Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Cân Linh Hồn

Anh cho rằng nếu có thể hợp nhất từng nguyên tử của hai linh hồn vốn đã gắn kết sâu xa thì sẽ xuất hiện một trạng thái ưu việt hơn. Dưới bề ngoài châm biếm, James là người đa cảm. Anh hết lòng tin tưởng vào tình bạn, và tình yêu. Lần thí nghiệm duy nhất còn lại mà anh đã nói sẽ phụ thuộc vào cơ may cho anh gặp được hai con người, ngay lúc họ lâm chung, mà trong cuộc đời họ vốn đã có sự gắn kết hoàn hảo: anh sẽ cố hợp nhất họ một lần nữa khi họ chết. --- Tôi tắt đèn và không nén được tiếng kêu thảng thốt. Một khối cầu ánh sáng đang rực lên trên bệ lò sưởi với ánh hào quang phi thường. Không thể so sánh nó với bất cứ thứ gì ngoài vầng trăng rằm trên bầu trời đêm hè trong vắt, ở Hy Lạp hay phương Đông. Đó là một viên ngọc sáng ngời và trong lòng sâu là những luồng chuyển động còn rạng rỡ hơn, một thứ kim cương lỏng bốc cháy quay cuồng như một tinh vân lấp lánh. Tôi đã viết khá nhiều sách, một số là sách tiểu sử, một số là tiểu thuyết. Lạ thay, ở Pháp tôi lại có tiếng là tiểu thuyết gia trong khi ở Anh và Mỹ thì sáng tác của tôi lại ít thành công, còn sách tiểu sử lại được đón nhận tốt. Ngoại lệ duy nhất là một truyện đã xuất bản từ năm 1931 – NGƯỜI CÂN LINH HỒN. Ý tưởng của câu chuyện này, hoàn toàn hư cấu, đã nảy sinh trong Đệ nhất Thế chiến. Nhiều bằng hữu và người thân của tôi đã thiệt mạng vì chiến tranh nên việc tôi hay nghĩ đến cái chết có lẽ là điều tự nhiên. Giai đoạn ấy tôi có đọc trên một nhật báo có hai dòng tin tức về một bác sĩ điên nào đó đã cân tử thi của những người vừa lìa đời, nhưng phải rất lâu (bảy hay tám năm sau) ý tưởng truyện này mới hình thành. Rồi một hôm, ở London, tôi gặp một bác sĩ người Anh đúng ngay mẫu nhân vật mà tôi cần đến, và nhờ động lực này mà truyện được viết xong trong vòng hai tuần. Nhiều độc giả cứ tin là chuyện có thật. Ngay cả bây giờ, sau hơn 30 năm, tôi thỉnh thoảng vẫn nhận được một bức thư hay điện tín từ một nước xa xôi, hỏi rằng: “NGƯỜI CÂN LINH HỒN có thật không?” Khi viết, tôi đã dốc lòng viết sao cho câu chuyện đáng tin và thậm chí còn nhờ một bác sĩ Pháp danh tiếng thời đó, Jean Perrin, nghĩ ra cho tôi một kiểu thiết bị khoa học, một yêu cầu mà ông ấy đã thực hiện vui vẻ và chu đáo. (trích tự thuật của André Maurois cho bản dịch tiếng Anh “The Weigher Of Souls” – Macmillan 1963) *** Với “Người cân linh hồn”, tác giả Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. Tác phẩm Người cân linh hồn (nguyên tác tiếng Pháp Le peseur d’âmes) của nhà văn Pháp André Maurois, vừa được tái bản tại Việt Nam qua bản chuyển ngữ của dịch giả Đăng Thư vào tháng 12/2018. Người cân linh hồn là một câu chuyện giả tưởng, bắt nguồn từ niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết của bác sĩ James tại bệnh viện Saint Barnaby. Những thí nghiệm về người chết của ông được tiến hành bí mật cùng với sự theo dõi của người kể chuyện. “Sự bất tử của linh hồn” là nỗi băn khoăn của con người qua nhiều thời đại. Các ngành khoa học tâm linh đều luôn nỗ lực hết mình để tìm kiếm và lý giải những bí ẩn. Tuy vậy, linh hồn của con người thực sự tồn tại hay không, chưa ai có thể trả lời. Hình dạng của linh hồn ra sao, không ai nhìn thấy được. Theo các nhà khoa học đã nghiên cứu trước đó, “có tồn tại linh hồn, và linh hồn cân nặng 0,17 miligram”, và James cũng đã bắt đầu tiến hành cân tử thi sau khi cái chết xảy ra. Khi tiến hành cân tử thi, anh đã nhận thấy trọng lượng sụt giảm trong khoảng từ 0,75 tới 0,95 miligam. Dù tìm cách cân linh hồn, James rõ ràng không hề muốn biến linh hồn thành một thứ vật chất, “vì linh hồn kết nối với cơ thể để diễn đạt những ý nghĩa của nó, cho nên cũng có khả năng là sau khi từ bỏ cơ thể, linh hồn sẽ kết nối với nguồn năng lượng bí ẩn mà chúng ta đã nhận thấy qua hiện tượng lìa khỏi thân xác”. Sau những thí nghiệm kỳ lạ ấy, James đã thành công khi kết nối được linh hồn của hai người anh em để họ có thể ở bên cạnh nhau lâu hơn nữa sau khi chết. Chiếc lọ thủy tinh chứa đựng thứ ánh sáng lấp lánh phát ra từ việc hai linh hồn hòa quyện với nhau. Tại sao James lại khao khát muốn làm