Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sau Bữa Tiệc

Tuyết Sinh dịch YUKIO MISHIMA (1925-1970)Yukio Mishima (三島 由紀夫; phiên âm: (Tam Đảo Do Kỷ Phu), tên thật Hiraoka Kimitake (平岡 公威; phiên âm: Bình Cương Công Uy) (14 tháng 1 1925 - 25 tháng 11 1970) là một nhà văn và nhà biên kịch Nhật Bản, nổi tiếng với các tác phẩm như Kinkakuji (1956), bộ bốn tác phẩm "豐饒の海" (Hōjō no Umi, Biển cả muôn màu, 1965-70). Mishima sinh ra tại quận Yotsuya ở Tokyo (ngày nay là một phần của Shinjuku). Cha ông là Azusa Hiraoka, một nhân viên chính phủ, trong khi mẹ ông Shizue, là con một hiệu trưởng tại Tokyo. Ông bà nội của Mashima là Jotarō và Natsuko Hiraoka. Ông có một người em trai tên là Chiyuki và một em gái tên Mitsuko, người qua đời sớm do sốt ban. Tuổi thơ của Mishima bị phủ bóng bởi người bà Natsu, người đã nuôi và cách ly ông khỏi gia đình trong vài năm. Natsu là cháu nuôi của Matsudaira Yoritaka, một daimyo của Shishido tại tỉnh Hitachi và lớn lên trong gia đình công chúa Arisugawa Taruhito; bà vẫn duy trì lễ giáo quý tộc ngay cả sau khi kết hôn với ông của Mishama. Natsu là một người cục cằn và dễ nổi nóng, điều này thường xuyên được ám chỉ trong các tác phẩm của Mishima. Chính qua tìm hiểu Natsu mà một số người đã phát hiện nỗi ám ảnh với cái chết của Mishima. Natsu thường không cho Mishima ra ngoài ánh nắng hay tham gia vào bất hoạt động thể thao nào với các cậu bé khác; điều này khiến ông phải dành phần lớn thời gian một mình hoặc chơi đồ chơi con gái. Mishima trở lại gia đình năm 12 tuổi. Cha ông, một con người của kỉ luật quân đội, đã áp dụng kỉ luật sắt với cậu bé Mishima bằng cách bồng cậu bé lên thành của một con tàu cao tốc; cha của Mishima cũng thường xuyên lùng sục phòng của ông và phát hiện những sở thích "ẻo lả" về văn chương của Mishima và xé các bản thảo đó của ông. Ở tuổi 12, Mishima viết những câu chuyện đầu tiên của ông. Ông đọc ất nhiều các tác phẩm của Oscar Wilde, Rainer Maria Rilke và vô số những tác gia kinh điển Nhật Bản khác. Ông nhập học một trường dành cho tầng lớp quý tộc ở Nhật. Sau sáu năm học, Mishima trở thành thành viên trẻ nhất trong ban biên tập văn học của trường, ông bị cuốn hút bởi các tác phẩm của Tachihara Michizō. Những tác phẩm xuất bản đầu tiên của ông bao gồm thơ Waka, trước khi chuyển hướng sang thể loại văn xuôi. Mishima được mời viết chuyện ngắn văn xuôi cho tạp chí văn học của trường và gửi bản Hanazakari no Mori (花ざかりの森 The Forest in Full Bloom), một câu chuyện trong đó người kể mô tả cảm xúc về những người tổ tiên còn sống trong nội tâm nhân vật. Giáo viên của Mishima rất ấn tượng với câu chuyện và họ giới thiệu nó cho tạp chí văn học uy tín, Bungei-Bunka (文芸文化 Literary Culture). Câu chuyện với ngôn ngữ ẩn dụ và cách ngôn, đã được xuất bản năm 1944, giới hạn trong 4000 bản do việc thiếu nguyên liệu giấy thời chiến tranh. Để bảo vệ ông khỏi phản ừng từ các bạn đồng môn, các giáo viên của Mishima đã đặt cho ông bút danh "Yukio Mishima". Chuyện Tabako (煙草, tạm dịch: Thuốc lá), xuất bản năm 1946, mô tả sự khinh miệt và đối xử mà Mishima gặp phải ở trường khi ông thổ lộ với những thành viên của CLB Rugby trường rằng ông gắn bó với nghề văn chương. Những kí ức này cũng là nguồn tư liệu cho tác phẩm Shi o Kaku Shōnen (詩を書く少年, tạm dịch: Cậu bé làm thơ) sau này, xuất bản năm 1954. Mishima bị gọi kiểm tra sức khỏe quân ngũ trong thế chiến II. Nhưng khi kiểm tra sức khỏe, ông bị cảm lạnh và đã nói dối với bác sĩ quân đội rằng mình bị lao, vì vậy Mishima đã được tuyên bố là không đủ tiêu chuẩn sức khỏe nhập ngũ. Dù cho người cha cấm ông không được viết truyện nữa, nhưng Mishima vẫn tiếp tục bí mật viết vào buổi đêm, dưới sự ủng hộ và bảo vệ của mẹ ông, bà luôn là người đầu tiên đọc một chuyện mới của Mishima. Tham dự các buổi thuyết giảng ban ngày và viết chuyện ban đêm, Mishima tốt nghiệp trường Đại học Tokyo năm 1947. Sau đó ông dành được một vị trí nhân viên bộ tài chính trong chính phủ, một tương lai sáng lạn đang chờ đón. Tuy nhiên, Mishima lại cảm thấy kiệt sức và cha ông đồng ý cho ông từ chức trong năm đầu tiên để tập trung thời gian cho viết lách. Mishima bắt đầu viết chuyện ngắn Misaki nite no Monogatari (岬にての物語 A Story at the Cape) năm 1945 và tiếp tục viết cho đến cuối thế chiến thứ 2. Vào tháng 1 năm 1946, ông tới thăm nhà văn Yasunari Kawabata tại Kamakura và mang theo bản thảo chuyện Chūsei (中世 The Middle Ages) và Tabako, nhằm xin lời khuyên và sự giúp đỡ của Kawabata. Tháng 6 năm 1946, nhờ lời khuyên của Kawabata, Tabako được tạp chí văn chương mới Ningen (人間 Humanity) xuất bản. Cũng trong năm 1946, Mishima bắt đầu viết tiểu thuyết đầu tay, Tōzoku (盗賊 Thieves), trong đó câu chuyện kể về hai thành viên trẻ trong gia đình quý tộc luôn muốn được tự vẫn. Tiểu thuyết này xuất bản năm 1948, nhờ nó mà Mishima đã được xếp vào hàng ngũ thế hệ thứ hai của những nhà văn thời hậu chiến. Sau đó, ông cho ra đời Confessions of a Mask, một tác phẩm bán tự truyện kể về người đồng tình luôn phải lấp sau mặt nạ để hòa nhập vào xã hội. Cuốn tiểu thuyết đã rất thành công và biến Mishima trở thành một nhân vật nổi tiếng ở tuổi 24. Vào khoảng năm 1949, Mishima cho xuất bạn một serie tiểu luận trong Kindai Bungaku về Kawabata Yasunari, người mà ông dành cho một sự ngưỡng mộ sâu sắc. Mishima là một nhà văn đa tài, ông không chỉ viết tiểu thuyết, tiểu thuyết ngắn, chuyện ngắn, tiểu luận mà còn là một nhà biên kịch có tiếng cho sân khấu kịch Kabuki và những phiên bản hiện đại của thể loại kịch Nō. Các tác phẩm của ông đã dành được tiếng vang quốc tế và rất nhiều trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh. Mishima đã đi tới rất nhiều nơi; năm 1952, ông tới thăm Hy Lạp, đất nước đã từng làm say đắm ông từ thời thơ ấu. Những kinh nghiệm thu được từ chuyến thăm đã xuất hiện trong Shiosai (Sound of the Waves), xuất bản năm 1954, câu chuyện lấy cảm hứng từ thần thoại Daphnis và Chloe của Hy Lạp. Mishima cũng khắc họa những sự kiện đương thời trong các tác phẩm của mình. The Temple of the Golden Pavilion xuất bản năm 1956, là một câu chuyện tiểu thuyết hóa về vụ cháy ngôi chùa nổi tiếng ở Kyoto. Utage no Ato (After