Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chú Nhóc Gavroche - Victor Hugo

Sau cái chết của tướng Lamarque, người duy nhất trong giới lãnh đạo Pháp có cảm tình với giai cấp lao động, nhóm sinh viên đứng đầu là Enjolras tức giận với chế độ đã chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vào đêm ngày mùng 5, rạng sáng mùng 6 tháng 6 năm 1832. Cuộc cách mạng cũng có sự tham gia của những người nghèo khổ, trong đó có cậu bé lang thang Gavroche (Ga-vơ-rốt). Một trong những người tham gia cách mạng là Marius Pontmercy, một sinh viên bị gia đình xa lánh vì quan điểm tự do của mình, anh đã đem lòng yêu Cosette, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ hết sức xinh đẹp. Gia đình nhà Thénardier cũng đã chuyển tới Paris, trở thành những kẻ lang thang trộm cắp, sau khi thỏa thuận với Javert về việc giao nộp Vanjean cho hắn, bọn họ đã tìm cách đột nhập nhà của Valjean trong khi Marius đang đến thăm Cosette. Tuy nhiên con gái của Thénardier là Éponine cũng đã đem lòng yêu người sinh viên và cô đã thuyết phục bọn chúng rời khỏi đó. Ngày hôm sau cuộc cách mạng nổ ra, những sinh viên bắt đầu dựng chiến lũy trên những con phố hẹp ở Paris. Javert đã trà trộn vào hàng ngũ sinh viên nhưng bị Gavroche phát hiện và Enjolras (Ăng-giô-rát) đã bắt giữ hắn. Khi biết người yêu của Cosette cũng tham gia nổi dậy, Valjean đã gia nhập với họ, bởi vì ông muốn bảo vệ Marius. Ông đã xin Enjolras thả Javert. Éponine cũng đứng vào hàng ngũ khởi nghĩa để bảo vệ Marius và cô đã chết hạnh phúc trên tay Marius sau khi hứng một viên đạn thay anh. Trong trận chiến tiếp theo, Valjean cứu sống Javert khỏi tay những người sinh viên và để viên thanh tra đi. Ông cũng cứu được Marius khi đó đã bị thương, nhưng tất cả những người khác, kể cả Enjolras và Gavroche đều đã bị giết. Valjean vác theo Marius chạy trốn theo những đường cống ngầm ở Paris, khi ra đến miệng cống ông chạm trán Javert, ông cố gắng thuyết phục Javert cho mình thời gian để trả Marius về gia đình của anh. Javert đồng ý đề nghị của Jean và nhận ra rằng ông ta đang bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người mà Valjean đã cho viên thanh tra thấy, Javert cũng hiểu rằng ông không bao giờ có thể nộp Valjean cho chính quyền được nữa. Không thể chịu đựng nổi tình trạng khó xử này, Javert nhảy xuống sông Seine tự vẫn. ... *** Trên một lối đi của vườn Luxembourg, một người đàn ông đã già cùng một cô thiếu nữ đang đi dạo như thường ngày. Người đàn ông tóc bạc trắng, trạc sáu mươi tuổi. ông có vẻ buồn và nghiêm nghị, người vạm vỡ và dáng mệt mỏi như các quân nhân về hưu. Trông ông có vẻ tốt bụng, nhưng khó gần. Jean Valjean - bởi vì đó chính là ông ta -mặc một chiếc quần màu xanh, một áo rơ-đanh-gốt cùng màu, đội một chiếc mũ rộng vành. Chiếc cà-vạt đen nổi bật trên chiếc áo sơ mi bằng vải toan thô màu trắng. Cô thiếu nữ đi cùng với ông chẳng phải ai khác chính là Cosette. Nàng có thái độ vừa già vừa trẻ con của các học sinh nội trú trong ký túc xá bà xơ. Hai người có vẻ như cha và con. Một chàng thanh niên tầm vóc trung bình, tóc đen dày, trán cao thông minh, vẻ hăng say và hơi kiêu kỳ, cũng có thói quen đi dạo trên lối đi ấy. Chàng tên là Marius de Pontmercy. Lúc nào chàng cũng thấy họ ở đấy. Trong hai ba ngày liền, Marius để ý tìm hiểu người đàn ông có tuổi nhưng chưa phải là một ông già và cô thiếu nữ chưa có vẻ một cô gái trưởng thành ấy. Jean Valjean và Cosette làm như không nhìn thấy chàng, họ trò chuyện với nhau với vẻ bình thản và lãnh đạm. Cô gái thì vui vẻ ríu rít không ngừng. Người đàn ông thì ít nói, thỉnh thoảng lại nhìn cô gái với đôi mắt chứa chan tình phụ tử khó nói nên lời. Ngạc nhiên vì bộ tóc trắng của người đàn ông, Marius đặt tên cho ông ta là Leblanc, tên này hợp quá đến nỗi mặc dầu không ai biết họ, người ta đều nói: - A! ông Leblanc đã đến ghế mình ngồi rồi kìa! Suốt trong một năm đầu tiên ngày nào Marius cũng trông thấy họ như vậy vào cùng một giờ ấy. Chàng thấy người đàn ông thì còn được chứ cô gái thì hơi có vẻ cau có..Sang năm thứ hai, ông ta không có thói quen đến vườn Luxembourg nữa. Marius chẳng hiểu tại sao. Cuối cùng một hôm ông ta trở lại. Đó là một sáng mùa hè trong trẻo, Marius vui lắm. Chàng đi thẳng tới lối đi của mình và nhìn thấy hai người quen biết vẫn ngồi trên chiếc ghế ấy. Khi lại gần, chàng nhận ra vẫn là người đàn ông cũ nhưng cô gái thì hình như không phải. Lúc này chàng nhìn thấy là một cô gái đẹp, cao ráo, có bộ tóc tuyệt vời với đôi má ửng hồng và cái miệng thanh tú thoát ra một tiếng cườn giòn giã. Một bức chân dung thực sự của Raphael. Khi Marius đi qua bên cô, chàng trông thấy hai hàng mi dài buông trên đôi mắt nhìn xuống. ông Leblanc để ý thủ đoạn của chàng trai trẻ và có vẻ khá tức giận. ông muốn bảo vệ Cosette... Marius quyết định đi theo họ. Hai người ở phố Phía Tây, trong một ngôi nhà mới ba tầng, bên ngoài trông nhũn nhặn. Vừa thấy họ khuất sau chiếc cổng xe, Marius bèn đi vào hỏi người gác cổng: - Thưa, có phải ông ở tầng một vừa mới