những thứ nghiệm để chứng minh sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết đến vậy? Những lớp lang ngữ nghĩa được gợi lên có thể khiến độc giả gật gù nhận ra Andre Maurois đây rồi. Dù được “hóa trang” bằng lớp vỏ giả tưởng, nhưng câu chuyện của Andre Maurois chỉ có mục đích đi sâu vào tâm tư của con người, cho con người cơ hội bộ bạch những bí ẩn của mình. James hiện ra không còn là một bác sĩ tài năng, say mê khoa học, ông còn là kẻ mị tình. James mang trong mình tình yêu si mê, tôn thờ với Hilda, cô gái Đan Mạch tuyệt đẹp. Nhưng rồi, cô ấy không còn sống trên đời bởi một tai nạn bi đát. James chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi đau đớn ấy. Anh khao khát điều gì, giá anh có thể cứu sống linh hồn của người yêu, giá anh có thể giữ mãi linh hồn của người yêu ở bên cạnh mình. Nhưng vào giây phút ấy, anh chưa tìm được cách. James khi đã là người đàn ông lớn tuổi, đã gặp gỡ Philipps xanh xao và thơ ngây. Nàng có khuôn mặt giống với Hilda, nàng là diễn viên sân khấu tài năng, nhưng ở nàng toát lên vẻ ngắn ngủi tàn lụi. Là bác sĩ, James nhận rõ đoạn đời quá ngắn của nàng, và anh đã chọn ở bên cạnh nàng cả đời. Đám cưới và hạnh phúc quá ngắn ngủi. Giữa những đoạn ấy, James đã từ bỏ nghiên cứu, dành toàn thời gian cho người vợ yếu ớt của mình. Rồi bí ẩn lại tiếp tục được hé mở khi Philipps chết, và James đã uống thuốc độc để có thể chết cùng với nàng. Tại sao? Bí ẩn đến tận giây phút cuối cùng, mới được soi tỏ. Người kể chuyện đồng thời là người bạn tri kỷ, người đã chứng kiến những thí nghiệm kỳ quái của James đã được trao lại một tâm nguyện quan trọng. Andre Maurois đã thể hiện khả năng miêu tả nội tâm sâu thẳm của con người vô cùng xuất sắc bằng ngôn ngữ thấm đẫm chất thơ mộng u sầu. Đọc Người cân linh hồn, độc giả sẽ vừa ngạc nhiên bởi cốt truyện kỳ lạ, vừa say đắm bởi những ý tứ tinh tế và đẹp đẽ được gợi lên của tâm hồn. Với Người cân linh hồn, Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. *** Tôi đã do dự rất lâu trước khi đặt bút viết lại câu chuyện này. Tôi biết chuyện sẽ khiến những ai từng thân thiết với tôi sẽ kinh ngạc, và sẽ khiến không chỉ một người khó chịu mà thôi... Một số sẽ hoài nghi thiện ý của tôi, số khác sẽ ngờ vực lương tri người viết. Chính tôi đây cũng sẽ có ý nghĩ như vậy nếu như tôi đã không ngẫu nhiên thành nhân chứng tình cờ và phản kháng những gì mà tôi sắp thuật lại. Tôi ý thức rõ sự phi lý rành rành của chúng tới mức tôi không hề kể lại chuyện đó cho những người thân thiết nhất của mình. Và nếu bây giờ tôi quyết tâm phá bỏ sự im lặng này thì lý do là tôi thấy mình không có quyền phó mặc cho vật duy nhất còn lại làm bằng chứng cho giấc mộng kỳ lạ ấy bị hủy hoại sau khi chính tôi lìa đời. Trước khi độc giả bác bỏ những lý thuyết của bác sĩ James như là điều hoàn toàn bất khả, tôi xin quý vị đừng quên một điều là tôi vốn tin mình có tâm tính cực kỳ cẩn thận. Như mọi người tôi cũng có nhiều điểm say mê và yếu kém; tôi vẫn luôn cố bảo toàn óc suy xét của mình. Trong khoa học, trong siêu hình học, trong chính trị, và ngay cả trong đời sống tình cảm, tôi luôn coi trọng việc đừng bao giờ nhầm lẫn mong muốn riêng tư với chứng cứ. Không phải lúc nào tôi cũng làm được điều đó, nhưng có lẽ tính thận trọng thường trực ấy sẽ giúp ích cho tôi bất cứ lúc nào tôi cần đến lòng tin của mọi người. Còn một lý lẽ nữa cũng ủng hộ tôi: những sự việc tôi phải thuật lại đúng là bất ngờ, nhưng bản chất của chúng thì không phải là không thể kiểm chứng. Một vài cuộc thí nghiệm đơn giản mà bất kỳ nhà vật lý, nhà sinh vật hay bác sĩ nào cũng có thể dễ dàng làm lại, sẽ cho thấy rằng các lý thuyết của James - dẫu bị coi là phi lý - cũng đều căn cứ vào quan sát thực tế. Tại sao tôi không tự mình làm tiếp những thí nghiệm này? Tại sao phải đợi khi mình đã chết rồi mới công bố chúng? Với tôi điều này không dễ giải thích. Yếu tố chính là thói nhút nhát, tôi nghĩ thế, cùng với bản tính ghét vướng bận với những chuyện rắc rối nào đó. Hoàn cảnh đã khiến tôi thành nhà văn, chứ không phải nhà khoa học. Tôi không có điều kiện tiến hành công việc ấy trong một bệnh viện hay