the Banquet), xuất bản năm 1960, bám sát những sự kiện xung quanh chiến dịch tranh cử thị trưởng Tokyo của chính trị gia Hachirō Arita, vì tác phẩm này mà Mishima đã bị kiện vị tội xâm phạm cá nhân. Năm 1962, tác phẩm Utsukushii Hoshi (Beautiful Star), một tác phẩm gần với thể loại khoa học viễn tưởng thời đó, được xuất bản và nhận được những phản ứng trái ngược. Mishima từng ba lần được đề cử giải Nobel và là một nhà văn yêu thích của rất nhiều nhà xuất bản quốc tế. Tuy nhiên, năm 1968, người thầy đầu tiên của ông Kawabata dành được giải Nobel và Mishima hiểu rằng cơ hội nhận được giải thưởng cho người Nhật Bản trong tương lai gần là rất nhỏ. Cũng có tin đồn rằng Mishima muốn chuyển giải thưởng cho bậc lão thành Kawabata, người đã giới thiệu ông tới văn đàn Tokyo trong thập niên 1940. Năm 1955, Mishima tham gia lớp tập thể thao và chế độ dinh dưỡng cho tập luyện ba buổi một tuần được ông tuân thủ trong suốt 15 năm cuối đời. Trong bài tiểu luận xuất bản năm 1968, Sun and Steel, Mishima phàn nàn về việc những nhà trí thức coi trọng đầu óc hơn thân thể. Mishima sau đó đã trở nên rất điêu luyện với môn kendō. Dù cho đã từng thăm các quan bar dành cho gay ở Nhật Bản, vấn đề định hướng giới tính của Mishima hiện vẫn là một chủ đề bàn thảo ở Nhật. Mishima kết hôn với Yoko Sugiyama ngày 11 tháng 6 năm 1958 và có hai con là Noriko (1959) và Lichiro (1962). Năm 1967, Mishima gia nhập Lực lượng phòng vệ đất liền Nhật Bản và trải qua việc tập luyện cơ bản. Một năm sau đó, ông thành lập Tatenokai (Hội lá chắn) nhằm tập hợp các thanh niên trai tráng có võ và thề sẽ bảo vệ Nhật Hoàng. Trong 10 năm cuối cuộc đời, Mishima viết một vài vở kịch và tham gia đóng trong vài bộ phim cũng như đồng chỉ đạo một bộ phim chuyển thể từ một trong những chuyện của ông, Patriotism, the Rite of Love and Death. Ông cũng tiếp tục viết bộ bốn tác phẩm , Hōjō no Umi (Sea of Fertility), những tác phẩm xuất bản theo khổ định kỳ từ tháng 9 năm 1965. Ngày 25 tháng 11 năm 1970, Mishima và bốn thành viên của Hội lá chắn, tới thăm sĩ quan chỉ huy doanh trại Ichigaya, một trụ sở ở Tokyo của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Bên trong trụ sở, họ dựng chướng ngại vật và trói vị chỉ huy trên ghế. Với một bản tuyên ngôn và khẩu hiệu chuẩn bị sẵn nêu rõ các yêu cầu, Mishima bước ra ban công để hô hào các binh sĩ tụ tập phía dưới và xúi dục họ đảo chính để thiết lập lại sức mạnh của hoàng đế. Tuy nhiên, những lời nói của Mishima chỉ khiến chọc giận các binh sĩ và bản thân ông thì bị chế giễu. Ông hoàn thành bài diễn văn đã chuẩn bị sẵn, trở lại phòng chỉ huy và tự sát theo nghi thức seppuku, nhiệm vụ sau cùng truyền thống của nghi thức này được giao cho thành viên Masakatsu Morita của Hội lá chắn thực hiện, tuy nhiên Morita không đủ khả năng thực hiện điều này và cuối cùng Mishima cho phép một thành viên khác của Hội lá chắn, là Hiroyasu Koga ,chặt đầu ông. Những nghi vấn được đặt ra xung quanh sự tự vẫn của Mishima. Vào thời điểm Mishima qua đời, ông đã hoàn thành tác phẩm cuối cùng The Sea of Fertility. Ông được công nhận là một trong những nhà văn hậu chiến phong cách nhất trong văn học ngôn ngữ Nhật. Mishima viết 40 tiểu thuyết, 18 vở kịch, 20 sách về chuyện ngắn, khoảng 20 sách về tiểu luận cũng như một kịch bản. Phần lớn các tác phẩm này bao gồm những cuốn sách được viết nhanh nhằm thu lợi nhuận, dù chúng bị coi nhẹ nhưng những phần quan trọng của các cuốn sách này vẫn được lưu giữ. Vào cuối đời, Mishima là một người tán dương chủ nghĩa dân tộc. Các nhân vật cánh tả không ưa gì ông, đặc biệt là vì ý tưởng chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo (bushidō) của Mishima, ông cũng bị rất nhiều những người theo chủ nghĩa dân tộc chỉ trích vì luận điểm nêu ra trong Bunka Bōeiron (文化防衛論 A Defense of Culture), cho rằng Hirohito nên thoái vị và phải nhận trách nhiệm cho sự chết chóc trong chiến tranh. ∙ Giải Shincho của Nhà xuất bản Shinchosha, 1954, cho The Sound of Waves. ∙ Giải Kishida của Nhà xuát bản Shinchosha cho các tác phẩm kịch, 1955. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho tiểu thuyết xuất sắc nhất, 1957, The Temple of the Golden Pavilion. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho vở kịch xuất sắc nhất, 1961, Toka no Kiku. LỜI NGƯỜI DỊCH Từ thế kỷ 15, nước Nhật có một loại nghệ thuật sân khấu giống tương tự như hát bội ở Việt Nam. Những đề tài được bộ môn này đưa lên diễn tả trên sân khấu phần nhiều bắt nguồn từ những chuyện cổ tích Nhật. Nghệ thuật sân khấu này tiếng Nhật gọi là Noh. Sau đây là quang cảnh của một sân khấu hát Noh. Những nhân vật chánh đeo mặt nạ, mặc quần áo đặc biệt tượng trưng cho những vai liên hệ tới đề tài diễn tả. Một ban hợp ca đề xướng lên những bài hát được dùng làm âm thanh phụ hoạ cho những lời nói của nhân vật chánh. Ngoài ra còn có tiếng sáo và tiếng trống đệm. Sau đây là thí dụ về tuồng tích của một tuồng Noh. Chuyện cổ tích có kể rằng: ngày xưa có một chàng trai thuộc dòng dõi nho phong, thanh lịch. Anh ta yêu một thiếu nữ và nàng đặt điều kiện là anh ta phải tới hầu hạ tại nhà nàng trong chín mươi chín đêm liền, để rồi tới đêm thứ 100 thì nàng sẽ ban tình yêu cho. Anh ta đã kiên nhẫn tới nhà nàng liên tiếp trong 99 đêm liền để rồi sau đó lại ra về không. Tới đêm thứ 100, khi sắp sửa tới lúc được quyền yêu nàng, thì anh ta lại chỉ tới để tự tìm cái chết ngay trước mặt nàng. Tên người con trai đó là Fuka-kusa-no- Shosho và người con gái: Kayoi Komachi. Trên đây là đoạn chuyện cổ tích, và tuồng Noh chỉ bắt đầu diễn tả từ khúc nối tiếp vào câu chuyện đó như sau: Khi màn kéo lên, trên sân khấu khán giả thấy một bóng ma đàn bà mặc quần áo đỏ, có hoa sặc sỡ tượng trưng cho gia đình giàu có, đang thơ thẩn hái những hạt đậu. bóng ma đeo mặt nạ đó chính là hồn của Komachi hiện lên. Tiếng sáo và trống dạo đầu rồi ban hợp ca đồng xướng lên những câu hát: “Hỡi nàng con gái kia, nhặt những hạt đậu gì vậy?...” Sau đó xuất hiện một nhà sư đi qua, nhìn thấy biết nàng là hồn ma hiện về, nên đến hỏi han. Nàng liền thú thật mọi chuyện tiền oan, nghiệp chướng đã lỡ gây ra nên bây giờ mặc dầu chết rồi hồn vẫn còn lẩn quẩn