Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sống Thử

SỐNG THỬ Nguyễn Nhật Thương dtv-ebook.com Ngoại Truyện 1 Tiếng chuông báo thức vang lên inh ỏi cả căn phòng nhỏ, tôi đưa tay lên khẽ dụi đôi mắt của mình rồi lay nhẹ chị Ly đang nằm ở bên cạnh: - Chị ơi, đến giờ rồi kìa, dậy đi! Ly nghe vậy cũng cựa mình một cái rồi mở mắt: - Thôi, hôm nay tao nghỉ làm, lâu lắm rồi mày mới về đây, nghỉ một hôm tao với mày đi chơi thả ga. Tôi nghe vậy lại nhìn chị bật cười: - Điên à, khó khăn lắm mới xin được một công việc tử tế, đi làm đầy đủ cho người ta không có cái nói/ - Tao làm cả năm cả tháng chứ không có làm 1 ngày, nghỉ thì đâu chết ai. - Thôi, đi làm đi, với cả hôm nay em cũng muốn đến một vài công ty thử xin việc xem như thế nào. - Sao mày mới về mà đã lo xin việc rồi? Nghỉ ngơi cho thoải mái đã, việc thì lúc nào xin chẳng được. - Thì cũng phải lo trước chứ, đâu phải mình cứ đến xin một cái là người ta nhận liền đâu. Thôi, chị dậy đi, tối nay chúng ta sẽ đi nhậu một bữa là được chứ gì. Tôi vừ nói vừa ngồi dậy kéo chị Ly, chị thấy vậy cũng chỉ liếc xéo tôi một cái rồi thở dài: - Được rồi, mày không phải xua đuổi, tao tự đi. Nói rồi chị cũng ngồi lên bước xuống giường rồi đi vào nhà tắm làm vệ sinh cá nhân. Chị Ly đã đổi nơi trọ của mình cũng được một năm rồi, có lẽ nơi cũ kia nó có quá nhiều ký ức mà chỉ có thể rời khói đó mới cảm thấy nhẹ lòng được. Bây giờ chị cũng đã xin được 1 công việc bán giày dép cho một cửa hàng trong chợ, lương không quá cao nhưng cũng được thêm doanh thu mỗi tháng nên cũng khá ổn. Chị quay trở ra đi đến tủ thay quần áo rồi nói với tôi: - Mày đưa tao đến chợ rồi lấy xe mà đi cho tiện. - Vậy chiều em đến đón chị hả? - Sao nữa? Không lẽ mày để tao đi bộ vệ? - Hay để gọi anh Hoàng đến đón? - Hoàng gì mà Hoàng, tao với lão đây không có liên quan gì cả. Một năm trước chị Ly chuyển nơi ở, một phần cũng là chuyện nyaf. Tôi còn nhớ tối hôm đó chị khóc lóc gọi điện cho tôi, sau chuyện vợ anh Hoàng đến làm ầm ĩ ở xóm chị thì đấy là lần đầu tiên chị nhắc về anh ấy với tôi. Ly nói Hoàng và vợ đã ly dị, nguyên do chỉ là giữa hai vợ chồng có mâu thuẫn đã quá sâu sắc, chú không phải là do chị cố tình xen vào gia đình nhà người khác. Nhưng có lẽ vợ của Hoàng có nhiều cái bất mãn, nên thời gian đấy luôn tìm đến chị để làm ầm ĩ, Ly cũng một phần vì đó mà mới chuyển đi nơi khác. - Anh ấy bây giờ độc thân, chị cũng độc thật, tại sao không cho nhau cơ hội nhỉ? Ly nghe vậy lại nhìn sang tôi: - Thế sao mày không cho lão Duy cơ hội? Câu nói của chị làm tôi sững người lại, mỗi lần nhắc đến anh là tôi không thể nào vô cảm được: Cũng như ngày hôm qua gặp được anh giữa con phố đông đúc ấy, tôi đã phải tự dặn lòng mình rất nhiều mới có thể bình thản mỉm cười với anh đơn giản như một người quen rồi người đi. Tôi cứ nghĩ đủ bản lĩnh để trở về đây thì sẽ chẳng còn điều gì trở ngại nữa nhưng rồi cuối cùng đối diện với anh, tim tôi vẫn nhói lên 1 cảm giác khó tả, một chút đau đớn, một chút day dứt, và một chút của người đã cũ. - Em và Duy khác, làm sao có thể giống chị với Hoàng được. - Tao thấy chẳng có gì khác cả. Ngày ấy mày và lão cũng vì hoàn cảnh gia đình, tao và Hoàng cũng vậy. Khi đấy mày vì mất đứa bé, tổn thương quá lớn nên không dám đối diện. Tao cũng vì sự day dứt khi chen chân làm kẻ thứ ba nên cũng không dám tiếp tục nữa. Nhưng mày biết không, bây giờ nếu tao tiến đến với Hoàng sẽ vĩnh viễn bị xem là kẻ phá hoại gia đình người khác, người đời mỉa mai. Còn mày và Duy, tất cả các rào cản đều biến mất rồi. Nghe chị nói vậy bàn tay tôi bất giác lại đưa lên bụng mình, nếu lần đó đứa bé không sao thì có lẽ giờ này tôi đang cùng nó chơi đùa. Tôi cũng chưa từng hận anh vì chuyện đó, chỉ trách bản thân mình không đủ khả năng làm mẹ nhưng sự mất mát ấy quá lớn, có lẽ điều đấy khiến tôi không dám mở vết thương của mình ra xem lại nó: - Không ai đi tiếp trên lối mòn cũ cả. - Vậy sao? Nếu vậy sao mày không yêu Kiệt đi. Tao thấy anh ấy tốt lắm, giúp mày trả nợ, giúp mày xử lý con Trang, không quay trở lại Pháp chỉ đơn giản vì mày khi đó còn chông chênh, và giờ hai năm rồi, anh vẫn đang đợi mày. Đấy, con người mới, đường đi mới, sao mày không chọn? Lời chị nói làm tôi bỗng nhiên cảm thấy day dứt, đứng dậy đi vào nhà vệ sinh mà trả lời qua loa: - Kiệt quá tốt, em cảm thấy mình không xứng. Chị Ly lúc này cũng tiến lại chỗ tôi mà nói vọng vào: - Một khi đã yêu thì không có chuyện xứng và không xứng ở đây. Mày đừng lấy cái đó ra để bao biện cho việc mày vẫn đang còn yêu Duy. Không hiểu sao tôi nghe đến đấy lại cảm thấy trong lòng có chút bực bội, vệ sinh cá nhân xng quay ra nhìn chị mà gắt nhẹ chị: - Thôi, di làm nào, nói rõ nhiều. - Ơ con này, mày cáu bẩn cái gì? Là tao nói đúng quá à? - Đúng cái gì mà đúng, chị còn không đi nữa là muộn đấy. Nói rồi tôi cũng đi lại trang điểm qua loa, chỉnh trang quần áo một chút, hồ sơ xin việc cũng mang sẵn cầm ở tay rồi xách túi đi ra ngoài. Ly thấy vậy cũng không nói thêm gì nữa trở ra khóa cửa lại rồi chúng tôi cùng lên xe rời đi. Chị đưa tôi đến chợ rồi xuống xe: - Này, đi cẩn thận nhé, phố xá dạo này đông lắm, vài thằng thanh niên trẩu tổ lái nên chậm chậm mà đi thôi. Buổi trưa tao ăn cơm ở quầy luôn, không về đâu nên mày không phải đón, ra tạm quán bình dân nào mà ăn nhé. Tôi cầm lấy chiều khóa xe từ tay chị rồi nói: - Em biết rồi, chị dặn gì mà như mẹ dặn con thế. - Chẳng không à? Còn hơn mẹ ấy chứ, thôi đi đi, tao vào đây. Nói rồi chị quay người trở vào, tôi cũng lên xe lái đi thẳng. Phố xa bây giờ đông thật, ô tô đi đầy đường, xe máy lại chen chúc nhau, dừng ở các ngã tư đèn xanh đèn đỏ bây giờ phải kéo lên những vài phút, ấy thế mà vẫn có nhiều thằng trẻ trâu, đầu không mũ nón cứ vượt ầm ầm. Tôi đi dọc dọc vài khu phố, thật ra ở đây xin việc vốn không khó, nơi nào cũng cần nhân lực nhưng đa số là các cửa hàng quần áo, những công việc part time ngoài giờ cho sinh viên, rồi quán café, quán ăn...có đến ti tỉ việc để xin làm. Nhưng tôi muốn tìm một công việc phải khá ổn định, lương không cần cao nhưng cũng phải thỏa đáng, công việc không cần quá nhàn hạ nhưng hạn chế việc phát sinh làm ngoài giờ hay tăng ca, bởi sau ngày làm việc mệt mỏi tôi muốn bản thân có thời gian để chăm chút cho mình, tận hưởng cuộc sống. Đi lòng vòng vài con phố, vô tình thấy được một thông báo tuyển dụng của một nhà hàng khá đẹp mắt trông có vẻ là mới khai trương, không hiểu sao tôi lại có hứng thú rẽ vào, dù sao với chuyên ngành quản trị kinh doanh, tôi không tin vào đây tôi lại không có một vị trí để làm. Dựng xe gọn lại một chỗ, chú bảo vệ thấy tôi liền tươi cười nói: - Cứ để đó chú dắt cho, đến xin việc hả? Tôi nghe vậy cũng nhìn chú cười mà gật đầu một cái: - Dạ. - Ừ, vào trong đi, ở quầy lễ tân có cái cô trẻ trẻ tên Phương, cháu lại đưa hồ sơ cho cô ấy là được. - Vâng, cháu cảm ơn! Nói rồi tôi cũng đi vào bên trong, không gian nhà hàng này rất rộng, cách bố trí cũng khá ưa nhìn, nội ngoại thất bắt mắt, nhìn qua cũng biết là hàng chất lượng. Từ đèn, rồi những chậu hoa cảnh, đến vị trí đặt bàn ghế rất hợp lý, tạo cho người ta bước vào có cảm giác thoải mái nhưng vẫn không kém phần sang trọng. Đôi mắt dừng ở quầy lễ tân, tôi theo đó tiến lại, nhìn thấy một người phụ nữ khá đứng tuổi nhưng còn nét trẻ, nhìn cái thẻ cài ngực của chị thấy cái tên Đỗ Trúc Phương tôi mới mỉm cười một cái rồi lại gần: - Chào chị, em thấy ở ngoài kia có dán thông báo tuyển dụng, không biết bên mình còn cần không ạ? Chị ta nghe vậy cũng lịch sự mỉm cười rồi nhẹ nhàng nói: - Em có mang theo hồ sơ không? - Dạ, có! Nói rồi tôi cũng đưa bộ hồ sơ cho chị ta, chị Phượng nhận lấy mở ra xem một hồi rồi cất lại: - Hiện tại sếp không có ở đây, em cứ để hồ sơ lại, có gì chị sẽ liên lạc sau nhé. Tôi nghe vậy cũng gật đầu một cái: - Dạ, vậy có gì chị liên lạc với số điện thoại em ghi trong hồ sơ nhé, em xin phép. Nói rồi tôi cũng chào chị ta một cái mà quay trở ra ngoài, đi lại phía xe thì chú bảo vệ khi nãy lên tiếng: - Sao rồi, có xin được không? Tôi nhìn ông cười một cái: - Dạ, cháu mới đưa hồ sơ, còn phải đợi người ta xem xét nữa. Ông đi lại chỗ tôi dắt chiếc xe quay đầu ra nối nói: - Ừ, nói chung ở đây cũng dễ xin thôi mà, chú cũng mới đến làm được vài ngày, vào nói cái họ nhận luôn. Chắc sếp cũng dễ tính. - Ơ thế chú chưa biết mặt sếp ạ? - Biết đâu, chú mới đến đây làm vài ngày, biết mỗi cô Phương đấy còn sếp hình như không thấy xuất hiện, chắc mở ra để thuê nhân viên làm thôi. Tôi nghe vậy cũng gật đầu cười một cái rồi chào ông mà đi lại xe, còn chưa kịp đội mũ vào thì một chiếc ô tô dừng lại ngay trước đầu xe của tôi khiến tôi có chút khó chịu mà nghĩ thầm trong đầu: "Mẹ nó, có cái dốc để đi xuống mà nó lại chắn đi, cứ nghĩ ô tô là muốn đỗ ở đâu cũng được chắc". Tôi đợi cho cái người trong xe bước xuống là sẽ định lên tiếng nói, chỉ là cánh cửa mở ra, người bước xuống đấy làm tôi sững người. Vẫn là màu trắng quen thuộc của chiếc áo sơ mi, cũng quần âu đen đồng bộ như vậy, anh vẫn chẳng thay đổi gu thời trang của mình, nhưng kỳ lạ chẳng hiểu sao tim tôi vẫn như ngày ấy bỗng nhiên đập nhanh hơn một nhịp thì phải. Phan Bá Duy, thì ra tôi vẫn chưa thể nào bình tâm được với anh. Anh từng bước đi lại phía tôi, kéo đến cả một không khí căng thẳng, bởi vì lần gặp này cũng quá bất ngờ, khiến tôi không kịp phản ứng nên chỉ đứng yên ở đấy nhìn gương mặt của người đàn ông trước mắt. - Hôm qua nhìn thấy em, còn chưa kịp có lời chào. Bây giờ thật tốt quá, em khoẻ không? Tôi nghe vậy cũng nhìn anh cười gượng gạo một cái rồi trả lời: - Vẫn tốt. - Thời gian qua em đã ở đâu vậy? Tôi có đến tìm Ly và xuống nhà nhưng mọi người đều nói là không biết. Có gì lạ đâu, bởi vì mọi người đều đã bị tôi căn dặn từ trước rồi, nếu dám nói đia chỉ, tôi chắc chắn sẽ biến mất không một vết tích. - Chỉ là đến một thành phố khác để thay đổi bản thân, mọi người không biết cũng là vì tôi không nói, tôi cần yên tĩnh một thời gian. - Lần này trở lại em có đi nữa không? - Không nói trước được. Cảm thấy ở cạnh anh khiến tôi có chút lúng túng nên cũng vội dắt xe định đi sang hướng khác mà rời đi: - Tôi còn có việc phải đi trước. Khi tôi vừa mới rời được một bước, Duy bỗng nhiên đưa tay ra giữ lấy cánh tay tôi lại làm tôi có chút bất ngờ nhìn sang anh, cái giây phút đối diện nhau ở khoảng cách này, người đàn ông ấy lại làm tôi dao động bởi giọng nói trầm ổn: - Hai năm trước tôi bở lỡ em, khoảng thời gian đấy tôi cứ nghĩa đã đánh mất cuộc đời mình. Gặp lại hôm nay, trời bỗng nhiên nở nắng đẹp......tôi có thể theo đuổi em được không? Tôi cảm nhận được hai bên má đang trở nên nóng bừng, tim cũng đập nhanh dữ dội, có chút bối rối khẽ gạt tay anh ra mà dắt xe đi rồi nói: - Đồ điên! Dứt lời tôi cũng cố gắng rời khỏi đấy nhanh một chút, không khí vừa rồi thật sự khiến tôi không thể nào bình tĩnh được. Không hiểu sao nghe những lời anh nói sống mũi tôi lại trở nên cay, tôi cũng cảm nhận được đôi mắt đã long lanh nước, ngồi lên chiếc xe mà rời đi cũng chẳng muốn quay đầu nhìn lại. Nếu như là hai năm trước, nói đúng hơn là nếu như việc đau lòng của hai năm trước không xảy ra, khi nghe được những lời đấy, tôi có thể sẽ mỉm cười mà gật đầu, chỉ là sự mất mát quá lớn ấy khiến tôi đến bây giờ vẫn không thể nào bình tâm tiếp nhận được. Thời gian hai năm qua ở một nơi khác, tôi không ngày nào là không mường tưởng đến chuyện nếu đứa bé còn thì bây giờ sẽ như thế nào, gặp lại anh chỉ khiến tôi nghĩ đến những điều tồi tệ khi ấy cho dù tôi tự biết bản thân mình đối với anh vẫn chưa thể nào dứt. Chỉ là bây giờ, lý trí đã ở trên con tim rồi. Tôi vừa đi vừa thơ thẩn suy nghĩ, tiếng chuông điện thoại vang lên mấy lần mới sực tỉnh mà nghe thấy liền vội dừng xe ở bên mép đường rồi nghe máy: - Alo! - Em là Lê Bích Huyền phải không? - Dạ. - Ừ, chị là ở bên nhà hàng em mới gửi hồ sơ xin việc đấy. - A, vâng. Sao vậy chị? - Ừ, em được nhận rồi nhé, có thể đến làm việc bất cứ lúc nào. Tôi nghe vậy lại cảm thấy kinh ngạc, vừa mới đó mà được nhận rồi, cứ nghĩ phải ít nhất vài ngày hay một tuần. - Dạ, vậy để em thu xếp một chút, hai, ba ngày nữa sẽ đến làm được không chị. - Được em, vậy nhé. Hôm nào làm chị sẽ nói rõ về phần công việc của em. - Dạ Nói rồi tôi cũng tắt máy, vẫn còn đứng ngây ở đấy vì chưa tin mình được nhân nhanh đến như vậy. Lúc này chuông điện thoại lại tiếp tục vang lên, tôi nhìn cái tên được lưu trên màn hình ròi liền bắt máy: - Anh gọi đúng lúc thế, tâm trạng đang tốt. - Sao? Có chuyện gì thế? - Tối anh em mình đi nhậu một bừa nhé, hôm nay em xin được việc nên sẽ mời. - Xin việc rồi sao? Vội thế? - Vâng, nhưng mà mình muốn làm khi nào cũng được anh. - Thế công việc là làm gì? - Tốt thì là quản lý, không thì là kế toán cho nhà hàng, hôm nào đi làm em mới nhận việc. - Làm nhà hàng à? Sao không xin công việc nào nhẹ nhàng một chút, anh có người quen làm ở.... - Kiệt, như vậy là được rồi, em cảm ơn nhưng em muốn tự lực cánh sinh, không muốn dựa dẫm hay nhờ vả ai nữa. Tôi lên tiếng cắt ngang câu nói của anh, đâu bên kia bỗng im lặng một hồi rồi mới lên tiếng: - Được rồi, tối nay mấy giờ thế? Anh đến đón hai chị em nhé. - Ok, khoảng 7h nhé, có gì em sẽ gọi. - Ừ. Nói rồi tôi cũng tắt máy, lại phóng xe đi lượn lờ một vài chỗ, ngó nghiêng phố phường, ghé vào vài quán mua sắm đôi chút. Chị Ly buổi trưa không về tôi cũng chỉ về phòng pha một gói mì tôm ăn tạm rồi gọi điện về cho bố: - Bố và thằng Tí đã ăn cơm chưa? - Vừa mới ăn xong. - Con hôm nay xin được việc ở trên thành phố rồi. Chắc mai sẽ về thu xếp đồ đạc rồi chuyển lên đây. - Xin rồi sao? Công việc gì thế? Tôi nghe vậy cũng hiểu được sự lo lắng của ông, trong lòng cũng chẳng có gì tức giận: - Làm quản lý của một nhà hàng thôi. - Làm nhà hàng sao? Môi trường có tốt không con? - Bố yên tâm, 2 năm qua bố không hề nghĩ gì, tai sao bây lại lo lắng như vậy? - Huyền à, bố không phải không tin tưởng con, bó chỉ sợ có nhiều chuyện khiến con nhớ lại sẽ lại đau lòng. Tôi lại khẽ cười một cái rồi trả lời ông: - Mọi chuyên, con đã quên từ lâu rồi. Thôi, bố nghỉ trưa đi, ngày mai con sẽ về. - Ừ. À mà Huyền này. - Sao ạ? - Cô Sáu nó nói con Na nó lên đấy vừa học vừa làm, có nhờ bố bảo con, xem xem nó ở đâu thử liên lạc, có gì thì giúp đỡ nó một tí nhé. - Vâng, con biết rồi. Nói rồi tôi cũng tắt máy, thả mình xuống chiếc giường một cách thoải mái, tính ra tôi cũng chẳng ưa con Na hay cô Sáu, chỉ là hai năm qua những tổn thương kia còn xóa đi được thì dù sao hai người bọn họ cũng là người nhà, tôi có thể bỏ qua được. Không phải vì dè chừng họ, mà vì tôi muốn tâm mình thoải mái mà sống. Khi trời đã đổ về chiều, tiếng chuông điện thoại đánh thức tôi dậy, nhìn thấy là số chị Ly mới giật mình để ý đến giờ rồi bắt máy: - Em đây, ngủ quên mất, bây giờ em ra đón chị nhé. - Đón gì nữa mày, tao bắt xe ôm về rồi. Đợi mày ra đón thì tôi nay ở phòng pha mì tôm ăn à. Tao gọi mấy cuộc thấy không nghe lo có chuyện gì thôi, sở soạn đi, tao về luôn đấy. - Vâng. Tôi tắt máy rồi vội vàng đi vào nhà vệ sinh tắm rửa một chút, không hiểu sao hôm nay lại ngủ miên man đến không biết trời đát nữa như vậy. Quay trở ra ngoài đi đến phía gương trang điểm qua loa thì chị Ly cũng về đến phòng, tôi thấy vậy liền lên tiếng: - Em hẹn anh Kiệt rồi, anh ấy bảo đến đón hai chị em mình. - Ừ, chứ uống rượu rồi, tao cũng ngại lái xe lắm. Chị vừa nói vừa lao vào nhà vệ sinh, nước xối xả ở trong đấy một lúc rồi đi ra, phải nói là chị sở soạn cực nhanh, vài phút là đã phấn son, quần áo tươm tuốt. Kiệt cũng đã gọi cho tôi nói anh ấy đang chờ ở đầu ngõ, tôi và chị trở ra khóa cửa rồi đi ra ngoài, thấy chiếc xe quen đấy là liền mở cửa ngồi lên. Chúng tôi đi đến một quán nhậu khá bình thường, thật ra ăn uống ở những nơi như thế này nó thoải mái hơn rất nhiều so với nấy cái nhà hàng sang trọng kia. Ngồi vào bàn gọi lên vài món rồi thêm vài chai rượu Vodka X, đúng là xa nghề lâu rồi nhưng đi đâu ăn uống tôi đều có thói quen gọi rượu của công ty. Uống đôi ba chén, chị Ly lúc này lên tiếng: - Thế hôm nay xin được việc ở đâu rồi? Tôi nghe vậy cũng trả lời chị: - Nhà hàng MISS. - MISS? Tao nghe cái tên này quen quen, nghe ai nói qua rồi thì phải. - Nó nằm ở đường ...đấy, em vô tình đi qua, bắt mắt với cái tên nên mới vào xin, MISS - BỎ LỠ, nghe nó có cảm giác kiều gì ấy. - Thôi thôi, mày lại bắt đầu phân tích tâm lý học đi. Uống đã nào. Mời các bạn đón đọc Sống Thử của tác giả Nguyễn Nhật Thương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Hè Đỏ Lửa
Mở đầu Mùa Hè Ðỏ Lửa, nhà văn Phan Nhật Nam viết: Mùa Hè, những cơn mưa bất chợt ùn ùn kéo đến, ào ạt chụp xuống núi rừng Kontum, Pleiku... Trời thoắt trở lại xanh, cao khi mưa dứt, nắng hanh vàng ấm trong không khí gây gây lạnh, những đồi cỏ xanh dọc Quốc Lộ 14 bắt đầu óng mượt, cánh cỏ non lớn dài phơi phới dưới sau trận mưa đầu mùa và thung lũng xa vàng rực hoa hướng dương. Không khí, gió, trời mây và cỏ cây thay đổi hẳn, mới mẻ toàn khối, toàn sắc, vùng cao nguyên lộng lẫy, triền miên với từng hạt nắng vàng ối tan vỡ trên đồng cỏ xôn xao gió thổi... Ðã từ lâu...Lâu lắm, người dân của ba miền đã qua những mùa hè trong cạn đáy khắc khoải để hy vọng tiếp tục đời sống với mơ ước chỉ đầy chén cơm. Nhưng mùa Hè năm nay, 1972 tất cả hy vọng và mơ ước nhỏ nhoi tội nghiệp kia tan vỡ trong tận cùng kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá nặng độ, chiến tranh quá dài, dài thê thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người dân Việt mong mỏi đi qua thêm một mùa, một năm, chiến tranh lắng dịu và được sống sót. Nhưng, 30 tháng 3 ở Ðông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế và Quảng Trị... Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Ðất Ðỏ... Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm. Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người. Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng. *** Theo tự thuật, vào thời điểm khởi thảo - tháng 04 năm 1972, tác giả theo Lữ đoàn II Nhảy Dù đổ bộ xuống đồi Charlie (nơi được lính đặt biệt danh "nồi cơm điện National" vì mức độ quyết liệt) nhằm cắt đứt tuyến tiếp tế qua quốc lộ 14 của các sư đoàn cộng quân. Sau đó, nhân vật xưng Tôi lại theo nhiệm vụ tiếp ứng Tiểu đoàn I Thủy Quân Lục Chiến giải phóng quốc lộ 1 và toàn tỉnh Quảng Trị tới hết tháng 03 năm 1973. Tác phẩm được gửi in tại nhà Sáng Tạo ở đô thành Sài Gòn trong năm 1973 và liên tục được các san hành xã khác nhau tái bản, trở thành ấn phẩm chiến tranh ăn khách và gây ấn tượng nhất thập niên 1970 ở cả hai miền Việt Nam. Tới thời điểm 30 tháng 04 năm 1975, các nhà in này thậm chí chưa thanh toán hết nhuận bút cho tác giả. Sau sự kiện 30 tháng 4, Mùa hè đỏ lửa cùng mọi tác phẩm kí danh Phan Nhật Nam bị đem ra đường phố đốt trong "chiến dịch bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy" năm 1978. Tuy nhiên, những ấn bản khác vẫn tồn tại ở nhiều thư viện tư thục nên nội dung không hề mai một theo thời đại. Ở thập niên 1980, tác phẩm lại được các nhà san hành hải ngoại cho tái xuất cả nguyên bản và dịch bản, đồng thời nội dung được đưa vào tàng trữ tại thư khố Đại học Michigan. Đến năm 1998, nhân kỉ niệm Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tác giả Phan Nhật Nam bổ sung trong bản in mới các bài tựa để củng cố chiều sâu tác phẩm và tới nay được công nhận là bản lưu hành chính thức. Trước khi Mùa hè đỏ lửa phát hành, tác giả Phan Nhật Nam đã được đánh giá là một trong những cây bút thượng hạng trong giới văn chương về đề tài chiến tranh. Nhưng ngay khi công bố, tác phẩm đã gieo những kinh ngạc trong báo giới về doanh thu và phải tái bản 30 lần để đáp ứng nhu cầu độc giả. Thành công vang dội này đem tên tuổi ông ra quốc tế, đồng thời, nhan đề tác phẩm về sau được coi là định danh phi chính thức của chuỗi chiến dịch Xuân Hạ 1972 trong các văn bản khoa học. Còn theo nghiên cứu gia Vương Trí Nhàn, từ những năm trước và sau sự kiện 30 tháng 04 năm 1975, tác phẩm Mùa hè đỏ lửa cùng một số ấn phẩm khác của tác gia Phan Nhật Nam đã được các nhà văn khoác áo lính ngoài Bắc tìm đọc khi có cơ hội vào thành thị miền Nam. Riêng với tác phẩm Mùa hè đỏ lửa, Phan Nhật Nam đã trở thành một vấn đề văn học thời chiến, gây nên những tranh luận sôi nổi trong giới văn bút Hà Nội từ thập niên 1970 mãi tới những năm 2020. Ngày 04 tháng 03 năm 1973, tác giả Phan Nhật Nam tới phi trường Lộc Ninh chứng kiến lễ trao trả tù binh với tư cách kí giả quân sự[3]. Theo lời khuyên của hai bạn văn Nguyễn Văn Thành và Đỗ Ngọc Yến, ông đem theo cuốn Mùa hè đỏ lửa. Tại đây, trước mặt 30 phóng viên quốc tế, ông gặp kí giả Bùi Tín (tư cách phóng viên báo Nhân Dân) và cho ông Bùi Tín coi bức ảnh in trong Mùa hè đỏ lửa để chứng minh vụ thảm sát Huế. Sau cuộc gặp này, ông bị phạt 60 ngày trọng cấm vì tội "phát biểu bất lợi cho quốc gia và phổ biến tác phẩm bất hợp pháp". Sự kiện này về sau cũng được kí giả Bùi Tín xác nhận. “    Phan Nhật Nam viết liên tiếp sáu cuốn ký về chiến tranh. Đọc những điều ông kể, người dân nghe chuyện lính cũng lây luôn cái phẫn nộ, cái uất hận của ông. Lòng nào nghĩ đến cái "văn" trong những tác phẩm như thế. Mười lăm năm của một người lính Nhảy Dù, ông làm lính xứng đáng. Mười lăm năm trong lao tù cộng sản, ông làm một tù nhân can trường. Văn nghiệp mười năm của ông phản ảnh chỗ nhiệt tâm dũng mãnh, can trường, trong cuộc sống ấy. Cái "văn" của ông là ở đó.    ” — Võ Phiến, Văn học Miền Nam: Tổng quan, California, Mĩ, 1987 Tác phẩm được trao Giải thưởng phóng sự chiến trường năm 1973. *** CHƯƠNG1   LỜI TÁC GIẢ Mùa Hè, những cơn mưa bất chợt ùn ùn kéo đến, ào ạt chụp xuống núi rừng Kontum, Pleiku... Trời thoắt trở lại xanh, cao khi mưa dứt, nắng hanh vàng ấm trong không khí gây gây lạnh, những đồi cỏ xanh dọc Quốc Lộ 14 bắt đầu óng mượt, cánh cỏ non lớn dài phơi phới dưới sau trận mưa đầu mùa và thung lũng xa vàng rực hoa hướng dương. Không khí, gió, trời mây và cỏ cây thay đổi hẳn, mới mẻ toàn khối, toàn sắc, vùng cao nguyên lộng lẫy, triền miên với từng hạt nắng vàng ối tan vỡ trên đồng cỏ xôn xao gió thổi... Mùa Hè, gió Lào miền Quảng Trị, Thừa Thiên thổi từng luồng, từng chập, đưa “con trốt” chạy lừng lững trên cánh đồng cát chói chang, những đồi hoa sim, hoa dủ dẻ rung rinh bốc khói dưới mặt trời hạ chí. Giòng nước sông Hương, sông Đào, sông Bồ, Mỹ Chánh, Thạch Hãn đục hơn, thẫm màu hơn, lăn tăn từng sợi sóng nhỏ len lỏi khó khăn qua kẽ đá, bãi cát, chầm chậm chảy về phía Tam Giang, cuốn trôi theo đám lá tre già khô úa. Mùa Hè, những con đường thành nội Huế lốm đốm ánh trăng xuyên qua cành lá, cô gái chuyển tấm lưng sau lớp tóc dài dày kín, nâng khối tóc xôn xao lên khỏi chiếc gáy để cơn gió ngắn len qua hàng rào chè xanh thổi khô đi lớp mồ hôi rịn trên những lông tơ nõn. Mùa Hè, mưa rào tăm tắp đổ xuống kín trời An Lộc, chập chùng ẩn hiện những thân cây cao su nhoà vào nền trời xám tối, khu rừng biến thành khối đêm đen trong khoảng khắc, khối đen chuyển dịch, vẫy vùng ào ạt theo từng cơn lốc gió... Mưa tan, trời tạnh, ánh trăng lạnh nhô lên từ phương tây, cuối bình nguyên lồng lộng, núi Bà Đen ấn một nét đen thẫm thần bí trên nền trời xanh ánh trăng. Và đàn nai bắt đầu tung tăng từ đầu nguồn, cuối lạch... Đàn nai chạy vun vút qua rừng cây, trên đồng cỏ mượt sóng, chạy và ngừng lại, “bép” mấy tiếng âm u cùng ánh trăng chập chờn trên sóng cỏ. Mùa Hè, mùa đẹp đẻ, tươi gắt căng sức sống, ngày ngày nỗ lực trên mặt nước loáng ánh nắng hay đồng lúa nặng hạt. Hạt ngọc của trời, và người dân cất cao tiếng hò... Được mùa chớ phụ môn khoai, Đến năm Thân, Dậu lấy ai bạn cùng... Tiếng hò chạy dài trên lúa, theo cơn gió đưa ra đến đầu ghềnh, cuối cửa sông, tan biến vào cùng sóng nhỏ... Trên mặt nước, con đò xuôi về Thế Chí, Đại Lộc dọc Phá Tam Giang(*)), lại vang dội một giọng hò khác phảng phất nét tàn tạ bi thảm của hơi Nam Ai thê thiết... Hò... ơ... ai...về...ạ... ạ... Đại...Lộc...ạ... ạ... ai vượt... ạ..ơ..Kế Môn... (*): Phá lớn giữa hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, do ba sông Thạch Hãn, sông Bồ và Sông Hương đổ vào. Đã từ lâu...Lâu lắm, người dân của ba miền đã qua những mùa hè trong cạn đáy khắc khoải để hy vọng tiếp tục đời sống với mơ ước chỉ đầy chén cơm. Nhưng mùa Hè năm nay, 1972 tất cả hy vọng và mơ ước nhỏ nhoi tội nghiệp kia tan vỡ trong tận cùng kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá nặng độ, chiến tranh quá dài, dài thê thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người dân Việt mong mỏi đi qua thêm một mùa, một năm, chiến tranh lắng dịu và được sống sót. Nhưng, 30 tháng 3 ở Đông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế và Quảng Trị... Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Đất Đỏ... Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm. Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người. Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng. Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân(**), cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy.Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện. Mùa Hè cuối đáy điêu linh. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đày! (**): 1945; 1968. Viết lại, Ba sư đoàn bộ binh 304, 308, 324B, cùng sáu trung đoàn địa phương của Khu 5, ba trung đoàn chiến xa, hai trung đoàn đặc công và một sư đoàn pháo nặng 130 ly, cho mặt trận Trị-Thiên. Ba sư đoàn 5, 7, 9, tăng cường sư đoàn Bình Long, hai trung đoàn 202 và 203 chiến xa, được yểm trợ bởi một sư đoàn pháo nặng tại mặt trận An Lộc. Hai sư đoàn 320 (Thép) và Sao Vàng, một trung đoàn chiến xa tấn công vào Tân Cảnh, Kontum; hướng tiến được dọn đường bởi một trung đoàn pháo đặt từ rặng Big Mama Mountain, vùng Ba biên giới Việt-Miên-Lào. Cộng quân chơi trò chơi máu, mở đầu những “ngày hè đỏ lửa”, trận cuối cùng để tìm kiếm kết thúc cho mười năm chiến tranh “giải phóng” cạn lực, sau “tổng-công-kích thất bại Mậu Thân 1968”. Quân ta phải chống lại.Chống giữ để tự vệ. Chống trả nơi biên giới cuối cùng: Tự Do hay Nô Lệ. Sống hoặc Chết. Trận đấu quyết tử và trận chiến cực điểm. Ba tháng hay 100 ngày chiến trận, những kỷ lục chiến trường thay đổi từng nấc, từng bậc lớn, từ 2,000 quả đạn cho cứ điểm Charlie, Kontum đến 8,000 quả cho An Lộc.Bắc quân đi bước tàn nhẫn không nương tay và quân dân Miền Nam đồng đương cựvới nổ lực cao nhất tại “Điểm đứt hơi - Điểm vỡ của chiến trận”. Chúng ta đã chiến đấu giữ vững và kiêu hùng chiến thắng. Hôm nay, ngày đầu tháng 8, cuộc đại chiến đã bước qua tháng thứ tư, và có cơ kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng quân dân ta cắn răng, ngậm chặt, hứng hết tai họa, đựng đầy khổ nạn... Chịu thêm nữa cũng thế, đánh thêm nữa cũng được. Trong nguy nan, Dân tộc biến thành “Thánh chịu nạn”. Dân tộc kiêu dũng, quật cường, vượt qua, bất chấp tất cả để tồn tại. Ngọn lửa Mùa Hè 1972 nung độ nóng cao nhất trui rèn chúng ta - Người Việt Nam muốn sống đời đáng sống của Người - Người Tự Do. Được đi, chứng kiến và dự phần vào ba mặt trận, ba vùng đất quê hương, người viết không mong gì hơn ghi lại một vài khía cạnh của cuộc chiến - Cuộc chiến vĩ đại vượt mọi chiến tranh - Mà phải một ủy ban quân sử, trong thời gian dài mới có khả năng, điều kiện thâu tập và đúc kết toàn thể. Vì chỉ ghi được biến cố qua một vài khía cạnh, với những người, đơn vị lâm chiến quen thuộc; người viết xin tạ lỗi do những thiếu sót mà một cá nhân không thể nào tránh khỏi, và đã phải viết lại từ một khoảng ngày tháng quá gấp rút. Ngày Quân LựcVNCH, Tháng 6, 1998. Mùa Hè, Đất Mỹ. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Đỏ Lửa của tác giả Phan Nhật Nam.
