Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Cầu Hôn Mùa Đông (Devil in Winter) - Lisa Kleypas

Nói về series Wallflowers, thì điểm nổi bật nhất là cả dòng series này đều lấy bối cảnh nước Anh thời kỳ công tước hầu tước…. Series nói về mấy chị em bạn thân đến tuổi chống-lầy nên phải tham dự hết thảy vũ hội để tìm cơ hội vớ được một con mồi sáng giá. Dậm lên mặt hàng đống phấn, mặc áo nịt bụng chặt muốn lòi ruột, đóng giả một cô nàng yếu đuối,… Họ sử dụng hết mọi kế sách để thực hiện mục tiêu vàng: Lấy được một anh chồng. Mặc dù họ bị gán ghép vào vai Những bông hoa bên lề, trong số họ cũng có người gần ngưỡng bị đưa vào danh sách Ế, nhưng phải nói là mấy ” bà cô” này đều không phải hạng xoàng đâu nha. Không phải tất thảy họ đều thuộc hàng Mỹ nữ khuynh nước khuynh thành, nhưng ở họ có những nét đẹp mà hầu hết các cô gái ở buổi vũ hội không có để khi một chàng hầu tước vô tình bắt gặp nụ cười của một bông hoa đứng bên lề vũ hội lại ngẩn ngơ nhớ mãi. Không phải cô nào cũng bắt được con mồi sáng giá như ý định ban đầu của họ, có cô đau khổ khóc ròng vì từ vị trí đi săn chồng cô lại trở thành món ngon để cho con sói máu lạnh danh tiếng trác táng xơi tái…. *** Đôi nét về tác giả: Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Nhìn chung hầu hết tác phẩm của Lisa Kleypas đều có những kết thúc rất hậu, truyện của bà mang phong cách nhẹ nhàng là chính, tuy nhiên bà cũng theo đuổi dòng trinh thám một ít. Bà được xem là một trong những tác giả dòng lãng mạng có những cuốn sách bán chạy nhất, tác phẩm của bà được bán trên toàn thế giới và dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Bộ Wallflowers gồm có: - Again The Magic - Bí mật Đêm hè - Chuyện Xảy ra giữa Mùa Thu - Lời Cầu Hôn Mùa Đông (Devil in Winter) - Scandal in Spring - A wallflower christmas *** Luân Đôn, 1843 Sebastien, Lord St. Vincent, nhìn chăm chú vào người phụ nữ trẻ vừa mới đột nhập vào cơ ngơi của anh ở Luân Đôn, và nhận ra có lẽ mình đã thực hiện một cố gắng vô ích vào tuần trước tại điền trang Stony Cross Park khi bắt cóc nhầm nữ thừa kế. Mặc dù cho đến gần đây, bắt cóc không nằm trong danh sách dài thườn thượt những hành vi xấu xa đặc trưng của Sebastien, lẽ ra anh phải khôn ngoan hơn thế. Xem xét kỹ, Lillian Bowman là một lựa chọn ngu ngốc, tuy vào lúc đó cô ta có vẻ là đáp án hoàn hảo cho vấn đề nan giải của Sebastian. Gia đình cô ta giàu có, trong khi Sebastian có tước danh và đang trong tình trạng eo hẹp tài chính. Hơn nữa Lillian hứa hẹn sẽ là một đối tác thú vị trong phòng ngủ, với vẻ đẹp của mái tóc đen nhánh và tính khí sôi nổi, nồng nhiệt. Anh lẽ ra nên chọn một con mồi ít khí thế hơn. Lillian Bowman, một nữ thừa kế người Mĩ mạnh mẽ, đã kịch liệt chống lại những kế hoạch của anh cho đến khi được giải cứu bởi vị hôn phu của cô ta, Ngài Westcliff. Jenner, một sinh vật như con cừu non đang đứng trước mặt anh đây, hoàn toàn không hề giống với Lillian Bowman. Sebastian nhìn nàng với một sự khinh miệt được che dấu, cân nhắc về những gì mà anh biết về nàng. Evangeline là đứa con duy nhất của Ivo Jenner, người sở hữu sòng bạc nổi tiếng ở Luân Đôn, và một người mẹ đã bỏ trốn cùng ông ta—chỉ để nhanh chóng nhận ra sai lầm của mình. Mặc dù mẹ của Evangeline đến từ dòng dõi đoan chính, cha nàng lại còn hơn cả một kẻ cặn bã đáng khinh. Tuy phả hệ của nàng chẳng có gì vẻ vang, Evangeline có thể trở thành một sự kết hợp kha khá nếu không kể đến cái tính bẽn lẽn khập khiễng của nàng, với hậu quả là việc nói lắp bắp tra tấn người khác. Sebastian đã nghe những người đàn ông rất nghiêm túc nói rằng họ thà mặc một cái áo sơ-mi đầy gai cho đến khi da họ rướm máu còn hơn là cố trò chuyện với nàng. Thế là theo lẽ tự nhiên, Sebastian đã cố gắng hết sức để làm ngơ nàng mọi lúc có thể. Việc đó chẳng có khó khăn gì. Nàng Jenner cả thẹn có thói quen trốn trong góc phòng. Họ chưa bao giờ thật sự trò chuyện trực tiếp với nhau—một hoàn cảnh rất phù hợp với cả hai người họ. Nhưng giờ thì chẳng thể nào ngó lơ nàng được. Vì lí do nào đó Miss Jenner đã thấy phù hợp trong việc không mời mà đến tại ngôi nhà của Sebastian vào một giờ khuya khoắt khiếm nhã. Để khiến cho hoàn cảnh gây tổn hại hơn, nàng còn không có người đi kèm—và trải qua hơn nửa phút một mình với Sebastian đã đủ để huỷ hoại bất cứ cô gái nào. Anh sống sa đoạ, không có ý thức về luân lý, và tự hào một cách ngang ngạnh về điều đó. Anh xuất sắc trong những việc mình đã lựa chọn—việc của một kẻ quyến rũ suy đồi—và anh đã lập ra một chuẩn mực mà rất ít kẻ trác táng nào khác có thể theo kịp. Thả lỏng người dựa vào ghế, Sebastian quan sát Evangeline Jenner tiến tới bằng một vẻ uể oải đánh lừa. Căn phòng thư viện khuất trong bóng tối chỉ trừ một ngọn lửa nhỏ trong lò sưởi, ánh sáng lung linh nhẹ bập bùng trên gương mặt nàng. Nàng trông không nhiều hơn hai mươi tuổi, nước da tươi tắn, đôi mắt nàng tràn đầy nét trong sáng không bao giờ thất bại trong việc khơi dậy sự khinh miệt của anh. Sebastian chưa bao giờ xem trọng hay ngưỡng mộ sự ngây thơ. Tuy với tư cách là một quý ông buộc anh phải đứng lên khỏi ghế, anh lại thấy chẳng có lí do gì phải thể hiện cử chỉ lịch sự trong hoàn cảnh này. Thay vào đó, anh ra hiệu về chiếc ghế khác ở bên cạnh lò sưởi với cái vẫy tay lơ đễnh. “Cứ ngồi nếu cô thích,” anh nói. “Mặc dù tôi sẽ không lên kế hoạch ở lại lâu nếu tôi là cô. Tôi rất dễ bị nhàm chán, và tiếng tăm của cô thì không phải là của một người trò chuyện sắc sảo.” Evangeline không cau mày vì sự thô lỗ của anh. Sebastian không thể không tự hỏi kiểu giáo dục nào lại làm cho nàng hoàn toàn quen thuộc với việc bị xúc phạm, trong khi bất cứ cô gái nào khác cũng sẽ đỏ mặt và rưng rưng nước mắt. Hoặc nàng là một cây đậu hóm hỉnh, hoặc nàng có thần kinh vững vàng đáng nể. Cởi bỏ áo khoác ngoài, Evangeline vắt nó lên một cánh tay vịn của chiếc ghế bọc nhung, và ngồi xuống mà không tỏ vẻ duyên dáng hay giả tạo. Hoa-bên-lề, Sebastian nghĩ, nhớ lại rằng nàng không chỉ là bạn của Lillian Bowman, nhưng còn là bạn của cả em gái Lillian: Daisy, và Annabelle Hunt. Cả nhóm bộ tứ đã ngồi ngoài rìa của rất nhiều vũ hội và dạ tiệc vào mùa hội vừa qua, một băng những hoa-bên-lề đến cuối đời. Nhưng có vẻ như vận xui của họ đã thay đổi, bởi vì Annabelle cuối cùng đã có thể chộp được một người chồng, và Lillian thì chỉ vừa bới được Ngài Wescliffe. Sebastian nghi ngờ may mắn của họ sẽ lan truyền đến con người vụng về này.  Mặc dù anh rất muốn hỏi về mục đích của nàng đến viếng thăm, Sebastian e là điều đó sẽ khởi đầu một hiệp của những tràng lắp bắp tra tấn cả hai người họ. Anh buộc mình phải kiên nhẫn chờ đợi, Sebastian quan sát nàng trong ánh sáng nhảy nhót của lò sưởi, và khá ngạc nhiên khi nhận ra nàng thu hút. Anh chưa bao giờ thật sự nhìn thẳng vào nàng. Anh chỉ có cảm giác thoáng qua về một cô gái tóc đỏ vụng về nhếch nhác với dáng điệu kém cỏi. Nhưng nàng lại xinh xắn. Khi Sebastian chăm chú quan sát nàng, anh ý thức được một sự căng thẳng nhẹ đang hình thành trong các thớ thịt của mình, những sợi lông nhỏ đang dựng đứng lên sau cổ anh. Anh vẫn ngồi thả lỏng trên ghế, tuy vậy, những đầu ngón tay anh hơi ấn vào tấm khăn nhung trải bàn. Anh thấy thật lạ là mình chưa bao giờ nhận thấy nàng trong khi có rất nhiều thứ đáng để nhận thấy. Tóc nàng có một sắc đỏ tươi thắm nhất mà anh từng được chiêm ngưỡng, nó dường như hấp thụ sức sống từ ngọn lửa, sáng bừng lên với luồng hơi nóng rực rỡ. Vòm cong mảnh mai của lông mày và đôi mi dày có màu nâu đỏ đậm, trong khi làn da nàng là của một người tóc đỏ thật sự, trắng và hơi có tí tàn nhang trên mũi và hai gò má. Sebastian thấy những nốt tàn nhang ánh vàng trải rộng như pháo hoa mùa lễ hội thật thú vị, lác đác như thể được phất ra từ cây đũa thần của một nàng tiên thân thiện. Nàng có đôi môi mọng với sắc hồng tự nhiên, và đôi mắt xanh lam to, tròn...tuyệt đẹp nhưng là đôi mắt vô cảm, như đôi mắt của một con búp bê bằng sáp. “Tôi nh-nhận được tin rằng bạn tôi, Cô Bowman giờ đã là Nữ bá tước Westcliffe,” Evangeline nói với một thái độ cẩn trọng. “Cô ấy và ngài bá tước đã kết hôn ở Gr-Gretna Green sau khi ngài ấy...giải quyết ngài.” “Đánh tôi thành một cục bột nhão thì sẽ là một lựa chọn từ ngữ chính xác hơn,” Sebastian nói thoải mái, biết rằng nàng không thể không nhận thấy những vết bầm đã nhạt màu trên quai hàm anh từ trận đòn thích đáng của Westcliffe. “Cậu ấy có vẻ không chấp nhận chuyện đó tốt lắm, việc tôi mượn vị hôn thê của cậu ấy.” “Ngài b-bắt cóc cô ấy,” Evangeline điềm tĩnh phản bác. “Mượn ám chỉ rằng ngài có ý định trả cô ấy lại.” Sebastian cảm thấy môi anh cong lên trong một nụ cười thật sự đầu tiên sau một khoảng thời gian dài. Nàng không phải là một kẻ ngốc nghếch, rõ ràng rồi. “Bắt cóc vậy, nếu cô muốn cụ thể hơn. Có phải đó là lí do mà cô đến thăm không, Cô Jenner? Để thông báo tin tức về cặp đôi hạnh phúc đó à? Tôi mệt mỏi vì chủ đề này rồi. Tốt hơn là cô nên sớm nói điều gì đó thú vị, nếu không tôi e là cô sẽ phải rời đi.” “Ngài m-muốn Cô Bowman vì cô ấy là một người thừa kế gia tài,” Evangeline nói. “Và ngài cần phải kết hôn với ai đó có tiền.” “Đúng vậy,” Sebastian thoải mái thừa nhận. “Cha tôi, ngài công tước, đã không thành công trong trách nhiệm duy nhất của đời mình: giữ cho gia sản bất khả xâm phạm để có thể truyền lại cho tôi. Mặt khác, trách nhiệm của tôi lại là sống thảnh thơi trong sự lười biếng phóng đãng và chờ cho ông ấy chết. Cho đến nay tôi đã thực hiện công việc của mình rất xuất sắc. Ngược lại, tước công thì lại không. Ông đã làm hỏng việc sắp xếp các khoản tài chính của gia đình, và hiện tại ông ấy đang ở trong tình trạng nghèo khó không thể tha thứ được, và còn đáng trách hơn, lại rất khỏe mạnh.” “Cha tôi giàu có,” Evangeline nói không có chút cảm xúc. “Và đang hấp hối.” “Chúc mừng cô,” Sebastian ngắm kĩ nàng. Anh không nghi ngờ Ivo Jenner có một gia sản đáng kể từ câu lạc bộ của ông ta. Sòng bạc Jenner’s là nơi những đức ông của Luân Đôn đến đánh bạc, thưởng thức đồ ăn ngon, rượu mạnh, và gái điếm rẻ tiền. Không gian nơi đó là sự phung phí pha lẫn với một mức độ xoàng xĩnh dễ chịu. Gần hai mươi năm trước, Jenner’s đã được xếp hạng thứ hai sau Craven’s huyền thoại - sòng bạc lớn nhất và thành công nhất nước Anh. Mặc dù vậy, khi Craven’s bị thiêu rụi và người sở hữu nó không cho xây dựng lại, câu lạc bộ Jenner’s đã thừa hưởng những khách hàng giàu có, và đã đứng lên vị trí dẫn đầu. Không phải là nó có thể được so sánh với Craven’s. Một câu lạc bộ phản ánh rất nhiều về cá tính và phong cách của người sở hữu nó, cả hai thứ đó Jenner đều thiếu sót. Derek Craven, không phải bàn cãi, từng là một người đàn ông của công chúng. Ivo Jenner, ngược lại, là một gã thô lỗ cơ bắp, một cựu đấm bốc thủ chưa bao giờ xuất sắc ở bất cứ thứ gì, nhưng bởi một sự sắp đặt thần kì nào đó của định mệnh đã trở thành một người đàn ông kinh doanh thành đạt.  