với mối tình chốn dương gian. Nghe xong, nhà sư liền niệm Phật, tụng kinh và dùng triết lý khuyên giải để đưa hồn người đàn bà bất hạnh về Tây Trúc. Nhờ đó, hồn nàng mới siêu thoát được và không còn hiện về nữa. Mishima rất thích loại tuồng Noh này, tháng nào cũng đi coi một lần. Và từ đó ông rút ra một quan niệm triết lý về cái Đẹp của nghệ thuật như sau: “Đẹp là cái gì tàn bạo, dũng mãnh để đi tới chỗ tự huỷ hoại.” Theo Mishima, loại văn chương mô tả tâm lý quằn quại đau khổ của con người như văn của Shakespeare chỉ là những món ăn tinh thần của giới trưởng giả “bourgeois”. Loại văn chương đó không thể hiện được cái Đẹp tuyệt đối của sự vật. Cái Đẹp âm thầm, cuối cùng, vĩnh cửu chỉ có thể tìm thấy trong sự bạo động và nhất là trong sự chết. Chính cái Đẹp đó đã được thể hiện trong văn thơ của Thomas Mann với cuốn truyện “Death in Venice” (Bản dịch của Nguyễn Tử Lộc, Trẻ xuất bản) hay Edga Allan Poe trong tập thơ “Con Quạ.” Năm 1970, Mishima có viết một bài nguyên văn bằng Anh ngữ, đăng trong Đặc san “This is Japan” dưới nhan đề Japan Within (Bề trong Nhật Bản) để diễn tả triết lý về cái Đẹp của sự Chết như sau: “Nếu những sự bành trướng, kỹ nghệ và tân tiến hoá, với một đời sống xô bồ gần như điên dại của đám dân thành thị là “bộ mặt bề ngoài” của nước Nhật thì tôi tự cảm thấy cần phải cương quyết bảo vệ và tái lập nội dung “Nhật Bản bên trong”. Tuồng Noh chính là một tiêu chuẩn để tạo ra sự thanh tịnh của tâm hồn. Chính vẻ Đẹp của sự thanh tịnh đó đã lôi kéo tôi rời bỏ đời sống xô bồ hời hợt của nước Nhật bề ngoài hiện nay. Một cái xô bồ bề ngoài đã huỷ hoại những giá trị bên trong –và thúc đẩy tôi tạo ra một bộ mặt mới khác cho Nhật Bản. Và chính sự Chết đã nằm dưới cái Đẹp đó. Một ngày nào đó rất có thể, tôi sẽ đi theo sức lôi cuốn của vẻ đẹp này để tìm tới cái chết trong sự huỷ hoại, im lặng.” Bốn năm sau khi viết câu chuyện này, Mishima đã tự tử theo nghi lễ võ sĩ đạo. Ông sống tất cả 48 năm, kể từ lúc mở mắt chào đời tại Tokyo năm 1925. VÀI ĐIỀU GHI NHẬN VỀ CUỐN TIỂU THUYẾT “SAU BỮA TIỆC” Đây là một cuốn tiểu thuyết luận đề tương tự như loại tiểu thuyết luận đề Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Những luận đề được lồng vào Sau Bữa Tiệc là: Vấn đề đạo đức: Có ba khuôn mặt điển hình, tượng trưng cho 3 quan niệm đạo đức khác nhau: Noguchi. Tượng trưng cho quan niệm Đạo Đức Bổn phận theo kiểu Đạo Đức của Kant. Phải tuân theo những nguyên tắc tối thượng, bất di bất dịch của Đạo Đức. Đây là những nguyên tắc phổ quát chi phối mọi hoạt động của con người. Kazu. Đại diện cho quan niệm đạo đức cởi mở, đạo đức sáng tạo của Bergson. Quan niệm đạo đức này cho rằng phải tuỳ hoàn cảnh mà áp dụng những quy luật đạo đức một cách uyển chuyển, luôn sáng tạo ra những lề luật mới, những cách áp dụng mới. Nagayama. Đại diện cho khuynh hướng đạo đức cá nhân. Câu châm ngôn phát biểu cho quan niệm đạo đức này như ông ta đã nói với Kazu là “Tôi làm việc tôi làm.” Vấn đề Chánh trị. Ông đưa ra hai loại chánh khách: loại chánh khách lý tưởng (Noguchi) và loại chánh khách theo chủ nghĩa Hiện thực – Realism (Yamazaki). Mishima chứng minh sự thất bại của các chánh khách lý tưởng và ca tụng cái đẹp của những chánh khách theo thuyết Hiện thực với nỗ lực tạo ra những “phép lạ chánh trị” và chấp nhận đường lối ma giáo của đối thủ. Đã lao mình vào chánh trường thì phải chấp nhận sự phản bội, tàn bạo của đối phương. Chấp nhận không phải để đi theo, nhưng để nỗ lực bằng đường lối chân chánh ngõ hầu lật ngược thế cờ. Điều đó gọi là những phép lạ chánh trị. Những người chủ trương đường lối đó được gọi là theo Hiện thực chủ nghĩa. Chúng ta thấy Hiện thực có nhiều điểm giống với chủ thuyết Machiavelli nhưng hoàn toàn khác hẳn về căn bản. Vấn đề Gia đình. Tác giả Sau bữa tiệc chủ trương con người cần có một gia đình. Nhưng nếu vợ chồng lấy nhau mà không hợp tánh tình, quan điểm thì nên ly dị. Theo ông nếu không tìm thấy hạnh phúc khi sống chung với nhau thì “chim nào nên trở về tổ nấy”. Như thế là hay hơn cả. Tiếc rằng trong cuốn tiểu thuyết này, vợ chồng Noguchi không có con, nên vấn đề ly dị dễ dàng. Nhưng nếu trong trường hợp có con, không biết tác giả sẽ giải quyết thế nào cho êm đẹp cả. Trong khi đang dịch cuốn truyện này, một người bạn có bảo tôi: “Tiểu thuyết đã hết thời. Bây giờ người ta có phương tiện đi du lịch rộng rãi, nên không cần đọc truyện. Cuộc sống thực tế có phần còn sôi động, gay cấn hơn tiểu thuyết.” Khi đọc xong cuốn truyện của Mishima, chúng tôi thấy tiểu thuyết vẫn là thế giới riêng biệt khác hẳn cuộc sống thực tế. Cuộc sống hàng ngày ví như địa hình, địa vật bên ngoài, và tiểu thuyết là tấm hoạ đồ của địa hình, địa vật đó. Nhiều khi nhờ có bản đồ mà ta tìm ra lối đi bên ngoài. Tiểu thuyết vẫn là một phương tiện suy tư và giáo dục, là một công trình căn bản của truyền thông trong lúc hai phạm vi âm thanh và hình ảnh chỉ là những phương tiện phụ thuộc rút ra từ tiểu thuyết. Không tin, các bạn cứthửđọc cuốn truyện này xem. Saigon, ngày 25 tháng 4 năm 1974 Dịch giả Mời các bạn đón đọc Sau Bữa Tiệc của tác giả Yukio Mishima & Tuyết Sinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Thiên Thần Armani - Jasmine Oliver
Năm học đầu tiên của bộ ba xinh đẹp tại trương thời Trang sắp kết thúc. Marina - cô tiểu thư duyên dáng của một gia đình nền nếp đã chọn cho mình ngành thiết kế giày. Sinead - cô con gái của một bà mẹ nổi tiếng trong làng thời trang cũng quyết định theo ngành thiết kế quần áo. Còn Frankie - cô em bốc đồng của bộ ba lại đi theo chuyên ngành nữ trang. Nhưng họ đang phải đối diện với nhiều chuyện phiền phức, áp lực học hành, bố mẹ ngoại tình, bạn trai lừa gạt, người yêu hiểu lầm... Họ chỉ mới 18 tuổi. Họ sẽ phải làm gì để vượt qua những rắc rối "người lớn" ấy? *** Sinead – cô gái có mái tóc vàng cắt ngắn, sở hữu một thân hình tuyệt mỹ và một vẻ đẹp quyến rũ. Marina – cô gái bốc lửa, gọi cảm, được mệnh danh là Marilyn Monroe của trường đại học Thời trang Trung tâm. Frankie – cô gái có cặp chân dài với tư chất của môt người mẫu sáng giá ẩn sau một tính cách trong sáng và nhút nhát. … Cả ba đều là sinh viên năm nhất của trường Thời trang Trung