Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Không Quê Hương

Người không quê hương là tuyển tập các tiểu luận và bài phát biểu của Vonnegut với những trang minh họa của chính tác giả, được dày công thực hiện trong suốt năm năm. Đứng trên lập trường của một nhà nhân văn và tư tưởng gia tự do, ông đã công khai thể hiện quan điểm sắc bén về nước Mỹ trên nhiều lĩnh vực, chính trị, nghệ thuật, tình dục…Xuyên suốt cuốn sách mỏng là một Vonnegut trào phúng mà sâu sắc, một người tự nhận mình là “người không quê hương” nhưng lại không hề bàng quan trước thực tại đất nước. Kurt Vonnegut (1922-2007), là một trong những nhà văn Mỹ xuất sắc nhất thế kỷ XX. Vai trò của ông được đánh giá cao đến nỗi nếu thiếu ông, thuật ngữ văn học Mỹ sẽ chẳng còn trọn vẹn. Ông sinh tại Indianapolis, tiểu bang Indiana, theo học chuyên ngành Hóa-Sinh, Đại học Cornell từ năm 1940-1942, sau đó đăng lính phục vụ trong Thế Chiến II. Xuất ngũ trở về, Vonnegut theo học Đại học Chicago và bắt tay vào sự nghiệp cầm bút. Tiểu thuyết đầu tay của ông, Player Piano, xuất bản năm 1952. Các tác phẩm tiêu biểu khác bao gồm Slaughterhouse-Five, Cat’s Cradle, Jailbird, Deadeye Dick…Vonnegut nổi tiếng vì văn phong đặc biệt với những câu văn dài và rất ít dấu câu, thẫm đẫm tinh thần hài hước. Người không quê hương (2005) là tác phẩm cuối cùng trong văn nghiệp của ông. *** Kurt Vonnegut (1922-2007), là một trong những nhà văn Mỹ xuất sắc nhất thế kỷ XX. Vai trò của ông được đánh giá cao đến nỗi nếu thiếu ông, thuật ngữ văn học Mỹ sẽ chẳng còn trọn vẹn. Ông sinh tại Indianapolis, tiểu bang Indiana, trong một gia đình người Mỹ gốc Đức, và sớm phải đối mặt với sóng gió cuộc đời. Cuộc Đại Khủng Hoảng 1930 đã khiến gia đình ông khánh kiệt, cha ông suy sụp, mẹ mất vì dùng thuốc ngủ quá liều. Chủ đề “Giấc mơ Mỹ - đạt được và đánh mất” xuất hiện khá nhiều trong những tác phẩm của ông sau này. Vonnegut theo học chuyên nghành Hóa-Sinh, Đại học Cornell từ năm 1940-1942, sau đó đăng lính phục vụ trong Thế Chiến II. Ông từng tham gia trận Bulge lịch sử và bị bắt làm tù binh tại Dresden, Đức. Trải nghiệm khốc liệt đó được tái hiện trong cuốn sách nổi tiếng nhất của ông, Slaughterhouse-Five (1969). Xuất ngũ trở về, ông theo học ngành Nhân chủng học, Đại học Chicago, sau đó chuyển đến làm việc tại công ty General Electric, Schenectady. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết báo và truyện ngắn. Năm 1951, ông từ chức và dành toàn bộ tâm sức vào văn nghiệp. *** Khi còn bé tôi là thành viên nhỏ tuổi nhất trong gia đình, và đứa trẻ nhỏ tuổi nhất trong bất kỳ gia đình nào cũng luôn thích đùa, vì nói đùa là cách duy nhất để nó có thể tham gia câu chuyện của người lớn. Chị tôi lớn hơn tôi năm tuổi, anh tôi hơn tôi chín tuổi, và cả bố lẫn mẹ tôi đều là những người hoạt ngôn. Vì thế hồi tôi còn nhỏ xíu, mỗi khi ăn tối với cả nhà, tôi luôn khiến mọi người chán chết. Họ không muốn nghe mấy chuyện trẻ con ngốc nghếch đã xảy ra trong ngày với tôi. Họ muốn nói về những thứ thực sự quan trọng xảy ra ở trường phổ thông không thì cũng ở trường đại học hay chốn công sở. Vì vậy cách duy nhất để tôi có thể tham gia một câu chuyện là nói cái gì đó vui vui. Tôi nghĩ mới đầu chắc chỉ do tôi tình cờ thôi, tình cờ chơi chữ trong lời nói khiến cuộc đàm thoại phải ngừng lại, đại loại vậy. Và sau đó tôi nhận ra rằng bông đùa là một cách để xen vào cuộc trò chuyện của người lớn. Tôi lớn lên trong thời kỳ mà hài kịch ở đất nuớc này rất huy hoàng - thời kỳ Đại Suy Thoái. Có rất nhiều diễn viên hài kỳ cựu hàng đầu trên sóng phát thanh. Và dù không chủ định, tôi đã thực sự học hỏi họ. Tôi thường nghe hài kịch ít nhất một tiếng đồng hồ mỗi đêm