phòng thí nghiệm. Tôi ngại tiếp xúc những người mà với họ tôi chỉ là kẻ ngoại đạo, với hy vọng có thể khiến họ quan tâm đến một hiện tượng, như tôi biết, sẽ mâu thuẫn với các quan niệm của họ. Tôi ân hận vì mình đã nhu nhược, và tôi sẽ vui mừng nếu như việc công bố hồi ký này lại khơi gợi cho những trí tuệ táo bạo một khao khát tiếp bước người bạn bất hạnh của tôi trong việc thăm dò một thế giới mới, vốn hiểu biết thu thập được từ đó biết đâu lại dẫn đến nhiều kết quả có tầm quan trọng lớn lao. დღდ Tôi quen bác sĩ James trong thời chiến. Chúng tôi lần đầu gặp nhau trên một cánh đồng bùn sình xứ Flanders, và giữa một nhóm người Anh vui vẻ, mạnh khoẻ, hai gò má cao hốc hác cùng vẻ mặt đau khổ của anh lập tức tạo ấn tượng với tôi. Anh được biệt phái theo đơn vị quân y của sư đoàn mà tôi đang làm sĩ quan liên lạc cho quân Pháp. Chúng tôi lập tức thân nhau ngay, và bất kể nỗi kinh hoàng của thời gian và khung cảnh ấy, những tháng tôi sống ở Ypres Salient làm bạn cùng anh đã để lại trong tôi những kỷ niệm hầu như có thể nói là vui thú. Giữa hai chiếc giường cá nhân của chúng tôi là một thùng bánh quy dùng làm bàn và tủ sách. Buổi tối, khi tiếng đạn pháo rú trên cao bắn về hướng Poperinghe và tiếng vải lều bạt ướt đẫm quật phành phạch trong gió đã cướp mất giấc ngủ, chúng tôi lại thì thầm trò chuyện về những kẻ điên khùng và những nhà thơ. Tôi thích người bạn ấy. Dưới cái vẻ ngoài hoài nghi đó, tôi đã có lúc thoáng nhìn ra cái tâm hồn can trường và đa cảm bên trong. Anh kín đáo tới mức tôi cùng sống bên anh hàng ngày suốt nhiều tháng liền mà không hề biết anh đã có vợ con gì chưa. Chiến tranh kết thúc đã chia lìa tình bạn này, cũng như nhiều mối thân quen khác. Suốt một năm chúng tôi thư từ qua lại, và nhờ đó tôi biết James đang làm việc cho một bệnh viện ở London. Sau đó một trong hai chúng tôi (người nào thì bây giờ tôi không nhớ) đã không trả lời thư của người kia. James trở thành một hình ảnh vẫn giăng mắc trong ký ức tôi như một ảo ảnh, như một nhân vật trong tiểu thuyết. Và cuối cùng tôi thôi nghĩ đến anh, ngay cả trong mơ, cho đến mùa xuân năm 1925. Trong năm ấy tôi có dịp đi London một thời gian dài vì mấy công việc nghiên cứu ở Viện bảo tàng Anh. Tôi ở đó một mình, khá mệt mỏi và ức chế vì công việc liên miên quá nhiều. Một sáng nọ trời nắng rực rỡ tới mức tôi không có can đảm giam mình trong phòng đọc. Suốt một hai phút gì đó tôi đứng ngắm đàn bồ câu dưới hàng cột kiểu La Mã của viện bảo tàng, trông vừa thân thuộc vừa xa cách như hàng cột của Vương cung thánh đường Saint Mark. Tôi cứ đứng trầm ngâm. Thực tế đã buộc tôi phải hiểu ra là sự cô đơn này - dù khá lành mạnh trong một thời gian ngắn - giờ càng lúc càng không thể chịu đựng nổi. Thế nhưng tôi đâu có thiếu bạn bè người Anh - tại sao tôi không thử tìm họ đi? Những buổi tối mà gặp gỡ một anh chàng thông minh như bác sĩ James chẳng phải không thú vị sao? Tôi đã quên mất địa chỉ anh ấy, nhưng dò tìm một bác sĩ thì chẳng khó chi; và khi quay lại phòng đọc, tôi tìm ra trong cuốn danh bạ y tế có tên một ông Tiến sĩ H. B. James, là bác sĩ nội trú ở bệnh viện Saint Barnaby. Tôi quyết định gác lại công việc của sáng hôm đó, và đi tìm bạn. Bệnh viện Saint Barnaby nằm ở phía nam sông Thames, trong một khu đông dân cư chạy dài đến bên kia cầu Blackfriars. Việc băng qua con sông gần đó luôn là điều khiến tôi thấy lạ lùng và hấp dẫn. Sông Thames ở đoạn này là biên cương của hai thế giới. Ta rời khỏi London kiến trúc thời Phục hưng và Gô-tích, London của những ô vuông bàn cờ, của những bờ đê có hàng cây dưới những đại khách sạn, của dòng xe buýt màu đỏ lũ lượt, để tới một thành phố của nhà máy và kho hàng, những bức tường trần trụi, và những cột ống khói thô lỗ. Và sự tương phản sáng hôm đó càng áp đảo mạnh mẽ hơn khi tôi đang băng qua cầu thì một đám mây lớn bỗng dưng che khuất mặt trời. Mời các bạn đón đọc Người Cân Linh Hồn của tác giả André Maurois.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Fulro Tập Đoàn Tội Phạm - Ngôn Vĩnh