tâm và cùng sống trong một ngôi nhà tại quảng trường Walgrave. Frankie, Marina và Sinead vừa kết thúc học kỳ đầu tiên tại trường đại học Thời trang. Phía trước họ là một mùa Giáng sinh đầy hứa hẹn… *** Bộ sách ​Câu Chuyện Thời Trang gồm có: Câu Chuyện Thời Trang Tập 1: Những cô nàng Gucci Câu Chuyện Thời Trang Tập 2: Những thiên thần Armani Câu Chuyện Thời Trang Tập 3: Những công chúa Prada *** “Frankie McLerran, kính bảo hộ của em đâu?” “Ối!” Frankie giật nảy người và làm rơi một giọt bạc vào cái đĩa thủy tinh đựng mấy hạt đá quý nhỏ li ti. “Phải luôn đeo kính bảo hộ trong xưởng chứ,” cô Claudia Brown quát lên với cái giọng “thượng sĩ” đáng sợ. Frankie vội cạo giọt bạc bị dính vào đĩa rồi bỏ vào cái nồi nấu kim loại nhỏ xíu, đánh lửa, đeo cặp kính vào và lại bắt đầu lần nữa. “Mẫu in hình con báo lỗi thời từ năm ngoái rồi,” thầy Tristian Fox phẩy nhẹ tay khi nói với Marina. “Nghĩ đến mấy đôi xăng-đan quai da đi, hay là kết hợp giữa vải bố với da rắn cũng được. Thử thứ gì đó mạo hiểm đi chứ.” Marina đang nghiên cứu mẫu thiết kế giày của mình - mẫu xăng-đan có in hình con báo với gót giày màu bạc cao cỡ bảy phân và đế khá nhẹ. Đã trở thành nguyên tắc bất di bất dịch, thầy Tristan không bao giờ khen bất kỳ một người nào. “Mẫu in hình con báo lỗi thời từ năm ngoái rồi!” Marina nhại lại bằng giọng the thé sau lưng ông thầy. “Tôi nghe thấy rồi đấy nhé!” thầy Tristan cảnh cáo, chân vẫn bước đi mà không thèm quay đầu lại. “Ối trời!” dù sao thì Marina cũng thừa nhận rằng thầy Tristan luôn biết rõ mình đang nói gì. Xét cho cùng, thầy ấy đang thiết kế cho hãng Charles Jourdan. Thầy ấy là Thầy Giày Nước Anh [1] cơ mà! Marina dẹp mấy cái đế giày in hình con báo của mình đi, và thay vào đó là một ý tưởng mới với da thuộc. Những tên cướp biển! Sinead nghĩ. Đó sẽ là chủ đề của mình ! Không phải những tên cướp biển trong truyện Peter Pan , mà là những tên cướp biển mặc những chiếc sơ mi được may bằng chất vải nhẹ nhất, trong suốt, thắt lưng da rộng bản trễ xuống thật gợi cảm, quần lửng trắng và bốt da nâu vàng. Sơ mi sẽ cột trễ xuống đằng trước để lộ ra thật nhiều da thịt, và có lẽ sẽ bỏ luôn cả quần đi, thay vào đó chỉ là những cặp chân dài rám nắng trong đôi bốt cao đến nửa bắp chân... À, và phải có cả những chiếc mũ ba sừng rộng vành màu trắng nữa chứ. Sinead đang thực hiện mẫu thiết kế mùa hè của mình trong phòng cắt may trên tầng cao nhất, xung quanh là những mớ vải sọc, vải zíc-zắc, hạt cườm, nút áo với huy hiệu. Chẳng có ma nào, chỉ có mỗi một bản nhạc đang phát ra từ cái máy CD cũ mèm, cho tới khi Marina đột ngột nhảy vào thiên đường của cô, “Sinead, ngó ra ngoài cửa sổ đi. Tuyết đang rơi kìa!” “Tuyết đang rơi!” Sinead và Marina vội ào xuống tầng hầm của trường để kéo Frankie ra khỏi xưởng nữ trang. “Chờ đã... đang lúc dầu sôi lửa bỏng thế này... không bỏ dở được đâu!” “Nhưng mà tuyết đang rơi!” Marina cố nài nỉ. “Tuyết hẳn hoi ấy. Bông tuyết to... to thế này này !” Xung quanh, các máy chế tạo nữ trang đang kêu o o , giũa, mài, đập... Frankie gỡ kính bảo hộ ra và nhìn lên, “Cô Claudia đâu rồi?” “Đang nghỉ giải lao. Tụi tao mới thấy cô ấy tới quầy cà phê dành cho giáo viên,” Sinead nói. “Đi nào , Frankie, trước khi tuyết ngừng rơi.” “Này, hai chị có thấy là hai chị đang làm em mất tập trung không hả?” Frankie thở dài bực bội. “Xin lỗi. Nhưng mà bọn tao có thấy tấm bảng đề ‘Thiên tài đang làm việc’ nào đâu,” Marina kéo sợi dây thun trên cái kính bảo hộ của Frankie, rồi buông nó bật trở lại. “Oái!” Frankie kêu lên. “OK, ok, hai người thắng rồi!” “Nhìn kìa,” Sinead ấp hai bàn tay lạnh cóng quanh tách cà phê rót từ cái máy đặt ngay sảnh lớn. Ai nấy bước vào đều được phủ một lớp tuyết trắng, rũ rũ cho bông tuyết rơi khỏi tóc, phủi phủi lớp áo khoác ngoài và giậm giậm chân. “Tuyết kiểu này thì ngoài kia cũng phải dày đến hơn năm phân chứ chẳng chơi.” ... Mời các bạn đón đọc Những Thiên Thần Armani của tác giả Jasmine Oliver.
Ngôi Nhà Vui Vẻ - Gong Ji Young
Ngôi nhà vui vẻ là cuốn tiểu thuyết được lấy cảm hứng từ cuộc sống của chính tác giả Gong Ji-Young qua góc nhìn của nhân vật chính - cô bé Wi Nyeong mười tám tuổi. Trước khi học lên lớp 12, cô đã chuyển về sống cùng mẹ đẻ sau nhiều năm sống cùng cha và mẹ kế. Bằng giọng văn chân thực, mạnh mẽ và sáng tạo của Gong Ji Young, câu chuyện sẽ góp phần an ủi, sẻ chia và làm ấm trái tim những người cô đơn. Qua nỗi tổn thương mà Wi Nyeong đã phải chịu đựng vì gia đình, nỗi đau tột cùng khi bị cự tuyệt tình yêu thương cũng như hành trình tìm lại bản thân mình, tìm lại tình yêu đã mất từ hai tiếng “gia đình”, người đọc có thể nhìn lại giá trị của gia đình và tình yêu nơi mỗi con người một lần nữa. Từ cổ chí kim, gia đình luôn đóng vai trò là nền tảng của xã hội, nhưng trong cuộc sống hiện đại bộn bề, gia đình và các mối quan hệ huyết thống đang dần lung lay theo nhiều cách khác nhau. Gia đình vốn là biểu tượng của hòa hợp, của chung tay góp sức đắp xây, của tấm lòng hi sinh vì nhau giữa các thành viên dưới một mái nhà chứ không phải mối khác biệt giữa cá nhân với mọi người. Vậy mà giờ, chúng ta đang đối mặt với một thực tế: Quan niệm gia đình biến đổi khiến những người thân thuộc “dù có ở cạnh nhau nhưng vẫn xa cách, tách biệt nhau” (trích Ngôi nhà vui vẻ ). Đặc biệt, từ nhiều nguyên nhân mà gia đình cũng dần trở nên khác trước, việc ly hôn khiến gia đình không còn nguyên vẹn như xưa, thiếu vắng ba hoặc mẹ, cuộc sống của các bà mẹ đơn thân trở nên phổ biến hơn... Bởi vậy, tác phẩm mà bạn đọc đang cầm trên tay chính là một làn gió mới nếu được đặt cạnh ý niệm cũng như ý nghĩa về gia đình truyền thống. Giờ đây, chúng ta cần có cái nhìn bao dung hơn về “gia đình” và “tình yêu”. Có thể nói, Ngôi nhà vui vẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn Gong Ji Young. Ngay sau khi phát hành, cuốn tiểu thuyết này đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của độc giả Hàn Quốc bởi những nhận thức, quan điểm mới mẻ, phù hợp với xã hội hiện đại mà ta đang sống. Xuất phát từ những nét tương đồng về văn hóa cũng như xã hội, hẳn độc giả Việt Nam sẽ tìm thấy niềm đồng cảm, và đâu đó trong cuốn sách, ta sẽ thấy bóng dáng