đi vào không ạ? - Không. - Người gác cổng trả lời. - Đó là ông ở tầng ba. Marius tiếp tục hỏi: - ông ấy là người thế nào ấy nhỉ? - Sống bằng lợi tức. Một con người tốt lắm, chuyên làm việc thiện cho kẻ nghèo tuy chẳng giàu có gì. Marius ra đi lòng phơi phới. Ngày hôm sau ông Leblanc và con gái chỉ xuất hiện ở vườn Luxembourg có một lát. Họ ra về lúc trời còn sáng trưng. Marius đi theo họ về phố Phía Tây như mọi khi. Tới cổng xe, ông Leblanc để con gái đi trước, rồi dừng lại trước khi bước qua ngưỡng cửa, quay lại nhìn Marius chằm chằm. Ngày hôm sau, họ không đến vườn Luxem-bourg nữa. Suốt ngày Marius chờ đợi vô ích. Đêm xuống, chàng tới phố Phía Tây và nhìn thấy ánh đèn trên cửa sổ tầng ba. Chàng dạo chơi dưới mấy cửa sổ đó cho tới lúc ánh đèn tắt. Hôm sau nữa, không thấy họ đến vườn Lux-embourg, Marius chờ suốt ngày, đêm thì lại làm.nhiệm vụ canh gác dưới mấy cái cửa sổ cho đến mười giờ. Suốt tám ngày như thế. ông Leblanc và con gái không đến vườn Luxembourg nữa. Buổi tối các cửa sổ tầng ba cũng không còn sáng đèn và cũng không thấy ai đi vào trong nhà nữa. Ngày hôm sau, hai cha con không đến vườn Luxembourg, ở cửa sổ cũng không có ánh đèn. Rèm cửa sổ khép kín và tầng ba tối om. Marius gõ vào cổng xe, chàng vào hỏi người gác cổng: - ông ở tầng ba đâu rồi hả ông? - Dọn nhà đi rồi. - Người gác cổng trả lời. - Thế bây giờ ông ta ở đâu ạ? - Tôi có biết gì đâu. - Thế ông ấy không để lại địa chỉ ạ? - Không. Thế là Marius mất dấu vết của người mà chàng yêu... Hè qua, thu lại, rồi mùa đông tới. Cả ông Leblanc lẫn cô thiếu nữ, không ai đặt chân đến vườn Luxembourg nữa. Marius chỉ có mỗi một ý nghĩ: nhìn lại khuôn mặt dịu hiền dễ thương ấy. Chàng tìm mãi, tìm khắp nơi, mà không thấy. Chàng không còn là Marius nữa, không còn là con người mơ mộng đam mê, quả quyết, hăng hái và kiên định, kẻ dũng cảm thách thức số mệnh nữa. Chàng sa vào nỗi buồn trầm uất. Thế là hết, chàng không muốn làm việc, đi dạo làm chàng mệt mỏi, nỗi cô đơn làm chàng chán ngán. Hình như mọi thứ đều đã biến mất hết. Marius vẫn ở căn nhà nát Gorbeau. Chàng chẳng chú ý đến một ai. Thực ra thì thời kỳ này trong căn nhà chẳng còn ai trừ chàng và gia đình Jondrette mà chàng đã một lần thanh toán hộ tiền nhà nhưng không hề nói chuyện với ông bố, bà mẹ và hai đứa con gái. Những người thuê nhà khác đều đã dọn đi, đã chết hoặc bị đuổi vì không trả tiền nhà. Một ngày mùa đông năm đó, đầu buổi chiều hơi có chút ánh nắng tuy nhiên mới là ngày mồng hai tháng hai. Marius chầm chậm thả bộ trên đại lộ về phía thanh chắn đường để tới phố Saint Jacques. Chàng vừa đi vừa cúi đầu nghĩ ngợi..Bỗng nhiên trong sương mù chàng cảm thấy có ai huých khuỷu tay vào mình. Ngoảnh lại chàng trông thấy hai cô ăn mặc rách rưới, một cô cao gầy, cô kia thấp hơn, chạy qua rất nhanh, thở hổn hển, hoảng hốt như chạy trốn. Hai cô chạy về phía chàng nhưng vì không trông thấy nên va vào chàng. Trong ánh hoàng hôn, Marius nhận ra hai bộ mặt nhợt nhạt, đầu tóc rối tung, mũ mãng thảm hại, sống váy tả tơi và hai đôi chân trần. Vừa chạy hai cô vừa trò chuyện với nhau. Qua những tiếng lóng độc địa Marius hiểu là cảnh sát thành phố đã bắt hụt hai người, chúng thoát được. Marius dừng lại một lát. Chàng đang định đi tiếp thì trông thấy ở dưới đất ngay dưới chân mình một gói nhỏ màu xám. Chàng cúi xuống nhặt lên. Đó là một chiếc phong bì bên trong đựng giấy tờ gì đó. - ái chà, - Chàng lẩm bẩm. - hai cô nàng khốn khổ đánh rơi cái này đây! Chàng quay lại gọi nhưng không thấy họ đâu nữa. Cho rằng họ đã đi xa, chàng bỏ chiếc phong bì vào túi, đi ăn tối. Chàng lại nghĩ tới sáu tháng yêu đương hạnh phúc đã qua giữa không gian và ánh sáng mênh mông dưới cây cối vườn Luxembourg. Buổi tối khi cởi áo đi ngủ, tay chàng sờ phải túi áo trong có cái gói nhặt được trên đại lộ. Chàng đã quên mất nó. Chàng nghĩ nên mở ra thì hơn bởi vì có thể trong gói có địa chỉ của các cô gái. Thực tế nếu nó thuộc về các cô thì ít nhất cũng có những thông tin cần thiết để hoàn trả cho người mất. Chàng mở phong bì ra. Phong bì không dán, trong có bốn lá thư, cũng không dán nốt. Trên có địa chỉ. Cả bốn lá thư đều xộc lên mùi thuốc lá nồng nặc. Bốn lá thư do cùng một người viết, gửi lời đề nghị cứu giúp tới một bà hầu tước, một bà bá tước, một nhà buôn và ông Làm Phúc ở Nhà thờ Saint - Jacques - du - Haut - Pas. Có điều lạ là bên dưới bốn lời nài nỉ được ký bốn tên khác nhau: Don Alvarès, Người đàn bà Balizard, Genflot và Fabantou..Hơn nữa không có gì tỏ ra những lá thư trên thuộc về hai cô gái mà Marius đã gặp ở đại lộ. Cuối cùng thì cũng chỉ là những giấy tờ vô giá trị. Marius cất lại những lá thư vào trong phong bì, vứt tất cả vào một xó rồi đi ngủ. Khoảng bảy giờ sáng hôm sau, chàng vừa dậy và ăn sáng xong, đang cố gắng ngồi vào làm việc thì có tiếng gõ cửa khe khẽ. - Mời vào. - Marius nói. Cửa mở ra. - Bà cần gì ạ, thưa bà Bougon? - Marius nói tiếp, mắt không rời sách vở và bản thảo trên bàn. Một giọng không phải của bà Bougon trả lời: - Xin lỗi, thưa ông... Marius quay