Khối thống nhất dân tộc là sức mạnh quyết định sự sống còn của một quốc gia, nên chia rẽ dân tộc luôn là chính sách lớn của bọn xâm lược.   Tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp cũng là tám mươi năm dân tộc Việt Nam chống lại mọi âm mưu chia rẽ thâm độc: Đất nước phân thành ba kỳ; chế độ cai trị phức tạp (thuộc địa ở Nam, bảo hộ có vua ở Trung, bảo hộ không vua ở Bắc, “Hoàng triều cương thổ” ở Tây Nguyên, nhượng địa ở Đà Nẵng, quân quản ở Hà Giang…); chưa kể hàng loạt chính sách khác nhằm tạo ra hố ngăn cách sâu sắc giữa người Kinh với người Thượng, người Thượng với người Thượng, lương với giáo, tỉnh này với tỉnh kia, làng này với làng khác.    Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cách mạng giành lấy chính quyền và bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Chưa bao giờ khối thống nhất dân tộc được củng cố thành sức mạnh vô định và được toàn dân ý thức rõ ràng, khoa học như từ sau Cách mạng tháng Tám, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Vì vậy mà cũng chưa bao giờ bọn xâm lược phải chộp lấy “lá cờ dân tộc” vùng lên hùng hổ và loạn xạ như lúc này. Trong 8 năm chống Pháp đã diễn ra một loạt thủ đoạn chia rẽ xảo quyệt, rối rắm, thậm chí có khi liều lĩnh, bất chấp mọi lô - gich: xứ  Nam Kỳ tự trị, xứ Tây Nguyên tự trị, Liên bang Đại Thái, xứ Nùng tự trị, xứ Mường tự trị, v.v...    Đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp vào lúc mà những thủ đoạn thực dân lỗi thời và bọn việt gian nhẵn mặt không còn lừa bịp được ai. Cũng là lúc mà tinh thần dân tộc ăn sâu thành niềm tin vào lòng dân vì đã tỏ rõ sức mạnh vĩ đại của nó qua thử thách của cuộc kháng chiến thắng lợi.  Bắt buộc Mỹ phải phất lên “lá cờ dân tộc” dưới một hình thức mới: Trao nó vào những tay cầm cờ khác – và tung ra xung quanh một màn khói mù làm bằng trăm thứ thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hóa rắc rối.   Tây Nguyên, vùng sắc tộc phong phú và tập trung nhất của miền Nam, địa bàn chiến lược có lịch sử chống ngoại xâm kiên cường và bền bỉ, tất nhiên trở thành khu vực trọng yếu buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải dồn sức thống trị bằng được.   Cái gọi là FULRO –  Mặt trận thống nhất tranh đấu của các dân tộc bị áp bức – là lá cờ bịp mà đế quốc Mỹ và tay sai đã phất lên trước các sắc tộc Tây Nguyên suốt 20 năm chiếm đóng; và hiện nay không phải là không còn những thây ma thoi thóp mượn tiếng nó, cố phe phẩy những mảnh vụn tả tơi của nó, để tiếp tục phỉnh phờ những người chưa hiểu, mong kéo dài thêm cơn hấp hối nhau, bắt tay nhau, rồi trở mặt dìm nhau trong bể máu, tiếp tục thanh toán nhau đến đuổi kỳ được một bên ra khỏi Tây Nguyên màu mỡ…Họ như con rối mà đầu mối dây nằm trong tay những thế lực không bao giờ nhất trí về quyền lợi riêng: Mỹ, Pháp, ngụy quyền Sài Gòn và những kẻ theo đóm ăn tàn như Xi-ha-núc hay lớp chính khách cùng nhóm máu tương tự.    Những cuộc phiêu lưu mà chỉ có họ mới hiểu nguồn gốc sâu xa, còn người dân Thượng nghèo nàn lạc hậu chỉ cần tròng vào “lá cờ dân tộc” đã được đế quốc Hoa Kỳ quét lên một lớp vàng chói lóa, giúp họ dù quay quắt hướng nào cũng dễ tìm ra lời biện hộ đầy sự thật mê hoặc.    Duy chỉ có sự thật họ không lần nào dám nói lên là: Họ chưa tiến hành một trận đánh nhỏ nào để đem lại hạnh phúc thực sự cho người dân Thượng, Chàm. Họ chưa có giây phút nào hết căm thù cách mạng để cộng tác chân thành với Mặt trận giải phóng. Đó lại là sự thật rõ nhất về họ, cũng là sự thật cơ bản của đế quốc Mỹ.    FULRO, chung quy chỉ là một trò bịp lớn. Những âm mưu thâm độc và những hoạt động cơ hội “kiểu áp phe Hoa Kỳ”, những xâu xé trong nội bộ tầng lớp trên cầm đầu, những mâu thuẫn toàn cuộc và cục bộ đã phủ lên nó một vẻ bề ngoài chỉ dễ nhìn đối với những ai đứng xa, ngoài cuộc. Nhưng đối với chúng ta, chỉ cần có thì giờ và hoàn cảnh đi vào thực chất những kẻ cầm đầu và lần lại đường dây những biến động lớn đã xảy ra trên núi rừng Tây Nguyên trong 18 năm gây rối, thì sẽ không khó khăn gì mà không nhận ra bộ mặt thật của cái gọi là FULRO.   Cuốn sách này mong cung cấp cho bạn đọc một số tài liệu bước đầu sưu tập được để giúp bạn đọc tự mình nhận ra điều đó. Mời các bạn đón đọc Fulro Tập Đoàn Tội Phạm của tác giả Ngôn Vĩnh.