suốt cả thời trai trẻ và rất quan tâm muốn biết thế nào là chuyện đùa, làm cách nào nó lại gây cười. Khi nói đùa, tôi cố gắng không xúc phạm đến ai. Tôi nghĩ phần lớn những gì mình làm chưa gây phản cảm cho người nào. Tôi nghĩ mình chưa làm nhiều người phải ngượng ngùng hay căng thẳng. Cách nói chuyện gây sốc duy nhất mà tôi sử dụng là thỉnh thoảng dùng một từ dung tục. Có vài thứ chẳng thể gây cười. Chẳng hạn, tôi không thể tưởng tượng ra nổi một cuốn sách hay một vở kịch trào phúng nào nói về trại tập trung Auschwitz. Tôi cũng chẳng thể nào đùa giỡn về cái chết của John F. Kennedy hay Martin Luther King. Ngoài những thứ đó ra, chưa có đề tài nào mà tôi lại tránh né hay không thể tận dụng. Những thảm họa lớn cũng hài hước chết đi được, như Voltaire đã từng chứng minh. Các bạn biết đó, vụ động đất ở Lisbon thật buồn cười[1]. Tôi đã chứng kiến Dresden bị tàn phá. Tôi đã thấy cái thành phố đó trước khi trốn vào hầm tránh bom và thấy lại nó sau khi ra khỏi hầm, và dĩ nhiên tiếng cười là một phản ứng. Có Chúa chứng giám, ấy là linh hồn tìm kiếm chút khuây khỏa. Bất cứ đề tài nào cũng có thể gây cười, và tôi cho rằng có một loại tiếng cười rất kinh hãi - tiếng cười của những nạn nhân ở trại Auschwitz. Tiếng cười là một phản ứng gần như bản năng của cơ thể trước nỗi sợ hãi. Freud[2] nói tiếng cười là một trong những phản ứng trước sự thất vọng. Ông nói một con chó khi không thể ra khỏi cổng sẽ cào cửa và bắt đầu đào bới rồi có những động tác vô nghĩa, có lẽ là gầm gừ hay làm gì đó, để đối phó với sự thất vọng hay ngạc nhiên hay sợ hãi. Và rất nhiều tiếng cười phát sinh từ nỗi sợ. Mấy năm trước tôi tham gia thực hiện một chương trình truyền hình hài dài tập. Chúng tôi cố gắng cùng tạo nên một chương trình theo nguyên tắc cơ bản: luôn đề cập tới cái chết trong mỗi tập. Yếu tố này làm cho tiếng cười trở nên sâu sắc hơn mà khán giả không nhận ra được cách thức chúng tôi tạo ra những tiếng cười thắt ruột. Có một loại tiếng cười hời hợt. Bob Hope chẳng hạn, ông không hẳn là nhà hài hước. Ông là diễn viên hài với thiên tư rất mỏng, chưa bao giờ đề cập đến bất cứ vấn đề gì nhức nhối. Trước đây tôi thường cười ngặt nghẽo khi xem Laurel và Hardy[3] diễn xuất. Có một sự bi ai thê lương phảng phất đâu đó trong cách diễn của họ. Những con người ấy quá hiền lành để có thể tồn tại trong thế giới này và luôn đứng trước nguy cơ rất lớn. Họ có thể dễ dàng bị thủ tiêu. *** Ngay cả những chuyện đùa đơn giản nhất cũng dựa trên những cái giật mình sợ hãi khe khẽ, chẳng hạn như câu hỏi, “Cái thứ màu trăng trắng trong phân chim là gì?” Người nghe, như thể bị gọi trả bài trong trường, ngập ngừng trong giây lát vì sợ sẽ nói ra điều gì đó ngu ngốc. Khi nghe được câu trả lời, “Cũng là phân chim thôi!”, họ xua tan nỗi sợ bản năng bằng tiếng cười. Dù sao thì họ cũng chưa từng bị làm vật thí nghiệm bao giờ mà. “Tại sao lính cứu hỏa lại mặc dây đeo quần màu đỏ?” Và “Tại sao người ta lại chôn George Washington trên sườn đồi?” Vân vân và vân vân. Lẽ đương nhiên, còn có những chuyện đùa không cười nổi, cái mà Freud gọi là “hài hước giá treo cổ”[4]. Có những tình huống thật ngoài đời vô vọng đến nỗi không bao giờ người ta có thể thấy khuây khỏa. Khi chúng tôi bị dội bom ở Dresden, ngồi trong hầm trú, hai tay ôm đầu đề phòng trần hầm sụp xuống, chúng tôi nghe một anh chiến sĩ nói như thể mình là nữ công tước trong lâu đài vào một đêm mưa lạnh lẽo, “Ta tự hỏi những người dân nghèo đang làm gì tối nay.” Chẳng ai cười, nhưng chúng tôi ai cũng vẫn mừng là anh đã nói câu ấy. Ít ra thì chúng tôi vẫn còn sống! Anh đã chứng minh được điều đó. Mời các bạn đón đọc Người Không Quê Hương của tác giả Kurt Vonnegut Jr..