ngay lại và thấy một cô gái. Một cô gái trẻ măng đứng giữa cánh cửa hé mở. ánh sáng ban ngày qua chiếc cửa sổ con của gian phòng áp mái chiếu vào đúng trước cửa ra vào, soi tỏ bộ mặt nhợt nhạt của cô ta. Một cô gái xanh xao, hốc hác, gầy còm, mặc mỗi một chiếc áo sơ mi với một chiếc váy mỏng che tấm thân hở hang run rẩy, lạnh giá. Marius đứng dậy, ngạc nhiên ngắm con người không khác gì cái bóng thoáng qua trong giấc mơ. Nhưng bộ mặt này không phải hoàn toàn xa lạ đối với chàng. Chàng như đã trông thấy ở đâu rồi. - Thưa cô, cô cần gì ạ? - Chàng hỏi. Cô gái trả lời với giọng lè nhè sinh ra từ cuộc sống khổ cực. - Có thư cho ông, ông Marius. Cô gọi tên chàng, vậy thì đúng cô có việc với chàng rồi, nhưng cô ta là ai? Sao lại biết tên chàng? Chẳng chờ được mời, cô ta bước vào. Cô bước vào với vẻ kiên quyết và nhìn toàn bộ gian phòng cùng cái giường chưa xếp dọn với một vẻ tự tin đến não lòng. Cô đi chân đất. Những lỗ thủng lớn trên váy cô để lộ ra đôi chân dài và đôi đầu gối còm cõi. Cô run lập cập. Quả thật, tay cô cầm một bức thư giơ ra cho Marius. Mở bức thư, Marius nhận thấy tảng xi dùng dán thư, rộng và to tướng vẫn còn ẩm. Bức thư không phải từ xa tới. Chàng đọc:.Tôi biết ông có lòng tốt với tôi, đã chi trả tiền nhà hộ cho tôi cách đây sáu tháng. Trời phù hộ cho ông, chàng trai trẻ. Cô con gái đầu lòng của tôi sẽ thưa với ông là hai ngày nay chúng tôi không còn lấy một mẩu bánh, mà vợ tôi lại ốm. Nếu lòng tôi không tuyệt vọng như thế này, tôi đâu dám hy vọng trái tim bao dung của ông sẽ thấu tình nhân đạo trước sự trình bày của tôi mà vui lòng độ trì cho tôi, hạ cố cho tôi chút ân huệ. Xin ông nhận ở đây lời chào trân trọng đối với tất cả những người làm việc thiện của toàn nhân loại. Jondrette Tái bút: Con gái tôi chờ lệnh ông, ông Marius kính mến. Mọi việc đột nhiên thế là sáng tỏ. Lá thư này đến từ chỗ bốn lá thư trước. Cùng chữ viết, cùng giọng văn, cùng một thứ chính tả, cùng một thứ giấy, cùng một mùi thuốc lá. Như vậy là năm bức thư, năm câu chuyện, năm tên, năm chữ ký mà chỉ một người ký: Jondrette, nếu như quả thật ông ta tên là Jon-drette. Đã khá lâu rồi, kể từ ngày Marius tới ở căn nhà nát này, chàng rất hiếm khi có dịp gặp người hàng xóm và nhìn rõ mặt ông ta. Có thể vài lần chàng chạm trán Jondrette ngoài hành lang hoặc trên cầu thang, nhưng đối với chàng đó chỉ là những chiếc bóng, chàng đâu có để ý, thế cho nên chiều tối qua ở đại lộ chàng gặp mà không nhận ra hai đứa con gái của Jondrette, bởi vì chính là chúng, vì thế cho nên khi cô gái này thoạt bước vào phòng chàng, mặc dù kinh tởm và thương hại, chàng đã lờ mờ nhận ra mình từng có lần gặp cô ta. Đến giờ thì chàng nhìn sự việc thật tỏ tường. Chàng hiểu ông láng giềng Jondrette trong nỗi tuyệt vọng đã làm ăn trên cơ sở khai thác tình thương ở những con người từ thiện. Hắn tìm kiếm các địa chỉ, dưới các tên giả hắn viết thư cho những người hắn cho là giàu có và có lòng thương người, những bức thư này hắn sai hai đứa con gái mang đi, có nghĩa là đưa con gái vào những việc liều lĩnh nguy hiểm: thì cha chúng liều mạng thí chúng mà lại. Hắn đã đánh bạc với số phận và đem hai con gái mình vào cuộc. Marius hiểu rằng rất có thể, cứ xem như tối qua.chúng trốn chạy hổn hển, hãi hùng và qua những tiếng lóng chàng nghe được, chúng còn làm những việc đen tối khác nữa, kết quả là từ tất cả những cái đó - trong cái xã hội của giống người mà chúng được tạo ra, chúng đã trở thành hai kẻ khốn cùng, trẻ con không phải trẻ con, thiếu nữ không phải thiếu nữ, đàn bà không phải đàn bà, một loại quỷ ô trọc nhưng lại rất đỗi ngây thơ, sản phẩm của nghèo khổ cơ cực. Nhưng mà, trong khi Marius nhìn cô gái một cái nhìn vừa kinh ngạc vừa thống khổ, thì cô gái vẫn cứ đi lại trong căn phòng áp mái với vẻ mạnh dạn của bóng ma. Marius suy nghĩ và để cho cô gái làm gì thì làm. Cô đến gần bàn: - A! - Cô nói. - Sách! Một tia sáng lướt qua con mắt lờ đờ của cô. Cô tiếp tục nói, giọng biểu thị niềm hạnh phúc được khoe khoang một điều mà khi nghe thấy, không ai đã là con người lại có thể vô cảm. - Em biết đọc đấy nhé! Em ấy! Cả biết viết nữa! Cô nhúng bút vào mực và quay về phía Marius: - ông muốn xem không? Lại đây mà xem, em viết một chữ cho coi. Và trước khi chàng kịp trả lời, cô viết luôn lên một trang giấy trắng để ở giữa bàn: Bọn cớm đấy. Rồi vứt bút: - Không có lỗi chính tả đâu nhé. ông coi mà xem. Em và em gái em cũng đã được học hành đấy chứ, không phải lúc nào cũng như bây giờ đâu. Cô đến bên Marius và đặt một bàn tay lên vai chàng. - ông không để ý đến em chứ em thì em biết ông, ông Marius ạ. Em gặp ông ở cầu thang, rồi em thấy ông vào nhà cái ông gọi là bố Mabeuf ở phía Austerlitz ấy, thỉnh thoảng em đi chơi phía ấy mà. Tóc ông bù lên như thế này nom hay quá nhỉ. Giọng cô dịu dàng hẳn đi chỉ còn nghe khe khẽ. Marius hơi lùi lại..