Dựa Lưng Nỗi Chết
Dựa lưng nỗi chết là thiên truyện thứ nhì sau Ải trần gian (1970), vẫn lấy đề tài quen thuộc với tác giả là chiến tranh. Tác phẩm gồm 7 chương và một đoạn kết nằm ngoài cấu trúc chung, những lần tái bản ở hải ngoại về sau còn thêm bài tựa của bạn văn Đào Vũ Anh Hùng[2]. Không khí trong truyện là cuộc Chiến tranh Việt Nam đang đà khốc liệt nhất, thế giới trong truyện là thế giới của đàn ông: Người lính, người trí thức trong cơn lửa loạn, người thanh niên bất mãn, nhà tu hành. Cái chết bi thảm của những người bị hệ tư tưởng chia rẽ đưa đến những dấu hỏi về khái niệm thuận nghịch và anh hùng. Rồi trong cảnh chiến tranh tương tàn, đâu là chỗ đứng của một nhà chân tu. Truyện của Phan Nhật Nam được dựng lên trong một không gian gắn thiết thân với tâm trạng của mỗi nhân vật. Sau cùng, thế giới cảm tính của tác giả dần được biểu lộ. Đây là truyện của ba người lính Nhảy Dù. Cả ba tham gia một cuộc hành quân miền Trung đã 78 ngày. Năm hết Tết sắp đến, họ có mặt ở Huế và không ngờ biến cố Mậu Thân sắp ập đến như cơn gió lốc. Minh và Lạc được nghỉ phép hai ngày. Minh về thăm nhà và dự lễ ăn hỏi người chị họ tên Quỳnh Như, anh bèn mời Thuấn lúc đó ở trong trại cùng đến dự cho thân. Quỳnh Như đính hôn với Bằng, nhưng khi gặp Thuấn, cô thốt mê anh đại úy gốc Bắc. Biết rằng rồi đây không còn gặp nhau nữa, Thuấn và Quỳnh Như vội lao vào nhau sống những giờ phút tột đỉnh của yêu đương. Sau đó Thuấn về trại, trong khi Minh ngụ khách sạn chờ Lạc đón vợ con ở Sài Gòn ra ăn Tết. Minh đem được chút nhu yếu phẩm đến cùng ăn Tết với Lạc. Đúng đêm giao thừa, quân miền Bắc tràn vào Huế, khắp đô thành ran súng đạn thay tiếng pháo bông. Minh giúp gia đình Lạc kịp trốn, còn mình sang nhà Quỳnh Như nương tạm. Bằng đã đoán biết tình cảm của Quỳnh Như với Thuấn nên nổi cơn ghen. Anh vốn sinh nhai bằng nghề dạy học, đồng thời sắp hoàn thành chứng chỉ Triết ở Viện Đại học Huế. Bằng chơi rất thân với đại đức Trí Không, người cũng ghi danh học ban Triết. Bằng theo Mặt trận Giải phóng đã được ít lâu, vừa thúc bách vừa đe dọa Trí Không để buộc nhà sư nhận dẫn đầu đoàn sinh viên Phật tử xuống đường biểu tình và xử dụng võ khí làm nội ứng cho bộ đội Việt Cộng. Trong những ngày Mậu Thân sôi sục, Bằng để ý thấy sự hiện diện của Minh và Lạc trong nhà Quỳnh Như. Nom anh thù ghét lính Cộng Hòa ra mặt, Trí Không có linh cảm rằng Bằng sẽ đi cáo giác hai người lính Nhảy Dù bị kẹt ở nội thành này nên tìm cách khuyên can. Cho tới khi biết Bằng rắp tâm hãm hại tới cùng, nhà sư đành ra tay hạ sát anh này, sau đó giúp Minh và gia đình Lạc chạy thoát. Phần Thuấn đem đại đội rút về phi trường Tây Lộc, tại đây xảy ra một trận tử thủ kinh hoàng. Khi Lạc và Minh về lại được tiểu đoàn, cả hai đều bị thương và kiệt sức. Hết chiến dịch, ba người bạn gặp lại nhau trong một bệnh xá Sài Gòn, chuẩn bị cho những ngày sắp tới. *** Dựa lưng nỗi chết của Phan Nhật Nam mang một nét buồn bã khó tả. Ừ, khi đang dựa lưng vào nỗi chết thì làm sao mà vui được. Nỗi buồn của Phan Nhật Nam là nỗi buồn khi nhìn đến cảnh nồi da xáo thịt, cảnh anh em giết nhau: “Nòng súng thượng liên Trung Cộng, tiểu liên Tiệp Khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu nhắm chiếc vòng đen sâu hun hút vào đám lính mang giày Nhật nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa. Chờ nhau hân hoan âm ỉ, chờ thản nhiên lạnh cứng.”   Câu chuyện xoay quanh ba người sĩ quan lính dù trong thời gian của biến cố Tết Mậu Thân ở Huế. Trong truyện còn có Bằng, vừa sống với nghề dạy học vừa theo học các chứng chỉ triết ở đại học. Ở đó Bằng quen với Đại Đức Trí Không cũng ghi tên học triết. Bằng theo Mặt trận giải phóng miền Nam, vừa gây áp lực vừa đe dọa Đại Đức Trí Không để buộc nhà sư nhận điều hành đoàn sinh viên Phật tử và sử dụng vũ khí trong biến cố Tết Mậu Thân. Truyện của Phan Nhật Nam không tô hồng, không anh hùng hóa như chính tác giả đã viết ở phần cuối: “Chỉ là câu chuyện giản dị của những người lính trong một thời gian dồn dập… Chuyện bình thường, phẳng phiu, không là bản anh hùng ca rực rỡ uy dũng, cũng không đậm nét bi thương làm đọng cứng linh hồn.”. Đọc Dựa lưng nỗi chết không thấy ánh hào nhoáng vinh quang, nó chỉ ghi lại cuộc sống đời thường của những người lính dù với những lo toan hết sức bình dân giản dị, với những buổi nhậu để mua vui hay để nhấn chìm nỗi buồn vào trong đó. Tôi thấy chính giá trị của tác phẩm này là ở đó, để những thế hệ sau này muốn biến đời lính thật sự ra sao, muốn cảm nhận cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn nó cay đắng tàn bạo đến mức nào. Các bạn hãy đọc đi, để hiểu thêm quá khứ một chút, một quá khứ chân thực, giản dị, không tô hồng. Nhưng chính vì vậy mà đó mới là sự thật. *** Tháng Mười, tháng của chuyển động hoài hoài giữa hai điểm ngất ngây đớn đau và hạnh phúc. Tháng của những lạnh tanh bất chợt cứng ngắc và nồng nhiệt tràn đầy thác đổ. Tháng của đỉnh cao và vực sâu. Tháng tiếng động núi lở và im lặng đáy biển. Năm tháng căng thẳng giữa hai điểm không cùng. Làm sao để sống? Giữa những buồn phiền tanh tưởi độc địa, người muốn tan đi theo cơn gió rã rời, trôi vào lượn sóng nhạt thếch vô tri… Bỗng nhiên xôn xao những ý tình rực rỡ, bỗng choáng váng giữa niềm tin chói sáng, như mặt trời khởi đầu những ngày hè ở cực Bắc… Sống thật khó. Khó những ngày lặng lẽ rơi xuống, sáng trưa chiều trôi đi như lá khô, lặng lẽ đốt thêm điếu thuốc, xòe bàn tay, tay nhiều chỉ, tay nát bấy. Chiến tranh sắp chấm dứt và bàn tay chiến đấu cũng đã mỏi mệt. Xếp hai bàn tay, mở hai ngón, kẹp lấy điếu thuốc, thở ra lớp khói tàn tạ. Nhưng tháng Mười không hoàn toàn như thế. Tháng Mười, đêm thức giấc mở đôi mắt chợt xoay người để thấy một tình yêu thần bí hiện rõ từng đường nét khối lượng. Một tình yêu có thật cho người. Nhưng tháng Mười trong lòng hạnh phúc vẫn có những đớn đau câm lặng không ngừng nghỉ – phút rình rập của định mệnh độc ác… Gần cái chết và hạnh phúc, thấy rõ thêm niềm phấn đấu để sống. *** Thuấn lái xe dọc theo con phố. Chiều thứ Bảy, người đông kín. Chiều thứ Bảy, thật lâu Thuấn không biết đến loại thời gian này. Thứ Bảy, Chủ nhật, thứ Hai, những ngày tháng phân biệt đó trôi đi không gợi lên sự chú ý. Sự nghỉ ngơi chỉ có được lúc đêm khuya, khi đại đội đã trả súng vào kho, lính đi ra cổng doanh trại để nghỉ phép sau cuộc hành quân… Nghỉ ngơi – Thuấn thật sự không có. Chỉ có những giờ ngồi trước ly rượu bên con sông, nhìn xuống khoảng sông đào chen chúc thuyền đậu. Những con đò xứ Huế, nặng nề, bề thế, chắc chắn cùng thú vui đẫm ướt dục tình được mở ra thoả thuê trong đêm. Thuấn, người lạ ở xa đến, người Bắc, quê hương xa khuất ở cuối trí nhớ, quê hương trên bát bún thang, chiếc ảnh hồ Hoàn Kiếm, cây cầu gỗ chênh vênh trên mặt nước lung linh vòng cây phượng. Quê hương được nhớ lại ở trang sách bất chợt trong đó nhắc đến dáng dấp của lão Tàu bán lạc rang, mụ Béo bán bánh tôm ở bờ hồ… Những hình ảnh thoáng qua như ngọn lửa đầu que diêm yếu ớt. Thuấn không nhớ nổi. Quê hương, một chốn không còn. Thuấn từ Sài Gòn đến đây theo chiến dịch, nửa đất nước đi qua, đi và đến từ hai tỉnh đối đầu của quê hương bị cắt. Thuấn đã khởi hành và đến hai cực điểm của một đau đớn vô hình. Huế, thành phố không giống một nơi nào đã đi qua. Pha trộn giữa e thẹn câm nín và xôn xao đột khởi cơn lặng lẽ, bỗng chốc thành giông bão, thành phố của dịu dàng như cảnh giấc mơ và tồi tàn luộm thuộm của đời ẩn ức. Thành phố của lãng mạn và bi phẫn. Thuấn ở Huế được ba tháng, thời gian của những cuộc hành quân ngắn hạn. Từ Huế đi về hướng Bắc, qua chiếc phà, con nước xanh rêu không sông, bên kia bờ sông luỹ tre mờ mịt sương giăng, sáng mùa đông im lìm không mặt trời, con gà nhỏ lông sũng nước cố rít lên tiếng gáy, tiếng gáy của loài gà tre nghe the thé phiền muộn. Quân qua sông, đổ bộ lên bến, cợn đất sét màu vàng ứa ra từ phiến đá khi chân người lính giẫmlên tản theo dòng nước. Lính đi băng qua những khu rừng trống ẩm ướt, chuối, thanh