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phương Đông lướt ngoài cửa sổ - Paul Theroux
Tên Ebook: Phương Đông lướt ngoài cửa sổ (full prc, pdf, epub) Tác giả: Paul Theroux   Thể Loại: Du Ký, Sách Hay, Văn học phương Tây   Dịch giả: Trần Xuân Thủy   Công ty phát hành: Nhã Nam    Nhà xuất bản: NXB Thế Giới   Nguồn sách: Chào Buổi Sáng    Chụp pic: kararoxbee    Type: nhinhi77, smilemai, Thảo Đào, narutoquyen, Trường Nghi, silverysnow    Beta: MaiThanh   Làm prc: Dâu Lê   Nguồn: luv-ebook.com   Ebook: www.dtv-ebook.com Ebook Phương Đông lướt ngoài cửa sổ full prc pdf epub Giới thiệu:   Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ là chặng hành trình xuyên Châu Á của Paul Theroux vào năm 1973 và đến rất nhiều năm sau này, chặng hàng trình ấy vẫn đang được hàng triệu bạn đọc trên thế giới biết đến và chia sẻ với tư cách là một cuốn sách du ký hay nhất mọi thời đại. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ nhận được nhiều lời tán thưởng đến thế. Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ ghi lại bốn tháng rưỡi với hơn 30 chuyến tàu từ London đến Trung Đông, qua Ấn Độ, ghé Đông Nam Á, dừng chân ở Nhật Bản rồi xuyên Siberia để về lại Châu Âu. Một Phương đông lộng lẫy và rực rỡ hiện ra trên trang sách với nhiều khía cạnh của cuộc sống. Bangkok ồn ào, nóng nực với những mảng tương phản khủng khiếp như đền chùa và nhà chứa. Calcutta dậy mùi của cái chết còn Bombay dậy mùi tiền. Tehran với dầu mỏ và trở thành thành phố của người nước ngoài. Singapore sạch sẽ và kỷ cương.... Phương đông trong mắt Theroux là những chuyến tàu với đủ thứ phiên bản thể hiện cho đặc trưng mỗi quốc gia. Và rồi trên chặng hàng trình ấy, người với người gặp nhau, trên tàu, tại trạm dừng chân hay chỉ nhìn lướt qua nhau. Những cuộc gặp gỡ ấy sẽ không có ngày tương phùng nên người ta chẳng cần phải dối trá về mình, chân dung con người cũng vì thế mà thực hơn như những cô gái nhỏ quấn xà rông, anh chủ khách sạn cáu kỉnh, một tín đồ cuồng tín, cô gái điểm giữa đêm khuya... Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ là một bức trang toàn cảnh về phương Đông đầy cảm xúc của một con người muốn đi, muốn biết, muốn hiểu. Paul Theroux đã trải nghiệm như một lữ khách cô độc muốn dấn thân chứ không phải một vị khách du lịch cưỡi ngựa xem hoa. Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ: Là một tác phẩm du ký kinh điển. “Một trong 20 cuốn sáchdu ký hay nhất mọi thời đại.”   (Nhật báo Telegraph) Mời các bạn đón đọc Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của tác giả Paul Theroux.  