Và đây là con gái của Jenner, đứa con duy nhất của ông ta. Nếu nàng đang sắp đưa ra lời đề nghị đúng như Sebastian nghĩ, thì anh không có đủ khả năng để từ chối. “Tôi không muốn những l-lời chúc tụng của ngài,” Evangeline trả lời câu nhận xét trước đó của anh. “Cô muốn gì, bé con?” Sebastian hỏi dịu dàng. “Nếu cô vui lòng, hãy nói vào vấn đề chính đi. Chuyện này đang trở nên chán ngắt.” “Tôi muốn ở bên cha tôi trong những ngày c-cuối đời của ông. Gia đình bên mẹ tôi không cho tôi đến gặp ông. Tôi đã cố bỏ trốn đến câu lạc bộ, nhưng họ luôn luôn bắt được tôi, và rồi tôi bị trừng phạt. Lần này thì tôi s-sẽ không trở lại với họ. Họ đã lên một kế hoạch mà tôi muốn tránh bằng mọi giá—kể cả bằng mạng sống của mình, nếu cần thiết.” “Và kế hoạch đó là?” Sebastian uể oải giục. “Họ đang cố ép tôi kết hôn với một trong những người anh họ của tôi. Mr. Eustace Stubbins. Anh ta c-chẳng quan tâm gì đến tôi, mà tôi cũng không quan tâm gì đến anh ta...nhưng anh ta tình nguyện làm một con tốt trong âm mưu của gia đình tôi.” “Để nắm giữ gia sản của cha cô trong tay sau khi ông ta chết?” “Vâng. Lúc đầu tôi đã xem xét ý tưởng đó, bởi vì tôi nghĩ Anh Stubbins và tôi có thể có ngôi nhà của riêng mình...và tôi đã nghĩ...cuộc sống có thể chịu đựng được nếu tôi có thể sống xa bọn họ. Nhưng Anh Stubbins đã nói với tôi rằng anh ta không có ý định chuyển đi đâu cả. Anh ta muốn ở lại dưới mái nhà của gia đình...và tôi không nghĩ là tôi có thể sống sót ở nơi đó lâu hơn nữa.” Đối mặt với sự im lặng có vẻ thờ ơ của anh, nàng lặng lẽ nói thêm, “Tôi tin là họ có ý g-giết tôi sau khi đã có được tiền của cha tôi.” Ánh mắt Sebastian không rời khỏi khuôn mặt nàng, anh giữ cho giọng mình nhẹ nhàng. “Họ mới khinh suất làm sao. Tại sao tôi lại phải quan tâm?” Evangeline không rơi vào bẫy của anh, chỉ hướng về anh cái nhìn chăm chăm điềm tĩnh, thể hiện tính ngoan cố bẩm sinh mà Sebastian chưa bao giờ gặp ở một phụ nữ trước đây. “Tôi đang đề nghị ngài kết hôn với tôi,” nàng nói. “Tôi muốn có sự bảo vệ của ngài. Cha tôi bệnh quá nặng và quá yếu để có thể giúp tôi, và tôi sẽ không trở thành một gánh nặng cho bạn bè của mình. Tôi tin là họ sẽ đề nghị cho tôi ẩn náu, nhưng nếu được như thế tôi cũng sẽ luôn luôn phải đề phòng, lo sợ những người họ hàng có thể bắt tôi đi và buột tôi làm theo ý họ. Một phụ nữ chưa kết hôn có rất ít quyền lợi, cả trong xã hội và trước pháp luật. Điều đó không c-công bằng...nhưng tôi không đủ khả năng để đi đánh nhau với những cối xay gió. Tôi cần một ng-người chồng. Ngài cần một người vợ giàu có. Và chúng ta đều tuyệt vọng như nhau, điều đó khiến tôi tin rằng ngài sẽ đồng ý với lời đ-đề nghị của tôi. Nếu như vậy, thì tôi sẽ muốn đến Gretna Green ngay tối nay. Ngay bây giờ. Tôi chắc là lúc này những người họ hàng của tôi đã bắt đầu tìm kiếm rồi.” Sự tĩnh lặng nặng nề ngập trong không trung khi Sebastian đánh giá nàng với một cái nhìn thiếu thiện cảm. Anh không tin tưởng nàng. Và sau cuộc bắt cóc thất bại tuần trước, anh không có ý định lặp lại kinh nghiệm đó lần nữa. Dù vậy, nàng vẫn đúng về một điều. Sebastian thật sự đang tuyệt vọng. Như những người chủ nợ sẽ thừa nhận, anh là một người đàn ông thích mặc quần áo sang trọng, ăn uống ngon lành, điều kiện sống tốt. Khoản trợ cấp hàng tháng mà anh nhận được từ công tước sẽ sớm bị cắt giảm, và chỉ mới tháng trước anh còn không có đủ tiền trong tài khoản. Đối với một người đàn ông không có sự phản đối nào với việc chọn lựa con đường dễ dàng, lời đề nghị này đúng là của trời cho. Nếu nàng thật sự sẵn sàng thực hiện nó. “Của được cho thì không nên kén chọn,” Sebastian nói thẳng thừng, “nhưng cha cô đang hấp hối đến mức nào? Một vài người còn lê lết nhiều năm trên giường bệnh của mình. Tôi luôn nghĩ đó là một phong cách rất tệ, khi khiến cho mọi người phải chờ đợi.” “Ngài sẽ không phải đợi lâu,” là câu trả lời nổi cáu của nàng. “Tôi đã được bảo là ông sẽ chết trong khoảng hai tuần nữa, có lẽ vậy.” “Có gì chắc chắn là cô sẽ không thay đổi ý định trước khi chúng ta đến được Gretna Green không? Cô biết tôi là loại người nào rồi đấy, Cô Jenner. Có cần tôi nhắc nhở cô rằng tôi đã cố gắng bắt cóc và cưỡng hiếp một trong những người bạn của cô vào tuần trước?” Cái nhìn của Evangeline hướng thẳng về phía anh. Không giống như đôi mắt anh, với một sắc lam nhạt, mắt của nàng là những viên ngọc saphire xanh thẫm. “Ngài có cố cưỡng hiếp Lillian không?” nàng căng thẳng. “Tôi đã đe dọa như thế.” “Ngài sẽ thực hiện lời đe dọa đó chứ?” “Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ bị buột phải làm thế trước đây, nhưng như cô đã nói, tôi đang tuyệt vọng. Và trong khi chúng ta đang nói về chuyện này...có phải cô đang đề nghị một hôn nhân vì lợi ích, hay chúng ta sẽ ngủ với nhau trong vài dịp?” Evangeline làm ngơ câu hỏi đó, vẫn dai dẳng. “Liệu ngài có e-ép buộc cô ấy hay không?” Sebastian nhìn nàng chằm chằm với vẻ châm biếm hiển nhiên. “Nếu tôi nói không, Cô Jenner, thì làm sao mà cô biết tôi có nói dối hay không? Không. Tôi sẽ không cưỡng hiếp cô ấy. Câu trả lời này có phải là thứ cô muốn? Cứ tin nó đi vậy, nếu nó khiến cô thấy an toàn hơn. Giờ, với câu hỏi của tôi...” “Tôi sẽ ng-ngủ với ngài một lần thôi,” nàng nói, “để khiến cho hôn nhân này hợp pháp. Không bao giờ có lần sau đó.” “Tuyệt thật,” anh thì thầm. “Rất hiếm khi tôi lại thích ngủ với một phụ nữ nhiều hơn một lần. Đúng là sự nhàm chán cấp tốc, sau khi điều mới lạ đã ra đi. Hơn nữa, tôi sẽ không bao giờ làm một kẻ trưởng giả và đi thèm muốn vợ mình. Mà đã thèm muốn vợ thì có nghĩa là sẽ không được giữ một người tình. Tất nhiên là còn có vấn đề phải sinh cho tôi một người kế vị...nhưng chừng nào mà cô còn kín đáo, tôi không quan tâm cái đếch gì nó là con của ai.” Nàng còn không hề chớp mắt. “Tôi sẽ muốn một p-phần trong di sản được để lại cho tôi qua một ủy thác. Một ủy thác rộng rãi. Khoản lợi nhuận sẽ chỉ của riêng tôi mà thôi, và tôi sẽ sử dụng nó theo ý của mình-mà không phải báo cáo cho ngài về mọi việc tôi làm.” Sebastian giờ đã hiểu rằng nàng không hề ngốc nghếch, mặc dù tật nói lắp sẽ khiến cho nhiều người nghĩ khác. Nàng đã quen với việc bị xem thường, bị ngó lơ, bị bỏ qua một bên...và anh đoán chừng nàng sẽ lấy điều đó làm lợi thế cho mình bất cứ khi nào có thể. Việc này khiến anh thích thú. “Tôi phải là một kẻ ngốc mới tin tưởng cô,” anh nói. “Cô có thể quay lưng lại với thỏa thuận của chúng ta vào bất cứ lúc nào. Và cô phải là một kẻ ngu ngốc hơn nữa mới đi tin tôi. Bởi vì một khi chúng ta đã kết hôn, tôi có thể còn xử tệ với cô hơn cả những gì gia đình phía mẹ cô có bao giờ mơ tới.” “T-thà rằng đó là một người tôi chọn,” nàng đáp lại nghiêm nghị. “Là ngài thì tốt hơn là Eustace.” Sebastian phì cười vì điều đó. “Câu đó không nói lên nhiều điều tốt về Eustace lắm.” Nàng không đáp trả lại nụ cười của anh, chỉ hơi sụm người trên ghế, như thể một sự căng thẳng nặng nề đã rời bỏ nàng, và nhìn anh chằm chằm với một vẻ yên phận cam chịu.    Ánh mắt họ gặp nhau, và Sebastian cảm thấy một cú sốc nhận thức kì lạ chảy rần rật từ đầu đến chân. Với anh, việc bị một phụ nữ kích thích chẳng có gì mới mẻ. Từ lâu anh đã nhận ra mình là một người đàn ông thiên về thể xác hơn những người khác, và rằng một vài phụ nữ nhen nhóm ngọn lửa trong anh, thổi bùng lên khát vọng đến một mức độ bất bình thường. Không hiểu vì sao cô gái vụng về, nói lắp bắp này lại là một trong số họ. Anh muốn ngủ với nàng. Những hình ảnh vụt hiện lên từ trong trí tưởng tượng xáo động của anh, về cơ thể nàng, về những đường cong và làn da mà anh còn chưa được nhìn thấy, sự căng tròn của mông nàng khi anh khum nó trong hai bàn tay. Anh muốn hương thơm của nàng tràn vào mũi, thấm vào da anh...mái tóc dài của nàng lướt qua cổ và ngực anh...Anh muốn làm những điều không thể nói nên lời với miệng nàng, và với miệng anh. “Vậy điều đó đã được quyết định,” anh thì thầm. “Tôi chấp nhận lời đề nghị của cô. Còn rất nhiều thứ phải bàn, tất nhiên, nhưng chúng ta sẽ có hai ngày cho đến khi đến được Gretna Green.” Anh đứng lên từ chiếc ghế và vươn vai, nụ cười của anh phảng phất khi anh nhận thấy ánh mắt của nàng lướt nhanh khắp người anh. “Tôi sẽ cho chuẩn bị xe ngựa và bảo người hầu thu xếp hành lý. Chúng ta sẽ đi trong khoảng một tiếng nữa. Tiện đây, nếu cô có quyết định rút lại thỏa thuận bất cứ lúc nào trong chuyến hành trình của chúng ta, tôi sẽ thắt cổ cô.” Nàng liếc anh vẻ chế giễu. “Ngài sẽ không phải quá căng thẳng về điều đó nếu ngài đã không thử làm thế với một nạn nhân miễn cưỡng vào t-tuần trước.” “Nói hay lắm. Vậy chúng ta có thể miêu tả cô như một nạn nhân tình nguyện?” “Một nạn nhân hăng hái,” Evangeline nói ngắn gọn, trông như thể nàng muốn rời khỏi ngay lập tức. “Kiểu yêu thích nhất của tôi,” anh nhận xét, và cúi người lịch sự trước khi anh sải bước rời khỏi thư viện.  ... Mời các bạn đón đọc tập mở đầu của bộ sách Wallflowers: Devil in Winter của tác giả Lisa Kleypas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cảm Ơn Ký Ức