trà, ổi chen chúc đứng khép vào nhau trong im lặng nặng trĩu. Một trái bom vừa nổ, mảnh gang trắng ghim vào thân cây chuối ứa mủ, đống bẹ chuối tươi non nằm hỗn độn trên lớp đất bu nhiều tung tóe, đất dính từng tảng nhỏ trên phiến đá bầm dập như những hạt máu khô đọng trên cánh tay gãy. Mảnh gang của quả bom theo đà bay phá vỡ khoảng tường vôi để lộ phiến gạch tươi, màu đỏ thớ thịt sau nhát dao chưa kịp ứa máu. Ba tháng hay chính xác hơn bảy mươi ngày, Thuấn đi qua những căn nhà kỳ quái, nhà không vách, không cột, không nền. Nhà là căn hầm sát xuống đất, sâu hun hút lạnh lùng, tối thăm thẳm. Nắp hầm được đắp cao bằng đất cứng, chắc chắn như nấm mồ, trên mặt mồ vĩ đại đó người dân úp cái mái bằng lá gồi hay tranh và người ta chui từ hầm lên nhà, bò từ nhà xuống hầm, không ai có thể ngồi thẳng lưng trong loại nhà hoang tàn kỳ lạ này. Người dân ngồi cong lưng đầu kẹp giữa hai gối, người dân ngồi im lìm, trẻ con cũng không khóc, đứa trẻ đã mất thói quen được khóc, khóc vì đói, vì lạnh hay ẩm ướt nước tiểu. Đứa trẻ đã quen với bóng tối, quen im lìm nặng trĩu. Tiếng động chỉ có ở những cánh quạt trực thăng chém gió lượn vòng trên cây cau, hay tiếng nổ của quả đạn súng trọng pháo. Tiếng nổ và sự im lặng trì trợm đã làm tê giác quan đứa trẻ. Không còn tiếng khóc trẻ thơ trong xóm làng Thuấn đi qua. Thuấn đã đi qua một lần, hai lần, những lần sau không đếm được. Đi qua để thấy người dân vùng Thừa Thiên đâu đâu cũng chừng đó thế ngồi, cũng chừng đó lối hò, cũng những âm thanh rít lên khó nhọc, hiu hắt phiền phiền xô đẩy nhau trả lời khi người lính hỏi đến… "Da, dạ…" những tiếng dạ liên hồi mở đầu chen trong câu chuyện, nghe nhức nhối như vết thương nung mủ bị bóp vỡ giữa hai lưỡi dao kẹp chặt. Thế nhưng người dân vẫn tiếp tục sống. Thuấn cũng tiếp tục sống, tiếp tục sống để sau mỗi cuộc hành quân cùng với một lũ bạn chen chúc lên chiếc xe đi về thành phố như hôm nay… "Đi đâu bây giờ?" "Đi đâu?" Thuấn quay đầu sang nhìn Minh, kẻ vừa hỏi, giọng Huế phẳng lì như phiến lá mít. Thuấn ngừng xe, xoay hẳn người ra đằng sau "Đi đâu?" Sáu đôi mắt nhìn nhau không nói. "Hay đi uống cà phê?" Đề nghị rụt rè không thành hình khối. Lạc nói nhỏ. "Cà phê?" Minh hỏi cao giọng. "Tao đã uống sáng nay hai lần cà phê rồi, nhưng thôi, cà phê phát nữa cũng được. Thuấn xoay người trở lại, quanh xe về quán cà phê giữa thành phố. "Đến chỗ Lạc Sơn ngồi nhìn thiên hạ, chiều hôm nay thứ Bảy". Không có tiếng ai trả lời câu nói của Minh. Ba người ngồi quanh chiếc bàn, ba bàn tay khuấy tròn những chiếc muỗng quanh vành ly gây tiếng động dễ chịu trong không khí cứng đặc. "Tụi mình đi hành quân được ba tháng rồi". "78 ngày". "Sao mày nhớ kỹ vậy?" "Nên tao thích ngồi ở đây, nhìn những người gánh củi đi qua, xúc động lúc nhỏ tự nhiên trở về như sống lại thời gian trước". "Mày vớ vẩn thấy mẹ". Lạc vòng tay bó lấy đầu gối ngồi ưỡn người trên nệm xe. "Minh, mày leo lên ngồi với tao, ở đây đâu còn Quân Cảnh, ngồi đằng sau xe xóc, chết cái mông".   Mời các bạn đón đọc Dựa Lưng Nỗi Chết của tác giả Phan Nhật Nam.
Dấu Binh Lửa
Tác phẩm đầu tay của ông là cuốn Dấu Binh Lửa (1969). Tiếp theo là các tác phẩm: Dọc Đường Số Một, Ải Trần-gian (1970), Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Dựa Lưng Nỗi Chết (1973) và Tù Binh và Hòa Bình (1974). Những tác phẩm của ông đều lấy Chiến tranh Việt Nam làm bối cảnh. Sau 1975, ông bị bắt giam vào trại tập trung cải tạo 14 năm (1975-1989). Trong nhiều lần bị biệt giam hàng năm trời trong hầm tối, ông cũng làm ra nhiều bài thơ. Tuy sau ông được thả, nhưng lại bị quản chế tại gia ở Lái Thiêu, Bình Dương. Năm 1993 ông sang Mỹ định cư và cho ra mắt những tác phẩm: Những Chuyện Cần Được Kể Lại, Đường Trường Xa-xăm (1995), Đêm Tận Thất-thanh và Mùa Đông Giữ Lửa (1997). Năm 2002 cuốn Những Chuyện Cần Được Kể Lại được phát hành với ấn bản tiếng Anh dưới tựa The Stories Must Be Told. *** Theo lời dặn của C— Anh cố vấn văn chương— Tôi phải viết một cái tựa thật hách, ngắn, cô đọng và hay ho không chịu được... Nhưng viết thế nào để có thể gọi là " hách"? Thôi, tôi mở đầu bằng cách bày tỏ nguyên do đồng thời đề biện hộ cho những dòng viết ở những trang sau. Đến cái tuổi này lẽ tất nhiên tôi chẳng hy vọng gì nơi văn chương nữa, cũng không thể ước mơ nhờ cái ngõ văn chương để kiếm một chút danh gia. Hơn nữa, danh vọng của một người viết văn ở Việt Nam cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa. Bao nhiêu năm làm văn nghệ, cũ như Lê Văn Trương, Đinh Hùng, mới như Quách Thoại, đến khi chết đi thì cũng chẳng còn gì - Thế Phong đó - anh chàng làm văn nghệ như một gã tiền phong, "Nửa đường đi xuống" phải đóng bộ ka-ki độ nhật qua ngày với tờ báo của Không Quân. Thế nên tôi chẳng hy vọng gì ở cái "nghề của chàng" nữa. Nhưng vẫn muốn viết, viết như một "nhu cầu", nói cho có vẻ thiết tha. Tôi đâu phải là hoàng tử văn chương ngoại hạng, xem chuyện viết lách như một công việc nghiêm trang giữa người và thế giới bí ẩn của chữ nghĩa, viết đối với tôi đúng ra chỉ là một cách thoát hơi— Viết để khoỉ ấm ức bực mình. Sau tám năm ở lính, thời gian thoải mái thật hiếm hoi, những phiền toái có duyên cớ hay không, chính danh hay ẩn dấu hình như chực sẵn ở trong người, có cơ hội sẽ dấy lên như giông bão. Đôi khi tôi thấy thật yêu cái nghề này, nó tạo cho con người tính kiên nhẫn, lòng vị tha, chế ngự những hèn mọn của mình. Nhưng cũng có lúc tôi thấy nó thật tệ, không có một nghề nghiệp nào ù lì, cứng đọng và thụ động bằng " đi lính ", chỉ cần thừa hành trong một giới hạn thật sít sao, thế là đủ. Có nhiều lúc tôi muốn ném tung hết tôn ti trật tự, bộ quần áo trên người để thong dong giang hồ một chuyến tự do, nhưng đồng thời cũng vừa khám phá, đang bị buộc chặt, đã quen với đời sống này. Thật khó khăn khi phải nói chuyện với một anh dân sự, hình như tôi và hắn ta ở hai thế giới thật khác xa nhau. Tôi cũng muốn viết về đời sống lính với những con người thật lạ. Năm 1966, có gã lính thật trẻ ở đại đội tôi, hắn ta thấp bé da xanh mướt ốm yếu, nhưng uống rượu kinh khiếp, hai lít rượu đế hắn uống tỉnh bơ, hình như rượu không tạo nên phản ứng nào trong người. Ngoài cuộc rượu, y bình lặng kín đáo như một con ốc. Một hôm đứng gác, sẵn súng ở tay, hắn bắn vào đầu tự vận. Tôi không biết nỗi thất vọng kinh khủng nào trong đầu một thằng bé 19 tuổi. Đức " điên " Biệt động quân, quan Ba, Tiểu đoàn phó, đi hành quân mang khẩu M.79 chạy trước hàng lính, về Sài Gòn đi chơi, mặc một chiếc áo bà ba đen, dưới quần lính, chân mang dép Nhật, trang bị thêm một con dao đi rừng. Tôi không hiểu nó nhìn đời thế nào qua cặp kính trắng dày cộm khi trên người trang bị với phụ tùng như thế. Đại khái ở lính có những loại người " bất bình thường " như vậy, và trong đám bất bình thường trên lại chen lẫn vài kẻ bình thường thật kỳ quái. Thiên, anh chàng đi theo tôi trong hai năm, một ngày chỉ nói khoảng hai mươi tiếng: dạ, vâng... Thế là hết. Nó ở xa, tôi gọi đến vỡ phổi không tiếng trả lời, lát sau lặng lẽ đi đến. " Tao kêu mày có nghe không?..". " Dạ có ". " Thế sao mày không trả lời? ". Thiên bóp bóp hai bàn tay đứng im. Thấy những người lính khác bắt gà, nó cũng bắt một con treo trên ba-lô, đi một đoạn vắng người, thả chạy, xong làm dấu Thánh giá đọc kinh. Đi lính tôi có nhiều "thế" sống thật đặc biệt. Chiều 29 Tết năm 1963 ởchân đèo Rọ Tượng, Khánh Hòa, căn cứ Lầy, trời rét như cắt ruột, mưa phùn bay mù mịt, chúng tôi đứng trong nước sình ngập đến ngực, lạnh, đói, đã gần năm ngày liên tiếp mình mẩy không bao giờ được khô. Dân chúng đi từ Ninh Hòa về Nha Trang tưởng chúng tôi là tù binh, ném bánh ú từ trên xe xuống cho, một vài bà già chấm nước mắt khóc vì thương hại. Nhưng chúng tôi vẫn vui như tết, Năng và tôi nhặt bánh ú ngồi ăn ngon lành, cả hai đứa đều là những " Tân Sĩ Quan " vừa quỳ xuống đứng dậy cách đây một tháng để lãnh nhiệm vụ gánh vác non sông! Chúng tôi hãnh diện với nỗi cực khổ của mỗi phút chịu đựng, lòng không một chút