ai đó xung quanh mình. Như chia sẻ của tác giả: “Mỗi người trong chúng ta đều có hoàn cảnh gia đình khác nhau nên tôi mong cuốn sách sẽ mang lại chút hi vọng nào đó cho tất cả những người cảm thấy khó khăn”. Chúng tôi hi vọng bạn đọc sẽ nhận tìm được ý nghĩa vốn có của tình cảm gia đình, biết trân trọng và nâng niu nhau hơn. Bên cạnh đó, trong bối cảnh “hợp tác chiến lược Việt - Hàn” trên nhiều lĩnh vực, cuốn tiểu thuyết có thể là nguồn tư liệu cho những người nghiên cứu cũng như những ai quan tâm đến xứ sở kim chi. Trần Hải Dương (Giảng viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc Trường ĐHNN - ĐHQGHN) *** Khi đó tôi chín tuổi. Xúng xính trong chiếc váy thêu màu xanh da trời tiến vào lễ đường để biểu diễn dương cầm thay lời chúc phúc tôi muốn gửi tới ba tôi. Tôi vốn là một đứa bé ghét đến lớp học dương cầm nên dù được học, tôi vẫn chẳng có chút tiến bộ nào, nhưng với khúc nhạc này tôi đã thực sự luyện tập rất chăm chỉ. Bởi vì hôm nay có cả ba mẹ tôi tham gia, hơn nữa việc được đảm nhận vai trò quan trọng tại hôn lễ như thế này tựa như có một điều gì đó đang thực sự diễn ra và có phần thú vị hơn việc đóng vai ba hay mẹ trong trò chơi với búp bê, trò chơi buôn hàng của lũ trẻ thường ngày. Khi tôi nói với cô giáo dạy dương cầm của tôi rằng: “Đây là bản nhạc con sẽ chơi trong ngày cưới của ba con” dường như cô ngạc nhiên đến mức không thể khép miệng lại, cô chỉ có thể lắp bắp vài lời hỏi lại: “Ba dượng con ư?” “Không ạ. Là ba con. Lần này là ba con sẽ kết hôn”. Một thoáng cô giáo nhìn tôi, tôi đang đứng trước những đứa trẻ khác mà như thế này thì không được, một người nếu đã quyết tâm thì phải luôn khí thế, tôi giả bộ nở một nụ cười rạng rỡ sau khi đã tạo dáng như đang nghĩ ngợi điều gì đó, tôi dõng dạc: “Vậy đi, chúng mình hãy cùng nhau luyện tập chăm chỉ một lần. Dù vậy đừng quá say mê tập luyện đấy”. Khi tôi nói thế, những đứa trẻ nhìn tôi giả bộ cười, điều ấy cũng chẳng còn xa lạ. Vốn dĩ chúng luôn nhìn tôi với ánh mắt đầy tò mò và thương hại như nhìn một đứa mồ côi tội nghiệp. Nhờ chút thương hại đó, tôi nghiễm nhiên được miễn bị phạt, đương nhiên chỉ là những hình phạt đơn thuần, nhưng điều đó chẳng bao giờ trở thành mảng ký ức tươi sáng trong tuổi thơ tôi. Hay nói một cách nặng nề hơn, đúng hơn là một ký ức buồn. Dẫu sao thì tôi nhất định sẽ biểu diễn bản nhạc Ngôi nhà vui vẻ của tôi trong hôn lễ của ba tôi. Dù có đến bất cứ đâu nơi tràn ngập tiếng cười và hạnh phúc Nơi bình yên nhất chỉ có thể là ngôi nhà yêu dấu của tôi Thiên đường của tôi, niềm vui của tôi, điểm dừng chân của tôi Chỉ có thể là ngôi nhà của tôi - nơi hoa thơm đua nở với tiếng chim hót véo von. ... Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Vui Vẻ của tác giả Gong Ji Young.
Gia Đình - Pa Chin
Pa Chin là một đại văn hào của Trung Hoa. Ông sinh năm 1905 tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, một tỉnh hẻo lánh hiểm trở tại miền tây Trung Hoa, nơi còn giữ nhiều cổ tục trong một gia đình đại địa chủ, tôn trọng truyền thống “tứ đại đồng đường”: ông bà, cha mẹ chú bác cô dì và con cháu ở chung với nhau, tuân theo kỷ luật nghiêm khắc của đại gia trưởng. Tên thực của ông là Lý Nghiêu Đường, tự là Phế Cam. Cái bút hiệu Pa Chin của ông không có nghĩa gì, mà chỉ là do ghép vần đầu và vần cuối của hai tên nhà văn người Nga mà ông ngưỡng mộ. Đó là Bakunin và Kropotkin. Trong cuộc Cách mạng Văn hóa kinh thiên động địa của Mao Trạch Đông nhằm loại trừ các đối thủ chính trị, ông bị buộc tội đã viết “mười bốn tác phẩm độc hại,” trong đó có cuốn tiểu thuyết Gia Đình. Không những ông bị đấu tố dã man và lao động nhục nhằn vì tác phẩm của ông, mà vợ con ông cũng bị hành hạ tàn nhẫn, chỉ vì tội là vợ và con của ông. Đầu thế kỷ hai mươi là một thời kỳ đại loạn tại Trung Hoa, với một nếp sống hàng ngàn năm đang bị nhổ rễ bởi một cuộc cách mạng cực đoan. Gia Đình là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng thời ấy, đã linh động phản ảnh cái giai đoạn đen tối ấy, và có công dụng làm căn bản để hiểu những gì xảy ra sau đó. Pa Chin viết cuốn Gia Đình năm 1931 như là phần đầu của bộ trường thiên tiểu thuyết thành công nhất của ông: Kích Lưu Tam Bộ Khúc. Bộ này gồm có ba cuốn: Gia (Gia Đình), Xuân (Mùa Xuân),  Thu (Mùa Thu). Nhiều người so sánh cuốn Gia Đình của Pa Chin với tác phẩm Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, vì cách mô tả tuyệt đích về đời sống gia đình và xã hội đương thời. Người ta cũng có thể coi tác phẩm Gia Đình là một cuốn tự truyện của Pa Chin. Nhân vật Giác Tuệ chính là Pa Chin, vì cả hai đều có nhiều điểm giống nhau: sinh trưởng trong một gia đình đại địa chủ, năm mười tuổi mồ côi mẹ, rồi vài năm sau mồ côi cha, sau đó lại mất người chị ruột và một người bạn gái rất thân thiết từ thời niên thiếu. Gia Đình là câu chuyện trong cái dinh cơ giầu có của nhà họ Cao, trong đó nhiều thế hệ sống chung với nhau cùng với rất nhiều gia nhân nô tỳ. Đó là một hình ảnh tương phản giữa nước Trung Hoa cổ và những đợt sóng mới trào dâng lên để hủy diệt cái xã hội cổ ấy, được biểu thị trong đời sống hàng ngày của nhà họ Cao, và đặc biệt là ba anh em nhà họ Cao còn trẻ là Cao Giác Tân, Cao Giác Dân và Cao Giác Tuệ. Tất cả là những xung đột: xung đột giữa các thế hệ và giai cấp, những mối tình tan vỡ đau thương vì bị gia đình ngăn cấm, hành động của các học sinh sinh viên chống lại chính quyền áp bức, và cuộc chiến đấu giải phóng phụ nữ. Cuốn Gia Đình có thể tạo ra cho độc giả những xúc cảm mạnh mẽ phức tạp và sầu buồn trước những kinh nghiệm tuyệt thảm nhân sầu của con người. *** Gió thổi mạnh; những bông tuyết trôi như bông gòn từ một chiếc mền bị xé rách, vật vờ rơi xuống. Từng lớp tuyết trắng chất đống tại chân tường hai bên đường, tạo ra một lề đường rộng cho lòng đường lầy lội tối tăm. Khách bộ hành và phu khiêng kiệu phấn đấu với gió và tuyết mà không có kết quả gì. Tất cả đều mệt mỏi trong khi tuyết đổ xuống mỗi lúc một nặng hơn. Tuyết tràn ngập bầu trời, tuôn xuống khắp nơi – trên dù, trên kiệu, trên áo choàng của phu khiêng kiệu, và trên mặt khách bộ hành. Gió thổi vùi dập những cây dù về mọi phía; một vài cái tuột khỏi tay người. Tiếng