Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Mưa - Nevil Shute

Tác giả Nevil Shute đã mất năm 1960, nhưng dự báo của Ông về một nước Anh hùng cường trong Khối Thịnh Vượng Chung đã thấy rõ. Đấy cũng là nhờ sự đóng góp tích cực của Vương Triều qua hình ảnh sống động, đầy gan dạ, mưu trí và đầy lòng nhân đức của Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị và lòng trung thành của người dân Anh trong 50 năm qua, trước bao thử thách. Câu chuyện tình lãng mạn của một phi công người Úc lai một phần tư da đen với cô thư ký của Nữ Hoàng, tuy có hơi ước lệ trong khung cảnh của Hoàng Gia, nhưng đầy kịch tính của một xã hội nền nếp, gia phong của nước Anh, cộng với sự khoáng đạt, đầy nhiệt tình của một nước Úc đang trên đà phát triển. Chọn tác phẩm “Mùa Mưa” (In the wet) để dịch, Tôi muốn kêu gọi lòng thương yêu, đùm bọc trong Hoàng Gia Nguyễn Phước trước những thành quả lịch sử hết sức vĩ đại của Tiên Đế. Còn gì nữa mà chia năm xẻ bảy, còn gì nữa mà tranh phần, đoạt lợi, để con cháu nghìn đời mai mỉa !. Tôi lại muốn kêu gọi sự đoàn kết tôn giáo để nhân loại tránh đi bao nỗi thống khổ, chết chóc triền miên. Còn hình ảnh nào đẹp bằng một vị Cha Xứ của Thiên Chúa Giáo La Mã và một Mục Sư Tin Lành đều được người dân Úc trọng nễ như nhau như là những vị Thừa Sai của Chúa mang đến hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài ra trong một xã hội dân chủ pháp trị, thì quyền bầu cử của người dân là quan trọng hơn cả, nó định đoạt tương lai và vận mạng của một dân tộc. Vậy 7 quyền bấu cử Quốc Hội của nước Úc cũng đáng cho ta học hỏi, rút kinh nghiệm để làm cho đất nước phồn vinh. Và nếu chúng ta có được cái “Tâm Bồ Đề”, tâm Từ Vô Lượng, quả đất này sẽ không còn cảnh tranh bá đồ vương, tàn sát lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng một “thiên đàng hạ giới”, cõi Nát Bàn ngay trong tim mình. *** Trước đây tôi chưa bao giờ chịu khó ngồi viết những chuyện dài dòng như thế này, tuy cũng đã viết nhiều những bài giảng đạo hay những đề tài khác cho các tạp chí trong họ đạo. Nói thật tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện hay cần viết dài hay ngắn như thế này cho thích hợp, nhưng chẳng có ai ngoài tôi ra đọc truyện này nên chẳng lấy đó làm quan trọng. Tuy vậy, sự thật là tôi cũng đã băn khoăn lo nghĩ từ khi ở Blazing Downs trở về nên cũng thường xuyên bị mất ngủ và không thể làm việc hết mình cho họ đạo, tuy rằng các buổi lễ ở nhà thờ vẫn tiến hành như thường lệ và máy móc. Tôi nghĩ rằng nếu cố gắng viết ra thì tâm hồn cũng nhẹ nhõm phần nào, điều mà từ lâu tôi vẫn đè nặng trong tâm tư, hơn nữa, sau khi viết, tôi sẽ gởi cho ngài Giám mục đọc qua. Điều băn khoăn của tôi, có lẽ tôi cảm thấy mình càng ngày càng già đối với công việc của họ đạo có hơi kỳ lạ này và điều đó chứng tỏ là trường hợp này tôi phải chấp nhận bất cứ điều gì khi bề trên đã quyết định. Viết tư liệu không phải dễ dàng gì ở nơi đây vì Landsborough là một thị trấn nhỏ. Chốc nữa tôi sẽ đi xuống cửa hàng sách Duncan để mua ít giấy viết, nhưng cửa hàng chỉ có những tập giấy mỏng để viết thư và những tập vở mà cô giáo Foster dùng cho các học sinh lớn tuổi hơn khi các em đã qua thời kỳ dùng bảng viết. Tôi mua sáu tập và hy vọng còn cần nhiều hơn nữa khi đã viết xong những điều cần nói ra, nhưng trong cửa hàng chỉ còn vỏn vẹn chín tập vở nên không muốn làm họ kẹt. Tôi đã yêu cầu họ mua thêm, và họ đã đặt hàng ở Townsville, chuyến máy bay tuần tới mới có. Để trung thực với những ai đọc tác phẩm của tôi viết, tôi nghĩ là nên nói thật về mình, ngõ hầu sẽ được đánh giá chính xác và có được tín nhiệm về những điều tôi viết hay không. Tôi tên là Roger Hargreaves, đã được thụ phong mục sư thuộc giáo hội nước Anh bốn mươi mốt năm qua, tháng trước đây tôi đã qua tuổi sáu mươi ba. Tôi sinh năm 1890 ở Portsmouth thuộc miền Nam nước Anh và đã tôt nghiệp trường cấp ba Portsmouth. Tôi đã được thụ phong vào năm 1912 và trở thành mục sư của nhà thờ Thánh Mark, thành phố Guildford. Năm 1914, thế chiến bùng nổ, tôi vào quân đội với chức vụ Tuyên uý. Tôi đã làm chủ lễ ở Gallipoli và ở Pháp. Trong chiến tranh tôi rất may mắn, bởi vì tuy bị một quả pháo dập ở Delville Wood trong suốt cuộc chiến Somme, tôi chỉ nằm bệnh viện vài tuần lễ và chỉ bốn tháng sau là trở ra tiền tuyến ngay. Sau chiến tranh tôi vẫn chưa có chỗ cố định và không muốn trở về với công tác giáo xứ trong một thị trấn nước Anh. Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, chưa có gia đình và cũng chẳng có gì phải vướng bận nhiều khiến giữ chân tôi ở lại Anh. Theo tôi trong lúc còn trẻ trung và sức lực cũng nên hiến cuộc đời mình cho việc phụng vụ đến nhiều nơi khó khăn hơn và sau khi thảo luận với cha Giám mục, tôi sang Uùc theo chương trình huynh đệ Bush ở Queensland. Tôi đã phục vụ cho chương trình này bốn mươi năm, đi lại rất nhiều nơi từ Cloncurry đến Toowoomba, từ Birdsville đến Burdekin. Trong suốt mười bốn năm, tôi chưa có chỗ ở cố định và thường không ngủ quá hai đêm ở cùng một nơi. Chương trình huynh đệ này trả cho tôi mỗi năm năm mươi Anh kim, số tiền này cũng đủ để may mặc và chi tiêu cá nhân. Tôi cũng được cung cấp một số tiền nhỏ để chi phí cho việc đi lại nhưng tôi chưa phải dùng tới. Dân chúng ở vùng xa xôi hẻo lánh hầu hết đều có lòng tốt muốn giúp tôi đi lại từ nơi này đến nơi khác trong các lễ nghi tôn giáo, cưới hỏi hay ma chay. Họ thường lấy xe hơi chở tôi đến một địa điểm tiếp theo. Vào mùa mưa, khi ngập bùn, xe hơi không đi được, họ lại cho tôi mượn một con ngựa, khoảng chừng ba tháng để tôi có tiếp tục công việc cho hết mùa mưa. Năm 1934 tôi bị đau ruột thừa ở một nơi tên là Goodwood gần Boulia; cách Longreach ba trăm dặm về phía tây có một bệnh viện. Vào thời ấy, chưa có bác sĩ lưu động bằng máy bay. Tôi được họ chở trên xe tải trong hai ngày. Thời tiết thì quá nóng nực, đường đi thì gập ghềnh, khó khăn lắm mới tới được bệnh viện. Đến được đấy, tôi bị viêm màng bụng và gần chết. Tôi nghĩ mình cũng sẽ chết thôi nếu không nhờ công ty xe hơi Billy Shaw ở Goodwood chở tôi chạy suốt đêm. Sau khi phẫu thuật, thằng tôi trông thật thảm thương và khó mà bình phục trở lại. Vì vậy tôi miễn cưỡng xin thôi việc chương trình huynh đệ và trở về nước Anh. Đức giám mục hết sức nhân từ và sắp xếp cho tôi một đời sống khá thoải mái ở nhà thờ Thánh Peter thuộc địa phận Godalming và tôi đã định cư ở đây, rồi kết hôn với cô Ethel. Những năm mới lập gia đình, chúng tôi sống rất hạnh phúc và tôi đã dằn lòng chứ không đã viết ra tất cả. Ethel chết năm 1943, lúc chúng tôi chưa có con. Vào thời chiến, ở nước Anh, một mục sư có nhiều việc phải làm và tôi không cảm thấy tiếng gọi phục vụ quan trọng hơn khi chiến tranh chưa chấm dứt. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng miền Godalming cần một mục sư có gia đình hơn là một người goá vợ và còn rất nhiều miền ở Queensland cần một người đàn ông có kinh nghiệm như tôi, dầu người đó đã năm mươi sáu tuổi. Tôi đã từ bỏ giáo khu và trở lại Uùc như là một mục sư trên một chiếc tàu biển di dân, và tôi thật sự nhận ra rằng chương trình huynh đệ còn muốn nhận tôi trở lại công tác dầu tôi đã lớn tuổi. Chẳng bao lâu sau, tôi cũng nhận ra rằng công tác ở vùng xa xôi hẻo lánh dễ hơn nhiều trước đây mười năm. Chiến tranh đã làm đường sá thay đổi và cải tiến, có một điều là các đài thu và phát vô tuyến đã được sử dụng đại trà ở các nhà ga xa xôi hẻo lánh, do đó sự liên lạc đã dễ hơn nhiều. Điều quan trọng hơn cả là đã có nhiều người sử dụng máy bay, hầu như đâu cũng có phi trường, và những dịch vụ cho khách thường xuyên đã được mở. Tất cả những sự cải tiến này đã tạo thuận lợi cho một vị mục sư muốn phục vụ hết mình cho các tín đồ hơn là trước đây. Tôi cũng nhận ra rằng nhiều nơi ở trong quận của tôi ở có thể đến thăm dễ dàng, có thị trấn cứ sáu tháng tôi có mặt một lần, khác với trước đây phải mất hai năm mới tới được một lần như lúc tôi mới đến nước Úc lần đầu. Năm 1950 ở xứ Tân Guinea bị khan hiếm trầm trọng các nhà truyền giáo. Có một lúc người ta bỏ đi hay vì bệnh tật nên chỉ còn một mục sư của Giáo hội nước Anh ở đấy mà phải phục vụ một miền rộng một trăm tám mươi mốt ngàn dặm vuông ở Papua và lãnh thổ Ủy trị. Hình như tôi cũng đã nghĩ đến những nhu cầu quá lớn của họ so với nhu cầu ở Queensland và được sự thoa? thuận của chương trình huynh đệ, tôi đã tự nguyện đi đến đó một vài tháng để giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn. Khi tôi đi máy bay đến cảng Moresby, tôi đã năm mươi chín tuổi, đối với công việc như thế này, tôi cảm thấy mình quá già, vì chẳng có ai khác dám đi. Trong một năm, tôi đã đi đến nhiều nơi trong xứ, từ con sông Fly đến Rabaul, từ các mỏ vàng ở Wau đến các đồn điền Samarai. Bây giờ tôi mới lo là mình quá bất cẩn không mang theo Paludrine vì vào tháng chín năm 1951 tôi bị bệnh sốt rét nặng ở Saramaua và phải nằm viện đến mấy tuần lễ ở cảng Moresby, do đó cũng chấm dứt luôn công tác của tôi ở Tân Guinea. Sở dĩ tôi nói đến chứng sốt rét bởi vì sau này tôi còn bị tái đi tái lại nhiều lần nữa, tuy có phần nhẹ hơn. Có một địa điểm mà trong các phần này tôi đã nói đến. Có người nói với tôi rằng khi chứng sốt rét đã bị một lần, vài năm sau có thể bị tái lại, trước khi dứt hẳn và lần tái phát này không mấy trầm trọng như cơn bệnh tôi đã bị lần đầu ở Salamaua. Tôi cũng biết là mình điều hành công việc tạm ổn tuy đang bệnh; nhất là vấn đề đi lại, có khi tôi cũng hoãn hành lễ trong một ngày và nằm cho mồ hôi toát ra. Tuy nhiên cơn đau đầu tiên quá nặng làm tôi yếu người hẳn đi, nên rời bỏ Tân Guinea mà chẳng mấy tiếc nuối, để trở về sống với các bạn hữu ở trên đồi Atherton Tableland phía sau Cairns thuộc miền Bắc Queensland, mong bình phục và khỏe mạnh trở lại. Đức Giám mục vào thời ấy, vẫn đi lại đều trong Quận và Ngài đã viết thư đề nghị là sẽ đến thăm tôi và bàn bạc những chuyện mà tôi thấy chưa xứng đáng được Ngài quan tâm như thế. Tôi đi xuống Innisfail để gặp Ngài ở đấy vì tôi cảm thấy đã bình phục nhiều. Qua câu chuyện thân mật, Ngài đã đề cập đến tuổi tác của tôi và mong muốn tôi tiếp tục làm việc nhưng ít năng nổ hơn. Ngài nói là Ngài nóng lòng mở lại nhà thờ Giáo xứ Landsborough và muốn cử một Mục sư lo việc họ đạo tại địa phương. Ngài đã đề cập đến kinh nghiệm của tôi ở vùng nông thôn và hỏi nếu tôi bằng lòng sẽ cử tôi đến đấy vài năm để xây dựng lại tinh thần Giáo hội ở trong Quận ấy. Ngài cũng không mong tôi đi hết họ đạo rộng gần hai mươi tám ngàn dặm vuông, trong một vùng mà dân cư thưa thớt, vì Ngài hy vọng trong một năm thôi là có một mục sư trẻ về thay thế. Dĩ nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề khó khăn cho nhà thờ, nhưng Ngài nói là sẽ gởi cho tôi một chiếc xe tải trong vài tháng tới, mặc dầu nó đã hơi cũ. Xe chẳng thấy tới, nhưng tôi đã điều hành tốt mà không có xe. Landsborough là một thị trấn nằm phía trên vịnh Carpentaria, người ta thường gọi là Gulf Country. Cách đây năm mươi năm, thị trấn rộng hơn bây giờ. Thời săn vàng bùng nổ, cả thị trấn có chừng hai mươi lăm khách sạn, hầu hết là quán nhậu, nhưng bây giờ chỉ còn lại hai. Có chừng tám mươi cư dân da trắng ở đấy gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em và một số dân da đen độ hai ba trăm người trồi sụt bất thường, họ sống trong điều kiện đáng thương, trong các túp lều che bằng các tấm sắt rỉ, ở ngoại ô thành phố. Nơi ấy cách Cloncurry hai trăm dặm và cách Cairns và thị trấn Townsville về phía biển năm trăm dặm bằng đường hàng không. Ở đấy có một bệnh viện điều hành bởi hai chị em cô y tá và một nhà riêng cho bác sỹ mặc dầu từ trước tới giờ chẳng có bác sỹ nào bị lôi cuốn về thực tập ở đấy. Gặp trường hợp khẩn cấp, người ta gọi