- Thưa cô, - Giọng chàng trang trọng và lạnh lẽo. - tôi nhặt được cái gói này có lẽ của cô. Xin cho tôi hoàn lại cô. Và chàng đưa ra chiếc phong bì trong có bốn bức thư. Cô gái vỗ hai tay vào nhau, reo lên: - Chúng em tìm khắp nơi. Rồi cô ta cầm ngay lấy gói thư, mở ra. - Trời ơi là trời! Thế mà hai chị em em cứ tìm mãi. Té ra ông tìm thấy ư? Trên đại lộ, đúng không nào? Con em cận thị của em chẳng được việc gì. Về đến nhà không thấy đâu nữa. Để khỏi phải đánh, chẳng được ích gì, chúng em bảo là đã đưa thư đến những người đó nhưng họ không cho gì. Tuy nhiên cô giở lá thư thỉnh cầu gửi đến "ạng làm phúc ở Nhà thờ Saint - Jacques - du - Haut - Pas" ra. - Đây này! Thư này là cho ông già vẫn đi lễ này. à, nhưng mà về việc này thì đến giờ rồi. Em mang thư đi đây. Có thể ông ta sẽ cho chút gì mà ăn. Thế là Marius nhớ lại mục đích cô gái khốn khổ đến tìm chàng. Chàng tìm trong túi áo ghi-lê, chẳng thấy gì cả. Lục sâu mãi hết túi nọ đến túi kia, cuối cùng Marius tìm được năm frăng mười sáu xu. Đó là tất cả những gì mà lúc này chàng có trên đời. Chàng giữ lại mười sáu xu, đưa năm frăng cho cô gái. Cô gái cầm lấy đồng năm frăng. - Tốt rồi! - Cô nói. - Thế là có nắng rồi! Cô xốc áo sơ mi lên hai vai, cung kính chào Marius, rồi thân mật vẫy tay, vừa đi ra cửa vừa nói: - Chào ông nhé. Dù sao cũng có chút gì. Em đi tìm ông già đây. Này ông Marius, ông biết không, em vẫn thấy ông đi theo ông già ấy với cô con gái ông ta ở vườn Luxembourg thời gian gần đây... Marius giật nẩy mình: - Em biết họ ư? Em có biết họ ở đâu không? Bảo tôi với nào! Muốn gì em cũng có..- Đấy nhé, em biết ông quá rõ nhé! - Cô đáp. - Còn địa chỉ họ ấy à, để em xem... Khi đi ngang qua tủ com-mốt, cô thấy một mẩu bánh mì đã khô, phát mốc lên trong bụi, cô bèn chớp lấy, rồi đi ra. ... Mời các bạn đón đọc Chú Nhóc Gavroche của tác giả Victor Hugo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trang
Trang, một bé gái mồ côi người Trung Hoa được một gia đình người Do Thái mua về để bầu bạn học hành với David, cậu con trai của chủ nhà. Tình yêu trong sáng đã nảy sinh và phát triển cùng với tuổi ấu thơ và thời hoa niên của họ. Do trở ngại bởi tôn giáo, bởi đẳng cấp và thành kiến dân tộc, mối tình giữa Trang và David trở thành vô vọng. Nàng bèn tìm mọi cách để bảo vệ tình yêu ban đầu của mình, quyết đấu tranh để được sống chung dưới một mái nhà với chàng, dù chỉ với tư cách là một tì nữ. *** Sau khi được trao tặng giải thưởng Nobel năm 1938, tên tuổi nữ văn hào Mỹ Pearl S. Buck đã trở nên quen thuộc và thân thiết với bạn đọc trên khắp thế giới. Pearl S. Buck (1892 – 1973) là một nhà nhân văn lớn. Bà sống và gắn bó với đất nước Trung Hoa nói riêng và phương Đông nói chung gần như suốt cuộc đời. Với trí tuệ sắc sảo và trái tim nhạy cảm, bà đã miêu tả xã hội Trung Quốc ở nhiều thời đại và bình diện khác nhau qua các tiểu thuyết nổi tiếng, trong đó có Bà Vua – hay còn gọi là Người cung nữ (Imperial Woman) và Trang (Peony)… Nhân vật chính trong tiểu thuyết không phải là một bà hoàng đầy quyền uy và tham vọng như Từ Hi Thái hậu; cũng không phải là một tiểu thư khuê các, diễm kiều chốn Hoàng cung mà chỉ là một nữ tì Trung Hoa trong gia đình thương gia Do Thái giàu có. Tình yêu trong sáng giữa Trang và Đavít (con trai ông chủ) nảy sinh và phát triển cùng với tuổi thơ ấu và hoa niên của họ. Song mộng mơ của tuổi trẻ đã vấp phải những trở lực vô hình mà vô cùng nghiệt ngã của tôn giáo, đẳng cấp và thành kiến dân tộc. Bao đau đớn, dằt vặt đã vò xé cõi lòng người thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Nàng tìm mọi cách để bảo vệ tình yêu ban đầu và duy nhất của mình. Nàng luôn phải đối phó với những hoàn cảnh éo le, ngang trái, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để được sống chung với chàng dưới một mái nhà - dù chỉ với tư cách là một nữ tì. Suốt đời, Trang âm thầm hy sinh cho quyền lợi của mọi người. Còn nàng, nàng đã tìm cho mình một nơi ẩn thân yên tĩnh, thâm nghiêm: nhà chùa, để gìn giữ trọn vẹn những kỷ niệm sâu sắc về mối tình đầu thiêng liêng - kho báu vô giá của nàng. Mối tình âm thầm mà thiết tha, cháy bỏng và thanh khiết tuyệt vời giữa Trang và Đavít là bài học bổ ích cho mỗi chúng ta. Qua mỗi trang viết, tác giả dẫn dắt người đọc đi sâu vào thế giới phong phú, đa dạng đầy hương vị ngọt ngào cùng cay đắng của tình yêu. Tác giả khiến chúng ta rung động thực sự trước tâm hồn cao quí của Trang. Qua nhân vật này, bà khẳng định chắc chắn rằng: nhân cách con người không phải do địa vị xã hội và tiền tài quyết định. Với những cống hiến to lớn trong lãnh vực văn chương, Pearl S. Buck đã góp phần giúp nhân loại ngày càng hiểu và xích lại gần nhau trong tinh thần Hòa Bình và Nhân Bản. Thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Kỷ Tỵ Giáo sư Lê Trí Viễn *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Như vậy, ông Era đã chết. Người ta chôn cất ông bên cạnh mộ phần thân phụ ông và bên dưới là nơi mà thân xác bà Era đã hòa lẫn cùng đất cát Trung Hoa. Đavít xúc động nghĩ đến điều đó khi chàng đứng trên miệng huyệt cha chàng. Chàng nghĩ đến mẹ chàng, một người đàn bà có cá tính đặc biệt, đã tạo nhiều ảnh hưởng trong đời chàng và đến nay những