Khi Joyce xuất viện, sau một vụ tai nạn đau lòng, cùng với tương lai mờ mịt và một cuộc hôn nhân tan vỡ, cô trở về sống với người cha già. Không lâu sau, một cảm giác mạnh mẽ trỗi dậy trong cô. Ký ức cô chứa đựng những việc mà cô chưa hề trải qua và cô không thể giải thích tại sao … Làm sao để bạn biết rõ một người chưa từng gặp? Ký ức của Joyce Conway chứa tất cả những điều mà cô không hiểu làm cách nào mình biết! Cô cảm giác “quen” với từng con hẻm nhỏ rải sỏi - nơi cô chưa từng đặt chân đến. Và đêm nào, cô cũng mơ thấy một bé gái mái tóc vàng hoe. Justin Hitchcock đã ly dị vợ. Anh cô đơn và lúc nào cũng bồn chồn không yên. Anh đến Dublin để giảng dạy về nghệ thuật và gặp một nữ bác sĩ quyến rũ, người đã khuyến khích anh tham gia hiến máu nhân đạo. Đã lâu lắm rồi, anh mới làm một việc xuất phát từ tận sâu thẳm trái tim của mình… Số phận đã đẩy đưa Joyce và Justin gặp nhau. Sau rất nhiều những trắc trở, cuối cùng, họ đã tìm được một nửa yêu thương của mình. “Hơn cả sự cảm động. Đó là điều có thể nói về quyển tiểu thuyết thần kỳ của Cecelia Ahern” *** Khi đi hiến máu, người ta sẽ không biết được máu của mình sẽ được tặng đến ai. Các cơ quan quản lý sẽ bảo mật tất cả những thông tin vì đây là lòng thiện nguyện và để tránh những phiền phức về sau cho cả hai phía. Nhân vật nam chính của câu chuyện đã đi hiến máu vì lời mời của cô bạn gái anh mới quen, cô ấy là một bác sĩ xinh đẹp. Anh chàng cứ luôn mong muốn được biết rõ rằng, ai là người nhận được máu mà anh ta hiến tặng, anh muốn được nhận lời cảm ơn, muốn người nhận máu của anh thể hiện lòng biết ơn với anh. Một người phụ nữ đã sảy thai, rất đau khổ, cô ấy được truyền vào cơ thể dòng máu của anh. Và bắt đầu từ đây đã có rất nhiều điều kỳ lạ xảy ra với cuộc đời của cả hai người. Tất cả những ký ức của người đàn ông, kể cả ký ức đẹp hoặc rất buồn, kể cả những bí mật được giấu kín của người đàn ông xa lạ, người phụ nữ được nhận máu của anh đều nhìn thấy rất rõ như của chính mình, như bản thân đã chứng kiến tất cả những điều đó. Cô còn nói được một số ngôn ngữ khác mà cô chưa từng tiếp xúc, cô còn hiểu được lịch sử của những công trình kiến trúc mà cô chưa từng biết tới. Vì đó là công việc, đam mê của người đã tặng máu cho cô, anh ta là giảng viên chuyên ngành về kiến trúc. Rồi những cuộc gặp gỡ tình cờ giữa họ, những lần cố tình gần gũi, tìm hiểu về nhau mà không để cho người kia biết hoặc khi đã sắp được chạm mặt nhau rồi không thể gặp nhau được cứ diễn ra, khiến họ càng mong muốn chạm mặt, để người kia hiểu được lòng mình, họ dần yêu nhau, rồi yêu nhau. Quyển sách không phải chỉ là tình yêu của hai con người đã từng đi qua một cuộc hôn nhân tan vỡ, không phải chỉ hấp dẫn vì sự bí ẩn của tạo hóa. Nó còn hấp dẫn, sâu sắc vì tình cha con, tình vợ chồng của những người già, tình bạn bè, tình anh em. Nó còn hấp dẫn bởi cách kể chuyện lôi cuốn, ngôn ngữ hài hước, phải đến chương cuối cùng hai người đã yêu nhau ấy mới chính thức gặp nhau và nói lời xin lỗi, lời yêu thương ấm áp. Mình tìm được quyển sách này trong một đống sách giá rẻ khổng lồ ở một hội sách, hình như chỉ có 10 nghìn đồng. Nhiều khi chúng ta thường đánh đồng giữa giá cả và giá trị. Mình đã để cuốn sách trong tủ mấy năm nay, không đọc nó vì phải ưu tiên đọc những cuốn sách đắt tiền hơn. Câu chuyện này đọc vào một chiều mưa, một ngày cuối tuần hay trong một chuyến đi nghỉ dưỡng thì phù hợp biết mấy. – Nhân Trần *** Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính là Joyce Conway và Justin Hitchcock với các tình tiết rất kịch tính, éo le. Joyce là giảng viên môn nghệ thuật và kiến trúc tại trường cao đẳng Joyce có một cuộc hôn nhân hạnh phúc với người chồng tên Conor, không lâu sau đó một vụ tai nạn đau lòng khi đứa con đầu lòng mong ngóng từng ngày với tất cả niềm hãnh diện đã ra đi, khiến cho cuộc hôn nhân tan vỡ cùng với tương lai mù mịt, cô trở về sống với người cha già. Không lâu sau, một cảm giác mới mẻ trỗi dậy trong cô. Ký ức của cô chứa đựng những việc mà cô chưa hề trải qua và cô không biết giải thích tại sao, không hiểu làm cách nào mà mình biết… Cô cảm giác quen với từng con hẻm nhỏ rãi sỏi- nơi cô chưa từng đặt chân đến và đêm nào cô cũng mơ thấy một bé gái có mái tóc vàng hoe… Làm sao mà bạn biết rõ một người mà mình chưa từng gặp… Justin Hitchcock với cuộc sống hôn nhân tan vỡ và có một cô con gái tên Bea, anh cô đơn và lúc nào cũng bồn chồn không yên, khi anh đến Dublin để giảng dạy thì gặp một người bác sĩ quyến rũ, người đã khuyến khích anh tham gia hiến máu nhân đạo. Đã lâu lắm rồi anh mới làm một việc xuất phát từ tận sâu thẳm trái tim để rồi chính giây phút ấy có một sợi dây vô hình đã gắn kết anh với Joyce. …”Cô ao ước có một đưá bé, hay một cô bé giống như cháu… Cháu là hình ảnh đẹp nhất của mẹ. Phải chi cũng có một đứa trẻ, một đứa trẻ cũng có đôi mắt của cô, cái mũi của cô”. Thật sự việc bị mất đi điều thiêng liêng ấy – đứa con của mình khiến cô hoàn toàn sụp đổ, mọi thứ xung quanh với cô chỉ còn là một màu đen u ám, mỗi một ngày trôi đi hình ảnh đứa bé ấy, hình ảnh căn phòng cho trẻ sơ sinh hiện lên trong đầu cô, dày vò cô, bao nhiêu nước mắt, đau đớn tuyệt vọng và cả sự bế tắc mà cô không thể chia sẽ hay thoát khỏi và cũng chính câu chuyện bi thương này. Nhưng thật may khi bên cạnh cô có một người bố luôn che chở và dõi theo. “Thật đấy con ạ. Bố tin rằng có một thiên đường, ở trên kia, trên cả những đám mây. Tất cả những người từng ở đây rồi một ngày nào đó sẽ lên trên ấy. Ngay cả những người mắc tội tày đình, Đức chúa trời vẫn sẽ tha thứ. Bố tin là như thế “. Vào thời điểm “không có con, không có chồng, không có mẹ và sắp tới là không có nhà” tài sản duy nhất mà cô có bây giờ là bố. Cô mất đi tất cả mọi thứ thế nhưng cô có vài thứ nho nhỏ mà cô chưa từng có trước đó. Và thật sự kì tích, sức sống trong cô trỗi dậy mạnh mẽ khi gắp được định mệnh của cuộc đời mình. Sự tình cờ khi cô và anh chàng Justin cùng vào một tiệm hớt tóc. Và thêm một điều đặc biết là anh từng hiến máu cùng với lúc cô được truyền máu khi bị hư thai… “Người đàn ông giữ cánh cửa và mỉm cười. Đẹp trai. Gương mặt tươi tắn. Cao. Vai rộng. Có dáng thể thao. Hoàn hảo”. Ngay từ lần gặp đầu tiên, Justin rất có ấn tượng trong lòng cô. “Tôi nhìn vào trong gương và nhìn thấy trong đó một mẫu người ở mức trung bình về mọi mặt. Một chút mệt mỏi, một chút buồn nhưng không rơi vào tuyệt vọng. Tôi nhìn người đàn ông bên cạnh mình và tôi thấy anh cũng y như vậy” giữa hai người thực sự có rất nhiều điểm chung, “cảm giác như anh từng biết cô ta nhưng thực tế anh chưa từng biết cô ta”. Không thế giải thích tại sao khi mà cả hai đều có chung một cảm giác vừa thân thuộc nhưng cũng lạ lẫm… Điều khiến chúng ta bất ngờ nhất chính là máu của anh được truyền vào người cô. Các nhà khoa học giải thích rằng, trong trái tim có những tế bào thông minh có khả năng ghi nhớ kí ức. Thế nghĩa là nếu trái tim vẫn giữ được sự thông minh ấy, thì khi máu- thứ được bơm trực tiếp từ trái tim- truyền từ người này sang người khác, nó có thể mang theo cả những ký ức đó luôn ”nghe có vẻ thật điên rồ nhỉ nhưng làm sao có thể giải thích khi mà những hình ảnh lóe lên trong tâm trí như tia chớp rất nhanh và sắc nét“ hình ảnh về một người đàn ông đang đứng ở cầu thang. Một em bé trong vòng tay của tôi. Một bé gái có tóc vàng hoe. Một bài hát quen thuộc… Và thế là cô bắt đầu tìm kiếm anh, tìm kiếm sự thật rằng những ký ức tại sao luôn xuất hiện. Không chỉ riêng cô mà Justin cũng đang không ngừng tìm kiếm người mà anh đã cứu sống, anh có chứng sợ hãi với kim tiêm, nhưng khi gặp được một bác sĩ tên là Sarah khuyến khích anh, anh mới có đủ can đảm một làm một việc có ích chính vì thế mà anh thật sự rất mong muốn tìm ra người anh đã truyền máu nhưng sự thật thì không thể, mọi thứ đều giấu kín. Tưởng chừng như chẳng còn một chút hi vọng nào cho anh thì cô con gái Bea đã mở đường cho anh và mọi thứ đều được giải bày, khi anh nói cho cô con gái điều mình mong muốn người được truyền máu sẽ thực hiện như là gửi lời cảm ơn hay mỗi buổi sáng anh sẽ nhận được món quà ở trước cửa và…, anh đã nhận được. Một giỏ bánh nướng xốp. Và tấm thiếp với từng chữ một trên đó làm anh lạnh cả lưng sống “Cảm ơn… Đã cứu sống cuộc đời tôi”, sau đó là một tờ báo và không có mẫu giấy nào kèm theo, “Anh tâp trung nhìn vào trang nhất. Trên những dòng chữ nổi bật ở một góc nhỏ của trang, anh chú ý đến một lời hướng dẫn, trang 42”. “Người đã nhận máu, mãi mãi biết ơn và ao ước được nói lời cảm ơn với Justin Hitchcock, người hiến máu và là người anh hùng, đã cứu sống cuộc đời tôi. Xin cảm ơn!” Cảm xúc của anh rất hạnh phúc và sung sướng, anh ra khỏi nhà , nhìn ngược xuôi cả con đường và hét lớn “Cảm ơn”, “Tôi rất háo hức để được đọc cái này. Anh vẫy tờ báo lên trong không khí”, “Tôi rất mừng vì bạn còn sống”. Cảm giác được cứu sống một người, làm một việc tốt thật sự rất tuyệt vời, vì bạn, vì những con người đang phải đối mặt với bệnh tật, họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ bằng cả tấm lòng với sự chân thành, sâu sắc nhất có thể, rồi nỗi buồn cũng sẽ qua đi khi nhận ra có rất nhiều người bên cạnh bạn, quan tấm lo lắng cho bạn. Và rồi… một sự kết thúc rất ngọt ngào, họ đã giải bày nỗi lòng của mình, những mâu thuẫn cho một sự tình cờ và bắt đầu cuộc hành trình mới cho cuộc sống của mình. Chúng ta không thể giải thích những ký ức, việc truyền máu kỳ quặc ấy nhưng đều chạm đến trái tim chúng ta là cách mà họ đã vượt qua mọi thứ như thế nào. Bao nhiêu nước mắt, đau đớn tuyệt vọng đến nhường nào nhưng vì mọi người, tình mẹ, tình cha và tình yêu đã giúp họ lấy lại niềm tin, như một sức sống luôn ẩn chứa, thôi thúc bên trong và sẵn sàng dâng trào lên bất cứ lúc nào. “Khi bị kịch xảy ra, bạn sẽ nhận ra rằng bạn, người chịu bi kịch, sẽ trở thành người làm mọi việc để cho người khác thoải mái”… ❤ – Nhi Trần Mời các bạn đón đọc Cảm Ơn Ký Ức của tác giả Cecelia Ahern.