gió hú thê thảm, nhập với tiếng bước chân trên tuyết để làm thành một thứ âm thanh kỳ lạ khó chịu. Trận bão tuyết này sẽ ngự trị thế giới một thời gian thật lâu dài; dường như nó cảnh cáo mọi người ngoài đường rằng mặt trời ấm áp của mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại nữa. Lúc đó gần tối rồi, nhưng đèn đường chưa thắp. Mọi vật dần dần biến mất vào một màn đêm màu xám. Nước và bùn ngập đường phố trong không khí lạnh giá buốt. Chỉ một ý nghĩ khuyến khích những người đi bộ đang phấn đấu giữa cái quang cảnh u ám này – rằng họ sắp được trở về với sự ấm áp và sáng sủa trong nhà. Một thanh niên 18 tuổi giục em, “Bước mau lên, Giác Tuệ, nếu không chúng ta sẽ về trễ bữa ăn tối.” Chàng một tay cầm dù, tay kia kéo cao mép chiếc áo bông. Bộ mặt tròn của chàng đỏ ửng vì lạnh trong khi chàng quay lại nói với người em; đôi kính gọng vàng nằm trên đầu mũi chàng. Giác Tuệ, người thanh niên bước phía sau, tuy cùng một khổ người và mặc cùng một thứ y phục, có vẻ trẻ hơn. Mặt chàng gầy hơn, hai mắt rất tinh anh. “Ðừng lo, chúng ta về gần tới nhà rồi. Anh ơi, trong buổi tập diễn hôm nay anh đóng xuất sắc nhất, tiếng Anh của anh tuôn ra tự nhiên trôi chảy. Anh đóng vai người bác sĩ thật là đúng; lời đối thoại và diễn xuất của anh rất hay.” Giác Tuệ nói một cách hứng khởi trong lúc chân bước mau hơn. Bùn bắn lên, hai ống quần của chàng đã lấm tấm vương bùn rồi. Người anh, Cao Giác Dân hơi chậm bước để chờ người em bắt kịp và nói một cách hãnh diện hài lòng: “Có gì đâu, chỉ vì tại anh bạo dạn hơn em thôi. Em quá nhút nhát, và vai Hắc Cẩu của em không đúng lắm. Hôm qua em đã học thuộc lòng vai ấy rồi mà? Tại sao em không nói được trong lúc tập diễn? Nếu không có giáo sư Chu nhắc thì em không thể đóng hết được màn đó.” Tuy người anh nói hết sức dịu dàng, không ngầm một ý chê trách, nhưng Giác Tuệ cũng mắc cở, máu dồn lên má trong lúc chàng nói một cách bối rối, như thể để tự hồi phục. “Em không biết tại sao, mỗi khi em lên sân khấu là em lại hoảng sợ; em cảm thấy như đứng trước rất đông người đang chăm chú nhìn em. Em cố gắng hết sức, em muốn nói lời đối thoại trơn chu…” ... Mời các bạn đón đọc Gia Đình của tác giả Pa Chin.
Dưới Cánh Thiên Thần Rượu - Jerzy Pilch
LỜI NGƯỜI DỊCH Jurus, nhân vật chính của tiểu thuyết, cũng là nhân vật dẫn chuyện, là một nhà văn, một con nghiện - nghiện rượu. Nhà văn “sâu rượu” này tổng cộng đã có tới mười tám lần đến cai nghiện tại Trung tâm cai nghiện rượu. Cứ sau mỗi lần ra viện Jurus lại tái nghiện, lại say xỉn, lại bất tỉnh, và khi tỉnh dậy lại thấy mình đang ở Trung tâm cai nghiện rượu. Đến nỗi bác sĩ Granada, Giám đốc Trung tâm, không muốn nhận Jurus nữa, vì ông bất lực, cho rằng anh ta không chịu cai rượu, không thể cai rượu, lại còn bướng bĩnh, cãi lấy được - thưa bác sĩ, làm gì có chuyện sống lâu và hạnh phúc mà lại không uống rượu nào? Trung tâm cai nghiện rượu là nơi thu dung những bợm rượu, những sâu rượu “chiến tích đầy mình”, nam có, nữ có. Họ là nhà văn, giáo sư, giáo viên, doanh nhân, cử nhân, sinh viên, lái xe, thợ cắt tóc... được gán cho những biệt danh dài lê thê nghe rất kêu: Nhà Thám Hiểm Colombo, Vua Đường, Cá Nhân Lao Động Tiên Tiến, Tên Khủng Bố Hiếm Có Trên Trần Đời, Nữ Hoàng Xứ Kent... Mỗi lần bác sĩ Granada hỏi, vì sao họ lại uống rượu, thì họ đưa ra cả ngàn lý do để biện minh, khiến bác sĩ bực mình, quát lớn: Các người uống rượu, vì các người uống rượu. Rồi ông chì chiết: Không một ai trong các vị sẽ lành bệnh, không một ai trong các vị sẽ cai được rượu. Đa phần các tình tiết của tiểu thuyết diễn ra tại Trung tâm cai nghiện rượu, nơi, ngoài việc sử dụng dược phẩm, người ta còn sử dụng các liệu pháp trị bệnh, trong đó trị liệu tâm lý có vai trò cực kỳ quan trọng. Tại đây các học viên - bệnh nhân cai nghiện, hàng ngày có nhiệm vụ phải viết nhật ký cảm xúc, thực chất là những lời tự thú, tự phê về nghiện rượu, rồi đem đọc cho nhau nghe; phải lên lớp nghe giảng bài về tác hại của rượu, phải trả lời các bài trắc nghiệm, phải đối thoại trị liệu với các nữ nhân viên trị liệu, phải tham gia các cuộc họp kiểm điểm công việc thường nhật, mỗi ngày, trước khi đi ngủ phải đo nồng độ cồn bằng cách thổi vào máy thử; tuyệt nhiên không được cất giấu, sử dụng bất kỳ thứ gì có liên quan đến rượu, cồn, dù đó là nước hoa, nước khử mùi. Nghiêm ngặt đến mức các nữ nhân viên trị liệu phải thường xuyên kiểm tra tủ cá nhân của bệnh nhân-học viên cai nghiện, để tìm xem, có cồn giấu trong tuýp thuốc đánh răng, rượu trắng giấu trong vỏ chai shampoo, thuốc ngủ giấu dưới chăn, gối hay không. Cuộc “hành xác” hướng tới mục tiêu cai nghiện rượu tại trung tâm này diễn ra vô cùng cam go, cực kỳ khốc liệt, nhưng kết quả thường chẳng mấy lạc quan, vì “ngựa theo đường cũ”. Tại đây có lắm chuyện bi hài, cười ra nước mắt, chẳng hạn chuyện “đạo văn”, chuyện “người già cũng khóc” như trẻ con, chuyện trốn viện... Tuy nhiên, tất cả các bệnh nhân cai nghiện ở trung tâm, ai cũng có nét đáng yêu, đáng quý. Lại nói về nhà văn - con nghiện Jurus, nhân vật chính của tiểu thuyết. Là một nhà văn, có tài viết lách, anh được “các bạn chiến đấu” tại trung tâm quý mến, tin yêu và nhờ vả. Tại vì anh văn hay chữ tốt cho nên họ nhờ anh “viết hộ” các bài văn tự thú về nghiện rượu, để nộp, để đọc, theo yêu cầu của trung tâm. Jurus viết theo lời họ kể, hoặc phịa ra, nhưng phải là thứ văn thật bình dân, thêm mắm thêm muối cho nó thành bài văn tự thú “thứ thiệt” của học viên. “Thù lao” thường bằng hiện vật, như chuối, cam, sôcôla, thuốc lá, nước dứa hộp, đồ ăn, vài đồng zlôty lẻ hoặc các thứ vặt vãnh khác. Dẫu sao Jurus cũng có đất “dụng võ”, tha hồ “trổ tài văn chương”, tuy “nhuận bút” chẳng bõ bèn gì. Ấy vậy mà cũng nảy sinh ối chuyện rắc rối, chẳng hạn chuyện “đạo văn” gây thù oán lẫn nhau mà Jurus cảm thấy mình cũng mắc tội. Nhưng cũng có lần anh thoát hiểm. Chẳng hạn, anh bị bác sĩ trị liệu Quasi Mojzesz alias Ja Alkohol bắt quả tang đang viết hộ “nhật ký cảm xúc” cho con nghiện - lái xe, được mệnh danh là Tên Khủng Bố Hiếm Có Trên Trần Đời, vậy mà anh vẫn bình an vô sự!? Gia đình nhà văn Jurus là gia đình uống rượu truyền đời. Ông nội Stary Kubica, một