Biển Gọi - Hồ Phương
“Biển gọi” là câu chuyện kể về đoàn tàu không số, về một chiến sĩ có tên là Vũ và đồng đội của anh - những chiến sĩ hải quân, những thủy thủ trên những con tàu nhỏ nhoi, đơn độc, len lách tìm tòi, khai mở những con đường mới trên biển cả mênh mông, lạ lẫm và đầy sóng gió, giông bão, giữa sự vây bủa trùng điệp của quân thù. *** Hồ Phương là nhà văn quân đội, là “nhà văn của những dòng ngợi ca” như người ta vẫn thường nói. Tuy nhiên, khi viết “Biển gọi”, ông không chỉ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, không chỉ phác thảo gương mặt của những người anh hùng, miêu tả những hành động anh hùng mà ông còn có những trang viết bi tráng nói về sự hy sinh mất mát lớn lao của người lính. Tác phẩm tiêu biểu Vệ út (truyện) (1955) Vài mẩu chuyện về Điện Biên Phủ (truyện) (1956) Lá cờ chuẩn đỏ thắm (truyện) (1957) Thư nhà (truyện ngắn) (1948) Cỏ non (truyện ngắn) (1960) Trên biển lớn (truyện ngắn) (1964) Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng (ghi chép) (1964) Nhằm thẳng quân thù mà bắn (truyện) (1965) Chúng tôi ở Cồn Cỏ (ký sự) (1966) Kan Lịch (tiểu thuyết) (1967) Số phận lữ dù 3 ngụy Sài Gòn (ký) (1971) Khi có một mặt trời (truyện) (1972) Những tầm cao (tiểu thuyết - 2 tập) (1975) Phía tây mặt trận (truyện ngắn, ký) (1978) Biển gọi (tiểu thuyết) (1980) Cầm Sa (truyện ngắn) (1980) Bình minh (tiểu thuyết) (1981) Núi rừng yên tĩnh (truyện, ký in chung) (1981) Mặt trời ấm sáng (tiểu thuyết) (1985) Cỏ non (tuyển truyện ngắn) (1989) Đại đoàn đồng bằng (ký sự in chung) (1989) Anh là ai (tiểu thuyết) (1992) Ông trùm (truyện ngắn) (1992) Cánh đồng phía Tây (tiểu thuyết) (1994) Chân trời xa (tiểu thuyết) (1985) Huế trở lại mùa xuân (truyện ngắn) Yêu tinh (tiểu thuyết) (2001) Ngàn dâu (tiểu thuyết) (2002) Những cánh rừng lá đỏ (tiểu thuyết) (2005) Cha và con (tiểu thuyết) (2007) Mời các bạn đón đọc Biển Gọi của tác giả Hồ Phương.
Bất Khuất - Nguyễn Đức Thuận
Theo dõi bước chân Nguyễn Đức Thuận trên từng trang, từng trang "Bất Khuất", người đọc nhiều lúc nín thở, hồi hộp, xúc động đến trào nước mắt, trái tim căng lên, sôi sục máu căm thù. Tác giả dẫn chúng ta đi theo anh trên con đường đầy đau thương, khổ ải, trong hơn ba ngàn ngày, trải qua những lò giết người cực kỳ man rợ, man rợ hơn cả bọn đao phủ thời Trung cổ, hơn cả bọn phát xít Hítle. Qua gần ba nghìn cửa ải, từ Pêcarăngđơ, nhà lao Gia Định, trung tâm Thủ Đức, Tổng pha đến Côn Đảo, sa vào những chuồng cọp, địa ngục trần gian đầy rẫy ác ôn quỷ dữ là tập đoàn đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai mổ bụng ăn gan, uống máu người không biết tanh, Nguyễn Đức Thuận cũng với biết bao chiến sĩ cộng sản kiên cường, biết bao người Việt Nam yêu nước, đã đối mặt với quân thù, chống chào cờ ba que, chống học tập "tố cộng", chống "ly khai" tới cùng. Tám năm trời đằng đẵng, ba ngàn ngày mà mỗi phút, mỗi giây, mạng người bị treo bằng một sợi tóc mong manh, chơi vơi trên một vực thẳm kinh hồn. Hơn một ngàn đồng bào đồng chí chúng ta đã hy sinh. Nhưng Nguyễn Đức Thuận và những con người kiên cường như anh vẫn đứng vững trong chồng cọp, đánh bại lũ diêm vương quỷ sứ, đẩy lùi bàn tay thần chết, bắt lũ chúng phải quỳ lạy dưới chân mình. Mỗi trang "Bất khuất"  là một trang thấm máu và nước mắt, tràn đầy một sức sống mãnh liệt, vang lên tiếng hát yêu đời, yêu cuộc sống, yêu con người, vang lên bài ca chiến thắng không bao giờ tắt. Với trên bốn trăm trang hồi ký, Nguyễn Đức Thuận đã phản ánh sâu sắc cuộc sống anh hùng với tinh thần cách mạng tiến công của những con người có thực, vạch trần hiện thực đen tối trong những địa ngục của xã hội miền Nam dưới gót sắt của một lũ sói lang mặt người dạ thú. "Bất Khuất" toả ra một niềm tin bất diệt vào sự nghiệp cách mạng, vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa giải phóng con người, nêu cao phẩm giá của những con người nhận thức được quy luật và chân giá trị cuộc sống, biết sống và biết chết xứng đáng là Người. *** Nguyễn Đức Thuận (1916 – 1985) là nhà cách mạng Việt Nam, nguyên là Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Ông là tác giả cuốn Bất khuất, một cuốn tự truyện từng gây tiếng vang ở miền Bắc về "sức chịu đựng kỳ diệu của một người chiến sĩ", suốt 8 năm bị tra tấn dã man vẫn không khuất phục..."). Nguyễn Đức Thuận có một cuốn tự truyện duy nhất và khá nổi tiếng tại miền Bắc lúc in lần đầu là cuốn Bất khuất. Cuốn sách này thuật lại toàn bộ thời gian ông bị bắt và chịu tù đày của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, và sách cũng từng gây chấn động miền Bắc và quốc tế về sức chịu đựng khó tin của một người chiến sĩ. Sách được xuất bản lần đầu vào tháng 4 năm 1967 với 210.000 bản in tại miền Bắc. Những năm sau đó, Nhà xuất bản Ngoại văn Việt Nam đã dịch tác phẩm Bất khuất ra 5 ngôn ngữ khác (Anh, Hoa, Nga, Pháp và quốc tế ngữ), in với số lượng lớn phát hành ra nước ngoài, nhằm gây chú ý của dư luận thế giới. Cuốn sách này có nhiều ý kiến tranh cãi về độ xác thực của một số chi tiết trong đó song vẫn được xem là một tác phẩm có giá trị nên đã được tái bản một số lần[ Tuy nhiên trong cuốn hồi ký Đèn cù, Trần Đĩnh cho rằng mình là người chấp bút tác phẩm này. Mời các bạn đón đọc Bất Khuất của tác giả Nguyễn Đức Thuận.