Nhà Chử
Tái hiện truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Câu chuyện dân gian về chàng trai nghèo Đồng Tử và cuộc gặp gỡ định mệnh trên bãi Tự Nhiên với nàng công chúa con Vua Hùng được kể lại sinh động và nhiều cảm xúc. *** Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.   Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. *** Chiếc độc mộc cứ trùi trũi truồi xuôi. Nhập nhoạng tối, về đến một quãng sông êm ả. Chử nằm ngủ, ghếch đầu lên mạn thuyền. Suốt đêm ấy đẫy giấc. Đã qua những vùng lủa tủa đá lẫn với sóng. Không cần phải thấp thỏm đâm vào đá thác. Bỗng nhiên, đương hây hẩy gió may, chuyển ra gió giật. Giữa ban ngày, nổi bão cạn. Trời tạnh mây mà đùng đùng, ù ù như sấm rền. Hai bên sông, gió hung hăng bốc bay từng mảng rừng. Dòng nước đương miên man, chợt nổi từng con sóng úp, sóng ngửa cao bằng đầu, rồi xoáy sâu xuống sâu tròn lông lốc. Thuyền quay veo veo như chiếc lá tre được gió. Chử nhỏm dậy. Lật đật, chân chèo, chân lái, chân đốc, chân mũi. Không lại. Cái độc mộc như cây gỗ lăn xoay chong chóng. Chử đành nằm bám sạp thuyền, mà vẫn lúc lắc, điên đạo. Bụng xoắn lại, nảy đom đóm mắt. Bão cạn ba hôm liền. Rồi lại chui vào một vùng trời nước phẳng lặng như không. Ngày ngày ròng rã, ngẩng mặt lên, chỉ thấy xa xa một khoảng đất lở cách quãng viền cây xanh mờ. Chử đoán đất dễ thường là bến. Chử tạt độc mộc vào. Cái bến vắng chơ vơ không có cả đến một đàn le le hay lặn hụp bắt cá măng quanh thuyền quanh lưới ở những quãng thường có người lội. Mấy nhà chài đương co ro đẩy mảng vào trong đồng xa. Chử gọi lại hỏi mới biết từ dạo vỡ nước, cả bến đã chạy vào chân núi. Nhưng cũng hỏi thăm được. - Đã đến bến Tự Nhiên chưa, chư ông ơi? - Ở đây cũng chỉ mang máng nghe có người nói cứ xuôi đến hôm nào gặp vòng trăng tròn, hẵng hỏi thăm nữa. Còn xa. Chử lại lặn lội trên dòng sông quằn quại đỏ xuộm. Có hôm thuyền va phải xoáy trôi vào vùng nước quẩn. Sóng múa lên bốn phía, đánh thuyền lật mai. Chử tuồi xuống nước, ngoi theo thuyền. Rồi tay chân quặp bụng thuyền, như ôm cây gỗ. Mặc cho sóng dìm xuống, nhồi lên. Người và con thuyền chìm nổi quanh những làn sóng bầm đỏ, dài dằng dặc. Chẳng còn thấy bờ phía nào. Không đạp ra khỏi được lớp sóng quẩn. Không nhìn đâu ra có cái ăn. Chợt thấy lao xao, bàng bạc như cá đàn lượn qua. Rồi sóng lại oà đi. Đấy là những cánh sóng chen nhau, không phải cá. Chử buộc chão ngang lưng rồi lặn xuống. Hoạ may đáy sông tĩnh mịch, có con ốc nhồi, ốc tai voi... Nhưng cũng chỉ thấy bóng nước vàng mờ trong mắt. Cánh bãi ngập nước, những dây rợ cây hẹ nước, đám ngổ cạn, búi cói hoa mới chìm xuống, cá không vào đến đây. Mà giả thử có lạc loài bọn cá nào đến tìm ăn, thì những con lềnh đềnh to bằng chiếc thúng úp trắng bạch trên mặt nước, đôi mỏ dài như cặp đũa cả chăm chắm chúc xuống rình khua khoắng, không một nhách cá thoát nổi. Chử lại phải ngoi lên, lật mai, bò vào lòng thuyền, ngồi thở hồng hộc. Một lúc sau mới thuần mắt, nhìn ra. Nước lên đã ngập tận chân núi trước kia. Khác hẳn trên ngược, dòng chảy rúc vào gờ đá, mất hút vào đá, ở đây chỉ thấy mênh mang. Những con nước đuổi nhau, đè lên nhau, như những đàn ngựa, đàn voi đỏ thẫm chồm dựng đứng. Chử định thần nhìn kỹ bờ núi. Nhưng bơi vào, xa quá. Biết đâu chẳng lạc sang dòng khác. Những con nước đã tràn khắp nơi, nhoà hết các ngả sông, cửa sông rồi. Có chắc được phía nước cờn kia là triền sông Cái? Mà phải ra sông Cái, phải bám được sông Cái mới khỏi lạc. Cho đến hôm nào thấy được trăng lên. Chử định thần nhìn kỹ bờ núi. Nhưng bơi vào, xa quá. Biết đâu chẳng lạc sang dòng khác. Những con nước đã tràn khắp nơi, nhoà hết các ngả sông, cửa sông rồi. Có chắc được phía nước cờn kia là triền sông Cái? Mà phải ra sông Cái, phải bám được sông Cái mới khỏi lạc. Cho đến hôm nào thấy được trăng lên. Cái thuyền chỉ còn là cây gỗ trôi sông, thỉnh thoảng Chử thò tay ra đẩy tránh ngọn sóng. Đôi khi, chợt thoáng thấy một con vờ, một con cá lành canh, Chử quơ nắm lấy, đưa lên miệng nhai cho đỡ đói lòng. Chẳng còn biết kén chọn cá mú thế nào. Có lúc vớ nhầm, nuốt vội cả đám bọt rêu rễ cây sam nước. Thình lình, một ngọn sóng ập xuống. Chiếc độc mộc ngược lên ngang lưng sông rồi đổ xuống. Nhưng Chử đã biết quấn chão quanh bụng người, bụng thuyền từ hôm xuống đợt thác đầu tiên. Độc mộc lại úp mai xuống. Sóng phá dữ quá, không lật lên được. Chử đành lại ngâm mình trong nước, toài hai chân ếch, nhào ra. Cả người và chiếc độc mộc hũm xuống, lọt thỏm vào xoáy lũ mới. Có đến mấy ngày đêm mới trở ra được dòng cả. Sóng không lôi độc mộc trôi quanh nữa, mà người và thuyền vừa chạm vào mép sóng, đã bị nước xiết cuốn vun vút. Nước vẫn đương lên ào ạt, chẳng trông thấy bờ bến nào hai bên. Suốt đêm, Chử bơi bám thuyền, mắt mở căng. Giữa dòng bao la, có mỗi một con người và một cây gỗ. Nếu như nước thong dong bình thường, Chử chỉ việc làm như mọi khi. Lật cái độc mộc lại, chúm tay tát nước ra, lòng thuyền đã khô ráo cho người ngồi. Nhưng con nước đương hung hăng. Chử và cái độc mộc đành úp sấp, lăn lộn trong dòng nước lớn. Người bám vào cây gỗ rỗng, như con nhái bén, lao lên lao xuống. Trông ra trước mặt, cả sau lưng, cả hai bên mông mênh. Nhưng, như thế, Chử lại vẫn yên tâm. Dòng chảy xiết, cá sấu không thể đuổi theo. Giả thử có đánh hơi được mùi người cũng không làm gì nổi. Nhưng còn con giải, con thuồng luồng - những giống trăn nước ấy không sợ sóng, toài nhanh hơn sóng. Không thể trằm mình dưới nước mãi, để làm mồi cho giải, cho thuồng luồng. Ngồi trong độc mộc, Chử có thể rút dao lưng ra đâm thủng đầu cả thuồng luồng, cả giải. Lội trong nước thế này, vướng víu như chân tay phải trói, không đối phó được. Nhưng mà cơn nước đương triền miên lên, cũng không biết ra sao. Chử trông quanh quất, rồi lôi độc mộc rẽ sóng tạt về một bên. Đến chỗ nước phẳng, sóng lớn chưa xô tới, Chử đội độc mộc lên rồi lật ngược, với tay té ù nước ra, nhảy vào thuyền. Mặt trời lên đóng giữa đỉnh đầu, trông thấy một vệt xanh xanh bên mép nước trước mặt. Chử khoả hai tay, cắm cúi bơi dấn về phía ấy. Nhược lắm rồi. Cứ lên bờ ẩn, đợi cho cơn nước nguôi rồi mới lại tính chuyện đi nữa được. Mà phải kiếm ra cái ăn. Vào nơi ẩm thấp cũng dễ kiếm. Ở bùn, có ếch, có chạch, có ốc hương, có trai. Trong bụi cây niễng có rắn hổ mang, hổ lục, hổ bành - những thứ ấy đều ăn ngon. Chỉ ngại nơi đầm lầy cá sấu thường ra núp rình mồi dưới bùn, khó nhìn ra. Nhưng Chử đã có con dao vẫn giắt trên vành dây khố. Phải, nghỉ cái đã. Hôm nào nước lặng, hẵng đi, đi cho đến hôm nào gặp trăng lên. Ồ mà quên hôm trước không hỏi kỹ người bến trên. Một vòng trăng hay mấy vòng trăng. ° ° ° Bến Tự Nhiên! Bến Tự Nhiên! Bến Tự Nhiên ở đâu? Những ngày còn lên năm, lên bảy, bố mẹ thường kể chuyện về bến quê. Chử mơ màng tưởng cái bến Tự Nhiên ở trên khoảng trời cao xanh, chỗ bóng gốc cây đa giữa mặt trăng. Đến năm mười ba, mười lăm, trong câu chuyện về bến Tự Nhiên của bố mẹ, Chử nhìn thấy một vùng sông bãi, phía nào cũng đông đúc đêm ngày thuyền bè vào bến ra bến, trên bờ đợt đợt nhấp nhô những mô cát vàng lẫn phù sa trắng hồng. Xa nữa, xanh rờn bãi ngô, bãi khoai lang, củ từ, những bãi lúa và những bụi chuối ken khít thành rừng. Vào mùa chuối chín, chim các nơi bay về liền cánh, rợp cả trời bến. Những đàn gấu, đàn voi trong rừng sâu lũ lượt kéo ra bẻ chuối. Rồi Chử lại nghe lời bố mẹ tha thiết: - Con ạ, ông con vẫn ở bến Tự Nhiên dưới kia. Chử hỏi: - Ông ở bến quê với ai? - Ông ở một mình. Chử chưa bao giờ được gặp ông, lại tưởng tượng ra như đã nhìn thấy ông. Tóc ông Chử bạc xoá, lơ thơ trên hai vai lực lưỡng. Mặt ông Chử đỏ bồ quân. Ông Chử vác cỗ lưới đay. Ông Chử xách chiếc bê chèo, bước xuống thuyền. Con thuyền đánh cá rời bến, thả ra giữa trời nước lồng lộng. Gió bay, râu tóc ông Chử càng trắng phơ. Bố Chử nói: - Ngày trước, cả nhà ta đều ở bến dưới ấy. Đời con người trên sông nước, mặt trời mọc ở một nơi, đến lúc mặt trời lặn đã lại đổi bến khác, lại khi sớm tối chống sào đẩy thuyền đi thì sao đã đổi ánh. Nhọc nhằn thế chỉ vì cả đời đuổi theo con cá, con mú, không lúc nào ở yên, mà vẫn chưa biết đến chỗ nào cùng. Nhưng ông nói: có khó nhọc mới biết bay nhảy, thế mới là đời người, các con ạ. Bố trò chuyện với mẹ: mới sinh ra đã đi đường nước rồi, song vẫn chưa tường dòng chảy này có bao nhiêu ngọn nguồn đổ vào nhau thành sông Cái, con sông Cái từ đâu đến đây. Ờ nhỉ, phải rồi, dẫu cho trong thế gian có nơi nước dữ nước hiền khác nhau, nhưng nơi nào cũng có cá, có tôm, chúng mình hãy đi dò xem cho biết tận gốc con nước này. Mẹ tần ngần nhìn ra cửa bến, rồi nói: vợ chồng ta hãy đi hỏi ông. Mời các bạn đón đọc Nhà Chử của tác giả Tô Hoài.