ảnh hưởng ấy vẫn còn tồn tại. Cuộc chiến đấu mà bà theo đuổi suốt đời để tách rời chính mình và gia đình mình sống riêng rẽ như những người Do Thái chân chính, bây giờ đã chấm dứt. Sự chết đã thắng bà. Chiều nay trên đồi, không khí mát dịu, Đavít không thể dửng dưng với đoàn người đông đảo đã đưa cha chàng ra đến mộ phần. Đavít thầm tiếc không có mặt mẹ chàng để bà nhìn thấy lòng tốt của đám bạn hữu cha chàng, họ đi đưa đông đến nỗi đám tang chẳng khác nào đám tang của một vị thượng quan người Trung Hoa; thật không có chút gì có vẻ là Do Thái cả. Chỉ có một mình Đavít là còn giữ nguyên trong lòng những ý niệm về nguồn gốc, dòng giống. Lần đầu tiên trong đời chàng, Đavít hiểu tại sao mẹ chàng đã ao ước đến cuồng nhiệt được trở về cố quốc và được chôn cất ở đấy. Chắc chắn bà đã biết rõ, như bà đã biết rõ nhiều điều mà không nói ra, rằng nếu bà chết ở đây, tro bụi của thân xác bà sẽ trộn lẫn cùng đất cát của xứ ngoại quốc này. Năm thành phố chồng chất lên nhau dưới lòng đất nơi Đavít đang đứng. Nhiều thế hệ kế tiếp, đã xây dựng các thành phố ấy, cái này chồng lên cái kia; tại miền đất cổ xưa này, người ta không thể đào quá sâu mà không gặp các người xưa đã chết. Cha mẹ chàng hẳn đã bị buộc chặt vào mảnh đất này cùng với các người khác, và không bao giờ họ còn có thể thuộc về một dân tộc riêng biệt. Tiếng tụng niệm ê a của các sư sãi đã làm cho Đavít đau nhói trong lòng. Quả thật Đavít muốn từ chối khi vị sư già chùa Kim Phật đến nghiêng mình trước vong linh người chết; chàng đã hết lòng giải thích rằng Phật giáo không phải là tôn giáo của cha chàng. Với tất cả sự nhã nhặn, chàng cố nói cho sư cụ hiểu rằng, không nên tụng kinh Phật trước mộ huyệt của cha chàng. Mời các bạn đón đọc Trang của tác giả Pearl S. Buck.
Thần Tượng
William, tên thường gọi là Will, trốn học, băng qua cả thành phố đi coi phim, cốt để không bị người quen bắt gặp. Nhưng cậu lại chạm trán cha mình - Sonny -  ở ngay phòng đợi của rạp xi-nê ấy. Ông đang đi cùng với một người đàn bà da trắng, tóc vàng. Đó là một rủi ro rất bình thường. Song cha cậu không phải là một người bình thường, và gia đình cậu, bị biết bao sự việc đang xảy ra đe dọa cuộc sống của họ, cũng không phải là một gia đình bình thường.  Thần tượng là một câu truyện rất cảm động, viết về tình yêu của một người đàn ông với hai người phụ nữ, của người cha với con trai và ngay cả cái tình yêu trừu tượng hơn - tình yêu tự do - cũng được nhắc tới trong tác phẩm. Trong Thần tượng, những mâu thuẫn cá nhân và cuộc đấu tranh của cả cộng đồng chống lại chủ nghĩa Apartheid được đẩy lên kịch tính rất cao. Đó cũng chính là cái giá mà những con người như Sonny và gia đình ông phải trả để tạo nên những chuyển biến trong xã hội Nam Phi. *** Nadine Gordimer (sinh 20 tháng 11 năm 1923) là nữ nhà văn Nam Phi đoạt giải Nobel Văn học năm 1991. Nadine Gordimer sinh ở Springs, Gauteng, ngoại ô thành phố Johannesburg, Nam Phi, trong gia đình thợ kim hoàn gốc Do Thái di cư. Bố người Litva, mẹ là người Anh. Sau khi học xong trường dòng, bà vào học trường Đại học Witwatersrand ở Johannesburg. Gordimer đã đi du lịch khắp châu Phi, châu Âu và Bắc Mỹ, nhưng vẫn sống chủ yếu ở Johannesburg. Năm 1954, bà kết hôn với một thương gia tên là Reinhold Cassirer. Mỗi người có một con gái riêng từ cuộc hôn nhân trước và họ có với nhau một đứa con trai chung. Nadine Gordimer bắt đầu viết lúc lên chín và truyện ngắn đầu tiên được đăng trên một tạp chí của Nam Phi khi bà mười lăm tuổi. Tập truyện đầu tiên Face to face (Mặt đối mặt) xuất bản năm 1949. Một năm sau đó tập truyện The soft voice of the serpent (Lời dịu dàng của rắn) ra mắt và bà bắt đầu nổi tiếng. Tiểu thuyết đầu tiên The lying days (Những ngày gian dối, 1953) kể về cô gái Helen đã trải qua những biến cố chính trị, xã hội phức tạp ở Nam Phi giống như chính tác giả. Các tiểu thuyết Occasion for loving (Cơ hội tình yêu, 1963), The late bourgeois world (Thế giới tư bản đã mất, 1966) trong một thời gian dài bị cấm xuất bản ở Nam Phi. Năm 1974 tác phẩm The conservationist (Người bảo thủ) được trao giải Booker. Bà nổi tiếng thế giới với tiểu thuyết July's people (Những người tháng bảy, 1981) kể về gia đình một kiến trúc sư bỏ thành phố Johannesburg chạy về làng quê. Trong tiểu thuyết này, bà phân tích mối quan hệ của những người nông dân với một gia đình người da trắng, chỉ ra sự thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa những tầng lớp xã hội khác nhau. Những năm 1940-1950, khi ở Nam Phi thi hành chính sách phân biệt chủng tộc, đề cao chủ nghĩa Apartheid, cấm hôn nhân giữa người da trắng và da đen, Nadine Gordimer đã dùng ngòi bút của mình để phản kháng. Là một người da trắng sống tại Nam Phi, một nhà hoạt động xã hội xuất chúng, các tác phẩm của bà có ảnh hưởng rất lớn trong dư luận xã hội ở Nam Phi, đặc biệt là tập tiểu luận Living in hope and history: Notes from our century (Sống trong hi vọng và trong lịch sử: Những ghi chép về thế kỉ chúng ta) được xuất bản năm 1999. Gordimer còn đề xuất