Em phải đến Harvard học kinh tế - Lưu Vệ Hoa
Tên ebook: Em phải đến Harvard học kinh tế (full prc, pdf, epub)   Tác giả: Lưu Vệ Hoa, Trương Hán Vũ Thể loại:  Tự truyện , Sách hay , Văn học phương Đông  Dịch giả:  Nguyễn Phan Quế Nguồn:  vnthuquan.net Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Em phải đến Harvard học kinh tế - Lưu Vệ Hoa Giới thiệu: Một giọt mực có thể làm vạn người suy nghĩ Một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người! Lord Byron (1878 – 1824)   Ngay sau khi Em phải đến Harvard học kinh tế được công bố, bà Lưu Vệ Hoa và ông Trương Hán Vũ, ba mẹ của em Lưu Diệc Đình nhận được hàng nghìn các cú điện thoại và hàng vạn bức thư hỏi về cách thức nuôi dạy Lưu Diệc Đình, đồng thời đề nghị cho biết tại sao Trường Đại học Harvard lại coi trọng “khả năng nổi trội và năng lực tổng hợp” đến như vậy. Thậm chí có một Công ty lớn ở Thẩm Quyến còn “fax” cho họ đề nghị sau khi tốt nghiệp, Lưu Diệc Đình sẽ đến Công ty đó làm việc…   Không thể trả lời hết các câu hỏi và những bức thư, bà Lưu Vệ Hoa đã cùng chồng là Trương Hân Vũ viết cuốn sách “Em nhất định sẽ học ở Harvard” mà bạn đang có trong tay, kể tỉ mỉ về quá trình nuôi dạy con của mình, do Tác gia Xuất bản xã ấn hành năm 2001, số lượng in tới 1 triệu 60 nghìn bản, chỉ trong vòng 1 năm tái bản với 32 lần.   Em phải đến Harvard học kinh tế cung cấp cho chúng ta một ví dụ sinh động về con đường giáo dục các “thần đồng”. Cuốn sách Em phải đến Harvard học kinh tế   đã tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc giáo dục của Carl Winter “Đối với sự trưởng thành của con trẻ, vấn đề tối quan trọng là ở giáo dục, chứ không phải ở tư chất. Trẻ em cuối cùng trở thành thiên tài hay người thường, không phải di tư chất thông minh nhiều hay ít quyết định, mà điểm mấu chốt là ở việc giáo dục trẻ từ lúc mới sinh cho tới 5 – 6 tuổi”.   Các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ hãy kịp thời nắm lấy giai đoạn phát triển tối quan trọng này, đừng để nó trôi đi không hình không bóng!     Hãy ra sức làm cho trẻ trở thành chính nó ngay từ mốc “số 0”! Mời các bạn đón đọc Em phải đến Harvard học kinh tế của tác giả Lưu Vệ Hoa, Trương Hán Vũ.
Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1 - Lý Quang Diệu
Tên ebook: Hồi ký Lý Quang Diệu Tác giả: Lý Quang Diệu Bộ sách: Hồi ký Lý Quang Diệu Thể loại: Hồi ký, Sách hay, Tự truyện, Văn học phương Đông Dịch giả: Phạm Viêm Phương – Huỳnh Văn Thành Số trang: 687 Xuất bản: tháng 9/2000 Nhà xuất bản: NXB TP Hồ Chí Minh Khổ: 14,5x20,5cm Chụp hình: bodauphong Hiệu đính và đóng sách: bun_oc_girl Nguồn: e–thuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1 Giới thiệu: Trong tập 1 Hồi ký Lý Quang Diệu (được bắt đầu viết từ năm 1994), ông kể lại những ký ức đáng tự hào về thành công của một chàng sinh viên giỏi của các thuộc địa vùng eo biển đến những ngày tháng du học trên đất Anh, từ câu chuyện tình yêu cảm động của ông với người vợ đến những hoài bão của chàng thanh niên trẻ tuổi, những kết giao, những mối quan hệ, từng bước thâm nhập chính trường, đối nhân xử thế, xây dựng đảng, lèo lái đất nước vượt qua những khó khăn cả từ bên trong lẫn bên ngoài.           Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1 kết thúc ở thời điểm Singapore chính thức tuyên bố độc lập năm 1965 sau khi tách ra từ Liên bang Malaysia, cũng là lúc đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình hình thành suy nghĩ, tính cách của ông Lý.            Ngoài ra, trong Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1, qua những bước đi “bươn trải” của một nhà lãnh đạo năng động tới khắp nơi trên thế giới, chúng ta có thể có thêm một góc nhìn về tình hình thế giới thời chiến tranh lạnh, về phong trào không liên kết, Mỹ, Anh, Nga, Trung Quốc và các nước khác thời điểm còn đang “ẩn tàng” ở hai bên bức màn sắt, về Liên minh châu Âu thời kỳ hình thành, về khối Thịnh vượng chung và những liên minh, hiệp ước khác.            Mời các bạn đón đọc Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1 của tác giả Lý Quang Diệu.