Khu Trại Trong Thảo Nguyên
Bộ tiểu thuyết Sóng Hắc Hải - Valentin Kataev gồm 4 phần: Phần 1: Cánh buồm trắng cô độc Phần 2: Khu trại trong thảo nguyên Phần 3: Gió mùa đông Phần 4: Đường hầm Ô đét xa   KHU TRẠI TRONG THẢO NGUYÊN trong bộ bốn tập - “SÓNG HẮC HẢI” Năm 1910, trên báo “Người đưa tin Ôđexxa” - xuất hiện bài thơ đầu tiên của cậu bé Valia1 mười bốn tuổi - bài thơ “Mùa thu”. Ở đây dường như có điều gì báo trước về một nhà văn tương lai có tâm hồn thơ mộng, sớm gắn bó lòng mình với thiên nhiên. Bài thơ đầu tay là những suy tưởng trữ tình, những nét phác họa về mùa thu, về thiên nhiên Nga tươi đẹp. Mùa hè năm 1913, lần đầu tiên nếm hương vị thành quả văn chương, khi nhận được giấy mời của một tờ báo nhỏ ở Ôđexxa mời các nhà thơ trẻ tham gia câu lạc bộ văn nghệ địa phương, nhà văn tương lai ấy đã đắn đo suy nghĩ: “Liệu một học sinh trung học 16 tuổi đầu đã có thể coi mình là “trẻ”? Với dăm ba bài thơ đăng trên báo hàng ngày liệu đã có thể coi mình là “nhà thơ”?. Nhưng anh vẫn lên đường đến câu lạc bộ. Ở đây việc kết nạp hội viên phải thông qua đầu phiếu. Nhưng trong số những người đã từng đọc thơ mình ở đây chỉ có hai người được hưởng cái vinh dự lớn là được mời thẳng lên đoàn chủ tịch mà không phải bầu bán gì cả. Đó là V. Kataep và E. Bagrixki2. Khi trở thành nhà văn nổi tiếng, V. Kataep đã nhắc lại sự việc trên trong truyện ngắn “Gặp gỡ”. Cái thuở ban đầu ấy có cái gì đã kết tinh, không thể hòa tan mà sau này bạn đọc vẫn còn gặp lại trên nhiều trang sách của nhà văn, đó là nụ cười châm biếm, có khi nhân hậu, có khi cay độc như một nét riêng của miền duyên hải Ôđexxa, bắt nguồn từ quá khứ xa xưa: từ người dân chài trên bãi biển, từ anh công nhân lam lũ, từ người lính thủy can trường hay ở những em bé đồng biển với nước da đen sạm vì sóng gió Hắc hải và mặt trời phương nam. Cũng như nhiều nhà văn khác thuộc thời kỳ này, V. Kataep bước vào làng văn qua lối chiến hào bằng những bản tin và bút ký mặt trận. Tiếp theo là những ngày sôi nổi của Cách mạng. Trong những giờ phút gay go và căng thẳng, con người thường trưởng thành sớm hơn tuổi tác, nhất là nhà văn, và chính trong cơn lốc cách mạng ấy tài năng của nhiều nhà văn, trong đó có V. Kataep đã nảy nở một cách mau lẹ và vững chắc. V. Kataep đã trưởng thành trước khi ông từ giã tuổi thiếu niên. Thế nhưng đối với V. Kataep ngay cả khi tuổi niên thiếu đã qua rồi, ông vẫn còn giữ được rất lâu tâm hồn khát khao được quay lại đầm mình trong tuổi niên thiếu, và quả thực nhà văn đã trở lại sau những lần “trở về” ấy. V. Kataep là một trong những người trong khi vẫn vui vẻ tiếp nhận tuổi đời và say sưa với những công việc của “tuổi tác mình” nhưng vẫn háo hức sống với những năm tháng đã qua, có khi là những tháng năm xa xôi tưởng như chẳng mấy ai còn nhớ tới nữa - những năm tháng có khi vui tươi, đầy mơ ước háo hức, song cũng có khi buồn. Vào những năm thứ hai mươi, khi tuổi đời và tuổi nghề của nhà văn chưa có bao lăm, các nhân vật trong sáng tác của ông thường là những kẻ nhàn tản vô vị: người ta chơi cờ, chơi bài, người ta đùa với tình yêu và dỡn trong đủ mọi quan hệ. Thế nhưng ông chưa có đủ ngay lòng căm thù với những kẻ thù của nhân dân để hành động và chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng, đấu tranh với bản thân để đưa ông đến “Cái giếng thần” (1966), thì lòng căm thù trong ông mới chín muồi, mới trở nên sôi sục, và được sử dụng không đến nỗi uổng phí. Nhà văn đã thấy được mình viết cho ai và chống ai. Lúc này trong sáng tác của ông thể hiện rõ khuynh hướng bi hùng và châm biếm: “Trong thành phố bị bao vây” (1922); “Bút ký về cuộc nội chiến” (1924). Tuy nhiên người ta vẫn thấy trong sáng tác của ông phảng phất “cái thứ triết lý của anh tiểu tư sản, cái thứ triết lý của những người không muốn xây dựng lại cuộc đời, văng vẳng tiếng thở dài mệt mỏi trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo, dốt nát...”. Vào những năm 30, khi nhân dân Liên Xô náo nức hưởng ứng dự định táo bạo của Đảng CSLX: xây dựng trong thảo nguyên hoang vu “Pugatsep” một nhà máy: liên hợp luyện kim, V. Kataep đã say mê với cái nhà máy “Magnitka” tương lai ấy và viết tiểu thuyết thời sự “Thời gian ơi, tiến lên!”, tác phẩm này của ông cũng mới mẻ và táo bạo như bản thân cái công trường xây dựng kia vậy. Cuốn tiểu thuyết đã từng làm cho nhiều bạn đọc ngạc nhiên. Cuốn sách ca tụng những con người chỉ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong sự nghiệp xây dựng lại cuộc đời, đấu tranh với đói nghèo, dốt nát, những con người không biết tới khoái lạc tầm thường ngoài lao động quên mình - lao động là nhu cầu sống còn số một. Trong tiểu thuyết, lối văn châm biếm với cái giọng nhát gừng, đầy sức sống kết hợp với lối văn nhanh gọn của báo chí và ngôn ngữ đanh thép, chính xác của các quy phạm công vụ, tạo nên một lối văn phong hỗn hợp, độc đáo mà vẫn gắn bó hữu cơ - người đương thời gọi là phong cách thời đại. Trong cuốn sách đầy nhiệt tình tiến lên phía trước: lao động, lao động vượt mức kế hoạch, tiến trước thời gian! Con người ở đây hăng say lao động như một cơn lốc, cơn lốc của một điệu Vanxơ vui tươi và phấn kích... Lúc này V. Kataep cộng tác với báo “Pravda” và nhiều báo khác, ông có dịp lăn lộn trên khắp các ngả đường của đất nước, viết nhiều bài thơ cổ động phục vụ những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, cả trong thời chiến cũng như trong lúc xây dựng hòa bình. Công cuộc lao động xây dựng đất nước đã mang lại cho ông nhiều cảm nghĩ vui tươi, nụ cười của ông trở nên lạc quan và châm chọc đúng chỗ. Ông viết những vở kịch vui “Hình vuông của hình tròn”, “Một triệu nỗi khổ cực”, “Con đường hoa” - ông tiếp tục chế giễu tên tiểu tư sản; mặc dù ông đã nhiều lần đọc điếu văn bên nấm mồ của hắn, vậy mà hắn vẫn ngoan cố, thay hình đổi dạng trở về bằng đủ mọi cách. Ông biểu lộ niềm sung sướng trước thắng lợi của cuộc sống mới, trước những đổi thay ngày một tốt đẹp hơn trong nhiều quan hệ giữa người với người bằng những sáng tác kịp thời. Đến đây bỗng nhiên ta thấy thêm một đổi thay bất ngờ. Khi ông đang say sưa bám sát thời gian và sáng tác theo nhịp độ của công trường, tìm thấy ở đấy những nguồn cảm hứng không bao giờ cạn, đang tiếp tục cười nhạo báng tất cả những gì lạc lõng, sai với nhịp bước của điệu Vanxơ thời đại kia, thì bỗng nhiên cuốn tiểu thuyết “Cánh buồm trắng cô độc” (1936) xuất hiện như một hành trình đường đột, bí mật quay lại thời thơ ấu xa xưa tưởng như đã lu mờ sau khói bụi của công trường và nhà máy - thời gian. Uống nước nhớ nguồn. Cái hôm nay đã bắt đầu từ đâu và bắt đầu như thế nào?! Ông quay lại quá khứ không phải “đơn giản” như người ta tưởng, và sự ra đời của cuốn “Cánh buồm trắng cô độc” cũng không phải là một “bỗng nhiên”, vì một nhà văn nghiêm khắc viết về quá khứ không thể là “bỗng nhiên”. Cuộc sống của ông diễn ra theo hai chiều đối nhau: chạy nhanh lên phía trước sánh bước với thời gian và đồng thời quay lại suy tư về những cái đã qua, đó quả là một quá trình lao động gian khổ: thu thập tư liệu, xác định tâm trạng - cái quyết định sắc thái của cuốn sách. Chính V. Kataep đã xác nhận rằng từ lâu ông vẫn hằng mong ước được hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình: - Năm 1905, một ngày tháng sáu oi bức. Trên kè đá bờ biển Ôđexxa chật ních người. Bầu không khí trầm lặng đầy vẻ lo âu, rùng rợn. Một chú bé tám tuổi, trố mắt ra vì kinh ngạc, cố lách mình qua đám đông, len lỏi đến tận hàng rào sắt. Chú bé nhìn thấy chiếc chiến hạm ba ống khói “Pôchômkin” với lá cờ đỏ tung bay trong gió đã nổi dậy và giờ đây đang tiến gần về phía bờ biển Ôđexxa, Và ông kể lại rằng: “Cả thành phố vui mừng chào đón tin nổi dậy của chiến hạm. Và từ giờ phút ấy trong tôi bắt đầu nhen nhóm một ý thức. - Hình ảnh kỳ diệu của con tầu “nổi loạn” cứ bám riết theo nhà văn trên mọi nẻo đường sáng tạo của ông. Nhưng thời thơ ấu ấy không phải chỉ là sự hồi tưởng cá nhân đầy xúc động, mà còn là một giai đoạn lịch sử đẫm máu. Về cái bi tráng của tháng năm này ông đã viết truyện ngắn “Rôđiôn Giukốp” (1926). Rôđiôn Giukốp là một trong 700 thủy thủ của chiến hạm “nổi loạn” “Pôchômkin” đã đổ bộ lên bờ biển Rumani. Sau đó họ tản đi khắp thế giới và không mấy ai biết đến số phận của họ ra sao nữa. Nhưng Rôđiôn Giukốp là một người không thể sống xa tổ quốc, biết là nguy hiểm anh vẫn tìm cách trở về. Anh đã trở về và sau nhiều ngày đêm lang thang trong thảo nguyên Ukrain: ốm yếu, đói khát với tâm trạng phấp phỏng lo âu, anh dốc nốt đồng 50 kôpếch cuối cùng để mua tấm vé tầu trở về Ôđexxa, nhưng anh đã bị bắt ngay trên bến cảng. Truyện được tả lại bằng lối văn thích hợp với đề tài, không cường điệu và phô trương. Nhưng trong, đó dường như vẫn vấn vương một điều gì chưa giải quyết xong, nó tựa hồ như một hạt giống nếu gặp môi trường ắt sẽ nảy sinh. Vào những năm 20, rõ ràng nhà văn không hề nghĩ tới cuộc đời thứ hai của Rôđiôn Giukốp, ông cho rằng nói thế là đủ rồi. Nhưng khi ông có ý định quay về với thời thơ ấu, trở lại năm 1905 thì những cái tưởng đã phai mờ lại sống lại trong ký ức của ông dưới một nhãn quan khác, tinh tường hơn, trong đó có Rôđiôn Giukốp. Khi ông viết “Cánh buồm trắng cô độc” kể về những người bạn ấu thơ giãi dầu trong sóng gió Hắc hải và cháy sạm dưới mặt trời phương nam, thì cái chất bi tráng của câu chuyện mà ông đã viết về Giukốp không thật thích hợp với sắc diện của cuốn sách nữa. Nhưng Giukốp vẫn trở lại, anh trở thành cái cầu để đưa Pêchya và Gavrik đến với cuộc cách mạng đang sinh sôi và phát triển. Trong bộ bốn tập “Sóng Hắc hải”, tuy là nhân vật quan trọng, song Rôđiôn Giukốp vẫn chỉ đứng ở bình diện thứ hai. Từ câu chuyện cũ, chỉ vài ba tình tiết được chọn lọc dựa vào bộ tiểu thuyết bốn tập này, Giukốp con người thực đã nhường chỗ cho Giukốp tượng trưng và Giukốp biểu tượng cho bối cảnh đấu tranh cách mạng đầy nguy hiểm của thời kỳ bí mật. Đối với trẻ em, nhất là đối với cậu học sinh hay mơ mộng Pêchya Batsây, thế giới này đầy những bí ẩn hấp dẫn: những nhiệm vụ bí mật, những cuộc gặp gỡ đáng ngờ văng vẳng những câu nói nghe lạ tai... Ở đây tính lãng mạn nhiều màu sắc vốn có của biển khơi được nâng lên thành tính lãng mạn mộc mạc, kín đáo của cuộc cách mạng. Sự kết hợp hài hòa ấy đã làm cho câu chuyện vừa êm ái, thơ mộng vừa có cái không khí oi nồng, tức tối của lúc trời sắp nổi cơn giông. Ở đây không còn thấy cái nhịp điệu hối hả, dồn dập của bao sự kiện trong tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!”, không còn cái sắc thái bông đùa riễu cợt của những truyện ngắn thuở xưa. Ở đây đã hình thành một phong cách mới - một lối văn xuôi điềm tĩnh, trầm mặc với những sắc thái muôn hình muôn vẻ, một lối viết súc tích cổ điển, chú ý nhiều đến những chi tiết tưởng như vụn vặt, chẳng có gì