một dự án từ thiện: tổ chức một tuyển tập của các tác giả truyện ngắn xuất sắc nhất thế giới (trong đó có 5 nhà văn đoạt giải Nobel), xuất bản và bán lấy tiền ủng hộ các nạn nhân bị nhiễm HIV trên khắp thế giới. Nadine Gordimer luôn mong muốn được sống cuộc sống bình thường, thoát khỏi sự chú ý của công chúng, nhưng sự nổi tiếng của bà cùng nhiều giải thưởng, các bằng tiến sĩ danh dự ở nước ngoài (bà đã từ chối một bằng tiến sĩ danh dự ở Nam Phi), việc bà giữ nhiều vị trí (bà là phó chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế) và việc bà liên tục viết, phát biểu tự do trong một đất nước cảnh sát nơi mà sự kiểm duyệt, sự khủng bố các tác phẩm và người dân vẫn còn tồn tại đã khiến bà trở thành "nhà văn Nam Phi kì cựu nhất". Gordimer đã nhiều lần được đề nghị tặng giải Nobel và năm 1991 bà trở thành nhà văn Nam Phi đầu tiên giành được vinh dự này. Sách của Nadine Gordimer được dịch ra gần 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Tác phẩm: Face to face (Mặt đối mặt, 1949), tập truyện. The soft voice of the serpent (Lời dịu dàng của rắn, 1952), tập truyện. The lying days (Những ngày gian dối, 1953), tiểu thuyết. Six feet of the country (Sáu thước đất, 1956), tập truyện. A world of strangers (Thế giới những kẻ lạ mặt, 1958), tiểu thuyết. Friday's footprint (Dấu chân ngày thứ sáu, 1960), tập truyện. Occasion for loving (Cơ hội tình yêu, 1963), tiểu thuyết. Not for publication (Không phải để công bố, 1965), tập truyện. The late bourgeois world (Thế giới tư sản đã mất, 1966), tiểu thuyết. A guest of honour (Khách danh dự, 1970), tiểu thuyết. Livingstone's companions (Những người bạn của Livingstone, 1971) tập truyện. The conservationist (Người bảo thủ, 1974), tiểu thuyết. Selected stones (Những viên đá chọn lựa, 1975), tập truyện. Some monday for sure (Ngày thứ hai nào đó, 1976), tập truyện. Burger's daughter (Con gái của Burger, 1979), tiểu thuyết. A soldier's embrace (Vòng tay người lính, 1980), tập truyện. July's people (Những người tháng bảy, 1981), tiểu thuyết. Something out there (Điều gì ở ngoài nơi đó, 1984), tập truyện. A sport of nature (Môn thể thao tự nhiên, 1987), tiểu thuyết. My son's story (Thần tượng, 1990), tiểu thuyết. Jump and other stories (Cú nhảy và các truyện khác, 1991), tập truyện. Crimes of conscience (Tội phạm lương tâm, 1991), tập truyện. Why haven't you written (Tại sao anh chưa viết, 1992), tập truyện. None to accompany me (Không ai cùng tôi, 1994), tiểu thuyết. The house gun (Súng trong nhà, 1998), tiểu thuyết. Living in hope and history: Notes from our century (Sống trong hi vọng và trong lịch sử: Những ghi chép về thế kỉ chúng ta, 1999), tiểu luận. The pick up (Lượm nhặt, 2001), tiểu thuyết. Loot and other stories (Chiến lợi phẩm và các truyện khác, 2003), tập truyện. *** Will, hãy thắt cà vạt vào. Cầu chúa phù hộ châu Phì. Tôi yêu Kausre Chiefs. Tôi nhìn vào phía sau đầu của ông trong chuyến trở về bằng xe hơi và thấy như cõi lòng tôi khép lại. Tôi không nghĩ đến gì hết. Tôi không nghĩ đến bà. Tôi chỉ ý thức những gì ở bên ngoài. Những hình dáng trên những xe chở khách "combi" mà luật sự cao bồi chạy đuổi theo và qua mặt. Nhạc của Sting và The Genuises đang phát ra từ băng nhạc. Lớp len dầy ở nệm bọc da cừu dưới bàn tay của tôi. Đủ mọi thứ xung quanh một chỗ trống rỗng, muốn lúc nào có lúc đó. Khi tôi thấy người đàn ông ôm đầu hai khuỷu tay trong khi bị một cảnh sát viên đánh, và ruột gan tôi lộn tùng phèo – lo sợ cho mẹ tôi! cho bản thân tôi, lo sợ cuộc sống - cha tôi đã áp bàn tay ông lên vai tôi. Ông đã biết. Một bàn tay đặt lên vai tôi. Ðể đòi hỏi ở tôi một điều gì hòa nhập với ông. Và sau khi bà đến gần tôi, để dành tôi là người sau chót như trước kia bà thường làm vậy - một bí mật giữa chúng tôi – khi vào hôn Baby và tôi trước khi đi ngủ. Tôi đã thấy bà để ý, phải đã ghi nhận: trọng lượng của tôi, da hai bên cằm nhão ra và dây nịt tụt xuống ở bụng. Trong gia đình tôi ai cũng gầy xẹp đi. Chẳng phải bà muốn tôi như vậy. Nhưng mặt khác, Baby đã làm cho bà trở nên như chị tôi muốn. Tôi không biết nói gì với bà. Tôi biết mọi thứ ông đã chuẩn bị để nhìn thấy là sai. Tệ hơn thế nữa, bà không cần thế. Tôi đã có thể bảo ông như vậy. Tôi đã có thể bảo ông nhiều điều ông không để ý, luôn luôn bận tâm vì những chuyện đâu đâu nên không để ý, những điều ấy bây giờ tôi hiểu. Những cuộc đi thăm “bạn đồng nghiệp” ông đã bằng lòng chấp nhận, vì đỡ cho ông khỏi phải chịu trách nhiệm về sự lơ là của ông, các chuyến đi thường có của bà qua biên giới - ồ, ông đã ý thức các chuyến đi ấy không phải hoàn toàn để thăm cháu ngoại, nhưng ông đã sai lầm khi cho rằng bà đã bị Baby và chồng nó lợi dụng (điển hình! dĩ nhiên chỉ người đàn bà tóc vàng của ông có sự thông minh và lòng gan dạ để làm chiến hữu của ông). Ắt hẳn ông đã thấy bà không “vô tội”, một tính từ có nghĩa là từ chối chịu trách nhiệm với nhân dân, như tôi đã nghe ông dùng trong các bài diễn văn. ... Mời các bạn đón đọc Thần Tượng của tác giả Nadine Gordimer.