Hồi ký Lý Quang Diệu tập 2: Bí quyết hóa Rồng - Lý Quang Diệu
Tên ebook: Bí quyết hóa Rồng Tác giả: Lý Quang Diệu Bộ sách: Hồi ký Lý Quang Diệu (tập 2) Thể loại: Hồi ký, Sách hay, Tự truyện, Văn học phương Đông Dịch giả: Thu  SaigonBook Số trang: 688 Xuất bản:  tháng 6/2001 Nhà xuất bản: NXB Trẻ Công ty phát hành: SaigonBook Khổ:  16x24cm Giá tiền:  120.000đ Beta:  lemontree123, ducphuongvn Hiệu đính và đóng sách: bun Nguồn: e–thuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Hồi ký Lý Quang Diệu tập 2   Lời tựa: Tôi viết quyển sách này cho thế hệ trẻ Singapore, những người cho rằng một Singapore ổn định, phát triển và thịnh vượng là hiển nhiên. Tôi muốn họ thấu hiểu được những khó khăn mà một nước nhỏ chỉ rộng 640km2, không có tài nguyên thiên nhiên, phải vươn lên để tồn tại giữa những quốc gia rộng lớn hơn vừa mới độc lập và tất cả đều theo đuổi đường lối dân tộc chủ nghĩa. Những ai đã từng trải qua chiến tranh năm 1942 và sự chiếm đóng của Nhật Bản, đã từng tham gia vào công cuộc xây dựng nền kinh tế mới cho Singapore thì không lạc quan như thế. Chúng tôi không thể quên được rằng việc có được trật tự xã hội, an toàn cá nhân, phát triển kinh tế xã hội và phồn vinh thịnh vượng không phải là quy luật hiển nhiên của sự vật, mà là nhờ vào những nỗ lực không ngừng của toàn xã hội dưới sự dẫn dắt của một chính phủ trung thực và hiệu quả do dân bầu ra. Trong quyển sách trước đây, tôi đã miêu tả những năm định hình tính cách của tôi trong thời tiền chiến ở Singapore, sự chiếm đóng của Nhật Bản và những biến động của chủ nghĩa cộng sản và tiếp theo đó là các vấn đề chủng tộc trong hai năm ở trong Liên bang Malaysia. Việc chiếm đóng của Nhật Bản (1942–1945) làm tôi căm phẫn vì sự tàn bạo, dã man mà họ đã dành cho những người bạn cùng châu Á với họ, làm khơi dậy trong tôi tinh thần dân tộc và lòng tự trọng, cũng như sự căm hờn vì bị đối xử trịch thượng. Bốn năm học đại học ở Anh sau chiến tranh đã củng cố thêm quyết tâm thoát khỏi ách cai trị thuộc địa của thực dân Anh trong tôi. Năm 1950 tôi trở về Singapore, tin tưởng vào mục tiêu của mình nhưng lại không lường hết được những khó khăn hiểm nguy phía trước. Làn sóng chống thực dân đã lôi cuốn tôi và nhiều người cùng thế hệ. Tôi tham gia hoạt động công đoàn và chính trị, lập ra một đảng chính trị và vào năm 1959, ở tuổi 35, tôi đảm nhiệm chức vụ thủ tướng chính phủ đầu tiên, được bầu của Singapore tự trị. Tôi cùng bạn bè thành lập mặt trận thống nhất với những người cộng sản. Ngay từ đầu, chúng tôi biết rằng sẽ phải có lúc đường ai nấy đi và khi có cơ hội là thanh toán lẫn nhau. Khi điều ấy xảy ra, cuộc đấu tranh thật là ác liệt và may thay chúng tôi đã không bị đánh bại. Chúng tôi nghĩ rằng tương lai lâu dài cho Singapore là quay lại với Malaya, vì vậy chúng tôi hợp nhất với Malaya tạo thành Liên bang Malaysia vào tháng 9/1963. Chưa đầy một năm, vào tháng 7/1964, chúng tôi phải chịu đựng những cuộc bạo động phân biệt chủng tộc giữa người Malaya và người Hoa ở Singapore. Chúng tôi bị mắc kẹt trong cuộc đấu tranh nan giải với những người Malay cực đoan trong đảng cầm quyền UMNO (Tổ chức Dân tộc Đoàn kết Malaya) – những người kiên quyết muốn có một Malaysia do người Malay thống trị. Để phản công lại việc họ dùng những cuộc bạo động cộng đồng để đe dọa chúng tôi, chúng