về Cloncurry và bác sỹ cứu hộ sẽ đến bằng máy bay. Trong chiến tranh người ta xây ở đấy một phi trường thật tốt và mỗi tuần một lần cũng có máy bay chở thư và đồ tiếp tế đến. Nhà thờ ở Landsborough thuộc loại kiến trúc rất đơn giản, phía ngoài đóng bằng cây, mới được xây dựng lại cách đây ba mươi năm sau một vụ cháy rừng. Tôi thấy nhà thờ được trang bị quá sơ sài nên định bụng nếu nhận được chút ít tiền là tôi sẽ sơn trong và ngoài luôn thể. Nhà thờ chỉ có ghế dựa chứ không có ghế dài hành lễ và đây cũng có cái lợi vì cứ hai hay ba tháng một lần, chúng tôi có đoàn chiếu bóng lưu động ở Landsborough và chúng tôi có thể đem những ghế dựa này ra khỏi nhà thờ đặt trong sảnh Shire hay trước sân nhà sách Duncan vào mùa nắng. Cá nhân tôi cũng thấy tiện lợi nữa, vì trong tòa Cha sở chẳng có ghế bàn gì cả, nếu có ai đó muốn đến gặp tôi, tôi có thể đến nhà thờ mượn ghế và trả lui cho buổi lễ sau. Cả nhà thờ và tòa Cha sở chẳng được ai ngó ngàn tới, bởi vì vị mục sư cuối cùng bị rắn cắn chết năm 1935 và từ đấy chẳng có mục sư sở tại nào ở Landsborough cho tới khi tôi tới nhận việc vào mùa thu 1952. Dĩ nhiên, nhà thờ thỉnh thoảng cũng được sử dụng để làm lễ do các Mục sư vãng lai. Còn chính bản thân tôi sử dụng nhà thờ trong rất nhiều dịp khi tôi có mặt ở trong Quận, để mong tìm hiểu những gì thuộc địa phương Landsborough. Tôi rất hoan hỉ được đi trên đó, bởi vì tùy theo những chuẩn mực của nước Anh, nhưng không còn nhiều đối với một giáo xứ. Có lẽ theo chuẩn mục của nước Anh, tôi không mấy giống một mục sư. Theo tôi đó là một nơi tôi có thể tiếp tục tiến hành công tác đã quen thuộc và cũng từ đấy tôi có thể góp nhặt một số sách mới, cũng như được sống thoải mái và tương đối tiện nghi. Dầu cho đã trình bày với đức Giám mục, tôi cũng phải nhận ra rằng, cá nhân tôi không còn là người đàn ông trước khi bị bệnh sốt rét. Tôi hy vọng cơn bệnh sẽ qua đi và thể lực sẽ được phục hồi. Tôi hy vọng như thế vì có quá nhiều việc để làm mà quỹ thời gian chẳng còn bao năm nữa. ... Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa của tác giả Nevil Shute.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà - Stefan Zweig
Trong tác phẩm của mình, Stefan Zweig đã viết: “Chỉ hai mươi bốn giờ thôi cũng có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời một người đàn bà”. Tôi cũng là một người đàn bà. Tôi cũng đã thử hỏi, trong hai mươi bốn giờ quá ít ỏi ấy, một người đàn bà có thể làm gì để được gọi là thay đổi số phận, hay cuộc đời? Vậy mà khi tôi bắt đầu đọc câu chuyện của Stefan Zweig kể, tôi đã phải chạy đua với cảm xúc của nhân vật. Tôi không có được những cảm xúc mãnh liệt, bạo dạn như bà. Chỉ trong một ngày thôi, bà đã trải qua tất cả mọi cảm giác của cuộc đời này, đi đến tận cùng đê mê, hạnh phúc bên người tình chỉ trong một đêm, để rồi cũng phải chịu sự phản bội đến khốn nạn và nghiệt ngã khi bị sỉ nhục cay đắng bởi người mà mình đã yêu và trao đi tất cả. Người đàn bà ngoại tình ấy đáng thương hơn đáng giận rất nhiều, bởi đó là bản năng tuyệt vời của một người phụ nữ đã được đánh thức mãnh liệt sau những năm tháng sống bằng lặng và yên bình với những cảm xúc không thật. Tôi là một người đàn bà. Tôi trân trọng và cũng sợ hãi, xót thương cho những gì đã và đang diễn ra trong đời một người đàn bà giống như mình. Tôi đã cố gắng loay hoay với những cảm xúc của mình mà quên hẳn việc phải thành thật với cảm xúc của chính mình, và người phụ nữ đã mang trong mình một ám ảnh về tội lỗi ngoại tình với chồng con ấy đã chỉ cho tôi biết rằng , tôi không có nhiều thời gian để mài mòn cuộc sống trong những giả dối. Cách tốt nhất tôi có thể làm được chỉ là để mình tự do yêu, và sống cho thật với những gì mình cần phải sống. Ngẫm cho kĩ thì thời gian đâu có quan trọng ngắn dài, điều quan trọng hơn là cách mà chúng ta sống trong khoảng thời gian ấy thôi. Người đàn bà của tôi chỉ cần hai