ta thán... Nhưng lúc gặp nhau ở Sài Gòn, hai thằng đem nhà binh ra nạo đến sát ván không chút nể nang. Bình Giã đói và khát hai ngày đến nỗi lính phải hút nước ở rễ cây, có tên uống phải rễ cây độc đứng tim chết. Kéo quân ra Phù Mỹ, uống một nón sắt nước ruộng nhưng lòng không phiền hà. Mười chín tháng Ba 1965 kéo về Sài Gòn đóng ở Đài phát thanh, cô-ca lạnh mát nuốt vào khó khăn không làm dịu được nỗi oi ả ở trong lòng. Chính vì những cảnh đời đa đoan này mà tôi phải viết. Không viết thì phí đi, bạn bè bảo tôi như vậy. Thế là tôi viết, và đến bây giờ coi như xong, nhưng chắc rằng chưa đủ. Xem lại chợt thấy bùi ngùi và thương thân. Bao năm tháng tột cùng của cực khổ và gian nan, đầy dẫy tủi nhục để viết được chừng này? Thấy mình tội nghiệp lạ lùng. Rồi kết quả ra sao? Coi chừng lại bị đụng chạm, lôi thôi với chính phủ thì thật là khốn nạn! Người lính đánh máy hộ cảnh cáo. Trong thời gian sau này, thường thường những giấc mơ của tôi cuối cùng dẫn đến một chủ đề - Nước. Tôi mơ thấytrời mưa, mơ thấy được tắm trong dòng suối, được vùng vẫy trong sông lớn. Kỳ cục hơn có hôm tôi mơ bị mắc cạn trong cống rãnh. Về mặt sinh lý người ta bảo đó là hiện tượng yếu thận, tâm lý bảo đấy là ý định muốn giải thoát— Có thể đúng như vậy, vì tôi đang yếu thận đồng thời luôn luôn có cảm giác "lạ" với đời sống này. Tôi không coi những ngày đang sống là sống thực. Sống bây giờ là sống gởi, cõi mơ ước nào đó mới là quê hương thật. Nhưng đúng chỉ là mơ ước, vì còn một nơi chốn nào khác ngoài cuộc đời ngặt nghèo này— Chỉ còn một cõi trong tôi. Nhưng thôi, "tác phẩm" khi đã xong có phần đời của nó - hai mươi sáu tuổi - tám năm lính để lại gia tài trăm trang giấy! Có một vị đắng ở đầu lưỡi. Nhưng nói cùng ai? Tôi cũng trốn tôi trong câu hỏi này. Tuy nhiên khi viết xong, đọc lại thấy vừa lòng nhưng đồng thời một vài ý nghĩ thật lạ xảy đến. Những ý nghĩ trong chiều mưa, mưa thật lớn trên đồi cao, gió thật mạnh, doanh trại vắng vẻ như bãi tha ma. Ngồi một mình nhìn ra khoảng không gian xám đặc... Con chim sẻ trốn mưa bay vào phòng đậu trên thành giường, sù lông rũ nước kêu lên những tiếng nhỏ thật cô đơn. Tôi cũng như con chim nhỏ trong chiều mưa này. Và từ đó thấy trong lòng những tình lạ thật thiết tha, hồn hậu như của những ngày vừa mới lớn. Tôi thấy những điều viết quá hằn học, nhiều thù hận và độc đoán. Trước tiên đối với người Mỹ. Những sự kiện gần đây, cảnh hai phi hành gia bước chập choạng trên mặt trăng. Những bước đi đầu tiên của con người trên một hành tinh khác. Lẽ tất nhiên tôi không a dua theo một phong trào để hoan nghinh sự thành công của Apollo 11, đã từ lâu tôi không xem trọng thí nghiệm này. Chỉ có cảm phục khi nghĩ đến những công tác khoa học tinh vi và chính xác để ráp nối phi thuyền mẹ với Nguyệt xa, tiếng nói của những phi hành gia được chuyền thẳng về trái đất rõ mồm một. Trước thành công như trên làm sao tôi không hoan nghênh? Nhưng tổng quát tôi vẫn không thán phục, kết quả cũng không có gì cụ thể để giúp ích cho một khối dân khốn cùng nằm dài trên hai cõi Á, Phi. Trong khổ cực của quê hương này tôi không thể nào quá ngưỡng mộ thành công ở trời xa. Nhưng tôi chịu nhất là thái độ phóng khoáng, cử chỉ hào hiệp của người Mỹ trong vụ này, họ đã hãnh diện dưới danh nghĩa — Một sự tiến bộ của nhân loại. Sự rộng rãi này làm cho tôi kính phục. Ngoài ra một hôm có việc cần phải vào bệnh viện 3 Dã chiến Hoa Kỳ, thấy một anh lính Mỹ đẩy chiếc xe trên có một anh khác bị thương ở chân, anh chàng đẩy xe cũng là thương binh, gầy ốm, tóc vàng hoe mọc dài xuống gáy, mang đôi kính cận thị dày cộm, nét mặt hồn nhiên và treœ thơ. Và tôi đã nghĩ rằng khuôn mặt trẻo thơ đó, nếu đem biến thành đối tượng cho những nhận xét hằn học đầy thù nghịch của tôi thật đáng tội nghiệp. Chiến tranh đã kéo y qua đất nước này, chịu đựng những khổ cực vượt ra ngoài ý niệm của người Mỹ, nay bị thương đôi mắt vẫn còn trong sáng và trẻ thơ — Dấu hiệu của tâm hồn chưa bị vấy bẩn bởi cuộc chiến này. Nhìn sự ngây thơ trung thực đó, nghĩ đến những phán đoán của mình quả độc đoán và quá độ. Gần hai năm nay, mỗi ngày phải uống tám viên Nevrosvitamin 4 để làm dịu xuống những bứt rứt hiện thành phản ứng không kìm hãm... Thiếu những viên thuốc đỏ đó, người tôi như nung trên một lò lửa đang đỏ, đầu óc muốn nổ tung, chân tay ít nhất phải đập phá một vật gì, tôi sợ tiếng động và chốn đông người một cách bất thường. Nhưng hai tháng sau này tôi bỏ được nhu cầu uống thuốc đó, suốt ngày đánh trần nằm trên bãi cỏ trước phòng ngủ, doanh trại hậu cứ hoang vắng một cách dễ chịu, phía xa những ngọn đồi Tăng Nhơn Phú chạy dài bình yên. Trong sự bình yên này, đọc lại những điều đã viết quá trớn, thấy ân oán giang hồ, đụng chạm đến nhiều giới. Tôi muốn đưa cuốn sách cho những người nhỏ tuổi đọc, để dò xem phản ứng của những người chưa bị ảnh hửơng cuả chiến tranh, nhưng ngần ngại vì thấy những điều mình viết không trong sáng. Lẽ tất nhiên một cuốn bút ký không thể nào nằm dưới kìm kẹp của ý thức luân lý bình thường được, hơn nữa bút ký về cuộc chiến tranh nhọc nhằn. Nhưng nhìn thấy toàn bộ những điều đã viết chỉ có một nỗi hằn học, uất hận nên tự hỏi rằng có quá đáng hay không? Thấy đàn trẻ đi thi tú tài, nhớ lại mười năm trước cũng ở trong nguồn trong sáng đó, thế tại sao có những đổi thay tàn bạo và quá đáng như kia? Tôi lại gặp Banh, người bạn cũ ở Đà Nẵng, gặp Banh để nhớ lại một cái Tết thật tang thương, hai mươi chín Tết không thức ăn - hai mươi chín tết - thời gian thật khó thể đi kiếm một bữa cơm. Banh đạp xe trên hai mươi cây số về làng quê Quảng Nam xin mươi quả trứng vịt, và hai đứa đã đón xuân bằng những quả trứng trong suốt ba ngày Tết. Gặp Banh để nhớ rằng trong những ngày khốn khó đó, tôi vẫn luôn luôn thắp sáng cho mình ngọn lửa hy vọng và những tình cảm tốt đẹp. Những sự kiện kể trên gây cho tôi cảm giác ngại ngùng khi đọc lại những điều ghi được của tám năm binh lửa. Không lẽ suốt đoạn đời này tôi chỉ có khốn khó và thù hận thôi sao? Từ đó phát sinh ra những ý hướng chối bỏ, như dấu chàm của một niềm tuỉ hổ, và ao ước được thấy điều mình viết mang niềm vui hồn nhiên trong sáng. Nhưng tám năm lính của tôi niềm vui quả thật ít, ít đến tội nghiệp khi đem so sánh với nhọc nhằn đằng đẵng. Tám năm, thời gian gần bằng đoạn đời của gã nông phu Johann Moritz lang thang qua các trại tù của giai đoạn Âu Châu máu lửa, nhưng trước và sau tám năm đó, anh bạn Lỗ còn có những ngày vui hy vọng. Tôi có gì vui trước tám năm này và hy vọng nào về một Việt Nam hậu chiến. Nhưng thôi, có nói hoài thì cũng chỉ kéo dài thêm lời than thở hèn mọn. Điều mong ước là được xóa đi những hằn học và thù hận. Sự đụng chạm nếu có ở một vài đối tượng nào đó thì xin nghĩ rằng đây chỉ là những ý nghĩ của một người muốn chân thật với mình trong hoàn cảnh khắt khe. Lỗi không phải là ở sự thành thật đó. Đây là lỗi của một cảnh đời. Tội của những người trong chúng ta đã bất lực trước định mệnh, để bị cuốn trôi hết tình người — Thôi, đây là tội trong mỗi chúng ta. 10 tháng 9 năm 1969 Long Bình Việt Nam *** Tiếng Việt qủa thần diệu, có những chữ thật đơn sơ cũng đủ sức để tạo thành hình ảnh linh động. Những chữ với âm thanh tầm thường khô cứng như tiếng gõ vô nghĩa trên mặt bàn của một bàn tay nhàn rỗi, trong giây phút trống rỗng. "ở lính" nghe buồn buồn, nhạt nhạt, vô nghĩa nhưng chất chứa chịu đựng ngặt nghèo lặng lẽ. Tôi đã ở lính tám năm, sau thời gian đằng đẵng đó những danh từ to lớn như đầu quân, gia nhập quân đội, người chiến binh, đời quân ngũ hay thời thượng vụng về như tuổi lính, tuổi chiến trường đối với tôi vô duyên như sau lần ân ái ngượng ngùng. Tôi ở lính tám năm, năm nay hai mươi sáu, đi lính năm mười tám. Suốt tám năm của thời lớn lên tôi đem tặng hết cho quân đội, và không phaỉ đến bây giờ vì thất vọng, chán nản do công danh không toại ý, cuộc sống bị ép buộc không đúng như mơ ước nên cay cú hằn học với nhà binh. Không như vậy, tôi đi lính năm mười tám tuổi