Kỳ Án Đầu Phật
Đằng sau mỗi món đồ cổ, là tầng tầng lớp lớp lịch sử và văn hóa truyền thừa bao đời. Đằng sau mỗi món đồ giả, lại là mánh lới tính toán tinh vi cùng cạm bẫy khó bề tưởng tượng. Hứa Nguyện, một chủ tiệm đồ cổ cỏn con ở Lưu Ly Xưởng, vào đúng sinh nhật tuổi 30 đột nhiên bị cuốn vào những rắc rối theo gã là “trên trời rơi xuống”. Gia thế bao đời đã lụi tàn, thân phận người ông không biết mặt, bí ẩn đằng sau vụ tự tử của cha mẹ tới tấp phơi bày trước mắt gã, nhưng đâu là giả đâu mới là thật? Điểm mút của những búi dây ân oán chằng chịt không ngờ lại là món báu vật hiếm có người đời vẫn đồn đại. Ván cờ gã đang tham dự dường như đã được sắp đặt từ hàng chục năm trước, càng dấn sâu lại càng phơi bày diện mạo tối tăm, hiểm ác của giới cổ vật. Và để không bị nuốt chửng, chỉ dựa vào một thân tuyệt học phân biệt thật giả của Hứa Nguyện thì không đủ, bởi nhìn đồ thì dễ nhìn người mới khó. *** DANH GIA CỔ VẬT (trọn bộ 4 tập): - Kỳ Án Đầu Phật - Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ - Hôi Của Đông Lăng - Minh Nhãn Mai Hoa *** MÃ BÁ DUNG sinh năm 1980, tại Xích Phong (Ulankhad) thuộc khu tự trị Nội Mông. Ông là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với bút lực dồi dào, văn phong đa biến. Phạm vi sáng tác trải từ phê bình, tản văn, tiểu phẩm đến tiểu thuyết vừa và dài, thể loại sáng tác phong phú, bao gồm khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, lịch sử, trinh thám v.v… Năm 2005, ông đạt giải thưởng Ngân Hà dành cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Năm 2010, ông đạt giải thưởng Văn học Nhân dân, một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của văn đàn Trung Quốc. *** Minh nhãn mai hoa - Tổ chức bí ẩn thao túng giới cổ vật Hôm xảy ra chuyện, đúng vào sinh nhật lần thứ ba mươi của tôi. Thuở nhỏ thầy bói nói tôi mang mệnh “đường núi đứt ngang”. Nghĩa là gì? Chính là nửa đầu đời tôi như một con đường mòn trong núi, khúc khuỷu quanh co, gập ghềnh trắc trở, đi đến giữa chừng thì “rắc” một tiếng, con đường trước mặt bị chặt đứt, thế là toi. Nếu tiếp tục đi, số mệnh sẽ thay đổi hoàn toàn - còn sự thay đổi này rốt cuộc là họa hay phúc, lành hay dữ, thầy bói không nói, tôi cũng chẳng gạn hỏi. Tóm lại ông ta dặn tôi đến năm ba mươi tuổi nhất định phải cẩn thận, có chuyện đấy. Tôi có nằm mơ cũng không ngờ ông ta phán chuẩn như vậy. À phải, trước hết tự giới thiệu đã nhỉ. Tôi tên Hứa Nguyện, năm nay vừa tròn ba mươi, là một con kiến trong kẽ gạch dưới chân tường hoàng thành, làm nghề buôn đồ cổ. Từ sau giải phóng, nghề này đã mai một hơn ba chục năm, mãi đến cải cách mở cửa, thị trường văn vật và đồ sưu tầm mới dần nhộn nhịp. Kẻ mua người bán nín thở ẩn mình suốt giai đoạn đả phá Tứ Cựu, giờ lại nhao nhao lên như cóc nhái tháng Ba, đạp chân gạt bùn đất ra, loi nhoi ngóc dậy. Nhờ ngón nghề gia truyền, tôi mở một cửa tiệm nhỏ xíu buôn vàng ngọc đá quý tại khu Lưu Ly Xưởng bé bằng bàn tay, đặt tên Tứ Hối Trai. Thỉnh thoảng lại có người trỏ bảng hiệu hỏi tứ hối gồm những gì, tôi bèn trả lời, là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời bố tôi trối lại trước khi tự sát trong Cách mạng Văn hóa, bố và mẹ tôi bị đấu tố vì vấn đề lịch sử để lại, nhất thời nghĩ quẩn, nối gót Lão Xá đâm đầu xuống hồ Thái Bình. Sinh nhật tuổi ba mươi của tôi đại khái cũng tưng bừng, kiếm chác cũng khá, tổng cộng đẩy đi được một chuỗi mặt ngọc thiềm thừ và một con ấn sừng trâu cuối đời Thanh, đều bán cho khách Quảng Đông, kiếm đủ tiền ăn uống điện nước lẫn tiền nhà, đây là chuyện đáng mừng với một cửa tiệm nhỏ giật gấu vá vai như tiệm tôi. Thấy trời đã chạng vạng, đoán chừng chẳng còn khách khứa nào, tôi quyết định đóng cửa sớm, đến Nguyệt Thịnh Trai ăn một bữa, coi như tự khao. Sau khi thu dọn qua loa, tôi đang định khóa cửa thì chợt nghe thấy tiếng động lạ bên ngoài. Thoạt đầu cứ ngỡ là chủ nhà đến