mươi bốn giờ sống thật sự để rồi "gặm nhấm" nó suốt một cuộc đời còn lại, như một nỗi ám ảnh, day dứt, thay đổi tất cả mọi cảm xúc của bà. Tôi xót xa cho số phận của một người đàn bà như mình, nhưng tôi biết tôi chẳng thể nào trốn tránh được những điều đó, bởi nó thuộc về bản năng, bản năng yêu và quyết định mọi thứ bằng trái tìm của tình yêu, mù quáng nhưng chân thành. Người kể câu chuyện về số phận của người đàn bà trong hai mươi bốn giờ ấy đã biểu hiện đủ đầy những diễn biến tâm lý, như một bản nhạc đầy thăng trầm, chỉ trong một khoảnh khắc rất ngắn của đời người, nhưng với những điều tôi đã cảm nhận được, nó còn ngân dài hơn bất kì một bản tình ca nào khác về người phụ nữ. Đó là biệt tài của Stefan Zweig. Và chúng ta, những người phụ nữ suốt đời mang thân phận yếu ớt, mỏng manh, tại sao không thể chia sẻ với những đam mê thật thà của người đàn bà này, và để biết rằng chúng ta có thể tìm thấy điều gì thuộc về nhau. Một trích đoạn rất nhỏ trong câu chuyện, mà tôi muốn dùng nó để kết thúc bài viết của mình, và để bắt đầu cho các bạn khi đã cầm trên tay cuốn sách này. … Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể về số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hawngrriet say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: Tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh ona và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tôi, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đã đè nặng tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khức, đè chặt lấy quá khức không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ… *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ. Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. Mời các bạn đón đọc 24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà của tác giả Stefan Zweig.
Chuyện Giải Buồn Quyển 1 - Paulus Của
Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huỳnh Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam. Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong cộng tác với Gia Định báo. Tác phẩm quan trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá trị, đó là quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895 từ mẫu tự A đến L, tập II in năm 1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat & d"Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2 tập của quyển tự vị nầy.  Chuyện Giải Buồn Quyển 1 gồm có: 1. CHÍ KHÍ CAO 2. CẦU TIẾNG CHƯỞI CHO RỤNG LÔNG VỊT 3. ĐỊA NGỤC Ở MIỀN DƯƠNG GIAN 4. ĂN MÀY XIN VÀNG NÉN 5. ĐẦU THAI BA KIẾP 6. KIỆN MẤT NÀNG DÂU 7. PHẬT ĐỔ MỒ HÔI 8. MƠ TƯỞNG VIỆC KHÔNG CÓ 9. NÓI MỊ 10.CHUYỆN MÌNH THÌ QUÁNG 11.ANH EM RUỘT GIÀNH GIA TÀI 12. VẼ HÌNH VAY BẠC 13.CHUYỆN VƯƠNG-THẬP 14. TÍCH CỌP LẠY 15. CHUYỆN CẢNH THẬP BÁT 16.CỌP CÓ NGHĨA 17.ĐUỔI YÊU QUÁI 18.RỦ NHAU CHẾT MỘT LƯỢT 19. BỐN MƯƠI NGÀN 20. BỢM BẢI 21.MẮC LỪA 22. CHỒN ĐẤT THƠ THỦY 23. CHUYỆN ÔNG TẤN SĨ LƯNG MỌC LÔNG DÊ 24.LẬP TỰ CHO CHÁU 25.NỢ KHÔNG TRÔNG TRẢ 26. CHUỘT CÓ NGHĨA 27. CHUYỆN NGƯỜI ĐINH TIỀN KHÊ 28. CHUYỆN THÂY MA LÀM DỮ 29.CHUYỆN HỌ THÂN 30.CHUYỆN ÔNG XA KÍNH 31.CHUYỆN ÔNG LƯU BÁ ÔN 32.CÓ PHƯỚC LÀM QUAN 33. CHUYỆN NHẬM TÚ 34. TRƯƠNG THÀNH 35. SỰ TÍCH CON BÀN BÀO 36.CHUYỆN MỘT VÌ TƯỚNG QUÂN 37.BÀN CHIÊM BAO 38. TRỒNG LÊ 39.ĐẠO BẠCH LIÊN 40. THẦY ĐẠO SĨ Ở NÚI LAO SƠN 41.PHÉP MA 42. SỰ TÍCH CŨ 43. HUÌNH SANH 44. ĐÔNG PHƯƠNG SÓC 45. CÔNG GIÃ TRƯỜNG 46. THI THÀNH HOÀNG 47. HAI ANH EM HỌ THƯƠNG 48. LỘC ĐỜI 49. NHÍP CHÁNH 50. NGƯU THÀNH CHƯƠNG 51.LIỂU SANH 52.CHUYỆN HƯỚNG-KlỂU 53. CHỊU ÁN OAN 54. CHUYỆN CON THẢO 55. CHUYỆN NGƯỜI BÁN VẢI 56.CÙ DỤC 57. DIÊM LA 58. CHUYỆN THƯƠNG TAM QUAN 59.CHUYỆN ÔNG TẾ VÕ KHI CÒN NHỎ 60.CHUYỆN NGƯỜI CAO LỚN 61. LIỂU TÚ TÀI 62. CHUYỆN LƯU HỖ 63. CON RƯỢU 64. CHÓ KHÔN 65.THẦN NÚI 66. CHUYỆN THẦY THUỐC 67.TỐNG QUỐC ANH 68. CHÓ BIẾT CỨU CHỦ Mời các bạn đón đọc Chuyện Giải Buồn Quyển 1 của tác giả Paulus Của.