vào học trường tình nguyện ra làm ông quan Một. Chẳng có ai lôi kéo tôi vào trường ấy, tôi tự động hăng hái, hãnh diện để trở thành một sinh viên sĩ quan với ý nghĩ đã chọn đúng cho mình hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tôi có những rung động thật thành thực khi đi trong rừng thông, hương nhựa thông toả đặc cả một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ mơ mộng và cứng rắn, một thế giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng... Chuyển quân đi trong sương đêm, giữa mây mù, ánh lửa mục tiêu đêm đông trong hốc núi hoang vắng, thế giới mạo hiểm giang hồ của Jack London phảng phất đâu đây. Tôi say mê, thích thú với những khám phá mới mẻ đó. Nắng cao nguyên những ngày cuối năm vàng tươi rực rỡ, đứng ở đồi nhìn xuống hồ suối Vàng trong vắt yên lặng... Người như muốn tan vỡ thành muôn ngàn mảnh nhỏ theo cơn gió bay chập chờn qua vùng đồi trùng điệp và loãng tan đi cùng nước hồ xanh ngắt. Cũng phảii nói thật những ngày đầu đời lính của tôi đầy trong sáng và đẹp đẽ. Trong sáng như giấc mơ của tuổi mười chín, giấc mơ mù mờ giăng cánh chim trắng bay chậm rãi qua rừng thông... Nhưng đời sống nhà binh không hẳn chỉ vậy, nó còn có sĩ quan cán bộ, nghi lễ, có đủ những phiền toái hỗn độn mà đời sống dân sự không ai nghĩ ra được; nên khung trời đầy sương mù bí ẩn ngoài khung của sổ hiện ra như một thách thức đối với đời sống kìm kẹp của tôi hiện tại. Đây cũng là một thời gian thật khủng hoảng, mỗi đêm nhìn về phía thành phố đầy ánh đèn tôi không ngủ được, tươœng như có một tiếng gọi cuœa đời sống ơœ bên ngoài quân ngũ đang nhắc nhơœ thúc giục, một đời sống thực sự tôi không có. Từ khung cửa sổ nhìn những giàn đồi im lặng thấp thoáng giữa thung lũng sương mù và đằng xa ánh đèn xanh vườn Bích Câu ma quái, diễm ảo, tôi thấy rõ trong tôi nỗi cô đơn khủng khiếp hiện hình sừng sững. Những lúc ấy tôi thấy được con người thật của mình, một gã trai trẻ, vô định hướng. Những cười đùa ban ngày, những buổi học, bữa ăn tập thể không ảnh hưởng gì đến con người trong tôi. Không thể có được một ý niệm về chuyên môn quân sự mà bằng tất cả mọi cách nhà trường cố nhét vào trong đầu óc. Đội hình tác chiến, cung cách chỉ huy, chi tiết kỹ thuật về vũ khí trôi qua trí não mơ hồ như một cơn gió nhẹ. Hai năm sống ở mái trường đó như một cơn phiếm du. Chỉ thật thắm thiết rung động khi nửa đêm về sáng dưới ánh đèn pha vọng gác kho đạn tôi khám phá được thế giới của cây cỏ đang thở, đang lớn lên. Những giây phút khoảng năm giờ sáng, sau phiên gác, nhìn xuống phòng sĩ quan trực, người lính kèn im lặng đưa lên môi thổi hồi kèn báo thức. Và không gì hơn suốt ngày chủ nhật một mình một ngựa chạy như bay vào hướng đồn Daksard. Con đường đỏ còn ướt sương đêm, trời chưa tan hẳn mù, ngựa phi như gió cuốn, ngựa đi vào trong một vùng mù đặc, rừng thông chuyển động ào ào, cả trời cao nguyên tan biến chập chờn theo vó ngựa. Kết quả sau hai năm ăn nhờ chánh phủ tôi được trở thành ông quan một, ra trường đi binh chủng hung hãn nhất. Tôi biến thành một người lính thực thụ, trận lớn, trận nhỏ, chiến dịch hai tháng, ba tháng, dài ngắn, từ Sài Gòn ra Bến Hải, tôi đi đủ. Những địa danh xa xôi bất kỳ một xó xỉnh hẻm hóc nào của miền Nam này tôi cũng có thể biết rõ một cách tường tận. Từ những miền nổi tiếng như Khe Sanh, Cồn Tiên đến những làng nhỏ từ cửa Việt đi ra - Diêm Hà Trung, Diêm Hà Nam - cái làng nhỏ cuối thung lũng sông Kim Sơn, làng Hà Tây, đèo ông Hổ đổ xuống Phù Củ ra Phù Ly, Phù Cát thẳng đến biển là núi Lồi, đầm Trà Ổ, xuống phía Nam, đầm Nước Ngọt. Lên đến Pleiku, trực thăng vận xuống phía Nam biên giới Lào-Việt, đầu ngọn sông Ia-Drang... Đâu đâu tôi cũng đến. Năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba tôi sống thoải mái, vì đã đi đủ, nhìn đủ. Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở chiến cuộc, góp mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể, nhưng cốt yếu là không ở ngoài, không chạy trốn trong khi bạn bè những người cùng trang lứa đang tham dự, đang ngã chết. Dù chết bên này hay bên kia, chết trong thù hận hay chết tình cờ. Những người đi tìm cái chết để biện giải cho đời sống. Tôi tham dự vào cuộc hành trình khốn nạn này. Giải thích này làm tôi yên ổn. Cũng trong những tháng năm đằng đẵng gian khổ ấy, tôi khám phá ra được hạnh phúc của đời người. Hạnh phúc thật sự không có, chỉ có những hạnh phúc tương đối và giản dị. Hạnh phúc là bếp lửa thật nóng, bữa cơm có canh, một mái lều tranh không dột, căng được chiếc võng, uống ly cà phê, đọc tờ báo, sau năm ngày vượt ba mươi cây số đường rừng, rừng thật dầy không thấy trời, trong rét cóng của miền Trung vào những ngày cuối năm. Hạnh phúc nồng nhiệt khi trở về nhà trong đêm khuya gõ cửa, vợ ra đón với con nhỏ ba tháng, kể từ ngày sinh chưa được nhìn bố. Hạnh phúc là cái gì chắc chắn, nắm được ở trong tay khi cánh cửa chiếc phi cơ đóng lại và thân thể được nhấc lên trong độ cao, nhìn lại thành phố Huế đang âm ỉ cháy. Đấy - đời lính - đã dạy cho tôi biết được giá trị của những sung sướng tầm thường đó. Chỉ có thế mà tôi phải trả giá trong tám năm thật dài với tận cùng của khổ cực và căng thẳng. Nhưng đến hôm nay, bước vào năm thứ mười hai đời lính tôi lại rơi vào sự khủng hoảng của những năm đầu tiên. Nỗi khủng hỏang tàn tệ tội nghiệp gấp vạn lần trước. Thời gian ở quân trường, tôi còn có thế giới kỳ ảo thiên nhiên, những ngày mới ra đơn vị, tôi tham dự để biện minh thái độ dấn thân, lao vào lửa đạn không thắc mắc, không ngần ngại — Tôi dấn thân để tìm kiếm niềm an ủi do tham dự hết lòng, đồng thời còn có điều khôn ngoan đã tìm ra những hạnh phúc tương đối — Loại thực phẩm trần gian hợp với khẩu vị. Nhưng đến những tháng ngày hôm nay thì qủa thực tôi bất lực. Bất lực để giaœi thích cho chính bản thân, sự có mặt tham dự trong dòng đời hỗn loạn và mệt nhọc này. Những chốn trú ẩn xưa bị phá vỡ tan hoang, nếu không nói đến những phản ứng trái ngược đã xảy ra. Trên đường đi đến Lái Thiêu, vườn dừa xanh ngắt, hoa huệ trắng tỏa hương thơm ngát không gợi nên một thiên nhiên an lành mơ mộng nhưng trái lại như một đối tượng đang phải chịu sự tàn phá sắp tới của chiến tranh; một đối tượng đau đớn của thiên nhiên không được thụ hửơng sắp sửa bị tiêu hủy. Những ngày dài hành quân không gây chịu thích thú, không tạo mới lạ, chỉ còn lại chịu đựng... Chịu đựng im lìm trong một niềm bất mãn đến ngộp thở. Tám năm lính, tôi hai mươi sáu tuổi, số tuổi gần ba mươi, không bạn bè, xa bằng hữu, số tuổi cuả nỗi cô đơn kinh khiếp biến con người hững hờ, tàn ác như một lát dao. Tôi hai mươi sáu tuổi để thấy rõ cái mặc cảm phạm tội trước kia chỉ là một ảo tưởng xa xỉ của tuổi mới lớn, ảo tưởng về trách nhiệm con người đối với nhau. Tôi hai mươi sáu tuổi đủ để nhận rõ rằng: Hạnh phúc quả là một vật ít ỏi tương đối, nhưng nếu mua bằng giá của đời sống mình thì thật vô lý. Đành rằng sống chẳng là một cái gì rực rỡ nhưng nếu đánh giá đời sống bằng khổ cực và cái chết thì thật là một việc rồ dại và ngu xuẩn. Như vậy tôi hai mươi sáu tuổi có được gì? Tôi có được một cái nhìn thông suốt hết cả. Nói như thế có vẻ tự kiêu và lố bịch. Nhưng nếu trung thực hơn: Sau tám năm ở lính, tôi hết còn là vùng đất để nghiệm và chịu ảnh hưởng. Tám năm ở lính để biết mình là một cánh chim tự do nhưng đã bị chặt cánh. Chính thương tích này làm sáng tỏ khả năng tự do bi đát của đời người. Gần đây báo Sống tục bản dưới hình thức báo Công Chúng có đặt câu hỏi: Người thời đại nghĩ gì? Trong đó có nêu lên chi tiết ai là thần tượng cho tuổi trẻ hôm nay? Tôi hai mươi sáu không trẻ lắm nhưng chưa già, cố tìm cho mình một thần tượng? Không có, làm gì có thần tượng cho tuổi trẻ khốn khổ của tôi. Làm sao tôi có được một thần tượng sau tám năm đằng đẵng đầy thù nghịch và ngặt nghèo. Người ta chỉ tìm được thần tượng khi lòng còn rung động. Bây giờ tôi có rung động nào trong tâm hồn? Năm vừa rồi đi đưa đám tang những thằng bạn thân, chỉ thấy trong lòng một thoáng