quan trọng, nhưng lại là chất liệu tạo ra nội dung mềm mại của câu chuyện. Đó là những tình tiết hết sức thông thường và đồng thời cũng rất bất ngờ. Biển ở đây cũng sống một cuộc sống gắn bó với các nhân vật nhỏ bé và với những sự kiện vĩ đại. “Khi thì biển yên tĩnh, xanh biếc màu da trời, đôi chỗ có những dải nước lặng, trăng trắng như những con đường nhỏ. Khi thì nó rực lên một màu xanh lơ bừng chói lấp lánh. Khi thì nó dập dờn như những đàn cừu tung tăng đùa dỡn. Khi thì một làn gió mát thoảng qua, làm nó bỗng nhiên ngả sang màu chàm xẫm và xù lên như lông cừu bị vuốt ngược. Khi thì bão ập tới, biển thay hình đổi dạng nom đến đáng sợ. Một trận cuồng phong rồ lên một đợt sóng lớn. Trên bầu trời màu than chì, những con hải âu vừa bay vừa kêu la ầm ĩ. Những làn sóng hung cuồn cuộn đi và quăng quật dọc bờ biển một cái xác cá heo bóng nhẫy. Phía trên nhưng đám mây nâu của cơn bão biển, chân trời màu lá mạ sáng chói dựng lên như một bức tường lởm chởm. Những con sóng nhào đầy bọt hệt như tấm đá khổng tước chằng chịt những đường vân rộng trắng xóa, đâm xô vào bờ, vỡ tan ra, làm dội lên những tiếng ầm ầm như tiếng súng đại bác. Tiếng dội âm vang ngân lên trong bầu không khí đầy tiếng động inh tai. Bụi nước bắn lên, tạo thành một làn sương mù mỏng mảnh, rủ xuống như một tấm sa mỏng phơ phất trên suốt chiều cao đồ sộ của những bờ dốc đang rung chuyển. Nhưng vẻ mê hoặc chủ yếu của biển là trong khoảng không bao la của nó bao giờ cũng giữ kín một điều gì bí mật. Ánh lân quang của biển chẳng phải là điều bí mật sao, khi mà trong một đêm tháng sáu không trăng, bàn tay ta dúng xuống làn nước ấm đen sì bỗng sáng rực lên, lấp lánh những tia sáng xanh. Hay những đốm lửa chuyển động của những con tàu vô hình và những luồng sáng nhợt nhạt, bừng lên một cách chậm chạp của ngọn hải đăng chưa từng biết? Hay số hạt cát mà trí tuệ con người không thể nào đếm xuể? Cuối cùng là hình ảnh kỳ ảo của chiếc thiết giáp hạm nổi loạn có lần đã xuất hiện ở ngoài khơi xa tắp, chẳng phải là một điều hoàn toàn bí ẩn sao?” Đọc những đoạn văn trên đây ta có cảm tưởng rằng đó không thể là ký ức của nghệ sĩ dù là một nghệ sĩ từng trải và có tài, mà phải là cặp mắt trong sáng và tinh tường của một đứa bé mẫn cảm mới chộp nổi. Ngay từ những dòng đầu của tập I, “Sóng Hắc hải” đã được viết theo một phong cách khác hẳn, tạo nên một tâm trạng khác tất cả những gì ông đã viết, nhất là tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!” Lối văn mô tả chậm rãi, dẫn dắt người đọc đi vào suy tư và hồi tưởng, trong đó hứa hẹn một cái gì chân xác và trữ tình. Chất thơ thấm vào các trang sách và tô điểm cho chúng bằng những màu sắc êm ái, làm cho chúng trở nên hấp dẫn và độc đáo: lúc vui, lúc buồn nhưng bao giờ cũng là sự chân xác lãng mạn. Trong hành động của hai đứa trẻ Pêchya và Gavrik tính tự nhiên không phải chỉ do logic nội tâm mà còn do cả logic cuộc sống riêng của chúng tạo nên: mỗi đứa một vẻ. Song đó cũng là cái logic, và tâm lý thông thường: trẻ con ở tuổi đó thường muốn bứt mình ra khỏi người lớn, muốn sống một cuộc sống độc lập, nhất là trong những hành động hấp dẫn của trẻ con, không muốn cái khôn ngoan chán ngắt của người lớn can thiệp vào. Càng nguy hiểm càng hấp dẫn, càng là việc làm vô cùng thích thú. Bí mật là cái gì đè nặng lên con tim đến ngạt thở, nhưng ngọt ngào xiết bao, cái hương vị của khám phá. Do đó chúng đã bị lôi cuốn vào cuộc cách mạng như tham gia vào một trò chơi thích thú đang tiếp diễn ở giai đoạn gay go, căng thẳng. Bị thua trắng tay trong cuộc chơi uski, Pêchya trở thành “nô lệ” của Gavrik và nó phải theo “hầu” ông chủ, tha cái túi nặng đầy tài sản uski lang thang khắp thành phố giữa lúc hỗn mang, chui rúc qua các ngõ hẻm heo hút và rùng rợn. Thoạt tiên Pêchya không biết cái túi nó mang trên lưng là đạn và việc luồn lánh qua các ngõ ngách kia là làm nhiệm vụ tiếp vận đạn dược cho những người khởi nghĩa đang chống cự với cảnh sát và quân lính chính phủ. Nhưng khi đã vỡ lẽ, nó lại hồ hởi tiếp nhận thêm nhiệm vụ mới. Bây giờ cố nhiên thằng bé đã hiểu rõ nó mang thứ uski gì. Giá vào lúc khác thì có lẽ nó đã vứt tuốt và chạy về nhà. Nhưng hôm ấy, mê say với cái công việc nguy hiểm nhưng hấp dẫn này; niềm mê say còn mãnh liệt gấp trăm lần những lúc ham chơi, nó nhất định không chịu bỏ bạn một mình. Nhưng ngay trong trường hợp này tác giả cũng không quên tuổi đời của nhân vật, tính hiếu danh trẻ con vốn có của lứa tuổi đó. “Hơn nữa, - nhà văn viết thêm, - nó không thể từ bỏ cái vinh quang của Gavrik. Chỉ riêng một ý nghĩ rằng sau này nó sẽ không có quyền kể lại những chuyện mạo hiểm của mình, đã lập tức buộc nó phải coi thường nguy hiểm”. Ở đây bộc lộ cái năng khiếu quan sát tinh tường của nhà văn: ông thận trọng quan sát, không bỏ sót một chi tiết nhỏ để nhận ra những tính chất mới, quan điểm mới đang hình thành trong tâm hồn thằng bé Pêchya, trong khi cuộc sống xung quanh hầu như vẫn bình thường. Tuổi thơ là tuổi của những tìm tòi, khám phá, và quả thực những khám phá vĩ đại đều bắt đầu ngay từ những bước đi đầu tiên, những tiếng nói đầu tiên trong đời người. Mỗi đứa trẻ đều tìm ra một châu Mỹ của mình, và tạo ra cho nó - cái châu Mỹ ấy, một cuộc sống riêng theo ý mình. Những cuốn sách về tuổi thơ là những cuốn sách về tìm tòi và khám phá cái mới - khám phá thế giới. Tuy nhiên bất kỳ một khám phá nào cũng đều xảy ra trong những giờ phút nhất định của lịch sử và trong những tình huống nhất định. Khi nhận ra cái túi nó mang trên lưng là đạn, Pêchya hiểu rõ rằng việc làm của nó và Gavrik không còn là trò chơi trẻ con nữa. Trong hai tập đầu của bộ sử thi “Cánh buồm trắng cô độc” và “Khu trại trong thảo nguyên” sự khám phá thế giới trong tâm hồn cậu bé diễn ra dưới ánh sáng của ngọn lửa cách mạng đang cháy lan ra khắp nước Nga. Thế giới hiện lên trong sự đổ vỡ khốc liệt của năm 1905. Những biểu tượng tưởng như không gì lay chuyền nổi của tuổi thơ về nước Nga, về Sa hoàng, về Thượng đế và về người bố thế là bắt đầu sụp đổ. “... Thì ra nước Nga là một nước bất hạnh, và ngoài bố ra còn có những người ưu tú nào đó đang chết mòn ở những nơi làm việc khổ sai. Thì ra Sa hoàng là thằng ngốc và một tên nát rượu, lại còn bị người ta dùng gậy tre đánh vào đầu. Ngoài ra, các bộ trưởng là những kẻ bất tài, các tướng tá là những kẻ bất tàỉ, và té ra không phải nước Nga đánh bại nước Nhật - điều mà cho đến nay không ai mảy may nghi ngờ - mà là nước Nhật đánh bại nước Nga. Và điều chủ yếu nhất là bố và bác đều nói về việc đó. Tuy nhiên, chính Pêchya cũng đã đoán được đôi điều. Trong bót cảnh sát, người ta nhốt những người hoàn toàn tử tế, không say rượu, thậm chỉ nhốt cả một ông già tuyệt diệu, mà còn đánh cả ông cụ nữa chứ.” Lưng đeo cái xắc cốt nặng, ngoan ngoãn theo Gavrik đi khắp hang cùng ngõ hẻm, lần đầu tiên Pêchya nhìn thấy cái cảnh bần cùng vừa đáng kinh sợ, vừa nên thơ của những khu phố nghèo của Ôđexxa, nhìn thấy cái tử thi có bộ mặt vàng ệch như sáp ong trong trận chiến đấu mà Pêchya có cảm tưởng như một trò chơi trẻ con. V. Kataep là một nhà văn hay viết về trẻ em và hai tập đầu của bộ bốn tập “Sóng Hắc hải” là những cuốn sách viết về niềm sung sướng đầu tiên của bản tính trẻ em và những đau khổ đầu tiên khi tiếp cận với sự thật. Trong cuộc đời của một đứa trẻ, và nhất là của một đứa trẻ mơ mộng, lãng mạn như Pêchya, thì liệu có những tấn bi kịch nào có thể so sánh được với những thất vọng đầu tiên, với việc phải đánh giá lại những giá trị đã ăn sâu trong ý niệm của nó! Cuộc sống không thương tiếc những ảo mộng. Đó là quá trình tất yếu, nhưng lại diễn ra khác nhau tùy theo môi trường của mỗi cá nhân và ảnh hưởng của lịch sử. Ở đây nhà văn phải dựng lại toàn bộ bối cảnh lịch sử và không khí xã hội của những năm ấy một cách chính xác: hoàn cảnh gia đình ông giáo Batsây, quanh cảnh đường phố Ôđexxa và tất cả những gì tạo nên môi trường vật chất và đạo đức của Pêchya. Nhưng tuổi thơ của Gavrik là căn lều nghèo nàn của ông lão đánh cá, ở đây không có chỗ cho những ước mơ và viễn tưởng rực rỡ. Viễn tưởng lãng mạn là cái cốt do môi trường của Pêchya tạo nên. Một chú bé được nuôi dưỡng trong môi trường chính trực, liêm khiết và yêu cái thiện, nó sẽ hướng về cái thiện, cái công bằng. Khi vào đời, cái sức mạnh vốn có của cái ác, mà cái ác bao giờ cũng có khuynh hướng chà đạp lên cái thiện sơ khai của con người, mới bắt đầu tác động đến con người. May mắn thay, vừa bước chân ra khỏi cửa, Pêchya đã gặp ngay Gavrik, một người bạn đường đáng tin cậy, một đứa trẻ nghèo mà tâm hồn trong sáng, ý chí thông minh, bản năng chiến đấu vượt lên trên những thiếu niên cùng lứa tuổi. Do hoàn cảnh gia đình, ngay từ tấm bé, Gavrik đã phải lăn lộn với thiên nhiên để kiếm sống và phải va chạm với đủ loại người, nó sớm trưởng thành và là một đứa trẻ tháo vát, có đầu óc thực tế. Ý thức đoàn kết và công bằng xã hội đã ăn sâu trong tâm khảm nó ngay từ tấm bé. Khi đưa Pêchya. đến tiếp xúc với những người lao động nó không quên giới thiệu: “Đây là con trai ông giáo Batsây” và “đó là một gia đình không có gì làm giàu sang, hiện đang gặp khó khăn.” Như một người lớn, chín chắn không phải do tuổi đời song Gavrik vẫn là một thủ lĩnh tí hon tinh nhanh và nghịch ngợm, nó luôn luôn tự hào với vai trò của mình trong đám trẻ con trên đường phố, nó cũng ham chơi, nhiều khi quên cả công việc. Sắc thái đó làm cho nhà văn có thể mang vào câu chuyện chút ít hài hước, làm cho “chú Gavrôs Tênarđiê của Ôđexxa” có sức cảm hóa đặc biệt. Gavrik tháo vát, đảm đang và chu đáo, Pêchya mơ mộng mà ngờ nghệch trước việc đời. Do đó trong tình bạn của chúng có cái gì thiếu bình đẳng. Những cái mà đứa con của đường phố Ôđexxa nhận thức một cách dễ dàng và chắc chắn thì đối với Pêchya - đứa con của một gia đình trí thức, một học sinh trường quốc lập, lại là một điều bí ẩn. Pêchya chỉ có mỗi một ưu thế là thầy dạy tiếng la tinh cho Gavrik. Tuy vậy Gavrik cũng không xem thường cái khôn ngoan thông thái của nhà trường. Đối với nó những kiến thức sách vở không phải là điều thích thú, nhưng nó hiểu được giá trị thực tiễn của kiến thức đó: cần học, học vẫn là điều bổ ích. Viết về tình bạn của hai đứa trẻ có cá tính khác nhau, được giáo dục trong những môi trường khác nhau, nhưng vẫn giữ được tình thân ái, ngay cả khi chúng đã khôn lớn, là một khó khăn lớn: tình bạn đó rất dễ rơi vào tình trạng gượng gạo, nhưng ở đây tác giả đã khắc phục được khó khăn ấy một cách tài tình. Cái khôn ngoan của Gavrik thường có giá trị thực tiễn hơn kiến thức sách vở của Pêchya, nhất là khi vấp phải những vấn đề không hề có trong giáo trình. Ở đây nhà văn đã giải quyết khá tốt vấn đề khác biệt giữa đôi bạn: dù ảnh hưởng của Gavrik đến Pêchya có mạnh đến mấy, dù tâm hồn của chàng thiếu niên mơ mộng và lãng