điền chủ, khuynh gia bại sản vì nghiện rượu, phải bán con ngựa cái Fuchs yêu quý, thứ của nả có giá cuối cùng còn lại trong nhà. Jurus tâm sự với nàng Alberta Lulai: Anh uống rượu vì anh theo di truyền. Các cụ tổ nhà anh, tất cả đều uống rượu. Ông nội, ông ngoại anh uống rượu, bố anh uống rượu và mẹ anh cũng uống rượu. Anh không có chị, cũng chẳng có anh, nhưng anh dám chắc: nếu trên đời này có các chị của anh và các anh của anh thì có lẽ tất cả các chị của anh đều uống rượu, tất cả các anh của anh cũng đều uống rượu . Jurus là con nghiện, nghiện nặng, rượu đã ngấm vào máu thịt, cho nên đối với nhà văn này, cai rượu hầu như là chuyện viễn vông, vô vọng. Mười tám lần cai rượu bất thành tại trung tâm đã chứng tỏ điều này. Thường thì, sau khoảng sáu tuần điều trị Jurus lại ra viện, và rồi anh lại hành động như mọi khi, lại đến quán rượu “Dưới cánh Thiên thần Rượu” , lại đi thang máy lên nhà mình trên tầng mười hai, lại ngạc nhiên, ngỡ ngàng, đứng lặng người một hồi lâu ở ngưỡng cửa, khi thấy nhà cửa bẩn thỉu, bề bộn, đồ đạc bừa bãi, lộn xộn, cứ ngỡ rằng có kẻ đã đến ở và phá phách nhà mình khi anh vắng nhà. Jurus không hề nghĩ ra, tất cả mọi thứ “lộn tùng phèo” đó chính là hậu quả của say xỉn, của hôn mê, là do chính anh gây nên, trước khi anh lại được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Trung tâm cai nghiện rượu. Đã có lúc anh bi quan tính rằng, với lượng rượu khổng lồ mà anh đã đổ vào trong bụng mình trong vòng hai chục năm qua, thì chỉ còn thiếu năm chai rượu nữa thôi là đủ lượng độc tố để thần chết lôi anh về nơi chín suối, thậm chí không cần đến năm mà chỉ cần ba chai. Nhưng mối tình, được gọi là tình yêu cuối cùng trước khi nhắm mắt xuôi tay của anh, với nữ “nhà thơ” Alberta Lulai, người đàn bà mặc váy màu vàng, sau này là áo màu đen, đã cứu nhà văn thoát khỏi vũng bùn nghiện ngập: Anh đi tìm tình yêu trước khi nhắm mắt xuôi tay, nhưng anh lại tìm được tình yêu ban cho anh sự sống... Em đến với anh vào thời khắc khi anh đặt dấu chấm hết lên đời mình... Đã có lúc anh muốn tự tử vì không bỏ rượu được...Khi anh nói, anh bỏ rượu vì em là anh nói thật lòng. Khi anh nói anh bỏ rượu vì chúng ta, là anh nói thật lòng. Vì không có em thì chẳng có anh, không có chúng ta thì chẳng có anh. Từ “anh” của anh không còn là số ít nữa rồi . Có lẽ tác giả của Dưới cánh Thiên thần Rượu muốn cho thấy sức mạnh của tình yêu, cái có thể biến điều không thể thành có thể. Sẽ không ngoa chút nào nếu nói, Alberta Lulai là bậc cứu tinh của Jurus. Nhờ có nàng mà Jurus đã tỉnh mộng, chọn đúng đường và làm được điều thoạt tiên tưởng chừng không tưởng: Nhưng cháu đang chọn sự sống, lúc này một tình yêu mãnh liệt như tiếng hát của ông đang cặp kè cùng cháu, tình yêu này đang cứu vớt cháu. Rốt cuộc anh có hầu như tất cả, cai được rượu, có tình yêu, có tác phẩm văn học và lại lạc quan, lại yêu đời. Anh khoe tiếp với ông nội quá cố của mình : Chứng nghiện rượu của chúng ta, thủ phạm đã giết ông, đang tách rời khỏi cháu, như da rắn đang tách rời khỏi thân rắn lột. Ông nội ơi, cháu thắng lợi rồi, cháu chia sẻ cùng ông thắng lợi này của cháu, cháu đang viết về ông, cháu đang viết về cháu, chẳng những để chứng tỏ rằng thiên tiểu thuyết thứ thiệt về cai nghiện rượu này không kết thúc bằng cái chết, trái lại, nó đang kết thúc bằng sự sống.... Sự xuất hiện đầy bí ẩn, y như trong thần thoại, của nhân vật Jozef Cieslar, người tự nhận là bạn đồng môn Trường Chúa Nhật của Jurus thời thơ ấu, khiến người đọc không khỏi tò mò về thực tâm và thực chất của nhân vật này. Đây là một thiên tiểu thuyết viết khá chân thật và rất thực tế, bất kể ngoa ngôn, bốc đồng và những lời mê sảng của nhân vật. Pilch đã miêu tả một cách trung thành trên giấy những suy tư, trăn trở, những dằn vặt, đau khổ của người nghiện rượu và thế giới bé nhỏ của họ. Người ta nói, trong tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu, tác giả là nhân vật chính, nhân vật chính là tác giả. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn Jerzy Pilch nói rằng, ông chẳng xa lạ gì chuyện nghiện rượu. Phải chăng ông muốn viết tiểu thuyết thể loại tự sự (hay tự truyện), như là một liệu pháp cai nghiện cho bản thân mình? Trong văn học, sự thật mà không phải là sự thật, không phải là sự thật mà lại là sự thật, là chuyện thường tình. Khi bắt tay vào viết thiên tiểu thuyết này, Jerzy Pilch định xây dựng một “tác phẩm súng lục”, một “tác phẩm tối hậu thư”, cho nên ông mới tuyên bố: “tôi viết rồi tôi chết”. Ấy vậy mà thiên tiểu thuyết đã kết thúc rất có hậu, khiến người đọc lấy làm mừng, mừng cho nhân vật chính Jurus, mừng cho tác giả Jerzy Pilch. Kết thúc “có hậu” này cũng chính là nét riêng, là sự khác biệt giữa tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu và các cuốn tiểu thuyết khác viết về đề tài rượu, khi kết cục thường bi đát. Cho nên, tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu khiến người ta nghĩ tới một chức năng mới của văn học, chức năng chữa trị. Một câu hỏi được đặt ra: Phải chăng văn học là một liệu pháp? Hoặc: Phải chăng có Bộ môn tiểu thuyết trị liệu? Rượu là một thức uống hết sức gần gũi và quen thuộc với nhiều người, nhất là nam giới - Nam vô tửu như kỳ vô phong . Nói rượu là niềm vui: - đúng, bảo rượu là nỗi buồn: - không sai. Rượu là niềm vui hay nỗi buồn, điều này hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, nghiện rượu đang là vấn đề xã hội nhức nhối, bức xúc ngang với nạn nghiện ma túy, là nỗi khổ không riêng của một quốc gia nào [1] . Cho nên, bằng việc xây dựng hẳn một thiên tiểu thuyết về uống rượu, nghiện rượu và cai rượu, Pilch đã nhằm trúng vấn đề nóng bỏng đang là mối quan tâm của mỗi nhà, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia và của toàn nhân loại. Với lối viết khoáng đạt, lắm khi trào lộng (chẳng hạn, máy vi tính thua con người trong cuộc đấu rượu, đến nỗi nôn thốc nôn tháo toàn bộ ổ cứng của mình...), bằng thủ pháp đồng hiện, hư hư thực thực, quá khứ và hiện tại đan xen như mắc cửi, lúc tỉnh, lúc say, lúc mê sảng, mộng mị và ảo giác, với ngòi bút điêu luyện và sắc sảo của mình, Pilch đã kể cho chúng ta nghe câu chuyện giàu tính nhân