Tuổi Sắt Đá
Ở thành phố Captown, Nam Phi, một bà cụ bị ung thư sắp chết. Bà tên là Curren, một giáo sư văn chương cổ điển. Suốt đời bà phải chống lại sự dối trá tàn ác của chê độ phân biệt chủng tộc, tránh xa những chuyện khủng khiếp. Nhưng đến một lúc bà đành phải cam chịu và chấp nhận cơn điên khùng đã mất hết tính người của chế độ ấy.  Trong một bức thư gởi cho con gái đã bỏ chạy sang Mỹ, bà kể lại những chuyện quái đản xảy ra trong những ngày bà sắp qua đời. Bà đã chứng kiến một vụ đốt cháy thị trấn của người da đen gần nơi bà ở, trong đó bà thấy xác chết đã bị bắn nát của đứa con trai người giúp việc bà trước đây. Một thiếu niên da đen đi hoạt động phải trốn chạy trong nhà bà cũng bị các lực lượng an ninh bắt giết. Những ngày cuối cùng của đời mình, bà chỉ còn biết sống cùng một anh chàng vô gia cư nhưng nát rượu đã tìm đến chỗ bà trú ngụ và bà chỉ còn biết chia xẻ với anh ta những điều uất ức và nỗi thất vọng trong cuộc sống con người. *** John Maxwell Coetzee (sinh ngày 9/2/1940) sinh trong gia đình gốc Đức tại miền Tây Nam Phi, từ nhỏ đã giỏi cả tiếng Anh và tiếng Đức; học các trường đại học tổng hợp Cape Town và Texas; dậy tiếng Anh và văn học; bắt đầu viết văn từ năm 1969 và ngay lập tức được dư luận chú ý từ cuốc sách đầu tiên, nổi tiếng thế giới với tiểu thuyết Giữa miền đất ấy (In the heart of the country, 1977) viết về tính bạo lực và thói ghẻ lạnh là bản chất của chính sách thuộc địa của người da trắng. “Ruồng bỏ” (Disgrace) của John Maxwell Coetzee – Một nhà văn hai lần đoạt giải Booker: Cuộc sống và thời đạicủa Michael K. (1983) và Ruồng bỏ (1999) – và đoạt giải Nobel Văn học năm 2003. Những tác phẩm của Coetzee được viết bằng giọng văn điềm đạm, ngắn gọn, ít phô diễn kĩ thuật, người mới đọc dễ nắm bắt được mạch tác phẩm của ông và hiểu được cốt truyện. Tất nhiên, để hiểu toàn bộ kĩ thuật hay dụng ý của Coetzee lại không đơn giản lắm. Các tác phẩm của ông thường đi sâu vào cuộc sống và suy nghĩ riêng của một người nào đó đặt trong một bối cảnh có biến động, phức tạp vì chính trị hoặc bị xô đẩy bởi chiến tranh, như trong Cuộc sống và thời đại của Michael K. thì là hành trình của K. Ruồng bỏ là hành trình của David Lurie, hay Tuổi sắt đá là về bà Curren, một giáo sư sống và chết dần vì bệnh ung thư. *** Tôi mơ thấy Florence, một giấc mơ hay ảo mộng. Trong mơ, tôi thấy cô ta lại đi xuống đại lộ Chính phủ, tay dắt Hope và cõng Beauty trên lưng. Cả ba mẹ con đều đeo mặt nạ. Tôi cũng có đấy cùng đám đông đủ loại người và tầng lớp tập hợp chung quanh. Không khí như ngày hội. Tôi có nhiệm vụ trình diễn một vở. Nhưng Florence không dừng lại xem. Cô ta nhìn thẳng và cứ đi như qua một đám hồn ma. Mắt trên mặt nạ như mắt trong những tranh cổ Địa Trung Hải, to, hình bầu dục, con ngươi ở giữa trông như hạnh nhân của một nữ thần. Tôi đứng giữa đại lộ đối diện với toà nhà Nghị viện, những người đứng chung quanh xem tôi làm ảo thuật với lửa. Trên cao là những cây chò rất to. Nhưng tôi không nghĩ đến trò mình đang làm. Tôi chăm chú nhìn Florence. Chiếc áo choàng đen buồn thảm của cô ta đã rơi đâu mất. Gió thổi nhàu chiếc quần trắng, cô ta đi chân đất, đầu để trần, ngực bên phải cũng để trần, cô ta đi qua thật nhanh, đứa bé đeo mặt nạ, trần truồng, lon ton chạy bên cạnh, đứa kia giơ tay chỉ trỏ. Nữ thần này là ai mà đến trong ảo mộng, ngực để trần rồi vụt đi thế nhỉ? Đó là Aphrodite, nhưng không phải Aphrodite  với nụ cười đáng yêu, người đỡ đầu của những khoái lạc, mà chỉ là hình dáng xưa cũ, khẩn trương, chỉ như tiếng khóc dồn dập trong đêm tối, tiếng khóc của máu và đất, xuất hiện trong chốc lát cho mọi người thấy rồi đi luôn. Nữ thần không để lại dấu hiệu hay tiếng gọi nào. Mắt mở trắng dã. Nữ thần thấy mà không thấy gì. Tôi trình diễn với lửa nhưng vẫn đứng đó, sững sờ. Ngọn lửa từ người tôi phát ra xanh như màu băng tuyết. Tôi không cảm thấy đau đớn gì hết. Đó là ảo mộng trong giấc mơ đêm qua, nhưng nó đến từ thời gian bên ngoài. Nữ thần đi qua, qua mãi, vẻ ngạc nhiên và tiếc thương, tôi không thể nhìn theo được. Tuy tôi vẫn nhìn ngắm cơn lốc đến từ ảo mộng, nhưng nữ thần và các con cô ta đều trống rỗng, người đàn bà theo sau cũng không có mặt, người đàn bà thường mang những vòng lửa ngoằn ngoèo như rắn trên đầu ấy, vẫn đập tay, vừa khóc vừa nhảy múa. ... Mời các bạn đón đọc Tuổi Sắt Đá của tác giả John Maxwell Coetzee.