thúc tiền, hơn ba tháng nay tôi khất lần suốt. Nhưng ngay sau đó, tôi đã nhận ra không phải. Âm thanh này thấp trầm mà xào xạc như tằm ăn rỗi, thong thả từ xa trườn đến gần như cọp rình mồi. Kính tủ quầy rung lên, mấy pho tượng Phật ngọc, tượng tỳ hưu bày bên trong khe khẽ run rẩy như gặp khắc tinh, lần lượt trượt khỏi vị trí ban đầu, bụi bặm bốn bề bắt đầu bốc lên. Tôi vội ấn ngón cái lên mặt kính để nó ngừng rung kẻo mấy pho tượng rơi vỡ, thầm chột dạ. Đức Phật rời chỗ, ắt là điềm xui xẻo. Bên ngoài tối như bưng, chẳng biết tiếng động phát ra từ đâu. Không bao lâu sau, âm thanh nọ tắt lịm. Tôi định thò đầu ra xem thì cửa tiệm bị đẩy mở kêu két một tiếng, hai người bước vào. Tôi nhận ra một người là Tiểu Tưởng, công an khu vực ở đây. Kẻ đứng cạnh anh ta chừng ngoại tứ tuần, mặc cảnh phục, mặt quắt đen sì, đi nhẹ như mèo. Vừa thấy y, mắt tôi liền nheo lại. Tuy không dám xưng là có mắt nhìn người, nhưng dù sao tôi cũng biết quan sát. Phong thái con người cũng như hồ bọc* ở đồ cổ, không thể giải thích, song chỉ nhác trông là cảm nhận được. Người này thâm trầm kín đáo, không phải loại công an khu vực miệng còn hôi sữa như Tiểu Tưởng, cũng chẳng giống mấy tay hình sự lão luyện mắt sắc như dao, khí độ của y không giống như đám công an cảnh sát thường, từ đầu đến chân toát lên vẻ bí ẩn khó dò. Tiểu Tưởng lên tiếng trước, “Anh Nguyện, có người tìm anh.” Tôi chưa kịp đáp, người kia đã chìa tay ra, “Đồng chí Hứa Nguyện phải không? Tôi tên Phương Chấn, đồng nghiệp của Tiểu Tưởng, chào anh.” Tôi chần chừ bắt tay y rồi cười hỏi, “Anh từng ở trong quân đội ít nhất mười năm phải không?” “Hở?” Phương Chấn nhướng mày. “Vừa xong bắt tay, anh có chai ở hổ khẩu và mặt trong bốn ngón, đây là vết tích cầm tiểu liên chứ không phải súng ngắn. Độ dài mỗi bước của anh cũng đều tăm tắp, tôi không nghĩ ra còn ngành nghề nào khác rèn luyện được tác phong như vậy.” Người trong giới đồ cổ đều tinh mắt, đây là tố chất cơ bản. Tiệm tôi vốn mỏng tiền còm, mắt mờ một lần thì chỉ có nước sạt nghiệp, nên càng phải chú trọng kỹ năng này. Phương Chấn dường như cũng nhận ra tôi định giành quyền chủ động, nhưng chỉ cười trừ chắp tay sau lưng đi lại trong tiệm, ngắm nghía hàng hóa. Tôi bèn tranh thủ kéo Tiểu Tưởng lại hỏi, “Ai thế? Bưng một ông cảnh sát đến đây làm gì, định cho tôi ăn cám à?” Tiểu Tưởng gãi đầu, “Anh đừng hỏi em, đây là nhiệm vụ cấp trên giao xuống, em chỉ biết dẫn ông ấy đến đây thôi.” Đang định gặng tiếp thì Phương Chấn đã vòng lại hỏi, “Cho tôi xem thẻ căn cước của anh được không? Không phải nghi ngờ gì anh đâu, làm theo quy định thôi.” Tôi móc căn cước ra, Phương Chấn cầm lấy xem kỹ rồi trả lại, còn lịch sự gật nhẹ đầu. Tôi thẳng thừng yêu cầu, “Vậy anh cũng cho tôi xem thẻ ngành đi - không phải nghi ngờ gì anh đâu, chẳng qua tôi mắc bệnh đa nghi thôi.” Phương Chấn thoáng ngẩn người, rút ra một cuốn sổ bìa nhựa xanh, bên trên có mấy chữ thếp vàng “Thẻ công tác”. Tôi lật xem, thấy viết đơn vị công tác là Cục 8 Bộ Công an, nhưng không có chức vụ cụ thể. Tôi bỗng chột dạ. Nghe con cháu một vị cốp kể, Bộ Công an có hai cục bí hiểm nhất, một là Cục 9, do bộ quản lý nhưng lại trực thuộc Tổng cục tham mưu, phụ trách an toàn cho thường ủy Bộ Chính trị, còn gọi là Cục Cảnh vệ Trung ương; hai là Cục 8 của gã Phương Chấn này, phụ trách bảo vệ cho lãnh đạo nhà nước, quan khách cấp cao nước ngoài và một vài yếu nhân. Sánh ngang với Cục Cảnh vệ Trung ương, đủ thấy thế lực Cục 8 mạnh nhường nào. Nếu là mấy trăm năm trước thì đó chính là ngự tiền tứ phẩm đới đao thị vệ gộp với cẩm y vệ chứ lại chẳng! Tôi trả lại thẻ ngành cho Phương Chấn, đổi sang bản mặt toe toét, “Đồng chí Phương Chấn muốn mua hay muốn bán?” Y đáp, “Mời anh đi với tôi, có người muốn gặp anh.” Tôi ngẩn ra, “Ai vậy? Phải gặp ngay tối nay à?” “Nhất định phải là tối nay, đây là mệnh lệnh của cấp trên.” Giọng điệu