bâng khuâng, chả bù trước đây tôi ôm xác của Phương, của Dũng chạy như điên trên sườn đồi nước mắt chảy dài trên má. Chiều trở về chỗ đóng quân nhìn chiếc võng của người chết tưởng chừng như thân thể sụp xuống tan đi trong vũng phiền buồn. Bây giờ tôi làm sao khóc được, làm sao để phẫn nộ, để nhớ thương, để mong ước. Thần tượng bây giờ là gì? Lãnh tụ? Lãnh tụ cỡ nào? Nhìn ảnh phó Tổng Thống Humphrey trong báo US News & Report cùng những câu trả lời của ông ta trong thời kỳ tranh cử Tổng Thống. Cái mồm nhỏ, trán hói, vẻ trai trẻ gỉa vờ khi xắn quần chạy trên bãi biển thấy ngượng ngùng đến khó chịu. Hay loại chính khách local?! Ô thần tượng cái khổ nào ở thứ lãnh tụ và chính khách hạng nhì này... Hay là Mao Trạch Đông? Không được nốt, cái mặt ị, đôi mắt ti hí, cuốn sách nhỏ chỉ hú hồn được thanh niên ở các nước Tây phương. Tôi cố tìm suốt một dãy các danh nhân còn sống hay đã chết để tìm cho được một người để ngưỡng mộ. Churchill? Cũng không được, đọc Mémoire của ông ta, cuốn L’Étau se referme không chịu được thái độ bất nhân đối với Nam Tư. Đến Exodux thì người Anh, ôi cũng là lũ thực dân. Nhớ đến lần hành quân ở Long Khánh thì Úc hay Anh cũng vậy, cũng là God save our King. Chả ra cái thống thế gì. Thế thì hết. Hết tiệt cái thế kỷ thần tượng, vì nếu qủa thật còn một chút thần tượng nào vất tưởng ở trên hành tinh này thì Jackie đã không xóa tan hình ảnh ông chồng rực rỡ để đi theo ông thương gia có phòng tắm lót vàng. Sống bên cạnh một thần tượng còn cho thần tượng đó "de" thì huống gì tôi, một kẻ da vàng xa xứ của ông thì ngưỡng mộ gì ông được, hở ông Kennedy. Đó là chưa kể đến nỗi hằn học mà ông Bob Kennedy để lại trong lòng những người lính Việt Nam. Hay thần tượng ỏ một anh nhược tiểu? Ché Guévara cũng không được. Đây chỉ là một loại James Bond cộng với Trần Độ mà thôi. Tóm lại thần tượng tất cả đều bị chôn chặt, bị cuốn hút, bị xóa tên, chỉ còn lại một vài thần tượng què quặt trên óc não bệnh hoạn, yếu đuối của một số người chưa sống đủ, thần tượng của những kẻ nổi loạn thành phố, những kẻ mang tâm trạng "bão tố trong cốc nước" những gã Mỹ con tóc dài, hippy, biểu tình chống đối trước trường Sĩ Quan Trừ Bị Hoa Kỳ. Sau tám năm ở lính, tôi mệt mỏi vô ngần. Mời các bạn đón đọc Dấu Binh Lửa của tác giả2 Phan Nhật Nam.
Bức Thư Giải Oan
Chiếc máy bay hãng hàng không Mỹ vượt lên độ cao ba ngàn mét, Mihara - người của công ty HanaNhật Bản, mới cởi dây bảo hiểm, ngả người trên ghế đệm. Hai người Mỹ ngôi cạnh Mihara cứ hút thuốc liên tục. Mihara buồn nôn vì thần kinh làm việc căng thẳng suốt tuần qua lại bị hơi thuốc. Hơn lúc nào hết, vào lúc này, Mihara mới cảm thấy gánh nặng của tuổi tác. Đến sân bay Băng Cốc, Mihara chuyển sang máy bay Việt Nam. Từ lúc chiếc máy bay này cất cánh, rồi đến khi nó đột ngột hạ độ cao, Mihara biết ngay mình đã đến sân bay quốc tế Hà Nội. Vừa bước ra khỏi cửa kiểm soát, ông nghe thấy tiếng người con gái: - Mihara xên xây1. Mihara quay lại. Một người con gái tóc cắt ngắn, mặc áo dài, mặt thoa lớp phấn hồng nhìn ông vẻ tươi cười, tay vẫy vẫy như đã quen từ trước. Đứng bên cô gái là ông Phó thư ký Phòng thương mại. - Chúng tôi đi đón ngài! - Ông Phó thư ký Phòng thương mại vừa nói vừa rút danh thiếp đưa cho Mihara. Thay vì giới thiệu, Mihara cũng đưa danh thiếp của mình cho ông Phó thư ký và nữ phiên dịch Bích Vân. Cả ba người ngồi vào chiếc xe Toyota đã nổ máy đứng chờ trước phòng đợi. Chiếc xe lăn bánh và chẳng mấy chốc đã về tới khách sạn Hòa Bình nằm ở ngã tư Lý Thường Kiệt - Phan Chu Trinh. Vừa bước vào phòng, Mihara lập tức quan sát xem trong phòng có vật gì có thể dùng được vào công việc ông đang cần. Sau một hồi tìm tòi, ông ngồi xuống chiếc ghế đu đong đưa mấy cái rồi vào bàn rửa mặt. Hai chiếc khăn thơm mùi vải nằm bên bánh xà phòng nhãn hiệu Hoa Nhài. Những ngày đầu tiên đến Việt Nam, Mihara đã dành tất cả thời gian rảnh rỗi đi xem hầu hết các di tích lịch sử, đường phố Hà Nội. ông quyết định, dù bận đến đâu cũng phải để thì giờ nghiên cứu quy luật đi lại, cuộc sống văn hóa, tinh thần người dân của thủ đô cộng sản này. Sau gần hai năm làm việc với Phòng thương mại Tổng Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I Bộ Ngoại thương, Unimex Hà Nội, Mihara nhờ nữ phiên dịch Bích Vân ra bưu điện quốc tế Hà Nội chuyển giúp bức điện: Mihara, Hòa Bình Hotel Hà Nội Gửi Công ty Hana Nhật Bản tại Hồng Kông Vụ sen năm nay mất mùa Nếu vẫn mua trả lời trước 10 tháng 7 Các điều kiện khác như thường. Sau khi đánh điện xong, trên đường trở về, Bích Vân tự hỏi: Mình là người phiên dịch cho ông ta từ lúc ở sân bay, khách sạn, tiếp xúc với cán bộ các cơ quan ngoại thương Việt Nam, không lần nào Mihara hỏi về trồng cây, thu hoạch sen ở Việt Nam và không ai ở phía Việt Nam nói chuyện với ông ta vấn đề này. Vậy tin tức kia là do ai cung cấp? Nữ phiên dịch Bích Vân gọi điện báo cho cơ quan an ninh hiện tượng không bình thường này. * Thượng tá Phó cục trưởng Cục 17 Bộ Nội vụ Hoàng Thế Huy cầm tờ giấy sao bức điện của Mihara, vừa xem vừa lặng lẽ bấm chuông. Thiếu tá Nguyễn Khoa Đoàn bước vào. - Đồng chí gọi tôi? - Đồng chí cho tôi mượn lại những bức điện của thương nhân Mihara. - Khi nào đồng chí cần đến? - Ngay bây giờ. Thiếu tá đi ra, khoảng năm phút sau quay lại với ba tờ giấy phô tô ba bức điện. - Đây, mời đồng chí xem - Thiếu tá đưa tập giấy đến trước thượng tá. Thượng tá cầm tập giấy, chữ viết nguệch ngoạc của người con gái dịch từ chữ Nhật ra chữ Việt. Tất cả chẳng có điểm nào đáng nghi ngờ mà còn rõ ràng, dễ hiểu. Duy chỉ có bức điện thứ tư, ông vẫn thấy có điều gì khó hiểu. Ông nhìn thiếu tá: - Đồng chí có suy nghĩ gì về bức điện thứ tư của thương nhân Mỉhara không? - Tôi cho rằng đó là bức điện bình thường - Tuy trả lời, song thiếu tá thấy Phó cục trưởng hỏi như vậy chắc có vấn đề nên anh thận trọng nói tiếp - Tất nhiên, là những sĩ quan phản gián, chúng ta còn phải nghiên cứu nhiều nữa để lần tới sự chính xác. - Đúng như vậy. Chúng ta phải bắt đầu từ những điều không lôgic để tìm ra dấu hiệu khả nghi: từ dấu hiệu khả nghi chúng ta lần tìm ra sự thật chính xác, thực chất về một con người. - Nhưng đồng chí thấy có gì không lôgic? - Lẽ ra điều này tôi hỏi đồng chí mới đúng. Song, đồng chí không thấy, tôi nói để chúng ta cùng bàn. Trước khi trao đổi nội dung chính, tôi hỏi, đồng chí có biết mùa sen nở năm nay được hay mất? - So với bốn năm gần đây, năm nay thu hoạch khá hơn cả. Hiện tại, kho ngoại thương còn gần một ngàn tấn liên nhục chưa xuất. - Thế thì tại sao Mihara lại điện về cho Công ty Hana mùa sen năm nay mất. Có phải là điểm không lôgic không?- Thượng tá đứng lên. - Nếu vậy, tại sao ông ta lại điện báo công khai qua bưu điện quốc tế - Thiếu tá Nguyễn Khoa Đoàn hỏi. - Chính tôi cũng đặt câu hỏi như thế - Thượng tá vừa đi vừa gật đầu - Hoạt động trên mặt trận bí mật này, chúng ta không được xem nhẹ tình huống tưởng là đơn giản. - Nghĩa là chúng ta bố trí lực lượng giám sát? - Đúng. Tôi giao cho đồng chí công việc đó. Thế là một tổ cán bộ cơ quan an ninh Việt Nam quyết định đuổi theo một cái bóng mà chưa dám khẳng định có thật hay giả. ------------------ 1. Tiếng Nhật: Chào ông Mihara (Mihara tiên sinh) 2 Tháng Tám năm đó Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức cho các nhà ngoại giao, thương nhân, nhà báo nước ngoài ở Hà Nội tham quan một số tỉnh miền Trung bị lũ lụt. Mục đích của chuyến đi là để mọi người chứng kiến cảnh thiên nhiên tàn phá mùa màng, nhà cửa ở những tỉnh này, thông qua đó, họ kêu gọi chính phủ các nước hoặc các công ty của họ viện trợ khẩn cấp cho đồng bào vùng bị lũ lụt. Một số sứ quán không cử người đi. Những người đi phần lớn là chưa vào Huế, Đà Nằng, nhân dịp này đi để tìm hiểu về cuộc sống của đồng bào những thành phố đã hơn hai mươi năm Mỹ cai trị; có người đi để làm quen với đồng nghiệp ở các sứ quán, các thương nhân khác, mở rộng thêm mối quan hệ bạn bè. Mời các bạn đón đọc Bức Thư Giải Oan của tác giả Trần Diễn.