Tình Cát - Nguyễn Quang Lập
Tình Cát tiếp tục truyện Xóm Cát đã được tác giả viết ra cách đây ba mươi năm trong tiểu thuyết Những Mảnh Ðời Ðen Trắng và kịch nói Mùa Hạ Cay Ðắng. Bộ ba tác phẩm và cặp đôi nhân vật Hoàng - Thùy Linh đã cùng Nguyễn Quang Lập băng qua Sa Mạc Trắng cuộc đời và văn chương. Ở cuốn tiểu thuyết mới này của Nguyễn Quang Lập, Hoàng đã đi hết đường trần của mình. Anh chết ở Xóm Cát. Khi đang đào bới quá khứ của mình. XC là ở quê anh. Anh đã bỏ XC mà đi. Anh đã tìm về XC. Anh đã trốn chạy khỏi XC. Và anh lại tìm về XC. Ðể tìm lại Thùy Linh. Ðể tìm lại một thời tuổi trẻ của mình. Ðể tìm lại một XC của những người dân vô tội. Ðể rồi anh chết trong cơn hoang mê đào bới XC. Trong khi những kẻ rất tỉnh bây giờ đào bới những xác chết dân lành để lập công. Hoang mê và thức tỉnh. Ngày qua và hôm nay. Chiến tranh và hậu chiến. Hoàng chết ở XC, hết đường trần, nhưng đường đời chưa hết. Vì Ly Ly đã hiện diện và biến mất trong quãng đời hiện tại của anh. XC như vậy là chuyện của hôm nay. Tôi đang ghi hai chữ XC. Ðó là viết tắt Xóm Cát. Hẳn rồi. Nhưng bạn có thể đọc XC là Xúc Cát, như Hoàng đang vật lộn với chính mình để xúc bỏ lớp cát của quá khứ đọng dày trong ký ức hòng tìm ra sự thật bị lấp vùi dưới cát, do tiếng nổ của đạn bom và sự im lặng của người đời. Bạn cũng có thể thấy XC là Xúc Cảm. Của chính Hoàng và của bạn. Truyện này của Lập rất nhiều xúc cảm, nhiều hơn những truyện khác của cùng tác giả. Nhưng XC bạn đọc hết truyện sẽ lại có thể luận là Xác Chết. Những người, và nhiều nhất là những người nữ, đã cho Hoàng sống đời mình, và họ đã chết để buộc Hoàng phải hoang mê phần đời mình còn lại. Và chết. XC đó là của chính Hoàng. Cũng là của những người đọc nào đã theo Hoàng từ hai tác phẩm trước của Nguyễn Quang Lập cho đến tác phẩm này. Vậy nên, XC là của mỗi người. Sau khi là của riêng nhân vật Hoàng (và trong Hoàng là Thùy Linh). Sau khi là của tác giả Nguyễn Quang Lập. Với tôi, XC ngoài những điều trên, còn là Xưa Cũ, Xin Chịu, Xót Cùng. Và Nguyễn Quang Lập, bộ ba tác phẩm và cặp đôi nhân vật, bạn đã Xem Chưa? XC! Phạm Xuân Nguyên *** Một cuốn tiểu thuyết viết về thời hậu chiến, nhưng gương mặt đầy máu của cuộc chiến vẫn hiện nguyên hình. Nó nằm sâu trong vùng ký ức của người lính như Hoàng. Những cơn mê quăng Hoàng vào quá vãng, để rồi không phân biệt được người lính đó đã sống ở “thì” nào. Nhiều lúc Hoàng muốn thoát ra khỏi vũng lầy quá khứ đó, nhưng càng vùng càng lún sâu, đến nỗi đời sống thực của Hoàng không còn là thì hiện tại. Nói như Ly Ly, “Tại sao phải chia động từ ra ba thì mới gọi là sống? Mình đang sống còn Hoàng thì đã sống, khác gì nhau nào, ai điên ai tỉnh đây?”. Có một thứ gì đó như ma ám được sinh ra từ chiến tranh, khiến cho con người thời hậu chiến cứ mê mê, tỉnh tỉnh. Mặc dù chiến tranh đã lùi xa bốn mươi năm, nhưng vẫn chưa tỉnh cơn mê. Không ám ảnh sao được. Ðọc Tình Cát của Nguyễn Quang Lập, tự nhiên thấy sợ hãi chiến tranh như nó vừa dứt hôm qua để lại ngổn ngang xác chết. Những cái chết của Lý, của Nụ, của Lương, của thằng Béo, của anh Chiến lái xe, của thằng Rú, thằng Rí, con Ri, của ông Ro, chị Rá. Mỗi người một số phận, một bi kịch. Mỗi người được đặc tả một kiểu chết, kinh hoàng và thê thảm đến nghẹt thở. Nguyễn Quang Lập dày công “xây dựng” những cái chết đọc mà thấy rùng mình run rẩy. Nhưng có lẽ, hiện thực chiến tranh còn dữ dội hơn nhiều, hiện thực đó vượt qua sự tưởng tượng của nhà văn. Cũng như cái xóm Cát với 11 nóc nhà đã bị lãng quên. Ðịnh mệnh giao cho họ nhận lấy trách nhiệm của cuộc chiến, giữ một kho xăng mặc dù không ai cần đến và nhớ tới, để rồi những con người vô tội đó chết cháy trên trảng cát nóng rát lửa xăng, có người chết rồi lửa vẫn trào ra xèo xèo trong miệng. Còn nhiều thôn xóm và thân phận bị lãng quên khác như quy luật vô tình của chiến tranh. Xóm Cát chỉ là một điển hình để nhắc nhớ về sự vô tình đang tồn tại. Sự vô tình đó biến hóa, nhập vào những kẻ có quyền lực để chúng trở thành những bóng ma thời hậu chiến. Cái ác thêm một lần nữa chiến thắng khi quyền lực rơi vào tay những kẻ ngu ngốc như Chủ Tịch Huyện và lưu manh như Phó Chủ Tịch Văn Xã. Và cái ác chiến thắng khi người tận trung với cuộc chiến tranh như Xê Trưởng phải chịu án tử hình. Bất lực trước cái ác, nỗi ám ảnh chiến tranh như lớn hơn trong tâm trí của Hoàng, để anh tìm đến cái chết thê thảm như những cái chết đã từng ám ảnh anh. Chỉ thêm hai chữ để nói về nghệ thuật của Tình Cát: Văn hay. Lê Thanh Phong Mời các bạn đón đọc Tình Cát của tác giả Nguyễn Quang Lập.
Huynh Đệ - Dư Hoa
Cuốn tiểu thuyết Huynh đệ của nhà văn Dư Hoa, được giới phê bình Trung Quốc ví như một cơn lốc bởi sự hấp dẫn của gần 400 ngàn chữ cũng như ý tưởng quyết liệt của tác giả thử thách đến tận cùng nhân tính con người. Muốn trải qua hai thời đại một trời một vực như thế, một người phương Tây phải sống đến 400 năm, một người Trung Quốc chỉ cần 40 năm đã trải qua rồi. Vô vàn những biến động trong 400 năm được cô đúc, dồn nén trong 40 năm, đó là một quá trình từng trải hết sức quý giá. Mắt xích gắn kết hai thời đại chính là hai người anh em huynh đệ này, cuộc đời họ rạn nứt trong sự rạn nứt, buồn vui, họ nổ bùng trong sự bùng nổ, số phận họ cũng long trời lở đất giống như hai thời đại này và cuối cùng họ tất sẽ phải nuốt lấy hậu quả từ những ân oán đan xen chồng chéo. Huynh đệ xoay quanh cuộc đời Lý Trọc, cậu bé mất cha khi chưa chào đời và tuổi thơ ấu khốn khổ trong cách mạng văn hoá. Lý Trọc bất hạnh từ bé, không bao giờ biết mặt cha, lên 5 thì mẹ cậu - công nhân nhà máy tơ tên Lý Lan - đi bước nữa với thầy giáo Tống Phàm Bình. Hạnh phúc ngắn ngủi của hai người nhanh chóng tan như bọt xà phòng bởi cách mạng văn hoá. Cũng vì thế Lý Trọc và Tống Cương (con riêng của Tống Phàm Bình) vướng họa từ thuở lên 8. Bố bị bắt đi đấu tố vì lý lịch con nhà địa chủ, mẹ đi Thượng Hải chữa bệnh không biết họa nhà. Tống Phàm Bình yêu vợ thương con, trong nhà giam chịu đòn roi vẫn đều đặn viết thư động viên vợ yên tâm chữa bệnh. Hai đứa trẻ thần tượng bố, nhưng cuối cùng chính chúng phải chứng kiến cái chết thảm khốc của bố dưới gót giày hồng vệ binh. Cũng trong những nỗi đau cùng kiệt của kiếp người, một tình yêu lớn lao và đẹp cổ điển của họ đã ở lại cùng bạn đọc: Tống Phàm Bình hứa với Lý Lan, khi nào vợ khỏi bệnh chính anh sẽ đến Thượng Hải đón vợ. Trốn khỏi nhà giam của hồng vệ binh, Phàm Bình ra bến xe khách mua vé, anh bị chặn đánh nhưng vẫn cố nhoài người mua được vé và chỉ tắt thở khi chuyến xe cuối cùng đi Thượng Hải chạy khuất. Hai đứa trẻ tám tuổi phải bám chân van lạy những người qua đường chở xác cha về nhà. Còn Lý Lan chờ chồng cả ngày trước cửa bệnh viện mà không thấy, chị không dám ngủ, không dám ăn vì sợ chồng qua mà không thấy. Hôm sau, chị đi xe về một mình, chị không tin chồng đã chết, chị không khóc, chị tắm rửa cho chồng, nằm gối đầu lên ngực chồng ngủ qua đêm, gói những hạt bùn đen dính máu chồng vào tấm vải lụa, hôm sau mới đi mua quan tài khâm liệm tiễn chồng. Chị để tang chồng bằng mái đầu 7 năm không gội, để rồi đến khi gội xong thì mái tóc hoá bạc trắng và chị vui mừng khi thấy sức mình sắp kiệt, vì sắp được đến bên chồng. Hai anh em Lý Trọc và Tống Cương lớn lên trong tất cả những bạo lực, nhiễu nhương và chứng kiến những người thân lần lượt ra đi trong bi phẫn. Mỗi đứa mỗi tính, Tống Cương hiền lành, giống bố vì đạo nghĩa, sẵn sàng hy sinh cho em. Còn Lý Trọc thông minh, tinh quái, 14 tuổi đã nổi tiếng thị trấn vì tội rình xem mông đàn bà. Nhưng cũng vì thế, Lý Trọc là người được ăn nhiều nhất món mì Dương Xuân thượng hạng tại thị trấn, vì cậu biết tận dụng cái bí mật mông Lâm Hồng để bán cho những gã đàn ông háo sắc và biến thái. Chúng đã lớn lên trong sự bi đát nhất của con người, từng nhìn thấy quá nhiều sự hắt hủi của con người với đồng loại như mất hết nhân tính. Nhưng chúng vẫn trọng đạo nghĩa làm người và bắt đầu một cuộc sống khác. Trong Huynh đệ, Dư Hoa đã đẩy nhân vật của mình đến tận cùng của những bi kịch xã hội, để rồi họ phải tự xử lý cuộc đời mình theo những lối đi riêng. Nhà phê bình nổi tiếng Trung Quốc Lý Cật nhận xét: "Trong sáng tác tiểu thuyết trào lưu mới, thậm chí trong toàn bộ nền văn học Trung Quốc, thì Dư Hoa là một người kế thừa và phát triển tinh thần Lỗ Tấn tiêu biểu nhất." *** Cuốn sách gồm hai tập, xuất bản vào năm 2005, 2006 và đã bán ra được gần 1 triệu bản – một con số không hề khiêm tốn tại đất nước mà nạn copy sách diễn ra tràn lan và độc giả hoàn toàn có thể download tiểu thuyết miễn phí một cách dễ dàng từ Internet. Trung Quốc trong tưởng tượng của Dư là một phiên bản đầy khôi hài của thế giới thực tại. Đó là một xã hội điên đảo, không luân lý, không luật pháp, nơi mà những trò tham nhũng, cờ bạc, đĩ điếm và buôn gian bán lận là chuyện thường ngày ở huyện. Cuốn tiểu thuyết nhận được nhiều lời chỉ trích khá nặng nề. Một số nhà phê bình tỏ ý thất vọng khi Dư Hoa - một trong những tác giả đáng kính nhất tại Trung Quốc hiện nay - lại sản xuất ra một tác phẩm đáng gọi là rác rưởi và mang đầy hơi hướng, kiểu cách Hollywood như vậy. Tuy nhiên, không ít người lên tiếng tán dương cuốn sách, coi đây là một bức tranh sống động về một xã hội Trung Quốc ngày càng thực dụng, buông thả và mất thăng bằng. "Về cơ bản, tôi không đồng ý với các nhà phê bình. Đây là một tác phẩm lớn và Dư Hoa là một trong những nhà văn Trung Quốc đương đại tài năng nhất”, Liu Kang, giáo sư Đại học Duke tại Bắc Carolina, nhận xét. Dư Hoa năm nay 46 tuổi. Dáng người ông thấp đậm, trông trẻ hơn so với tuổi thực. Ông sở hữu mái tóc dày, đen và nụ cười hài hước thường trực. Nhà văn cũng thường xuyên hút thuốc. Trông ông, người ta dễ nhầm với một công nhân hơn. "Những câu chuyện tôi kể hơi cực đoan, nhưng bạn hoàn toàn có thể tìm thấy chúng tại Trung Quốc”, tác giả tâm sự trong một cuộc phỏng vấn tại Bắc Kinh, nơi ông đang sống cùng vợ và đứa con trai 12 tuổi. Dư cho biết, tác phẩm của ông bắt rễ từ mảnh đất nơi ông được sinh ra. Ông sinh năm 1960 tại thị trấn nhỏ ở Hàng Châu trong một gia đình có cả bố và mẹ đều là bác sĩ. Mời các bạn đón đọc Huynh Đệ của tác giả Dư Hoa.