mạn này có ngây thơ và trong trắng thế nào, dù Pêchya có hướng đến cái thiện, cái công bằng đến mấy thì nó vẫn là một đứa con cưng của một gia đình trí thức đang dao động; hoang mang trước thời cuộc. Mỗi đứa có một thế giới nội tâm riêng của mình. Khi nói đến gia đình Batsây, đến người chủ gia đình ấy, ngay cả khi họ đang gặp khó khăn như trong “Khu trại trong thảo nguyên”, V. Kataep vẫn tả với nụ cười vốn có của ông - nụ cười nhân từ, thấu hiểu, rộng lượng và có cái gì như ái ngại. Thực ra trong cái chất Đôngkisốt của Vaxili Pêtrôvits Batsây có cái gì vừa tức cười vừa cảm động, cũng như trong tình trạng tuyệt vọng của bà bác Tachyana Ivanôvna, khi phẫn nộ bà thốt ra một tràng những lời phỉ báng có tính chất chính trị của bà. Trong gia đình Batsây không phải tất cả bao giờ cũng rõ ràng và luôn luôn nổ ra những cuộc tranh cãi. Ở đây chủ nghĩa duy tâm không phải như một hệ thống triết học mà là một loạt những nguyên tắc sinh hoạt gọi là vô tư, trung thực, lề thói, những ý niệm cao cả về người trí thức và bổn phận, của nó. Với Vaxili Pêtrôvits hai tiếng “chính trị” cũng làm ông e ngại chứ đừng nói tới giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thế nhưng trong gia đình ông hầu như người nào cũng thấy rõ cái ranh giới xã hội đã được bàn tay vô hình vạch ra giữa những con người: “Pêchya biết rằng chính ở đây, ở phía trên, bên kia đại lộ Nicolai là cái khu phố rực sáng, ồn ào, vô cùng quyến rũ, cao sang, huyền ảo mà trong gia đình Batsây người ta thường nói đến với một vẻ vừa kính trọng, vừa khinh bỉ là “Khu trung tâm”. Dĩ nhiên là gia đình Batsây không ở “khu trung tâm”. Ở đấy là “những người giàu có”, tức là những người đặc biệt, đi tàu bay hay xe đều đi vé hạng nhất, ngày nào cũng có thể đi xem hát, và không hiểu tại sao mãi bẩy giờ tối mới ăn trưa...” Nhưng không phải vì ghen tức mà ông bất mãn, ông Vaxili Bátsây vốn có thái độ ôn hòa, bất đối kháng, lý tưởng hóa cuộc sống - cái thái độ cố hữu của trí thức Nga. Nhất là ông, một con người nhân từ, đa cảm trong giọng nói thường nhiều nước mắt hơn là sắt thép. Nhưng khi phải đi đến quyết định: chỉ cần tỏ thái độ đầu hàng hay nhượng bộ trong phút chốc thôi để giữ cho cuộc đời yên hòa và sung túc, thì trong con người ông lại bộc lộ cái thái độ cứng rắn trước mọi thứ dọa dẫm và mua chuộc vì sự thánh thiện của đạo lý và vì lòng tự trọng. Cuộc sống nghiệt ngã, những bất công và đau khổ đã mở cho tầm mắt ông nhận ra cái bản chất của thứ uy lực tối thượng mà ông đang thờ phụng. Sau lần xung đột với thượng cấp, lần đầu tiên trong đời ông hiểu: “Ở nước Nga một khi đã ra làm việc Nhà nước thì không thể làm một con người ngay thẳng, không khom lưng cúi đầu được. Chỉ có thể là một quan chức đần độn của Sa hoàng, một viên chức không có ý kiến riêng của mình, chỉ biết tuân lệnh, tức là tuân lệnh quan trên, cho dù đấy là những mệnh lệnh bất chính và tội lỗi đi nữa. Với Vaxili Pêtrôvits, điều khủng khiếp nhất là tất cả cái đó lại bắt nguồn chính từ uy lực tối thượng của người đã được thượng đế ban cho ngai vàng để cai quản nước Nga”. Những giây phút tỉnh ngộ ấy hiếm hoi và quý giá vô cùng. Nó đã hướng ông Batsây đi vào một cuộc đời mới. Khác với gia đình ông Vaxili Batsây, trong xóm Cối xay Gần, ở cái thế giới người nghèo này của Gavrik, tất cả đều được thực hiện một cách dứt khoát, nhanh chóng, chắc chắn và không khoan nhượng. Ở đây, người ta không thừa nhận những cảm lụy, suy tư và dao động, ở họ - những người lao động bao giờ cũng sẵn sàng một quyết định hành động và ai cũng biết rõ là phải thực hiện quyết định đó như thế nào. Đối với V. Kataep, thì Rôđirôn Giukốp, Terenti, Tsernoivanepko, Gavrik và những chiến hữu của họ đều là những anh hùng. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” ảnh hưởng của Gavrik đối với Pêchya quá rõ ràng và cụ thể. Nhà văn đã bám sát đôi bạn của mình lang thang đi khắp chốn: trên bãi biển, trên đường phố và chui cả vào những ngõ ngách của Ôđexxa. Đối với Gavrik thì bãi biển, đường phố, xó chợ... chỗ nào cũng thân thuộc như trong căn lều rách nát của ông nó trước đây và ngôi nhà lụp xụp của anh nó hiện nay. Việc kiếm sống đã dạy cho nó tính tháo vát, khôn khéo, đôi khi ranh mãnh và tính thận trọng, đã khơi lên lòng căm thù. Do đó thái độ của nó rất dứt khoát: một lần thôi và suốt đời. Pêchya luôn luôn khâm phục cái khôn ngoan mà bạn nó đã học được trên đường phố. Và tất cả “những gì ở nhà đối với nó đều trở nên chán ngắt và vô vị, mặc dù nó rất yêu bố và bà bác “bướng bỉnh” của nó. Khi đến xóm Cối xay Gần, ở đây cái gì đối với nó cũng mới mẻ và mỗi lúc một khác. Nhưng nó không quay lưng lại với gia đình. Ngôi nhà, bầu không khí gia đình, những ảo tưởng của bố và lòng bất mãn cao thượng của bác là một dòng tư tưởng, những câu chuyện của anh Terenti, tấm gương của Rôđiôn Giukốp, những hoạt động của Gavrik lại là một dòng khác. Và hai dòng tư tưởng đó thoạt nhìn mới trái ngược làm sao. Trong cả bộ sử thi “Sóng Hắc hải” Pêchya luôn luôn là điểm xoáy của các luồng gió từ bốn phương thổi tới. Cuộc đời Pêchya: tham gia cách mạng, tham gia nội chiến và sau này tham gia cuộc chiến tranh yêu nước luôn luôn là sự tiếp diễn và phát triển của điểm giao lưu của các luồng tư tưởng đó. * * *       “Khu trại trong thảo nguyên” là tập thứ hai của bộ “Sóng Hắc hải” đã được mở đầu bằng cuốn tiểu thuyết mang cái tên thơ mộng “Cánh buồm trắng cô độc”, bắt nguồn từ chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tô điểm cho những bước đi ban đầu ít nhiều có suy nghĩ của nhân vật trung tâm là Pêchya Batsây và tình bạn của nó với Gavrik Tsornôivanenko. Trong “Khu trại trong thảo nguyên”, vẫn thông qua cuộc sống của hai gia đình ông giáo Batsây và anh công nhân Tsornôivanenko mà tiêu biểu vẫn là Pêchya và Gavrik. V. Kataep tái hiện lại một cách chi tiết cuộc sống của Ôđexxa, của nước Nga và phong trào cách mạng Nga vào những năm 1910 - 1915, cũng như phong trào dân chủ trên quy mô thế giới, thông qua chuyến du lịch của ba bố con Batsây qua một số nước. Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905, chính phủ Nga hoàng tăng cường đàn áp phong trào công nhân và truy lùng những người hoạt động cách mạng, Đảng rút vào hoạt động bí mật, đồng thời kết hợp với hoạt động công khai: sự ra đời của tờ báo “Sự thật” và việc chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào viện Đuma. Chính việc kết hợp giữa hoạt động hợp pháp với hoạt động bí mật là nét đặc trưng của giai đoạn cách mạng này giai đoạn chuẩn bị điều kiện cho một cuộc cách mạng mới, - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong những chương đầu của “Khu trại trong thảo nguyên”, vốn là một người trí thức Nga trung trực, một con chiên ngoan đạo, một người yêu nước theo kiểu thánh đường và hết mực tin yêu Sa hoàng, ông giáo Batsây ra sức bảo vệ nhà thờ và nhà nước với tấm lòng chân thiện của một nhà sư phạm mẫu mực. Ông làm ngơ trước mọi hoạt động của những người cách mạng, tuy không chống đối nhưng cương quyết không tham gia và cũng không để họ lợi dụng mình vào mục đích “chính trị” của họ. Hai chữ chính trị bao giờ cũng làm ông bối rối, ông xa lánh nó như người ta xa lánh những kẻ nhiễu sự. Ông không muốn ai quấy rầy cuộc sống “lương thiện” và yên hòa của gia đình ông. Nhưng sự thật đã không như ông tưởng! Trước cái tang lớn của nước Nga - nhà văn vĩ đại Lep Tônxtôi từ trần, ông đã đọc bài diễn văn tưởng niệm - “Mặt trời của nước Nga đã tắt” trước học sinh. Nhưng việc làm trung thực của ông lại trái với “nghĩa vụ” của người viên chức nhà nước, lại là hoạt động chống đối chính phủ. Giữa L. Tônxtôi và nhà nước thì chân lý ở đâu? Một câu hỏi hiện lên và niềm tin của ông bắt đầu lung lay. Còn nhà thờ ư? Sau lần tiếp xúc với lão linh mục đại diện cho nhà thờ ở nghĩa trang, bên nấm mồ của vợ ông, ông thấy rõ đó chẳng qua cũng chỉ là trò xảo trá! Và niềm tin của ông tiêu tan. Sau câu nói “kháng cự” đầy công phẫn: “Ngài làm nhục tôi!” ông bắt buộc phải thôi việc. Sau lần tống cổ tên hối lộ Blagienxki ra khỏi nhà, ông trở nên thất nghiệp và lần này thì vô phương cứu chữa. Ông hiểu ra rằng chẳng qua mình chỉ là một “tên nô lệ”. Tiếng ấy đúng nhất. “Thoạt đầu tôi là tên nô lệ của Bộ giáo dục nhân dân mà đại diện là Xmôlianinôp, đốc học ty giáo dục và y đã đuổi tôi như đuổi một con chó, bởi vì tôi đã cả gan có ý kiến riêng về Tônxtôi. Sau đó tôi trở thành nô lệ của Faigơ, kẻ cải đạo và là kẻ đầu óc thô thiển, y cùng đuổi tôi như đuổi con chó, bởi vì lương tâm tôi không cho phép tôi ghi điểm ba cho Blagienxki, một tên dốt đặc và ba hoa, trong khi người ta muốn tôi cho hắn điểm ba chỉ vì một lý do duy nhất hắn là con trai một nhà triệu phú. Tôi muốn nhổ toẹt vào mặt cả Xmôlianinôp lẫn Faigơ, và đồng thời phỉ nhổ cả toàn bộ chính phủ Nga! Và nếu ở nước Nga ta không thể không làm nô lệ cho kẻ khác, thì thà tôi làm một tên nô lệ bình thường, còn hơn làm tên nô lệ trí thức. Ít ra thì tôi còn giữ được sức sống cho tâm hồn tôi...” Theo sáng kiến của bác Tachiana Ivanôvna - gia đình Batsây thuê khu trại trồng cây ăn quả trong thảo nguyên với ý định cứu sống gia đình bằng lao động của mình. Nhưng trong một xã hội mà quan hệ giữa người với người là chó sói, thì gia đình ông làm sao tránh khỏi tai họa khánh kiệt. Ở đây lại xuất hiện mụ Xtôrôgienkô, một nhân vật hắc ám, ngày xưa buôn hàng cá, đã cướp cơm của ông cháu Gavrik và bao người khác, giờ đây lại chuyển sang buôn trái cây, đang ra sức dìm giá vườn quả của gia đình Batsây với ý định cướp trắng cả vụ trái cây lẫn khu trại. Nhưng mụ đã vấp phải kẻ thù cố cựu của mình: Gavrik. “Có điều hồi xưa nó bé tí và bất lực, mụ muốn làm gì nó thì làm, nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn khác, và do bản năng mụ đánh hơi thấy nó có sức mạnh nguy hiểm chưa rõ đến mức nào”. Phải chăng đó là sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, đã đến lúc làm cho kẻ thù kiêng nể. Những cuộc tìm kiếm để xây dựng cuộc sống điền viên, những lo âu và xung đột của Vaxili Batsây rút cục cũng có cái gì giống với tính chất lãng mạn tích cực của những người trong ủy ban bí mật. Giữa ông giáo Batsây và họ có những cái giống nhau: họ có chung một kẻ thù. Trong lúc gia đình Batsây đã bó tay trước sự chèn ép của cái xã hội “cá lớn nuốt cá bé”, mọi người đã an phận chờ đợi cái tai họa phải đến, thì vào một buổi sáng đẹp trời anh em công nhân ở Xóm Cối xay Gần đã đến giúp gia đình Batsây thu hoạch vụ trái cây theo lệnh của ủy ban bí mật. Ở đây có một cái gì rất cảm động, phóng khoáng như một khúc ca đồng nội. Và để trả công, - theo nguyên tắc có đi có lại, ông giáo Batsây giảng cho anh em công nhân một số bài học phổ thông về lịch sử, địa lý, văn học... Sau cái phút tỉnh ngộ kia giờ đây đã đến lúc ông dậm chân quật vào mặt bọn cảnh sát khi chúng ập đến muốn phá rối cuộc sống điền viên của ông “Tôi yêu cầu những người lạ mặt đêm hôm không được xộc vào trang trại của tôi”. Phút tỉnh ngộ đã đưa đến bước ngoặt lớn là sự giác ngộ tư tưởng của ông. Hành động đó làm ta liên hệ tới hành động của ông cách đấy mấy năm (“Cánh buồm trắng cô độc”): chính ông đã che chở cho anh lính thủy của chiến hạm Pôchômkin là Rôđiôn Giukốp thoát khỏi sự truy nã của cảnh sát - lúc này, hành động của ông mới xuất phát từ lòng nhân từ. Về Rôđiôn Giukốp khi anh ra đi thì “Thuyền ai thấp thoáng lẻ loi cánh buồm!” (“Cánh buồm trắng cô độc”) và giờ đây anh trở về thì mặt biển nhộn nhịp những cánh buồm. Khi ra đi anh chỉ là anh lính thủy quả cảm được ông cháu Gavrik cứu sống, giờ đây anh trở về với tư cách là đại diện của Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân xã hội dân chủ. Còn ông giáo Batsây thì đứng nghe anh nói chuyện về “tình hình chính trị” một cách chăm chú đến nỗi Pêchya đi ngang qua và chạm vào người ông cũng không hay. Và trong mỗi mắt kính của ông “lấp lánh một đốm lửa nhỏ”. Chính những tình tiết này làm cho câu chuyện dịu dàng và hấp dẫn về đôi bạn tâm giao trở thành câu chuyện về sự tất yếu của cách mạng, về sự hấp dẫn tất nhiên của cách mạng đối với những tinh hoa của xã hội và của mỗi con người dù đó là cậu học sinh hay ông giáo trung học. Trong cả hai tập “Cánh buồm trắng cô độc” cũng như “Khu trại trong thảo nguyên”, thời đại được quan sát và mô tả một cách xúc động dưới con mắt của những người sống trực tiếp trong các sự kiện. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” gia đình Tsornôivanenko hầu như không có gì thay đổi, ngoài việc Gavrik bỏ nghề đi biển và sau khi đã làm đủ nghề để cuối cùng trở thành thợ sắp chữ học nghề. Việc vào nghề in của nó cũng là do yêu cầu của cách mạng. Ở đây thông qua việc mô tả sinh hoạt của gia đình Tsornôivanenko và quan hệ của Terenti để nói lên phong trào công nhân và ngư dân Ôđexxa. Trong trường học nhân dân của ông giáo Batsây, ngoài Terenti ra, còn thấy bác lính thủy già Fêđia, anh Akim Perepelitxki. Và ở đây việc xuất hiện thêm một nhân vật mới: bà quả phụ Pavlôpxkaia, làm cho trường học của ông Batsây trở thành như một nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân. Khi Rôđiôn Giukốp nhảy lên con thuyền nhỏ nhoi một mình một bóng vượt biển khơi thì Pêchya mới lên tám. Vào năm Lép Tônxtôi qua đời Chương mở đầu của “Khu trại trong thảo nguyên” Pêchya đã 13 tuổi, nó đã có những hồi tưởng. Những sự kiện rối ren nó không thể nào gỡ ra được. Trong đầu nó đã có nhiều điều đáng suy nghĩ hơn là cuộc chơi uski thua lỗ. Nhìn cảnh tượng thành phố trong những ngày có tang bỗng nhiên quá khứ trở về xâm chiếm tâm hồn nó: “bầu không khí lo âu và rùng rợn của “năm thứ năm”, Nỗi lo âu đó khi tỏ, khi mờ đã xuyên suốt cuốn tiểu thuyết thứ hai “Khu trại trong thảo nguyên”. Không gian đã mở rộng ra ngoài phạm vi Ôđexxa. Đi du lịch ra nước ngoài ba bố con ông Vaxili Batsây tiếp xúc với thế giới bao la đủ màu sắc, với nhiều dân tộc và tiếng nói khác nhau, sức tưởng tượng vô hạn và không biết mệt của tuổi thơ bừng lên trước vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ và đầy rẫy những cái bất ngờ hiện lên sau khung cửa tàu xe. Vẫn với nụ cười nhân hậu, nhưng cũng rất hóm hỉnh, tác giả mô tả tình cảm của Pêchya với cô bé người Nga mà nó vừa nhác thấy trên sân ga nước người. Tình cảm say đắm ấy nảy sinh có lẽ vì đã lâu nó chưa được gặp người bạn gái nơi quê nhà. Chúng ta đã mấy ai không có một thời muốn giấu đi “cái đuôi trẻ con” bằng cách cố làm ra vẻ mình là người lớn: từ lời ăn tiếng nói đến dáng điệu, nhất là khi tiếp xúc với bạn nữ. Những cảm giác mơ hồ nhưng vấn vương bồi hồi, khi ta đi bên bạn ở chỗ vắng người, những cảm xúc làm bật ra những ý thơ tuyệt vời mà cho đến lúc đã làm người bố ta vẫn còn thấy xốn xang mỗi khi nhớ lại. Những cảm giác thơ ngây, trong trắng ấy - vào cái thuở chuẩn bị làm người lớn ấy, ta cứ thích gọi là “tình yêu”. Có thể đó sẽ là tình yêu, nhưng không hẳn. Ở đây ta lại thấy nụ cười của V. Kataep khi ông mô tả những xúc cảm yêu đương của cậu học sinh mơ mộng Pêchya Batsây với Môchya và Mariana. Nhưng đối với cậu thiếu niên Gavrik không được học như trẻ khác vì hoàn cảnh gia đình thì lại khác. Niềm khao khát của cậu là được học. Cậu sẵn sàng bỏ những đồng Kôpếch rất khó kiếm và cũng rất cần để nuôi sống gia đình, để trả tiền học phí. Cậu cũng muốn tỏ ra mình là người lớn, nhưng khác với Pêchya, cậu muốn mình là người lớn để làm được những việc lớn hơn. Chính Gavrik đã quắc mắt tống cổ mụ Xtôrôgienko ra khỏi trang trại của ông giáo Batsây. Tuy nhiên, đối với Pêchya trong số những tình tiết dịu dàng và vui vẻ, trong cái ống kính vạn hoa các ấn tượng cứ luôn luôn thay đổi một cách nhanh chóng, qua cả một dòng ngôn ngữ xa lạ đầy huyên náo trên đường du lịch, đôi khi vẫn thoáng hiện lên nỗi lo âu mơ hồ, những phong thanh về đời sống của nước Nga xa xôi và khuất nẻo. Nỗi hốt hoảng của Pêchya khi nó bỏ quên ở tiệm cà phê chiếc mũ lính thủy mà b&a
Biển Vẫn Lặng Yên
CHƯƠNG 1 Mùa hè năm ấy, cái nóng thật oi bức khác thường. Thành phố như một túi lửa phả hơi nóng vào mọi ngóc ngách nên những ngày cuối tuần thiên hạ thường kéo nhau ra biển. Danh, một anh chàng độc thân vui tính làm trong một công ty quảng cáo cũng đi trốn cái nóng ở một vùng biển. Khỏi phải nói, những ngày này, du khách rất đông nên các khách sạn không còn phòng trống, Danh và ba người bạn kiếm mãi mới được hai căn phòng gọi là tương đối sạch sẽ. Họ đồng ý thuê vì chần chừ một chút là sẽ có người khác giành ngay. Một phòng lớn có ba giường dành cho Bình, Quốc, Thái. Còn Danh xí căn phòng nhỏ với lý do ngủ chung hơi bị khó! Cất đồ đạc xong, họ kéo nhau ra biển. Quốc cầm theo bộ bài gói trong tờ báo, anh chàng cười, đưa cái răng khểnh ra ngoài. - Tắm xong lên bờ làm vài ván, đứa nào thua mua bia, đứa nào thắng mua mồi. Ôkay? Danh hất hàm nhìn bạn: - Vừa tới nơi đã máu me ăn thua. Tắm trước cái đã. - Thì tắm... tao có nói gì đâu. Cả bọn nhảy xuống, bơi ào ào ra xa. Lâu ngày chịu đựng cái nóng bức ở thành phố, giờ đây được ngâm mình giữa làn nước xanh biếc, họ tha hồ nghịch ngợm vui đùa. Nhìn mấy nàng con gái mơn mởn nhảy sóng trong những bộ bikini, Danh ao ước: - Phải chi rủ vài ẻn đi cùng cho vui, bốn thằng đực rựa không chán quá! Quốc trêu: - Thì mày ngắm đỡ mấy ẻn đó cũng mát con mắt vậy. Rủ theo chỗ đâu mà ngủ. Đàn bà con gái làm chi cho phiền! - Cái thằng nầy... mầy có phải pơ-đơ không vậy? - Kệ tao, lo cái thân mày đi. Coi chừng có ngày chết vì gái đó! Quốc nói xong lặn một hơi ra xa. Mấy anh chàng này còn vô tư lắm, tuy ăn nói mạnh miệng chứ thật ra chưa ai có mảnh tình rách vắt vai. Mà con trai mới hăm mấy còn trẻ chán, lo gì... Biển hôm nay đông nghẹt, những hàng dù chen chúc nhau không còn chỗ trống. Người lớn ngã lưng trên những chiếc ghế bố, trẻ con thi nhau vọc cát hoặc chạy ton ton đuổi theo những con còng biển. Những con sóng vẫn vô tư rì rào. Khi mặt trời lên cao, Bình, Quốc lần lượt kéo lên bờ rồi tới Thái và Danh. Quốc lắc lắc người cho nước nhễu xuống rồi với tay lấy tờ báo và bộ bài ném ra: - Chia đi, thằng nào đỏ bạc thì đen tình.. Bốn tên ngồi bệt xuống bãi cát. Ván đầu Quốc cười hỉ hả, ván thứ hai vận đỏ thuộc về Bình, ván thứ ba đang tới hồi căng. Danh rung đùi khoái chí, bởi ba con "hẻo" đều rơi vào tay anh. Danh hạ con hai cơ xuống, chuẩn bị "giết" thì chợt nghe một giọng con gái trong trẻo vang lên: - Xin lỗi, có phải mấy anh thuê hai phòng trọ đàng kia không? Bình nhanh miệng trả lời: - Tụi tôi ngủ ngoài ngày cho mát, chứ thuê phòng trọ chi cho tốn tiền. Cô gái tỏ vẻ thất vọng: - Tại vì... tôi muốn thuê một phòng. Có người chỉ tôi ra đây thương lượng với mấy anh. Quốc là người ít được con gái chú ý bởi cách hay ăn nói thẳng thừng và đôi khi hơi vô duyên. Thấy cô gái đứng chần chừ, Quốc chỉ tay sang chỗ đám đông. - Không phải tụi tôi đâu, cô lại đàng kia mà hỏi. Cô gái hơi chau mày khó chịu trước câu nói có vẻ như đuổi khách của anh chàng có cái răng khểnh. Hình như cô cũng không thú vị gì khi đứng ngắm bốn cái lưng thớt đang khoe mẻ dưới ánh nắng chói chang của biển. Cô lẳng lặng bỏ đi. Tới lúc này Danh mới giật mình, ngẩn ngơ nhìn theo khi cô bước đi được một đoạn.Mất cả hào hứng với màn "chặt chém", Danh trách: - Tụi mày ác quá... không biết thương con gái đi biển bơ vơ một mình. Quốc nói khảy: - Mày muốn ga lăng thì chạy theo đi. Cái tật trời đánh không chừa, thấy con gái là cứ tươm tướp. - Mày có em gái mà không chịu làm phước, mai mốt để đức lại cho nó. Ác quá nó ở vậy cho mầy nuôi tới già nha con! Quốc vênh mặt: - Còn lâu! Thà để nó ế chứ cỡ như mày có năn nỉ gãy lưỡi xin làm em rể tao, cũng chẳng đời nào tao gả nó cho mày. - Ừ... để dành làm mắm... hay chi? - Tao nghi là gả cho mầy đời nó còn bi đát hơn con mắm! Thái nạt nhỏ: - Ở đó mà gây, cô ta đi mất tiêu rồi kìa. Danh ném xấp bài xuống, chạy vội theo cô gái. Cô đang chậm rãi bước đi trên bờ cát. Danh đã đuổi kịp, anh cất tiếng hỏi lớn: - Cô ơi, cô muốn thuê phòng trọ hả? Cô nàng dừng chân quay lại nhìn Danh: - Thật là xui xẻo, giờ này tìm được một chỗ thật khó. Danh tỏ vẻ ái ngại, ngần ngừ một chút rồi mới nói: - Tụi tôi dồn lại một phòng, nhường cho cô một phòng chịu không? Nét mặt cô gái tươi lên: - Anh nói thật chứ...? - Tôi đùa với cô làm gì. Mấy thằng bạn tôi coi vậy chứ tốt bụng lắm. Cô gái cười thầm, tốt bụng gì mà người ta mới nói chưa hết câu đã muốn xua người ta đi chỗ khác cho rảnh. Mà thôi, nếu anh ta chịu nhường phòng là may lắm rồi, miễn là đừng lợi dụng cơ hội này léo nhéo làm phiền mình. Cô quay sang Danh với nụ cười biết ơn. - Được vậy thì tôi cảm ơn anh trước. - Có gì đâu, tính tôi ít khi làm ngơ với phụ nữ. - Nè đừng có mà tán tỉnh tôi đấy. - Tôi đùa thôi, theo tôi. Cô gườm gườm nhìn Danh rồi bước theo anh. Mái tóc dài của cô bay bay trong gió. Danh len lén nhìn cô, trong chiếc quần jean bụi bụi và áo thun bó sát, trông cô có một vẻ đẹp khỏe khoắn đầy tự tin.Có điều hơi khó tính thì phải! Danh thở dài, sao cứ hễ là đàn bà con gái đẹp thì cứ tỏ ra khó khó thế không biết! Dẫn cô đến phòng trọ, Danh chỉ cho cô căn phòng của mình. - Là phòng nầy, cô nói lại với chủ nhà, tôi chuyển qua bên kia. - Phiền anh quá, chịu khó nghen. - Cô đừng ngại, đàn ông con trai bọn tôi thì ở đâu chẳng được. Danh mở cửa lấy cái túi bước ra ngoài. Tới hành lang anh quay lại nheo mắt nhìn cô: - Mong là cô sẽ hài lòng. Cô gái đáp lại bằng nụ cười thật xinh. Danh hơi sững lại, cô có nụ cười đẹp quá, đẹp đến nỗi anh cứ muốn đứng đấy ngắm nhìn cô mãi. Mà như thế thì bất lịch sự quá nên Danh bước đi mà cứ nghe bước chân mình liêu xiêu nghiêng ngả...  Mời các bạn đón đọc Biển Vẫn Lặng Yên của tác giả Hồng Thủy.