tôi tập hợp những người, không phân biệt Malay hay không Malay, trong toàn Malaysia vào Tổ chức Đoàn kết Malaysia nhằm đấu tranh vì một Malaysia của người Malaysia1. Cho đến tháng 8/1965, khi không còn chọn lựa nào khác, chúng tôi đành phải tách ra. Sự ức hiếp và đe dọa dựa trên sắc tộc đã làm cho người dân của chúng tôi sẵn sàng chịu đựng gian khổ để xây dựng một mình. Bên cạnh đó, kinh nghiệm đau thương về các cuộc bạo động chủng tộc càng thôi thúc tôi và các đồng chí của tôi quyết tâm xây dựng một xã hội đa chủng tộc đảm bảo đối xử công bằng với mọi công dân, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Đó là tôn chỉ hướng dẫn các chính sách của chúng tôi. Quyển sách này đề cập đến quá trình làm việc gian khổ, lâu dài để tìm ra cách giữ gìn độc lập và kế sinh nhai mà không có Malaysia làm nội địa. Chúng tôi phải chống lại những bất lợi tưởng chừng như không thể vượt qua để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu tiến đến phồn vinh thịnh vượng trong vòng ba chục năm. Những năm sau 1965 là thời kỳ bề bộn và đầy âu lo bởi vì chúng tôi phải chiến đấu để đứng vững. Chúng tôi nhẹ nhõm khi thấy vào năm 1971, chúng tôi đã tạo đủ công ăn việc làm để thoát khỏi nạn thất nghiệp trầm trọng, mặc dù người Anh đã rút quân đội ra khỏi Singapore. Nhưng chỉ sau khi chúng tôi vượt qua được cơn khủng hoảng dầu lửa quốc tế năm 1973, với giá dầu tăng gấp 4 lần, thì chúng tôi mới tin chắc là chúng tôi có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình. Sau đó, chúng tôi phải làm việc cật lực, hoạch định và ứng biến nhằm củng cố địa vị là một quốc gia độc lập có khả năng liên kết mậu dịch và đầu tư với các nước công nghiệp hàng đầu và là một trung tâm phân phối hàng hóa, dịch vụ và thông tin thành công trong khu vực. Chúng tôi đã đưa thu nhập quốc dân (GDP) bình quân đầu người từ 400USD vào năm 1959 (khi tôi nhậm chức thủ tướng) lên hơn 12.200USD vào năm 1990 (khi tôi từ chức) và 22.000USD vào năm 1999, tại thời điểm có nhiều biến động to lớn về kinh tế và chính trị trên thế giới. Về điều kiện vật chất, chúng tôi đã bỏ lại sau lưng những vấn đề nghèo nàn của Thế giới thứ Ba. Tuy nhiên, phải mất một thế hệ nữa, những tiêu chuẩn xã hội, văn hóa và nghệ thuật của chúng tôi mới sánh được với cơ sở hạ tầng của Thế giới Thứ nhất mà chúng tôi đã thiết lập được. Suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh của thập niên 60 và 70, khi vẫn còn chưa rõ phe nào sẽ chiến thắng, chúng tôi đã liên kết với phương Tây. Sự phân chia trong Chiến tranh Lạnh đã làm cho môi trường quốc tế đơn giản hơn. Vì những nước láng giềng của chúng tôi đều chống lại những người cộng sản nên chúng tôi nhận được tình đoàn kết khu vực lẫn sự ủng hộ quốc tế của Mỹ, phương Tây và Nhật Bản. Vào cuối thập niên 80, rõ ràng chúng tôi đã đứng về phe của những người chiến thắng. Đây không phải là quyển sách chỉ dẫn cách xây dựng một nền kinh tế, một quân đội hoặc quốc gia, mà là sự tường thuật lại những vấn đề mà tôi và đồng sự của tôi đã phải đối mặt và cách giải quyết chúng. Tôi viết cuốn sách trước đây dưới dạng tự thuật theo thứ tự thời gian. Với ý định để cuốn sách này không quá dài, tôi đã viết nó dưới dạng chủ đề, cô đọng 30 năm chỉ trong 700 trang.              Mời các bạn đón đọc Hồi ký Lý Quang Diệu tập 2 của tác giả Lý Quang Diệu.