Cô Gái Chơi Dương Cầm
Cô gái chơi dương cầm (nguyên bản tiếng Đức: Die Klavierspielerin) là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của của nữ văn sĩ người Áo Elfiede Jelinek. Tác phẩm xuất bản năm 1983 và được đông đảo người đọc đón nhận. Trong cuốn tiểu thuyết này, Jelinek bóc trần những gì được coi là cấm kỵ trong cuộc sống gia đình người Áo. Cuốn tiểu thuyết bày ra một liên hệ rất không bình thường giữa cô giáo và bà mẹ già độc đoán. Erika là cô giáo dương cầm tài giỏi bậc nhất tại nhạc viện Vienna. Nhưng sự nghiêm trang và đứng đắn của Erika có thể chỉ là vẻ giả tạo bên ngoài. Một khi đã bước ra khỏi căn phòng dạy nhạc, người phụ nữ này lại lén lút đến xem phim tại một cửa hàng phim khiêu dâm, rình mò những đôi trai gái làm tình và luôn giấu sẵn một lưỡi dao cạo trong người để cắt xẻo da thịt của chính mình. Mối quan hệ của Erika và những người xung quanh lại càng bất thường hơn. Người phụ nữ ngoài 30 này vẫn bị bà mẹ độc đoán kiểm soát mọi lúc mọi nơi. Đối với học trò, Erika lại tỏ ra rất lạnh nhạt và nghiêm khắc. Cô sợ mất đi vị trí độc tôn của mình nên tìm cách trù dập những sinh viên tài năng nhất. Nhưng có một chàng sinh viên đã lọt vào mắt xanh của Erika. Cậu là Walter, một sinh viên chuyên ngành kỹ sư rất điển trai với ngón đàn điêu luyện. Thấy Erika lạnh nhạt, Walter lại càng muốn chiếm lấy tình cảm của cô. Cậu học trò Klemmer cũng là một con người có cuộc sống bị kìm hãm. Họ đến với nhau theo cách tự hành hạ, tự làm đau đớn bản thân và làm cho người khác đau. *** Elfriede Jelinek sinh ngày 20/10/1946 tại Mürzzuschlag thuộc Miền Hạ Áo. Từ 1966 đến nay, địa chỉ chỗ ở của bà tại thủ đô Vienna không thay đổi. Chính vì thế, bà luôn coi mình là dân Vienna "chính hiệu". Cha bà là người Do Thái gốc Czech, mẹ bà lại là một tín đồ rất ngoan đạo của Thiên Chúa giáo. Thuở nhỏ bà học ba-lê. Từ năm 6 tuổi, bà học dương cầm theo yêu cầu của mẹ. Đạo diễn người Áo Michael Haneke đã chuyển thể tiểu thuyết này thành phim cùng tên rất nổi tiếng và đã đoạt 3 giải thưởng trong Liên hoan phim Cannes năm 2001. Năm 2004, Elfriede Jelinek được trao giải Nobel Văn học. *** Tác phẩm: Ngoài ba tiểu thuyết lớn (Die Liebhaberinnen, Die Klavierspielerin, Lust) với những chủ đề: nước Áo với quá khứ phát xít, tuổi thơ bị đè nén, số phận phụ nữ trong chế độ nam quyền, văn hoá porno..., Jelinek còn là tác giả của một tập thơ, nhiều vở kịch, một số kịch bản phim và nhiều tiểu luận phê bình. Ngoài ra, bà còn là dịch giả với những bản dịch tác phẩm của Thomas Pynchon, Georg Feydeau, Eugène Labiche, Christopher Marlowe và Oscar Wilde.   Giải thưởng: Jelinek đã nhận được rất nhiều giải thưởng văn học uy tín của các nước nói tiếng Đức cho các tiểu thuyết và các vở kịch của bà (Trong đó có Georg-Büchner-Preis năm 1988, giải thưởng văn học lớn nhất của Đức). Năm 2004, bà được trao giải Nobel văn chương.   - 1969: Giải nhất cuộc thi Thơ sinh viên Áo   - 1969: Giải của Tuần văn hóa thanh niên ở Innsbruck cho Aus einem Iiustriertenriman (Trích từ một tiểu thuyết tranh) và bản thảo chưa xuất bản của wirsind lockvÖgel baby! (chúng ta là chim mồi, các em ạ!)   - 1972/1973: Học bổng quốc gia dành cho văn học.   - 1978: Giải Roswitha của thành phố Bad Gandersheim.   - 1979: Giải khuyến khích dự án Kịch bản phim Die Ausgensperrten (Những kẻ bên lề).   - 1983: Giải văn chương của Bộ giáo dục và nghệ thuật Áo.   - 1986: Giải Heinrich BÖll của thành phố Köin.   - 1987: Giải văn chương của bang Steiermark.   - 1989: Giải văn chương của thành phố Wien.   - 1994: Giải Walter Hansenclever của thành phố Aachen.   - 1994: Giải Peter Weiss của thành phố Bochum.   - 1996: Giải văn chương của thành phố Bremen cho tiểu thuyết Die Kinder Toten (Con cái người chết).   - 1998: Giải Georg Büchner.   - 2000: Giải manuskripte của bang Steiermark.   - 2002: Giải sân khấu Berlin của Quỹ Preuβische Seehandlung.   - 2002: Giải của thành phố Mülheim cho kịch bản Macht Nichts (không sao cả).   - 2002: Giải Heinrich Heine của thành phố Düsseldorf.   - 2003: Giải Else Lasker-Schüler của Nhà hát Pfalztheater ở Kaiserslautern cho sự nghiệp nhà viết kịch.   - 2004: Giải Lessing cho công tác phê bình.   - 2004: Giải của thành phố Mülheim cho kịch bản Das Werk (Nhà máy).   - 2004: Giải Stig Dagerman của Hội Stig Dagerman (Thụy Điển).   - 2004: Giải kịch truyền thanh viết cho người mù trong chiến tranh.   - 2004: Giải văn chương Franz Kafka (Séc).   - 2004: Giải Nobel (Thụy Điển).   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Chơi Dương Cầm của tác giả Elfriede Jelinek.