏ và tổ chức sinh nhật rầm rộ. Năm 1905 ông được trao giải Nobel vì những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực sử thi, mà cụ thể là tiểu thuyết Quo vadis viết về cuộc đấu tranh của những người Thiên Chúa giáo với Nero. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Sienkiewicz rời quê sang sống ở nước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Năm 1916 ông mất ở Vevey, tám năm sau thi hài của ông được chuyển về Warszawa và an táng trong nhà thờ. *** Vinixius gửi Ligia:     “Nô lệ Phlagon, kẻ mà tôi nhờ chuyển cho nàng bức thư này là một tín đồ Thiên chúa, nên bác ấy sẽ là một trong những người được đón nhận tự do từ chính tay nàng, hỡi con người thân yêu nhất đời! Đây là một đầy tớ già của gia đình, nên tôi có thể hoàn toàn tin cậy viết thư gửi qua bác ta, không sợ thư bị lọt vào một bàn tay nào khác ngoài tay nàng. Tôi viết thư từ Laurentum, nơi chúng tôi đang dừng chân vì thời tiết nóng nực. Tại đây, chàng Otho từng có một tòa biệt thự tuyệt vời mà hồi trước chàng đã tặng cho Poppea, còn ả ta, mặc dù đã ly dị chàng, vẫn cho rằng việc tiếp tục giữ món quà kia là hợp lẽ… Cứ nghĩ đến những người đàn bà đang ở chung quanh tôi rồi lại nghĩ về nàng, tôi thấy rõ là một khối đá của Đeukalion đã thành hình đủ loại người khác nhau, những loại không một chút giống nhau và nàng thuộc về những người được sản sinh từ chính pha lê. Tôi ngưỡng mộ, tôi yêu nàng với tất cả tâm hồn, đến nỗi tôi chỉ muốn nói cùng nàng về mỗi một mình nàng mà thôi và tôi phải bắt buộc mình lắm mới viết nổi cho nàng về chuyến đi, cùng những gì đang diễn ra với tôi và những chuyện mới mẻ trong chốn cung đình. Vậy hoàng đế đang là khách của Poppea, ả đã bí mật chuẩn bị một cuộc thù tiếp thật duyệt diệu. Thực ra, ả chỉ mời rất cẩn thận, nhưng cả tôi lẫn cậu Petronius đều nhận được lời mời. Sau bữa tiệc, chúng tôi chèo những con thuyền vàng trên mặt biển, biển lặng lẽ như đang say ngủ và biếc xanh như màu mắt nàng vậy, hỡi nữ thần!  ... Mời các bạn đón đọc Quo Vadis của tác giả Henryk Sienkiewicz.