văn về sự sống và cái chết mà chính nhà văn từng dấn thân vào. Ông đã đưa người đọc vào thế giới kinh dị của Thiên thần Rượu, nơi ma men tác oai tác quái. Giải thưởng Nike 2001 (trị giá trên 30 ngàn đô la), giải thưởng văn học hàng năm danh giá nhất Ba Lan mà nhà văn Jerzy Pilch được nhận, là phần thưởng cao quý, khẳng định giá trị của tác phẩm và tài năng của nhà văn. Chỉ trong một thời gian rất ngắn sau khi xuất bản, Dưới cánh Thiên thần Rượu đã bán được trên 100 ngàn bản, tối hôm trước công bố giải thưởng, thì ngay sáng hôm sau, 15 ngàn bản của tiểu thuyết đã bán hết veo. Đây là tác phẩm bán chạy nhất trong số tất cả những tác phẩm văn học được tặng Giải thưởng Văn học Nike từ trước đến nay. Trong những năm vừa qua Dưới cánh Thiên thần rượu tiếp tục được tái bản nhiều lần, được bạn đọc Ba Lan và nước ngoài mến mộ. Lần tái bản gần đây nhất là vào tháng 2 năm 2012, do Swiat Ksiazki ấn hành, với bìa sách mới thiết kế, có hình chiếc cốc uống rượu dốc ngược. Dưới cánh Thiên thần Rượu đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, như: Anh, Bungari, Estonia, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, Litva, Đức, Nga, Xlôvakia, Serbia... Năm 2003, Dưới cánh Thiên thần Rượu đã được Nhà hát mang tên Juliusz Slowacki ở thành phố Krakow đưa lên sân khấu, nghệ sĩ Rafal Sabara đạo diễn. Vở kịch độc đáo, giàu chất “men” và mới lạ này đã được dân chúng cố đô hồ hởi đón xem. Dịch tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu sang tiếng Việt, người dịch muốn mang đến cho bạn đọc nước nhà một thiên tiểu thuyết đương đại của Ba Lan về đề tài vốn rất gần gũi và quen thuộc đối với mỗi người chúng ta trong đời thường, nhưng lại chưa có mấy nhà văn bỏ công khai thác đến nơi đến chốn. Nếu người dịch không nhầm thì ngay tại Việt Nam ta “thơ say” thì có, nhưng “tiểu thuyết say” thì chưa. Mong rằng tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu của nhà văn Jerzy Pilch sẽ mang đến cho bạn đọc những gợi mở, những cảm xúc mới lạ, nhiều thú vị và bổ ích. Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2012 Nhà văn, dịch giả Lê Bá Thự Tặng Ewa-Ewenlina *** Trước khi trong nhà tôi xuất hiện toán mafia đi cùng nữ nhà thơ da bánh mật Alberta Lulai, trước khi bọn họ bứt tôi khỏi giấc mơ say và trước khi họ đòi tôi - thoạt tiên là những yêu cầu theo kiểu giả nhân giả nghĩa, sau đó là những lời đe dọa láo xược - đừng gây khó dễ cho việc in thơ của Alberta Lulai trên tờ “Tuần báo Phổ thông”, trước khi xảy ra những sự kiện bão bùng mà tôi định kể, thì đã có ngày hôm trước của những sự kiện đó, đã có buổi sáng sớm và buổi tối của ngày hôm trước, và từ sáng sớm cho đến tối ngày hôm trước đó tôi uống rượu đào. Đúng vậy, tôi uống rượu đào, khát khao cháy bỏng có được mối tình cuối cùng trước khi nhắm mắt xuôi tay, và tôi đã lún sâu vào cuộc sống suy đồi. Buổi sáng vẫn chưa có chuyện gì xảy ra, tôi vẫn kiềm chế được, thậm chí giữ được chừng mực. Tôi nằm trên sofa, đọc báo và nghe mấy đĩa nhạc của nghệ sĩ saxophone tenor người Séc, Felix Slovacek. Nhưng tới gần trưa, toàn bộ các nhạc phẩm mà Slovacek trình tấu chỉ có độc một bài lọt được vào tâm trí tôi, đó là nhạc phẩm của Karel Svoboda có tiêu đề Where’ ve you got your nest, litte bird? [1] Tôi nghe và tôi luận, trong nguyên văn tiếng Séc nó phải như thế nào “Kde je tvoje hnizdo, ptacatko?”, hay là “Kde je tvoje hnizdo, ptacku?”. Nhưng tôi không quyết định nổi, nên chọn từ nào: từ ptacku - yếu hơn, hay từ ptacatko - mạnh hơn, thì nghe hay hơn và thích hợp hơn, cũng vì cảm giác bất lực về ngôn từ (cho dù vẫn tiếp tục say mê) thỉnh thoảng tôi lại bật dậy khỏi ghế, đi ra chỗ chiếc máy hát và mở lại bản nhạc làm rung động lòng tôi. Đó là một ngày tháng bảy đẹp trời, từ tầng mười hai tôi nhìn thấy rõ những ngọn đồi bao quanh thành phố, tiếp nữa là đất bằng, đồng ruộng, cột điện, đường ray xe lửa, dòng sông sáng bạc trôi hiền hòa, những dãy núi phía chân trời, thành phố Wisla [2] tựa hòn đá trắng dưới đáy thung lũng rừng thông, quán “Piast” và khu vườn thơm mùi cỏ xén kề bên quán, ong mật, bướm, bay vù vù bên trên các vại bia. Con chó của bác sĩ Swobodziczka đang tớp suất bia của mình đựng trong chiếc nồi nhôm - ông qua đời cách đây một năm, nhưng con chó của ông quen ăn, hàng ngày vẫn lui tới quán, ở đây những con người vẫn đang sống trút bia hơi Zywiec [3] từ các cốc vại, đổ đầy nồi cho nó. Tôi đã nhìn thấy rõ mọi thứ đó, như tôi đã ở đó, cũng như tại đây, nơi tôi hiện diện, tôi nhìn thấy tất cả: cửa sổ các ngôi nhà mở toang, những chiếc ô tô kiểu cổ, thon, tròn, di chuyển trên đường phố, một người đàn bà mặc váy dây màu vàng đứng bên máy rút tiền tự động. Nhìn từ trên cao tôi có cảm giác đây là một người đàn bà thông minh và xinh đẹp. Tự dưng tôi đinh ninh trong bụng, nàng chính là tình yêu cuối cùng của đời tôi. Đó là một sự đinh ninh bao trùm tất cả, không chỉ phần say của tôi, mà cả phần tỉnh của tôi, và tuốt tuột tất các bộ phận không xác định, tất thảy các bộ phận bí ẩn về mặt tỉnh táo của tâm hồn tôi, đều có cảm giác đó. Tôi cần phải mặc quần áo ngay lập tức, xức nước hoa, không đợi thang máy, chạy bộ ngay xuống dưới nhà và đuổi theo nàng. Trong một giây lát tôi đã chần chừ vì lòng tự trọng, liệu có nên làm như vậy hay không. Thế nhưng chiếc máy rút tiền tự động, chiếc máy rút tiền tự động đã gạt phăng mối tình này của tôi. Tôi mà chạy xuống dưới nhà và đuổi theo nàng, thì chắc tôi sẽ hành động như tôi vẫn luôn luôn hành động: tôi sẽ rón rén bước theo sau nàng y như tên giết người trên phim truyền hình nhiều tập, tôi bước theo nàng, xảo quyệt và kiên tâm, tôi cứ đi như vậy cho tới khi nàng phát hiện ra tôi, nàng hốt hoảng khi nghĩ bụng, có kẻ đang bám riết nàng. Sau đó, trong chốc lát nàng nhìn tôi và để ý tôi, tiếp nữa với nỗi thất vọng của một tên vô lại đã bị bại lộ, tôi tiếp tục cuộc rượt đuổi cho đến khi sự lo lắng, nỗi sợ hãi và máu tò mò bắt đầu hòa trộn với nhau thành một thứ thuốc nổ... Lúc bấy giờ, để ngăn ngừa vụ nổ, tôi sẽ bước nhanh chân, đi ngang bằng với nàng, cúi chào nàng một cách lịch sự và cất giọng nhỏ nhẹ: ... Mời các bạn đón đọc Dưới Cánh Thiên Thần Rượu của tác giả Jerzy Pilch.