Phương Chấn lịch sự mà cứng rắn. Tôi nhíu mày, cảm thấy việc này rất lạ, không thể không cẩn thận. Tuy cửa tiệm nhỏ này chẳng có gì quý giá, nhưng tôi vẫn phải thận trọng. “Anh phải cho tôi biết là cấp trên nào ra lệnh đã chứ?” Phương Chấn trỏ lên trời, “Tóm lại là cấp cao, tôi không thể tiết lộ, đây là quy định.” “Muốn gặp tôi làm gì?” “Không thể tiết lộ.” “…” Nếu không có Tiểu Tưởng liên tục đánh mắt ra hiệu, cộng thêm tấm thẻ Cục 8 kia, tôi thật muốn hỏi y học đâu ra cái kiểu ăn nói ấy. Phương Chấn giơ tay nhìn đồng hồ rồi bước ra cửa làm động tác mời. Sức ép từ Cục 8 quá lớn, dân đen như tôi thực chẳng còn đường nào khác, đành cắn răng đi theo. “Tôi phải khóa cửa đã, sợ kẻ trộm.” Tôi lầm bầm rút chìa ra khóa cửa, kiểm tra một lượt thiết bị chống trộm rồi mới chịu đi. Vừa ra khỏi cửa đã thấy đập ngay vào mắt một con xe Hồng Kỳ* CA771 đen tuyền, có lẽ đây là nguyên nhân gây ra cơn rung chấn khi nãy. Tiệm tôi không nằm ngoài mặt phố Lưu Ly Xưởng mà chui vào một con hẻm xiên xiên, đường bê tông đang tu sửa nên bề mặt toàn cát là cát. Tiếng sàn sạt ban nãy chính là do bánh xe ma sát với nền cát mà ra. Tôi không ngờ Phương Chấn lại nghênh ngang lái hẳn xe Hồng Kỳ vào hẻm đỗ trước tiệm mình. Bấy giờ tuy loại xe này đã ngừng sản xuất nhưng vẫn mang tính biểu tượng, cả Bắc Kinh chẳng mấy người có dịp ngồi. Thực chẳng rõ y tiết kiệm giùm tôi mấy bước chân hay cố ý gây áp lực cho tôi nữa. Con xe Hồng Kỳ này hơi cũ nhưng được lau rửa bóng loáng, trong bóng tối nhập nhèm trông như một con thú đá uy nghi sừng sững. Phương Chấn mở cửa sau, mời tôi lên trước. Tôi để ý thấy y tay phải kéo cửa, tay trái nắm cạnh trên cửa xe, đề phòng tôi va đầu. Đây tuyệt đối là một tay chuyên tiếp đãi khách nước ngoài! Lính phục viên, chuyên viên tiếp đón, nhân viên Cục 8! Thân phận ba lớp của y khiến tôi đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Bản thân chỉ là dân đen thấp cổ bé họng, nào dám cứng đầu với thần tiên, cung cúc mà theo thôi. Ghế sau xe Hồng Kỳ rộng bất ngờ, lại êm. Tôi còn duỗi được cả chân. Phương Chấn cũng lên xe, chu đáo kéo rèm nhung tím che hai bên cửa sổ lại rồi vỗ vai tài xế. Tài xế chẳng nói chẳng rằng, thành thạo nổ máy, xoay vô lăng chạy thẳng khỏi hẻm, Phương Chấn dựng tấm gỗ ngăn giữa hai hàng ghế lên rồi quay sang cười bảo tôi, “Xin lỗi nhé, quy định nó thế.” Hay lắm, giờ thì còn thấy được khỉ gì nữa. Tôi chợt nhớ hồi nhỏ đọc truyện liên hoàn họa, thổ phỉ bắt trinh sát quân giải phóng đưa về sào huyệt, cũng bịt mắt dẫn đi thế này. Phương Chấn ngồi thẳng người, lưng dựa hờ vào ghế, hai tay đặt trên đầu gối nhắm mắt dưỡng thần, rõ ràng là người đã được huấn luyện đặc biệt. Mấy lần tôi toan lân la hỏi dò đích đến, nhưng thấy y như vậy đành nuốt lại lời định nói, nhắm mắt dưỡng thần theo. Xe chạy khoảng hai mươi phút cuối cùng cũng đỗ lại. Phương Chấn mở bừng mắt ra. “Đến rồi.” “Bát Đại Xứ à?” Tôi hờ hững buông gọn lỏn một câu. Phương Chấn thoáng ngạc nhiên, nhưng lập tức lấy lại vẻ điềm tĩnh, nhìn tôi đầy thâm ý rồi hạ tấm gỗ chắn và kéo rèm hai bên, ra hiệu cho tôi ngồi lại, còn y xuống xe. Lúc này trời đã tối, nhưng đèn đường sáng trưng như ban ngày. Tôi nhìn quanh, phát hiện xe đang đỗ giữa một con đường nhỏ vắng vẻ. Hai bên đường là bạch dương xanh um, xung quanh không có cao ốc. Cuối đường là một khu nhà tường bao cao ngất, không đánh số nhưng có hai cảnh vệ ôm súng đứng canh, cánh cổng màu lục nhạt đóng im ỉm. Phương Chấn xuống xe, đi thẳng về phía hai cảnh vệ. Đôi bên trao đổi mấy câu, Phương Chấn bèn giơ tay ra hiệu về phía này. Tài xế khởi động máy, đánh xe đến trước cửa, cảnh vệ ngó qua cửa sổ xe nhìn tôi vẻ cảnh giác, nói vài câu với Phương Chấn, y trỏ tôi gật gật đầu. Tiếc rằng trong xe cách âm nên tôi không nghe rõ họ nói gì.   Mời các bạn đón đọc Kỳ Án Đầu Phật của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch).