Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trong Khi Chờ Bojangles

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch). “Một câu chuyện cổ tích kỳ lạ.” – The New York Times Trước ánh mắt ngạc nhiên đầy ngưỡng mộ của cậu con trai, họ khiêu vũ trên nền nhạc lãng mạn của Nina Simone, Mr. Bojangles. Tình yêu của họ giống như một phép mầu, một bữa tiệc vui kéo dài mãi không dứt. Nơi họ chỉ có chỗ cho niềm vui, sự phóng túng, cuồng ngông và bạn bè. Trong những điều đẹp đẽ và ngay cả trong những biến cố bất hạnh xảy ra, chỉ có tình yêu là điều lớn lao hơn cả. Và, “tình điên” chưa bao giờ đúng với tên gọi của nó đến thế. Gặt hái thành công lớn ngay từ những tuần đầu tiên sau khi phát hành (tháng Một năm 2016), Trong khi chờ Bojangles tiếp tục giành được nhiều giải thưởng văn chương, trong đó có giải Tiểu thuyết France Télévisions, Giải thưởng lớn của RTL-Lire, giải Emmanuel-Roblès, giải tiểu thuyết dành cho sinh viên của France Culture-Télérama và giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học vùng Bretagne và Pays de la Loire. Năm 2019, Trong khi chờ Bojangles được đạo diễn sân khấu Victoire Berger-Perrin dàn dựng thành vở kịch cùng tên, giành được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình và báo chí. Trước đó, năm 2017, tác phẩm của Olivier Bourdeaut cũng đã được hai tác giả Ingrid Chabbert và Carole Maurel chuyển thể thành truyện tranh. ĐÔI ĐIỀU VỀ TÁC GIẢ: Olivier Bourdeaut sinh năm 1980 tại Nantes, Pháp. Từ một nhân viên môi giới bất động sản, ở tuổi 30 anh quyết định rẽ hướng sang lĩnh vực văn chương. Anh dành ra hai năm để viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên song không tìm được sự đồng ý từ bất cứ nhà xuất bản nào. Sau đó anh tới sống ở nhà bố mẹ mình tại Tây Ban Nha, tập trung viết tiểu thuyết thứ hai, Trong khi chờ Bojangles, và hoàn thành nó trong vòng bảy tuần lễ. Lần này, câu chuyện nhẹ nhàng và điên rồ mà Olivier Bourdeaut kể lập tức gặt hái được thành công vang dội ngay sau khi được phát hành. *** Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch) Tóm tắt: Cuốn sách xoay quanh câu chuyện tình yêu kỳ lạ và đầy màu sắc của cặp vợ chồng Georges và Camille. Họ sống trong thế giới tưởng tượng của riêng mình, nơi tràn ngập niềm vui, sự phóng túng và tình bạn. Cậu con trai của họ, Gary, chứng kiến ​​tình yêu đặc biệt của cha mẹ và dần bị cuốn vào thế giới tưởng tượng ấy. Tuy nhiên, cuộc sống của họ gặp biến động khi Camille mắc bệnh Alzheimer. Georges phải đối mặt với thử thách lớn khi chăm sóc vợ và giữ gìn thế giới tưởng tượng của họ. Review: Ưu điểm: Câu chuyện tình yêu độc đáo và đầy cảm xúc: Cuốn sách mang đến một góc nhìn mới về tình yêu, không chỉ là sự lãng mạn mà còn là sự đồng hành và hy sinh. Lối viết nhẹ nhàng, tinh tế và đầy ẩn dụ: Tác giả sử dụng những hình ảnh ẩn dụ để miêu tả thế giới tưởng tượng của các nhân vật, khiến cho câu chuyện thêm phần huyền ảo và lãng mạn. Khắc họa chân thực những khó khăn khi đối mặt với bệnh Alzheimer: Cuốn sách giúp người đọc hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của bệnh Alzheimer đối với người bệnh và gia đình họ. Nhược điểm: Cái kết gây tranh cãi: Cái kết của câu chuyện có thể khiến một số người đọc cảm thấy hụt hẫng hoặc khó hiểu. Một số chi tiết trong câu chuyện có thể khó hiểu: Cuốn sách sử dụng nhiều ẩn dụ và biểu tượng, có thể khiến người đọc khó nắm bắt được ý nghĩa của câu chuyện. Đánh giá chung: Trong Khi Chờ Bojangles là một cuốn sách đẹp và buồn về tình yêu, mất mát và trí nhớ. Cuốn sách là lời nhắc nhở quý giá về việc trân trọng những khoảnh khắc hiện tại và yêu thương những người xung quanh. Điểm đánh giá: 4/5 Đối tượng phù hợp: Người yêu thích tiểu thuyết lãng mạn. Người quan tâm đến những câu chuyện về tình yêu và mất mát. Người muốn tìm hiểu về bệnh Alzheimer. Lời khuyên: Nên đọc sách với tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón nhận những cảm xúc khác nhau. Nên tìm hiểu thêm về bệnh Alzheimer để hiểu rõ hơn về những khó khăn mà người bệnh và gia đình họ phải đối mặt. Trích dẫn: "Tình yêu là thứ duy nhất còn lại khi chúng ta đã mất tất cả." - Olivier Bourdeaut "Trí nhớ là một thứ mỏng manh, nó có thể tan biến bất cứ lúc nào." - Olivier Bourdeaut "Cuộc sống là một hành trình đầy những điều bất ngờ, hãy trân trọng từng khoảnh khắc hiện tại." - Olivier Bourdeaut *** Trong khi chờ Bojangles: Một vùng La La Land Sự thật thường rẻ mạt, trừ phi nó nực cười như một lời nói dối, tôi chua xót nhận ra. Những cuốn sách Pháp luôn gợi một cảm giác nào đó vô cùng lạ lùng, như thể những nhát cắn trên chiếc bánh gato nhiều tầng mà mỗi tầng lại chứa những cảm xúc khác nhau. Nhưng điểm chung là chúng hài hòa, đầy đủ hương vị, không cô đọng hay duy ý chí. Những nụ hôn điện ảnh từng mang đến cái đẹp của góc nhìn phía sau màn trập trong những gì hối tiếc đã qua; Hẹn gặp lại trên kia xuyên suốt là nỗi buồn thương, nhưng song song cũng là cái bất cần đời, là cái ngạo nghễ ngao du theo mọi phương hướng. Và Trong khi chờ Bojangles cũng không ngoại lệ. Nhẹ nhàng như một lời thủ thỉ, Olivier Bourdeaut xắn tay áo pha trộn cho độc giả một ly cocktail với đầy đủ hương vị thoang thoảng: một nỗi buồn vui, kích động, trầm lắng, xót xa trong một bút pháp tinh tế đến mức điêu tàn; và còn gì khác ngoài chờ người đọc đến thưởng? Lý do đầu tiên chọn đọc Trong khi chờ Bojangles không gì hơn ấn tượng ban đầu với bìa sách theo chủ nghĩa tối giản mô tả cặp đôi đang khiêu vũ, phía sau là máy quay đĩa than thời đệ nhị Thế chiến và những khuôn nhạc lẻ tẻ tách dòng. Hơn thế nữa, tựa đề cuốn sách nhắc nhớ đến một bài ca của Nina Simone, Mr. Bojangles trong đĩa Here Comes The Sun. Quay lại quá khứ vào năm 1965, khi bị tống vào nhà tù bang New Orleans vì một vụ ám sát trên đường phố, ca sĩ nhạc đồng quê Jeff Walker đã làm quen với một người đàn ông vô gia cư cùng ngồi trong khám. Ở đó, khi người ta kể lại câu chuyện cuộc đời cho nhau nghe, người đàn ông này đã làm bầu không khí trầm xuống khi kể về chú chó đã chết của mình. Lập tức một ai đó muốn mọi thứ vui tươi trở lại, thế là họ nài nỉ người đàn ông nọ, Mr. Bojangles – đứng lên và nhảy một điệu tap dance. Sau này Bojangles trở thành một danh từ chung ý chỉ những nghệ sĩ đường phố nhảy tap dance thường thấy trong văn hóa Mỹ, bước chân vào Hollywood và phủ rộng các làn sóng văn hóa. Điều cuốn hút hơn nữa còn là màu sắc mà bìa sách sử dụng. Như một cuốn phim âm bản giữa hai màu đen trắng được giản lược đến mức tối đa, cuốn sách như một mồi nhử khiêu khích người đọc – không cần màu mè hoa lá nhưng vẫn cuốn lấy người khác bằng vẻ huyễn hoặc. Và với Trong khi chờ Bojangles, người đọc phần nào cũng có thể phân định nó theo ba màu cơ bản: giữa trắng ngông cuồng, vui tươi; đen trầm uất, xót xa và đỏ của những vết thù hằn lại khi đến tận cùng cuốn sách. Sau khi trang cuối khép lại, chắc hẳn sẽ có ai đó nói đây là một nồi lẩu của tả pí lù mọi chuyện trên đời; nhưng chắc hẳn cũng có những người lật mở được điều gì đó giữa những tầng lớp ấy, để thấy được một tia sáng dù nhỏ mọn soi chiếu nội tâm nhẹ nhàng và thoảng hoặc như một cơn gió. * Cuốn sách kể về câu chuyện của một gia đình Pháp điển hình trong hai ngôi kể đan xen giữa bố và cậu con trai nhưng cùng hướng chung về nhân vật người mẹ. Nếu độc giả dễ dàng nhận ra tình cảm trìu mến trong những phân đoạn của bố, về những trò đùa tuổi trẻ, về tình yêu ngông cuồng; thì cậu con trai là góc nhìn vô cùng hồn nhiên, của những hờn giận, ghen tuông, của những thứ rất dễ chấp nhận khi bi kịch xảy đến. Nút thắt xoay chuyển mọi thứ có lẽ là vào ngày viên thanh tra thuế đến, và mọi thứ sụp đổ, kéo theo cơn điên của người mẹ như cơn bão chạm bờ. Tiếp sau đó là những tháng ngày chống chọi với buồn thương, của kiềm hãm cảm xúc, của tuyệt vọng đôi khi vô vọng. Như đã nói trên, Trong khi chờ Bojangles là cuốn sách tổng hòa của những hương vị, nên dẫu là ai, cuốn sách cũng khép mình đứng đó như chúng ta tự soi chiếu mình. TRẮNG Ngay câu mở đầu cuốn sách, Olivier Bourdeaut đã rào đón người đọc bước vào mảnh đất hài hước của mình bằng cách lựa chọn nhân vật độc đáo, giữa những cá nhân đầy rực rỡ tình yêu tuổi trẻ. Nếu người bố tự nhận mình như một tên hề tràn ngập hạnh phúc, với lối sống phóng túng và bất cần đời của những trò đùa với giới tư bản giàu có, dễ gợi nhắc đến Jack của Titanic; thì vợ anh, người mẹ luôn luôn chuyển động và không có một cái tên chính thức nào, sinh ra như để dành cho nhau. Gặp nhau trong một bữa tiệc vô tình, họ choáng ngợp bởi cái nhìn chếnh choáng say rượu, và ngay sau đó trở thành tình nhân sau chuyến chạy thoát thực tại trong ánh đèn đường. Mối quan hệ không đầu không đuôi ấy mang cho người đọc những tràng cười mê mải, với những chi tiết khôi hài những tưởng chỉ David Williams mới nghĩ ra được, về việc mỗi ngày đặt một cái tên, và sử dụng cái tên ấy không quá hai ngày cho người mẹ; về việc nuôi con sếu mà sau này được gán biệt danh “Quý cô thừa thãi”, về những trận cãi nhau chí chóe giữa bà mẹ và cô giáo cậu con trai… Tất cả làm nên một bầu không khí dễ chịu, vui tươi của những nhân vật kỳ lạ, đôi lúc lạ lẫm đến phi logic. Nhưng người đọc có nề hà gì. Với họ, niềm vui đọng lại đằng sau các nhân vật này mới là trên hết. Sự lãng mạn đậm chất Pháp cũng được Olivier mang vào cuốn sách này với nhạc jazz tụ hội tiệc tùng, với Nina Simone, với slow dance chậm rãi. Ở đó, vào những tối trong ngày, hai vợ chồng họ tổ chức tiệc cocktail cho đầy đủ mọi người, từ người quen thân cho đến chỉ mới gặp lần đầu. Không khí đậm chất hoài cổ mà vương giả ấy cho người đọc một sự ấm cúng giữa những cái chạm, ánh mắt, bờ môi; những cái lắc hông, chạm má tình tứ. Ngoài những nhân vật vui vẻ tràn ngập niềm vui ấy, Trong khi chờ Bojangles cũng đồng thời chứa đựng cái tinh tế mà đẹp đẽ của sự lãng mạn, rất Pháp, rất Âu châu. Nhưng gia đình nhỏ hạnh phúc ấy, những tiệc tùng nhảy múa đến đêm ấy, những chuyến đi đến thiên đường – pháo đài Tây Ban Nha ấy kéo dài không lâu, mà hồi chuông cảnh tỉnh là thời khắc cái bấm chuông của ông thanh tra thuế vang lên. Hàng tá thư dồn đống trong góc mà họ chẳng buồn mở ra, hóa ra là nguồn cơn cho sự sụp đổ manh nha này. Người bố bất ngờ trước tài sản vật chất từng thứ trôi tuột qua tay, trong khi người mẹ suy sụp đến mức cơn điên tìm đến. Cốt truyện từ khoảnh khắc này trở đi hóa thành một màu đen nhẻm, của tuyệt vọng bi thiết. Olivier như một họa sĩ lành nghề của lĩnh vực sắc độ. Ông chuyển mạch truyện êm ả như cú cua gấp trong màn đêm chuyển màu ombre đầy thời trang. Và cũng từ đây, một mùi hương khác lại được thêm vào, nghe chừng ra mùi kết thúc. ĐEN Từ bi kịch ấy, chứng rối loạn lưỡng cực như đến xâm chiếm người mẹ. Bà bị phân thân giữa những tràng cười điên dại bất tận và những trò lố của người mất trí. Bà quên sạch mọi bước khiêu vũ, cứ thể khỏa thân đi mua thức ăn, cố gắng viết sách, sơn phủ lại nhà, rồi cuối cùng đốt chính ngôi đền Pantheon thiêng liêng của cuộc hôn nhân mình. Em đã đốt tất cả các kỷ niệm của chúng ta, chỉ có cách đó họ mới không tìm ra chúng, như câu nói một hôm khi căn hộ của họ bốc cháy, còn bà mụ mị thiếp đi khi tay vẫn ôm chiếc máy quay đĩa phát bài Mr. Bojangles và con sếu mang danh “Quý cô thừa thãi”. Kể từ đó, người bố sống trong việc nhận thức rõ người mình yêu thương nhất đã không hoàn toàn như trước. Anh bình tâm an ủi cậu con trai bằng những câu sáo rỗng, rằng mọi thứ rồi sẽ ổn, rằng cả sự điên rồ này cũng thuộc về bố con ạ, rằng giờ thì đã qua hết rồi. Anh khóc ngay cả bữa sáng hay những bữa xem phim, khóc khi nhìn tấm hình cả gia đình nhỏ bé còn sót lại, khóc vào ban ngày thực sự khác lắm, vì đó là một mức độ đau buồn khác. Anh bất lực đứng nhìn người đàn bà mình yêu bị chuyển vào viện, ở tầng ba dành cho người chưa mất hẳn trí nhớ nhưng được chỉ định là không bình thường. Kể từ nay, ngày nào chúng tôi cũng phải chứng kiến cảnh mẹ nó mê sảng tại một phòng bệnh, rằng mẹ nó là một bệnh nhân tâm thần và nó phải ngoan ngoãn chờ mẹ khuất dần.  Nhưng cặp vợ chồng hoàn hảo ấy dĩ nhiên không dừng chân tại đó. Họ nuôi một kế hoạch khác để làm phong phú cuộc đời như họ vốn đã từng. Bằng cách nào? Cướp ngục bắt cóc bệnh nhân ra khỏi bệnh viện bằng lối cửa chính. Hẳn nhiên bạn không nghe nhầm, thế mới nói, Olivier là một tác gia kì lạ, ông thách thức mọi thứ logic chặt chẽ nhất, dễ thấy nhất; nhưng lạ thay, độc giả dễ dàng chấp nhận cho chính điều này. Tưởng như Catharina Ingelman-Sundberg của bộ Bà già phá luật, hai bố con họ đến giải cứu người mẹ trong viện tâm thần như cuốn phim Ba chàng ngốc. Họ rời khỏi đó, đến tòa lâu đài thiên đường của họ và sống cuộc đời như bao người muốn. Nhưng cơn điên không vì thế mà tha thứ cho họ. Người mẹ và những cơn bùng phát nhất thời, giận dữ và đập phá liên tục sau đó, dẫn đến yêu cầu tối hậu được nhốt riêng trên căn áp mái của tòa pháo đài. Người bố vì tình yêu vô bờ bến cam chịu đồng ý. Ông xoa dịu bà mỗi khi cơn điên ập đến, rồi đến một lúc, ông bế bà lên những bậc thang, lên chốn ẩn nấp dành cho cơn điên quần tụ. Cậu bé thì bịt chặt tai, chạy ra hồ nước tránh xa tiếng hét. Cơn điên như loài gặm nhấm, ăn mòn ăn dần từ trong gốc rễ, từ trong gia đình. Không ai đứng đủ gần để quan sát, mà chỉ còn đó cây thông u linh đứng riêng một mình. ĐỎ Có hai chi tiết ẩn mình khiến người đọc trăn trở mãi trong câu chuyện của Olivier. Dẹp sang đằng sau những hài hước bề ngoài, những phi logic của cuộc giải cứu; thì hình ảnh người mẹ và nước mắt lăn dài khi pháo hoa rơi mang đến một chút gì đó như nhận thức về vẻ đẹp tự hủy. Khi sự sung túc vẫn còn mới chớm, những ngày sinh nhật của bà luôn được đánh dấu bằng những tối liên hoan âm nhạc, với cocktail, rượu vang, với slow dance, đầy đủ mọi thứ. Thế nhưng khi pháo hoa tàn, bà vẫn rơi nước mắt. Có thể là bởi vẻ đẹp tàn lụi nhanh chóng hay có thể đó là khi bà đã nhận ra điều sẽ đến? Không ai biết được. Chỉ biết cũng hình ảnh ấy, trong buổi tiệc địa phương của người Tây Ban Nha khi mọi thứ lụn bại, cuộc sống sắp kết thúc; câu hát của Nina Simone lại cất lên vang vọng, giữa những đỉnh cực trị lên xuống hình sin, của ảo ảnh chòng chành, của khoảnh khắc kết thúc quá sớm. Thời khắc ấy được kéo dãn ra như thời gian nhảy lên hẫng xuống của điệu tap dance, như thời khắc tan biến của tia lửa, như cuộc đời đã đến hồi kết. He jumps so high and then he lightly touches down. Hình tượng thứ hai, cây thông ở trước hồ nước. Đối với người mẹ, trong những tháng ngày ảo ảnh vần chuyển của cơn điên loạn, đây là một trong những thứ khiến bà điên tiết đến mức đòi chặt nó đi. Không ai hiểu rõ được nguyên nhân hơn người trong cơn cuồng nộ ấy, nhưng liệu có phải vì nó đứng đơn độc trơ trụi một mình, thân phận của bà và nó như gần giống nhau? Bà muốn giải thoát nó, muốn nó phiêu diêu trên những con thuyền xuôi ngược đại dương, làm thứ có ích hơn là chỉ đứng yên đó. Còn với người bố đâm mình chán nản vào rượu mỗi tối, việc tưới rượu xuống cây thông ấy như đang mời rượu hay còn dụng ý nào khác? Liệu có âm mưu muốn phá hủy nó, biến nó thành chứng nhân cho tình yêu của ông với bà, chứng nhân cho sự hy sinh đến một đỉnh điểm vô bờ bến? Và cuối cùng khi mọi chuyện đã soi tỏ, rừng thông cũng là nơi ông trở lại, sống với bà, mặc kệ thế thái sau khi mọi thứ đã được nói rõ, mọi câu chuyện đã được kể xong. Cây thông đứng đó như sợi dây liên kết, như nỗi cô độc, như chứng nhân, như sự tan biến. * Trong khi chờ Bojangles không thiếu những điều vô lý, nhưng nếu hỏi độc giả có thể tha thứ cho nó không, e rằng câu trả lời là có. Olivier dựng lên một chuyện tình đẹp đẽ đến siêu thực, và những thứ vô lý ấy, nếu có thêm vào, chẳng qua cũng để sống trong giấc mơ tuyệt vời. Cuộc tình điên dại đầy hoang vu này đôi lúc gợi nhớ đến Mia và Sebastian trong La La Land và vẻ đẹp của sự tự hủy. Có chăng mối tương quan giữa những cuộc tình đẹp và sự kết thúc đầy trái ngoe? Không ai biết được. Nhưng với Trong khi chờ Bojangles, giọng văn kể cả của những trò đùa vỡ bụng và nỗi đau thầm kín đã hòa trộn vào nhau, làm nên tình yêu đẹp đến nghẹt thở. Với giọng văn nhẹ nhàng và sự thấu hiểu nhiều lớp cảm xúc, Olivier Bourdeaut đã viết nên một câu chuyện vô cùng đẹp đẽ, câu chuyện từ rất lâu rồi, từ sau La La Land, từ sau Bọt tháng ngày, từ sau Những nụ hôn điện ảnh độc giả mới một lần nữa lại được trải nghiệm, đắm chìm và dành một phút nhìn lại mọi thứ xung quanh.  Hết. Ngô Thuận Phát Mời các bạn mượn đọc sách Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Gửi Asuka Và Đứa Con Chưa Chào Đời Của Bố
Tác giả Kazukiyo (1947-1979) là một bác sĩ nội khoa 31 tuổi, đang ở vào 4 tháng cuối cùng của cuộc đời do ung thư di căn. 11/1977, bác sĩ Kazukiyo phát hiện ra khối u ở đầu gối nên đã quyết định cắt bỏ chân phải. Anh lạc quan và can trường luyện tập phục hồi chức năng tới 5/1978 để quay lại bệnh viện làm việc. Nhưng số phận nghiệt ngã, tới cuối 8/1978, Kazukiyo thấy đau ngực và phát hiện ra tế bào ung thư đã di căn lên phổi. Không đầu hàng số phận, anh bắt đầu tự thực hiện liệu pháp miễn dịch mà không nói cho ai hay kể cả vợ và cha mẹ, ngoài 4 người giúp anh thực hiện liệu pháp. Anh đã kiên trì điều trị và gắng gượng làm việc được đến 12/1978 rồi đành nghỉ việc vì kiệt sức và về quê tĩnh dưỡng. Anh đã ngoan cường chiến đấu với bệnh tật tới giây phút cuối cùng và ra đi vào 21/1/1979. Từ khoảnh khắc biết ung thư đã di căn vào phổi và tự tính được thời gian còn lại, Kazukiyo đã quyết định viết cuốn sách để tặng cho trước hết là hai con của mình, Asuka 2 tuổi và con thứ hai đang trong bụng mẹ, và thứ nữa là cho vợ, cha mẹ, bạn bè đồng nghiệp, bệnh nhân cùng những ai đang giúp họ chiến đấu với bệnh tật. *** [REVIEW] GỬI ASUKA VÀ ĐỨA CON CHƯA CHÀO ĐỜI CỦA BỐ   Cuốn sách kể lại câu chuyện có thật về quá trình chiến đấu với căn bệnh ung thư của bác sĩ nội khoa Kazukiyo Imura dành tặng cho cô con gái nhỏ Asuka, và đứa con còn chưa chào đời. Cuốn sách best-seller đã bán được một triệu năm trăm nghìn bản, được chuyển thể thành movie và phim dài tập. Sự tử tế, trái tim nhân ái và lòng trân trọng cuộc sống của vị bác sĩ đã truyền động lực, niềm tin cho những người đang sống. Một cuốn sách lay động đến trái tim của hàng triệu độc giả tại xứ sở hoa anh đào và được chuyển ngữ tại Việt Nam. Cuốn sách là những chiêm nghiệm của tác giả về cuộc sống từ ngày còn nhỏ đến khi trở thành một bác sĩ nội khoa. Từ những sai lầm thủa ấu thơ để rồi sửa chữa mà lớn lên với tấm lòng đầy bao dung và ấm áp. Trong suốt quá trình làm việc tại bệnh viện, bác sĩ Kazukiyo Imura đã gặp rất nhiều trường hợp khi con người đứng giữa sự sống và cái chết. Và anh đã nhận ra rằng mọi người lựa chọn sống hay chết, nỗ lực từng ngày hay tuyệt vọng buông xuôi đều có lý do của nó. Đừng buông những lời cay đắng khi bạn chưa biết được người khác đã phải trải qua những gì. Anh viết “ Người ta thường nói rằng những kẻ tự sát là những kẻ yếu đuối. Bố không nghĩ thế. Bố tự hỏi, liệu nỗi đau phải lớn tới mức nào mới dồn ép họ tới hành động đòi hỏi dũng khí như tự tử.”   Khi biết mình mang căn bệnh quái ác, bác sĩ Kazukiyo Imura đã chiến đấu với nó thật can trường. Sau khi cắt bỏ một chân, anh vẫn tiếp tục đến bệnh viện làm việc với cái chân giả. Dù khó khăn hơn những bác sĩ khác nhưng điều đó không cản được mong muốn chữa bệnh cho bệnh nhân trong anh. Anh hiểu rằng không ai hiểu người bệnh hơn một bác sĩ cũng đang bị căn bệnh giống họ. Với tinh thần lạc quan ấy, cuốn sách dù viết về quá trình chiến đấu với căn bệnh ung thư, có những đoạn khiến người đọc nghẹt thở vì thương cảm, xót xa nhưng lại không mang đến cảm giác u buồn, tuyệt vọng. Bởi khi đối diện với cái chết đến gần, bác sĩ Kazukiyo Imura vẫn luôn mang lòng biết ơn đối với cuộc sống, với những người đã giúp đỡ, yêu thương mình trong cuộc đời ngắn ngủi. Bên cạnh đó cũng có những phút giây vị bác sĩ dũng cảm ấy yếu lòng khi nghĩ đến việc phải rời xa gia đình thân yêu, đặc biệt là Asuka bé nhỏ và đứa con còn chưa chào đời. Những phút giây ấy cũng khiến độc giả thấy tim mình trùng xuống vì đọc những lời nghẹn ngào “Bố có thể ở cùng Asuka đến khi nào? Bố còn có thể ôm Asuka đến khi nào? Nhìn Asuka, nước mắt bố cứ trào ra”. Cũng chính tình yêu thương ấy đã là động lực to lớn để giúp tác giả hoàn thành cuốn sách để giành tặng hai đứa con bé nhỏ trong khi phải chiến đấu với những cơn đau bởi khối u di căn sang phổi. Người đàn ông 31 tuổi nhắn gửi các con rằng: “Khi lớn lên, hãy trở thành những đứa trẻ tốt bụng và có lòng vị tha. Thêm vào đó, hãy biết trân trọng mẹ các con. Để nuôi dạy các con, mẹ đã phải chịu đựng bao nhiêu là khổ cực. Và ngay cả với bố, mẹ cũng dốc hết tâm can mà hết mực dịu dàng”. Một cuốn sách không lời văn hoa sáo rỗng, vì đó là tất cả tấm lòng của người bố viết cho con mình vì sợ khi chúng lớn lên không có chút ký ức nào về người bố đã mất sớm. Đó là tình yêu đã đi cùng vợ và hai con trong suốt quãng thời gian sau này, khi không có anh ở bên... *** Lời nói đầu Chồng tôi, Imura Kazukiyo, qua đời vào ngày 21 tháng 1 năm 1979, thấm thoắt cũng đã hai mươi sáu năm. Thời gian gần đây, quyển sách này đã trở thành ấn phẩm bán chạy, thường xuyên xuất hiện trên đài NHK và còn được dựng thành phim, giúp cho rất nhiều quý vị biết đến người chồng quá cố của tôi. Chúng tôi cũng nhận được vô số lời động viên khích lệ từ khắp nơi trên cả nước. Từ đáy lòng tôi cảm thấy vô cùng biết ơn. Thực tình, tôi rất muốn hồi đáp từng vị một, nhưng việc đó là quá sức nên tôi thành thật ngỏ lời xin lỗi. Khi chồng tôi mất, con gái đầu Asuka của chúng tôi mới được hai tuổi, giờ cháu đã hai mươi tám. Còn “đứa con chưa chào đời” mà chồng tôi đã không thể gặp mặt vào ngày hạ sinh - thứ nữ Seiko cũng đã bước sang tuổi hai mươi sáu. cho tới nay, điều duy nhất tôi ngóng trông là sự trưởng thành của hai con, và may thay chúng đều khỏe mạnh, bình yên vô sự mà nên người. Cũng giống như tôi và chồng, cả hai cháu đều làm công việc liên quan tới lĩnh vực y tế. Bản thân tôi, nhờ các con gái, cũng được trau dồi thêm về khái niệm đời sống thời nay và sự đổi thay, cải thiện của môi trường chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, mùa xuân vừa rồi, con gái thứ hai Seiko của tôi đã nên duyên và kết hôn. Chú rể cũng là người làm trong ngành Y. Nhân cơ hội đó, nhà xuất bản Shodensha đã nói chuyện với tôi về việc tái bản sách. Ngẫm ra thì, tôi cảm thấy chưa có thời đại nào mà câu hỏi về sức nặng của sinh mệnh lại được đặt ra nhiều như bây giờ. Tôi quyết định chấp nhận lời đề nghị tái bản, bởi tôi mong muốn rằng, càng nhiều người càng tốt có thể thấu hiểu lòng biết ơn vô vàn mà người chồng quá cố của tôi đã dành cho những điều rất đỗi hiển nhiên. Tôi cũng mượn dịp này để gửi lời cảm tạ chân thành tới những người đã luôn giúp đỡ chúng tôi bấy lâu nay. Thực sự cảm ơn mọi người. Một ngày đẹp trời tháng 7 năm 2005 Imura Michiko *** Vì biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu nữa, nên tôi đã luôn suy nghĩ về một chuyện. Tranh thủ những ngày tháng ít ỏi còn lại, tôi muốn viết một quyển sách. Đó sẽ là bằng chứng cho thấy tôi đã sống trên đời này hơn ba mươi năm, là lời cảm ơn từ tận trong tâm dành cho những người đã vì tôi mà rơi lệ, cũng là món quà duy nhất của một người bố dành tặng hai đứa con thơ ngây cờn chưa hiểu sự đời, và là kỉ vật của lòng tôi. Bởi vậy, tôi muốn viết lời đề tặng cho quyển sách này như sau: Xin dành tặng quyển sách nhỏ này cho hai con đáng yêu của bỗ; cho vợ - người tới tận những giây phút cuối cùng vẫn hết lòng yêu thương anh; cho bố mẹ đáng kính - hai người đã đau buôn vì bệnh tật của con hơn bất kì ai; cho những người bạn tuyệt vời; cho các em, họ hàng, đồng nghiệp, người thân quen đã dùng thương yêu mà bao bọc giúp đỡ tôi; cho các bệnh nhân vẫn luôn chờ đợi tôi trở về; cho những người đang thống khổ vật lộn trên giường bệnh và cho những ai mang trái tim thiện lương đang chung nỗi đau cùng họ trên toàn thế giới. Imura Kazukiyo Mời các bạn đón đọc Gửi Asuka Và Đứa Con Chưa Chào Đời Của Bố của tác giả Kazukiyo Imura & Thùy Dương (dịch).
Cô Gái Người Anh
Madeline Hart là ngôi sao đang lên trong đảng cầm quyền ở Đảo quốc Anh: xinh đẹp, thông minh, đã vượt lên tuổi thơ khốn khó để có được chỗ đứng trong xã hội. Tuy nhiên Madeline đang mang một bí mật đen tối: cô là nhân tình của Thủ tướng Jonathan Lancaster. Biết chuyện, những kẻ bắt cóc cô quyết tâm buộc nhà lãnh đạo Anh phải trả giá đắt cho tội lỗi của mình. Lo sợ vụ bê bối sẽ làm tiêu tan sự nghiệp, Lancaster muốn giải quyết vấn đề này một cách âm thầm thay vì giao phó cho cảnh sát. Đúng là một nước bài đầy rủi ro, không chỉ đối với Thủ tướng mà còn cho những ai dấn thân vào nhiệm vụ này. Bảy ngày – Một cô gái – Không có cơ hội thứ hai. Gabriel Allon – sát thủ bậc thầy, nhà phục chế nghệ thuật trứ danh và là điệp viên kỳ cựu của Israel, không còn lạ lẫm gì với các nhiệm vụ hiểm nguy hay rắc rối chính trị – chấp nhận đương đầu với thử thách. Trong từng tiếng tích tắc của đồng hồ, Gabriel không ngừng tìm cách giải cứu Madeline. Nhiệm vụ đã đưa ông đi từ thế giới ngầm tội ác của Marseilles đến vùng thung lũng biệt lập của Provence, đến các hành lang sang trọng nhưng đã lu mờ của chốn quyền lực London – và cuối cùng, là đến nơi tột cùng kinh hoảng – Moscow, thành phố của bạo lực và gián điệp, nơi có cả một danh sách dài những kẻ muốn Gabriel phải chết. *** LÀNG PIANA, ĐẢO CORSE BỌN CHÚNG ĐẾN tìm cô cuối tháng Tám trên đảo Corse*. Thời gian chính xác sẽ không bao giờ xác định: dù đã cố hết sức, bất cứ người bạn nào ở chung nhà với cô cũng chỉ biết là thời điểm nào đó từ lúc mặt trời lặn đến giữa trưa ngày hôm sau. Mặt trời lặn là lúc họ nhìn thấy cô lần cuối, đang phóng nhanh trên chiếc xe máy scooter* màu đỏ ra khỏi lối vào biệt thự, một chiếc váy bằng vải bông mỏng tang phấp phới trên cặp đùi rám nắng. Đến giữa trưa là lúc họ nhận thấy giường cô trống không, chẳng có gì ngoài một cuốn tiểu thuyết bìa giấy rẻ tiền đang đọc dở dang thơm mùi dầu dừa và thoang thoảng mùi rượu rum. Hai mươi bốn giờ nữa trôi qua rồi họ mới quyết định đi gọi hiến binh* Pháp tới. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế. Họ đã tới đảo Corse nửa tháng trước, bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn, tất cả đều là công chức mẫn cán của chính phủ Vương quốc Anh, hoặc là đảng viên đảng cầm quyền dạo ấy. Họ có một chiếc xe hơi đơn sơ, một chiếc hatchback hiệu Renault của cơ quan vừa đủ lớn để sắp xếp cho năm người ngồi không được thoải mái, và một chiếc scooter màu đỏ là độc quyền của riêng Madeline mà cô vốn cứ cưỡi nó rồi phóng đi bạt mạng gần như là tự sát. Biệt thự màu đất son của họ tọa lạc ở rìa phía Tây ngôi làng trên một mỏm đá nhìn ra biển cả. Nó ngăn nắp gọn gàng và vững chắc, một kiểu cơ ngơi mà các nhân viên môi giới bất động sản vẫn luôn mô tả là “quyến rũ”. Còn có một hồ bơi và một khu vườn có tường rào đấy những bụi hoa hương thảo và những cây mát tít; và trong hàng giờ đồng hồ đổ bộ lên đảo, họ đắm mình trong một tình trạng bán khỏa thân cháy nắng thật sung sướng, điều mà các du khách Anh luôn khát khao mong mỏi, bất kể chuyến lữ hành đưa họ đến đâu. Mặc dù Madeline trẻ nhất trong nhóm, nhưng lại là người chỉ huy không chính thức của họ, một gánh nặng mà cô chấp nhận chẳng hề phản đối. Chính Madeline đã lo thuê biệt thự, và Madeline đã sắp xếp các bữa ăn trưa kéo dài, các bữa ăn tối muộn màng và chuyến đi một ngày vào nội địa hoang dã của đảo Corse, lúc nào cô cũng dẫn đầu dọc theo con đường đầy bất trắc trên chiếc scooter của cô. Không chỉ một lần cô bực bội vì phải dừng xe tham khảo bản đồ. Kiến thức thuộc hàng bách khoa toàn thư của cô về hòn đảo này trên các phương diện địa lý, lịch sử, văn hóa và ẩm thực được tích lũy trong suốt quá trình nghiên cứu và chuẩn bị kỳ công trong những tuần lễ trước ngày lên đường. Dường như Madeline chẳng hề phó mặc cho may rủi bất cứ việc gì. Nhưng rồi hiếm khi cô làm những việc đã chuẩn bị kỹ. Cô đã đến làm tại trụ sở của đảng tại tòa phức hợp Millbank hai năm trước, sau khi tốt nghiệp Đại học Edinburgh với tấm bằng cử nhân kinh tế và các chính sách xã hội. Mặc dù cô thụ hưởng một nền giáo dục hạng hai - hầu hết đồng nghiệp của cô đều được đào tạo từ các trường công dành cho giới thượng lưu và Oxbridge - cô thăng tiến nhanh chóng qua một loạt chức vụ ở văn phòng trước khi được thăng chức Giám đốc Bộ phận Hỗ trợ cộng đồng. Công việc của cô, như cô thường mô tả, là sục sạo tìm kiếm phiếu bầu trong các tầng lớp người dân Đảo quốc Anh chưa từng làm gì để ủng hộ đảng, cương lĩnh hay các ứng cử viên của đảng. Tất cả đều đồng ý chức vụ đó chẳng qua chỉ là một trạm dừng chân trên hành trình tiến tới những công việc tốt hơn. Tương lai của Madeline thật sáng chói - “rực sáng như mặt trời,” theo lời của Pauline, cô gái từng theo dõi sự thăng tiến của đồng nghiệp trẻ hơn mình với không ít ghen tỵ. Theo lời đồn đại lan truyền, Madeline đã được một nhân vật cao cấp trong đảng bảo bọc che chở. Ai đó thân cận với Thủ tướng. Thậm chí có lẽ chính Thủ tướng. Với ngoại hình ăn ảnh truyền hình, khả năng lập luận sắc bén và tiềm năng vô hạn, Madeline đang được chuẩn bị để ngồi vào một ghế an toàn trong Nghị viện và một bộ của riêng cô. Chỉ là vấn đề thời gian. Hay là người ta đã nói như vậy. Điều càng kỳ quặc hơn nữa là đã hai mươi bảy tuổi mà Madeline Hart, vẫn chưa bị tình cảm lãng mạn ràng buộc. Khi được yêu cầu giải thích về đời sống tình ái khô khan của mình, cô thường tuyên bố vì quá bận rộn nên không thể cặp đôi với đàn ông. Fiona, một người đẹp tóc đen hơi ác mồm ác miệng ở Văn phòng Nội Các, thấy lời giải thích đó thật đáng ngờ. Hơn nữa về điểm này, cô tin rằng Madeline vẫn hay lừa dối - tính hay lừa dối là một trong những tính cách mà Fiona cho là dễ chấp nhận nhất, vì vậy cô mới ưa thích các quan điểm chính trị của đảng. Để chứng minh lập luận của mình, cô thường chỉ ra rằng Madeline, trong khi vẫn nói huyên thuyên về hầu như mọi đề tài có thể nghĩ ra, lại đề phòng thủ thế một cách bất thường khi đề cập tới cuộc sống riêng tư. Đúng thế, Fiona nói, nó sẵn lòng tung ra những chuyện vặt vãnh vô hại thỉnh thoảng xảy ra trong thời thơ ấu không yên lành của mình - ngôi nhà hội đồng*buồn thảm ở Essex, ông bố mà khuôn mặt nó hoàn toàn không thể nào nhớ lại, người anh nghiện rượu cả đời chưa bao giờ làm việc một ngày nào - nhưng mọi chuyện khác nó vẫn giấu kín sau một con hào sâu và những bức tường bằng đá. “Có thể Madeline của chúng ta từng là sát thủ trên tình trường hoặc là gái hạng sang,” Fiona nói, “và bọn mình chả có đứa nào khôn hơn nó.” Nhưng Alison, một nhân viên cấp dưới ở Bộ Nội vụ đã có nhiều đổ vỡ, từng có một lập luận khác. “Con cừu non đáng thương đang yêu,” cô tuyên bố vào một buổi chiều khi ngắm Madeline như một nữ thần hiện lên từ biển cả trong một cái vũng nhỏ xíu bên dưới biệt thự. “Rắc rối là người đàn ông có liên quan không đáp lại ân tình ấy.” “Sao lại không nhỉ?” Fiona hỏi một cách đờ đẫn từ bên dưới cái vành mũ che nắng to tướng. “Có lẽ hắn ở một vị thế không thích hợp.” “Có vợ rồi ư?” “Lẽ đương nhiên là thế.” “Đồ khốn nạn.” “Cô chưa bao giờ sao?” “Từng có quan hệ với đàn ông có vợ ư?” “Phải.” “Chỉ có hai lần thôi. Nhưng tôi đang dự tính làm tiếp tập ba đấy.” “Cô sắp bị hỏa thiêu dưới địa ngục, Fi ạ.” “Tôi thực sự mong như thế đấy.” Chính là lúc đó, vào buổi chiều ngày thứ bảy, và dựa trên chứng cứ mong manh nhất, ba cô gái và hai chàng trai đang lưu trú với Madeline Hart trong biệt thự được thuê ở ven làng Piana đã tự đảm nhiệm việc tìm cho cô ấy một bạn tình. Pauline nói không phải chỉ là bất cứ tình nhân nào. Chàng ta phải phù hợp về tuổi tác, có ngoại hình đẹp và xuất thân thật tốt, tài chính và sức khỏe tâm thần phải ổn định, không có chuyện xấu xa nào phải giấu giếm và không có ả đàn bà nào khác trên giường chàng ta. Fiona vốn giàu kinh nghiệm nhất khi đề cập đến vấn đề của con tim, tuyên bố đấy là một sứ mệnh bất khả. “Hắn không tồn tại,” cô giải thích với nỗi chán chường mệt mỏi của một người đàn bà từng bỏ nhiều thời gian đi tìm tình nhân. “Còn nếu hắn tồn tại thì hoặc là đã có vợ, hoặc quá say mê công việc đến nỗi chả có thời gian trong ngày dành cho Madeline đáng thương.” Mặc cho những nghi ngại của mình, Fiona vẫn cứ đâm đầu vào thách thức, chẳng vì lý do nào khác ngoài việc thêm vào một chút mưu đồ cho kỳ nghỉ hè. May mắn là cô ta không hề thiếu các mục tiêu tiềm tàng, vì dường như một nửa dân số vùng Đông Nam nước Anh đã rời bỏ hòn đảo ẩm thấp của họ để đến với ánh nắng trên đảo Corse. Có một đoàn các nhà tài phiệt ở Khu Trung tâm thành phố London đã thuê một khu vực sang trọng ở đầu phía Bắc của Vịnh Porto. Và một đám họa sĩ đang sống như dân Gypsy trong một thị trấn trên đồi ở Castagniccia. Một đoàn làm phim tiếp tục lưu trú trên bãi biển Campomoro. Và một phái đoàn các chính khách đối lập đang mưu toan trở lại nắm lấy quyền lực trong một biệt thự trên đỉnh các mỏm đá ở thị trấn Bonifacio. Dùng danh nghĩa của Văn phòng Nội Các, Fiona đã nhanh chóng sắp xếp một loạt các cuộc gặp gỡ xã giao ngẫu hứng. Và trong mỗi dịp như thế - dù là một bữa tiệc tối, một cuộc đi bộ đường trường trên vùng rừng núi hoặc một buổi chiều say sưa túy lúy trên bãi biển - cô đều gài bẫy một anh chàng hiện diện đủ tư cách nhất và xếp đặt chàng ta bên cạnh Madeline. Tuy nhiên chả có ai vượt qua nổi cửa ải của cô nàng, ngay cả anh chàng diễn viên trẻ tuổi vừa mới hoàn thành thắng lợi cuộc đua vào vị trí dẫn đầu làng âm nhạc của khu Tây London với những bài hát được ưa thích nhất mùa hè này. “Rõ là cô ấy cho rằng việc này không hay,” Fiona thừa nhận khi họ quay đầu xe trở về biệt thự vào một đêm muộn nọ, với Madeline dẫn đường xuyên qua bóng tối trên chiếc scooter màu đỏ của cô. “Cô đoán xem anh ta là ai?” Alison hỏi. “Chả biết,” Fiona đáp, kéo dài ra với vẻ ghen tỵ. “Nhưng hắn ta chắc hẳn là ai đấy hoàn toàn đặc biệt.” Chính vào thời điểm này, khi chỉ còn khoảng chưa đấy một tuần trước khi họ trở về London như dự định, Madeline bắt đầu dành khá nhiều thời gian cho riêng mình. Mỗi buổi sáng cô ra khỏi biệt thự rất sớm, thường trước khi những người khác thức giấc, và trở về lúc đã xế chiều. Khi được hỏi đã đi những nơi nào, rõ là cô chỉ đáp mập mờ, và vào bữa ăn tối cô thường buồn rầu hay lo lắng. Alison lẽ tự nhiên đã lo sợ điều tệ hại nhất, rằng tình nhân của Madeline, dù là ai cũng vậy thôi, đã gửi tới cô ấy lời nhắn rằng sự quan tâm của cô là điều không cần thiết nữa. Nhưng ngày hôm sau, lúc trở về biệt thự sau một chuyến tham quan mua sắm, Fiona và Pauline vui vẻ tuyên bố rằng Alison đã nhầm. Dường như tình nhân của Madeline đã đến đảo Corse. Và Fiona còn có hình ảnh làm bằng chứng. Chuyện họ trông thấy đã xảy đến lúc hai giờ mười phút trong nhà hàng Les Palmiers, trên Bến cảng Adolphe Landry ở thị trấn Calvi. Madeline ngồi ở một cái bàn kê dọc theo mép bến tàu, đầu hơi quay về phía biển như thể không biết đến người đàn ông ngồi ở ghế đối diện. Cặp kính đen to lớn giấu kín đôi mắt. Một cái mũ rơm rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo phủ bóng mát xuống khuôn mặt hoàn mỹ của cô. Pauline đã cố tiến sát lại gần cái bàn đó, nhưng Fiona cảm thấy có chuyện riêng tư căng thẳng trong khung cảnh ấy nên đã đề nghị một cuộc rút lui vội vã thay vào đó. Cô đã tạm dừng một thời gian vừa đủ để lén chụp thật nhanh tấm ảnh đầu tiên nhằm buộc tội bằng chiếc điện thoại di động của cô. Madeline có vẻ chẳng biết gì về vụ xâm phạm đời tư này, nhưng người đàn ông thì không. Ngay giây phút Fiona bấm nút chụp hình, đầu anh ta quay ngoắt đi, như thể cảnh giác bởi một bản năng động vật nào đó khi hình ảnh của mình bị bắt giữ trong một thiết bị điện tử. Sau khi tạm lánh sang một quán bia ngoài trời gần đó, Fiona và Pauline xem xét kỹ người đàn ông trong ảnh chụp. Mái tóc màu vàng khói, phất phơ trong gió và đầy nam tính. Nó xõa xuống trước trán, chỉnh lại một khuôn mặt góc cạnh bị chi phối bởi một cái miệng nhỏ trông có vẻ khá tàn bạo. Trang phục tựa như người miền biển: quần dài trắng, một cái áo sơ mi bằng vài oxford sọc xanh, một đồng hồ đeo tay to của thợ lặn, một đôi giày vải đế bằng phẳng không để lại dấu vết nào trên boong tàu. Hắn ta là hạng đàn ông kiểu ấy đấy, họ quả quyết. Một người đàn ông không bao giờ để lại dấu vết. Họ đoán hắn là thần dân Vương quốc Anh, mặc dù vẫn có thể là người Đức hay Bắc Âu, hoặc có lẽ như Pauline nghĩ, là hậu duệ của quý tộc Ba Lan. Tiền tài rõ ràng chẳng phải là vấn đề, minh chứng bởi chai rượu champagne đắt tiền đang đọng những giọt sương trong cái xô đá bằng bạc neo chặt vào cạnh bàn. Tài sản do hắn kiếm được chứ chẳng phải nhờ thừa kế, họ quả quyết, và không hoàn toàn trong sạch. Hắn là một con bạc. Có tài khoản ngân hàng ở Thụy Sĩ. Hắn thường du hành đến những nơi nguy hiểm. Chủ yếu là người biết suy xét cẩn trọng. Các công việc của hắn cũng giống như đôi giày vải đi trên tàu bè chẳng để lại một dấu vết nào. Nhưng chính hình ảnh của Madeline khiến họ bận tâm suy nghĩ nhiều nhất. Cô ấy chẳng còn là cô gái họ từng quen biết từ lúc còn ở London, hay thậm chí cô gái hai tuần qua từng ở chung trong một biệt thự. Dường như cô nàng đã xử sự theo một cách hoàn toàn khác hẳn. Một nữ diễn viên trong một cuốn phim khác. Người phụ nữ khác. Giờ đây, Fiona và Pauline đang suy đoán trên điện thoại di động như một cặp nữ sinh trung học, hai người tự viết lời thoại rồi thêm thắt phần xương thịt vào để dựng nên các nhân vật. Trong phiên bản câu chuyện này của họ, vụ việc đã bắt đầu một cách vô tội vạ với cuộc gặp gỡ tình cờ trong một cửa hàng dành riêng cho giới thượng lưu ở Phố New Bond. Cuộc tán tỉnh đã kéo dài, việc đạt mục đích mỹ mãn được hoạch định thật chu đáo. Nhưng đoạn kết của truyện tạm thời họ không nắm bắt được, vì trong đời sống thực nó vẫn chưa được viết ra. Cả hai cô đều đồng ý kết cục sẽ bi thảm. “Đấy là cách những truyện như thế này vẫn luôn kết thúc,” Fiona nói từ kinh nghiệm bản thân. “Con gái gặp con trai. Con gái phải lòng con trai. Con gái bị tổn thương và làm hết sức mình để hủy hoại con trai.” Fiona nhanh tay chụp thêm hai tấm hình của Madeline và tình nhân chiều hôm đó. Một tấm cho thấy họ đang dạo bước dọc theo bến cảng dưới bầu trời rực nắng, những khớp ngón tay len lén chạm vào nhau. Tấm hình thứ nhì chụp cành họ chia tay chẳng có một nụ hôn nào. Người đàn ông sau đó leo xuống một cái xuồng nhỏ hiệu Zodiac và bơi ra bến cảng. Madeline lên chiếc scooter màu đỏ của mình và nổ máy trở về biệt thự. Lúc về tới nơi cô không còn sở hữu cái mũ rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo. Đêm hôm ấy khi điểm lại những sự việc vào buổi chiều của mình, cô chẳng hề đề cập đến một chuyến viếng thăm thị trấn Calvi, hoặc một bữa tiệc trưa với một người đàn ông có vẻ sung túc ở nhà hàng Les Palmiers. Fiona nghĩ đó là một màn trình diễn khá ấn tượng. “Madeline của chúng ta là một đứa nói dối tài giỏi phi thường,” cô nói với Pauline. “Có lẽ tương lai của nó xán lạn như người ta bảo. Ai biết được chứ? Thậm chí một ngày nào đấy nó có thể làm Thủ tướng ấy chứ.” Đêm hôm ấy bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn dự định ăn tối ở thị trấn Porto gần đó. Madeline đặt chỗ trước bằng thứ tiếng Pháp của các nữ sinh trung học và thậm chí còn bắt chủ nhà hàng giữ lại bàn tuyệt vời nhất của ông ta, đặt trên sân thượng có thể nhìn thấy toàn cảnh con đường đầy sỏi đá vòng quanh vịnh. Họ cứ tưởng sẽ tới nhà hàng theo như dự định của đoàn, nhưng trước bảy giờ một chút, Madeline lại thông báo sẽ đến thị trấn Calvi để uống rượu với một người bạn cũ từ thành phố Edinburgh tới. “Tôi sẽ gặp các bạn ở nhà hàng,” cô ngoái đầu lại la lớn rồi phóng nhanh ra khỏi lối vào biệt thự. “Trời đất ơi, cố gắng để đến đúng giờ là điều không thể.” Rồi sau đó cô đi mất. Chẳng ai nghĩ là kỳ quái khi cô không thể xuất hiện để dùng bữa đêm hôm đó. Họ cũng chẳng hề hốt hoảng khi thức giấc và thấy giường cô trống không. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế.   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Người Anh của tác giả Daniel Silva & Hoài Ngọc (dịch).
Phục Hồi
???????????????????????? “????????????̣???? ????????̂̀????” - Câu chuyện về những hộp nhạc và con người cần được sửa chữa Đúng như cái tên của nó, “Phục hồi” là một món quà tinh thần dành cho những tâm hồn bị tổn thương, vụn vỡ. Một câu chuyện về một chàng trai bị trầm cảm lại cố gắng chữa lành trái tim cho người khác. Nhân vật chính của cuốn sách này là Hagane – một chàng trai mắc chứng trầm cảm lo âu. Anh đã chạy trốn thực tại bằng cách sống ở một ngôi nhà cổ mượn được cùng một chú chó hoạt bát tên Stella. Hạn chế giao tiếp hết mức với những người khác, chỉ quanh quẩn với công việc phục chế hộp nhạc, Hagane tưởng chừng sẽ sống cô độc vĩnh viễn cùng thuốc trầm cảm và ý tưởng tự tử ập đến mỗi ngày. Nhưng một ngày, khi nhận lời sửa chữa cho Mutsuki – cô tiểu thư xinh xắn hoạt bát và tốt bụng nhà Iimura, Hagane đã từng bước bước ra khỏi ngôi nhà “an toàn” của mình, anh mở lòng với những người xung quanh nhiều hơn, tìm hiểu những câu chuyện bí mật đằng sau những hộp nhạc và chủ nhân của chúng: Một mối tình bị chia cắt nhưng những người yêu nhau chưa từng quên được nhau, một người mẹ cùng cực của đau khổ tội lỗi, một người anh trai với dày vò về tội lỗi của mình,… Dù cho luôn phủ nhận về những việc tốt của mình làm, nhưng những hành động Hagane làm lại khác hẳn với vẻ dửng dưng, vô tâm được khắc họa trong đầu chuyện. Tuy nhiên, dù Hagane có thể sửa chữa được hộp nhạc cho mọi người, phần nào mang lại cái kết có hậu cho chủ nhân của chúng, nhưng còn câu chuyện của chính anh thì sao? Bên cạnh những điều tích cực mà Tadashi Ohta muốn truyền tải, rất còn những người không hiểu được bản chất của căn bệnh trầm cảm, họ cho rằng : Trầm cảm vốn do bản thân người bệnh nội tâm yếu đuối, luôn tìm cách trốn trách thực tại hay không đủ mạnh mẽ để vượt qua những khó khăn gặp phải. Cuốn sách đã mang đến cái nhìn đầy bao dung và thông cảm với người bệnh, đồng thời giúp độc giả thấu hiểu được khối cảm xúc khổng lồ mà những người trầm cảm luôn phải gánh trên lưng mình. Với một kết thúc có hậu, “Phục hồi” là một liều thuốc chữa lành cho những ai đang mang trong mình những cảm xúc nặng nề, luôn luôn dằn vặt và tự trách bản thân những lỗi lầm trong quá khứ. “Mẹ anh thật đáng thương, nhưng có lẽ lúc đó mẹ anh đã oán hận cả thế giới này. Ít nhất mẹ cũng không hận mỗi mình anh. Vậy mà anh định một mình đón nhận hết nỗi hận của mẹ sao?” Người review: Đoàn Thảo. *** Anh dùng ngón trỏ để kéo cần gạt. Chiếc đĩa hát đường kính 30 centimét với vài vết xước trên bề mặt bắt đầu quay, tiếng nhạc khẽ vang lên. Là đĩa nhạc Traumerei. Đĩa nhạc chậm rãi quay, vô số những chiếc kim âm dựng đứng trên mặt đĩa cuốn theo trục quay hình sao, trục quay này truyền động tới chiếc lược. Bằng cách đó, âm thanh sẽ làm không khí chuyển động, và truyền tới màng nhĩ. Hagane nhắm mắt lại. Anh lắng tai nghe như muốn kiểm tra từng âm từng âm một. Khi đĩa quay hết một vòng, bản nhạc đã kết thúc, anh mở mắt. Anh khẽ thở dài. Anh hơi vươn vai rồi đứng dậy khỏi ghế, rót cà phê từ chiếc bình để bên cạnh vào cốc, đoạn uống một ngụm. Đây là nghi thức anh luôn thực hiện mỗi khi xong việc. Anh đặt một chiếc đĩa khác vào để hộp nhạc chơi thêm lần nữa. Đó là đĩa nhạc Yêu tinh Polka. Lần này anh không để ý tới từng âm riêng lẻ nữa, mà lắng nghe xem nhạc có trôi chảy không. Chú chó Stella nãy giờ ngủ lăn lóc dưới chân anh giờ đang ngáp lớn. Nó ngẩng mặt lên nhìn Hagane, rồi liếm mũi bằng chiếc lưỡi rất dài. Chân sau nó đưa lên gãi phía sau đôi tai hình tam giác nhọn, đuôi vẫy vẫy. “Ngồi không nên chán hả?” Khi Hagane hỏi chuyện, Stella bèn đứng dậy, dụi dụi mũi vào chân anh. Nó to hơn giống chó Shiba, lông trên người cũng dài hơn. Dù phòng rất mát do có bật điều hòa, nó vẫn há miệng thè lưỡi ra ngoài. “Chú mày chịu nóng kém nhỉ. Thế mà vẫn muốn ra ngoài chơi à?” Như thể muốn đáp lại, Stella đập đập chân trước xuống nền nhà. “Thế thì chờ thêm chút nhé.” Bản nhạc Yêu tinh Polka đã kết thúc. Hagane tháo đĩa ra, đóng nắp hộp nhạc lại. Chiếc hộp bằng gỗ được chạm trổ với những họa tiết uy nghiêm. Trông giống như một loại đồ nội thất. Symphonion Rococo. Một hộp nhạc dùng đĩa * được sản xuất vào những năm 1890 ở Đức. Với chất lượng tốt như thế này, giá của nó trên thị trường phải lên tới mấy triệu yên. * Về mặt cấu tạo, hộp nhạc có hai loại là dùng đĩa hoặc dùng trục quay để phát nhạc. Khi anh kéo rèm cuốn cửa sổ lên, ánh nắng tháng Bảy rọi vào nhuộm trắng vỏ ngoài chiếc Symphonion Rococo. Anh chuyển hộp nhạc vào chỗ không có ánh nắng chiếu đến. Ánh mặt trời dệt nên nhiều họa tiết trên những dụng cụ nằm lăn lóc nơi bàn làm việc. Hagane bỏ kìm và giũa vào ngăn kéo bàn, đặt chiếc mỏ cặp cỡ nhỏ lên giá đồ sau lưng. Trên giá chất vô số hộp đựng dụng cụ và hộp đựng linh kiện. Thứ chiếm cứ phần lớn diện tích của căn phòng 8 chiếu này cũng chính là những thứ dụng cụ và linh kiện ấy. Điện thoại chợt reo vang. “A lô, Kou-chan* ơi?” * Ký tự tên “Hagane” có thể đọc theo 2 cách là Kou và Hagane. “Chan” là một hậu tố đặt sau tên của một người, thể hiện sự yêu quý, trìu mến của người nói đối với người đó. Một giọng phụ nữ phát ra từ ống nghe. “Dạ.” Hagane đáp không chút hồ hởi. “Công việc của cháu tiến triển thế nào?” “Cháu vừa sửa xong một cái ạ.” “Thế à, sớm quá nhỉ. Là chiếc Rococo hả?” “Chỉ có một chiếc răng lược bị gãy thôi. Không tốn nhiều thời gian lắm.” “Kou-chan giỏi quá! Cô sẽ bảo Mochiduki tới nhận về ngay.” “Nếu tới lấy thì để sau năm giờ hãy tới được không ạ?” “Cô hiểu rồi. Mà này, ngày mai cháu rảnh không?” Hagane im lặng. “Sao thế? Cô vừa hỏi điều gì không nên hỏi à?” “Là vì cháu không biết trả lời cô thế nào. Mai cháu không có việc gì bắt buộc phải làm, nhưng nếu bị cô giao cho việc gì đó thì rắc rối lắm.” “Khó nhỉ. Nhưng cô chỉ là muốn cháu gặp một người thôi.” “Xin lỗi, cháu từ chối.” “Cô biết cháu sẽ nói thế mà. Nhưng mà người ta đến vì chuyện công việc.” “Nếu có hộp nhạc nào cần sửa thì cô hãy gửi nó tới đây. Cháu đâu cần gặp chủ nhân hộp nhạc làm gì.” “Lần này không như vậy. Chuyện họ cần nhờ có chút khác thường, nên họ muốn gặp trực tiếp để trao đổi với cháu.” “Cháu không thích mấy chuyện phiền nhiễu. Cô từ chối đi. Hơn nữa hiện giờ cháu cũng đã bận tối mắt tối mũi để sửa những hộp nhạc cô gửi tới rồi.” “Mấy hộp nhạc đó cháu để sau cũng được. Cô cũng sẽ không làm gì phiền đâu. Thế nên tới nhà cô đi nhé. Mười một giờ ngày mai nhé. Nhờ cả vào cháu đấy.” Hagane định phản đối nhưng đã bị đầu dây bên kia cúp máy trước. Anh nhìn chăm chăm ống nghe một lúc, rồi vừa thở dài vừa đặt nó xuống. Khi anh ngoảnh lại, đã thấy Stella đứng chờ. “Thật là, hết bà ấy lại tới mày.” Hagane vừa vươn tay ra, Stella đã nhảy lên, đuôi vẫy tít. Anh tròng vòng cổ và dây dắt cho nó ở cửa vào, rồi bước ra ngoài. Ánh nắng chiều nhuộm trắng cảnh sắc trên con phố. Vừa kéo dây giữ lại Stella đang phấn khởi muốn chạy nhào đi, Hagane vừa đi bộ ra công viên trẻ em ở gần nhà. Tiếng ve kêu râm ran, trên sân chơi trong công viên bị tia tử ngoại chiếu rọi, không có bóng dáng một đứa trẻ nào. Trở về sau khoảng hai mươi phút, trước cửa nhà anh đã thấy đậu một chiếc PT Cruiser đen. Hagane và Stella vừa tiến lại gần thì cửa xe phía người lái mở ra, một cậu thanh niên bước xuống. Mái tóc nhuộm màu xanh khói, cằm nuôi một chỏm râu mỏng. Cậu ta mặc sơ mi nền đen in họa tiết paisley, quần màu be. Trên ngực cậu ta lấp lánh mặt dây chuyền hình thánh giá của hãng Chrome Hearts. “Tôi nhớ đã dặn là hơn năm giờ hãy tới rồi mà?” Nghe Hagane nói, cậu thanh niên cúi đầu lễ phép. Nhìn nét mặt thì có vẻ mới chừng hai mươi tuổi. Nhưng Hagane không biết chính xác tuổi của cậu ta. “Xin lỗi anh. Em định tới sớm rồi đợi.” “Đợi ba tiếng liền ư?” “Vâng.” Hagane không nói gì, định đi ngang qua cậu ta vào trong. Nhưng Stella không nhúc nhích. Khi cậu thanh niên ngồi xuống, Stella vẫy đuôi và nhào vào lòng cậu. Được vuốt ve đầu, nó càng vẫy đuôi tợn. “Stella!” Hagane vừa gọi, Stella lập tức tới cạnh anh. Cậu thanh niên cũng đứng dậy. “Tôi mang nó ra cho cậu đây. Cậu có thể chở nó an toàn với cái xe kia được không?” “Em có mang theo mấy cái chăn. Cũng có thể cố định nó lại nữa.” Hagane cho Stella vào nhà rồi mang chiếc Symphonion Rococo ra. Nhận lấy hộp nhạc, cậu thanh niên cho nó vào băng ghế sau, khéo léo cuộn những tấm chăn xung quanh và dùng đai an toàn để cố định nó lại, không cho xê dịch. “Cảm ơn anh.” Cậu thanh niên nói lời cảm ơn rồi mở cánh cửa phía ghế lái. “Ngày mai anh sẽ tới nhà Madam nhỉ? Để em tới đón anh nhé?” “Tôi sẽ tự đi.” Hagane trả lời. Cậu thanh niên lại cúi mình lần nữa, đoạn chui vào trong xe. Hagane không đứng tiễn. Anh lập tức vào nhà, ngồi bệt xuống bậc thềm cửa. Stella tới gần, liếm mặt anh. “Chú mày ai cũng thân thiết ngay được nhỉ. Thế thì còn làm chó giữ nhà sao được.” Hagane vừa dứt lời, Stella bèn dụi mặt vào chân anh.   Mời các bạn đón đọc Phục Hồi của tác giả Tadashi Ohta.
Bên Dòng Sông Hằng
Một quá trình cuốn hút bằng đậm đặc câu chuyện, đậm đặc trải nghiệm. Cái kết hay cụ thể hơn là câu trả lời cho trường hợp của từng nhân vật đều rất hay, ý nghĩa nhưng có phần hơi ngắn gọn. Khi đọc về cuối, thoáng qua mong muốn tác giả sẽ viết kĩ hơn, sâu hơn về tâm lí, cảm xúc từng nhân vật như ở phần đầu. Nhưng có thể đấy là dụng ý của Endo Shusaku. Nhiều khi cách mà chúng ta đi qua mỗi trải nghiệm đã là một câu trả lời rồi, nên đến cuối cùng không cần phải diễn giải quá nhiều chăng? Đặc biệt yêu thích cấu trúc của cuốn sách. Cách tác giả sắp xếp để từng nhân vật, từng câu chuyện xuất hiện rất thú vị. Các giá trị văn hoá, tôn giáo, tâm linh được truyền tải tinh tế, vừa vặn, không gây sự choáng ngợp hay cảm giác khó tiếp nhận cho độc giả. *** Bên dòng sông Hằng, lẫn vào giữa những khách thập phương hoặc hiếu kỳ hoặc bàng quan, là một tốp du khách Nhật. Họ lặn lội đến đây, đều đang chôn sóng ở trong lòng. Người đi tìm bóng hình người vợ quá cố, kẻ mong chữa lành chấn thương nhân tính thời chiến tranh, người muốn tạ ân vì một cơ hội sống, kẻ lại muốn đắp bồi cho trái tim đang trống rỗng... Họ soi vào những dàn thiêu rừng rực, soi vào nhau, soi vào cái chết, hầu tìm lời giải đáp cho cõi sống, bên dòng sông Hằng. Trĩu nặng dưới những ưu tư thần học, triết học về lẽ sống, về định mệnh, đây vẫn là một cuốn tiểu thuyết đầy ắp những chi tiết đời thường tinh tế và nét khôi hài lấp lánh.Giống như sông Hằng “không chỉ là của tín đồ Ấn giáo, mà còn là dòng sông sâu thẳm cho tất cả mọi người”, cuốn sách viết từ cảm quan Công giáo này vẫn thấm đượm những khắc khoải cùng lòng yêu tha nhân nối liền mọi nền văn hóa, và là minh chứng tuyệt vời để hiểu tại sao Endo Shusaku lại được cả Nhật Bản lẫn phương Tây cùng mến mộ. *** [REVIEW SÁCH HAY] BÊN DÒNG SÔNG HẰNG: CHÚNG TA TÌM LẼ SỐNG Ở NƠI NÀO? Bằng những trang văn suy tư, chậm rãi nhưng cũng đầy biến chuyển, Endo Shusaku cuốn hút người đọc vào cuộc hành trình thú vị với Bên dòng sông Hằng. Ký ức của trẻ con luôn bền bỉ hơn người lớn, tôi luôn tin như vậy. Ở tập hợp chắp nhặt vô vàn ký vãng trong đời sống của một con người, những mảnh ký ức của tuổi thơ luôn chiếm lấy tâm trí của họ nhiều hơn hết thảy. Tôi cũng không là ngoại lệ. Tuổi thơ tôi gắn liền với miền Trung, miền đất của nắng hạn mưa nguồn, của tận cùng khắc nghiệt và khó khăn, nhưng cũng là nơi chốn mà thiêng và phàm dung hòa làm một. Ở quê hương ấy, tuổi thơ của bao đứa trẻ băng qua những lời kinh cầu ngân vang quyện giữa mùi trầm hương bảng lảng. Lời kinh được dẫn nhịp bằng tiếng mõ ấm áp, những đôi tay khô gầy tre trúc của mẹ của bà chắp lại thành kính dâng lên một cõi vàng son xa xăm nào đó mà lũ trẻ con ngày đó không thể hiểu hết. Trẻ con chúng tôi lại càng chẳng thể hiểu vì sao những người lớn đang còn sống lại tụng mãi những lời cầu khẩn một đời sống trường cửu ở cõi an vui nào đó sau khi nhắm mắt lìa đời, vượt ngoài thế giới của chúng tôi, vượt khỏi mấy cái vương quốc bé tí trên sân trường mà biên giới được các ông hoàng con vạch vội bằng phấn để đánh trận giả. Đất nước Phật kia Nhẹ làn gió thổi Cây cành châu báu Chạm dây leo ngọc Tuyệt vời vang ngân. Những lời kinh trầm ấm ấy đã dìu lũ trẻ chúng tôi vào giấc ngủ ngon lành giữa xào xạc lá cành, thoảng đưa vào nhà cùng tiếng thằn lằn tặc lưỡi trong đêm yên vắng. Cho đến khi lần giở Bên dòng sông Hằng, tôi bắt gặp lại những lời kinh ấy, trong một hành trình khác, hành trình bằng câu chữ, đi vào thế giới huyền hoặc sâu thẳm của tâm hồn Đông phương. Endo Shusaku cho ra đời cuốn tiểu thuyết Bên dòng sông Hằng vào năm 1993. Đến năm 1995, ông qua đời. Đây là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông, cũng là một trong hai cuốn tiểu thuyết mà ông muốn đặt cạnh mình trong quan tài khi giã từ cõi sống. Là một nhà văn Công giáo, chịu phép rửa tội từ năm 11 tuổi, vậy nhưng, suốt cuộc đời, Endo Shusaku lại chọn bước đi trên ranh giới giữa hai nền văn hóa Đông – Tây. Là người Nhật, ông thấm đẫm tinh thần và cá tính hướng nội của dân tộc này. Chúng ta không khó để tìm được những dòng tóm tắt như vậy về cuộc đời Endo Shusaku trên mạng. Nhưng tôi chỉ cảm nhận được rõ nhất điều đó khi bước vào Bên dòng sông Hằng. Hơn ba trăm trang của cuốn tiểu thuyết vẽ nên hành trình của năm con người, mỗi con người lại mang một câu chuyện, một băn khoăn, nỗi ưu tư và u hoài khác nhau về lẽ sống. Họ gặp nhau trong chuyến đi bắt đầu từ Nhật Bản sang tận Ấn Độ, với điểm dừng cũng là đích đến: sông Hằng. Sông Hằng là dòng sông của nước Ấn đầy sắc màu, hỗn độn nhưng cũng tràn đầy sức sống. Dòng sông xuất hiện muôn vạn lần trong kinh điển, trong tụng ca ngân vọng suốt cõi nhân gian. Dòng sông mẹ, dòng sông thánh thiêng, mang hết mọi ngưỡng vọng của con người tìm tới và gửi gắm, bất phân giữa sự sống và cái chết. Dòng sông ấy hiện lên sống động trong tiểu thuyết của Endo Shusaku như nó vốn dĩ. Ở nơi ấy, những nhân vật của ông truy tầm lời giải đáp cho cuộc đời mình. *** Khoai nướng nóng hổi đây... Khoai nướng nóng hổi đây... Mỗi khi ông Isobe nhớ lại lúc người bác sĩ báo cho biết vợ ông mắc phải bệnh ung thư vô phương cứu chữa, tiếng rao hàng phía ngoài khung cửa sổ phòng xét nghiệm hôm đó lại văng vẳng trong tai như đang chế giễu nỗi kinh hoàng của ông. Giọng rao buồn tẻ của một người đàn ông vô tâm. Khoai nướng nóng hổi đây... Khoai nướng nóng hổi đây... - Cái ung nó nằm... ở đây này. Nó đang nhảy qua chỗ này nữa. - Ngón tay người bác sĩ từ từ bò trên tấm hình chụp X-quang như theo nhịp của tiếng rao ngoài kia; vẫn giọng đều đều, ông giải thích: - Tôi nghĩ khó có thể dùng phẫu thuật được nữa. Chúng tôi sẽ thử dùng thuốc kháng ung thư và tia xạ... - Thế nhà tôi còn sống được bao lâu nữa, thưa bác sĩ...? ' Ông Isobe nghẹn ngào hỏi. Người bác sĩ không nhìn vào ông: - Khoảng ba tháng, nhiều nhất là bốn. - Nhà tôi có phải đau đớn nhiều không? - Chúng tôi có thể dùng moóc phin để làm giảm đau một phần nào đó. Hai người yên lặng một lúc. Ông Isobe lại hỏi: - Nhà tôi có nên dùng vắc-xin Maruyama, cả thuốc bắc nữa...? - Được chứ! Ông cứ dùng bất cứ loại thuốc dân gian nào mà ông cho là có thể giúp cho bà nhà. Cái kiểu người bác sĩ Tây y nhanh chóng tán thành đề nghị dùng thuốc bắc như thế, cho thấy bệnh tình của vợ ông thực sự vô phương cứu chữa. Hai người lại rơi vào yên lặng. Ông Isobe không chịu đựng được nữa, đứng dậy. Người bác sĩ xoay người về phía tấm phim X-quang; chiếc ghế xoay kêu ken két khó chịu như báo cho ông biết về cái chết cận kề của vợ mình. “Mình... đang mơ...” Ông Isobe nghĩ. Trên đường đi ra thang máy, ông vẫn có cảm giác như không thực. Ông chẳng bao giờ nghĩ là vợ mình sẽ chết. Ông có cảm tưởng như đang xem một cuốn phim, thì đột nhiên người ta lại chiếu một phim khác lên màn ảnh. Ông buồn bã nhìn bầu trời chiều đông xám lạnh, vẫn còn tiếng rao bán khoai nướng ngoài kia: “Khoai nướng nóng hổi đây...” Ông băn khoăn kiếm câu nói dối với vợ. Ông nghĩ với trực giác bén nhạy vốn có của người bệnh, chắc vợ ông sẽ biết ông đang toan tính gì. Ông ngồi sà xuống ghế cạnh thang máy. Có hai người y tá đi qua trước mặt ông chuyện trò vui vẻ. Tuy họ làm việc ở bệnh viện nhưng bệnh tật cũng như những bất hạnh xảy ra trong bệnh viện không làm mất đi vẻ mạnh khỏe, tươi trẻ của họ. Ông hít một hơi thật sâu, nắm chặt núm cửa phòng bệnh. Vợ ông đang ngủ, một tay để trên ngực. Ông ngồi lên chiếc ghế độc nhất trong phòng, và lại một lần nữa, nghiền ngẫm câu nói dối ông đã sắp sẵn trong đầu. Người vợ mở mắt buồn bã, nhìn chồng mình, bà mỉm cười yếu ớt: - Mình đã nói chuyện với bác sĩ chưa? - Rồi... - Bác sĩ... đã nói gì với mình? - Bác sĩ nói là mình sẽ phải nằm viện một thời gian nhưng sẽ không quá ba hoặc bốn tháng, rồi mình sẽ khỏe lại. Vì vậy mình chịu khó một chút. Tự biết mình nói dối không xuôi, ông cảm thấy như mồ hôi đang rịn trên trán. - Vậy à... Người vợ nhìn thẳng vào cái trán đẫm mồ hôi của ông. Ông thấy phải coi chừng trực giác bén nhạy của người bệnh. - Như vậy là mình phải khổ trong ba bốn tháng trời! - Mình đừng có nói vậy! Có gì đâu mà khổ! Vợ ông lại mỉm cười. Từ trước đến bây giờ bà mới nghe ông nói câu tình cảm như vậy. Nụ cười đặc thù của vợ ông. Hồi mới lấy nhau, khi ông trở về nhà sau những mệt mỏi vì các mối quan hệ trong công việc, mở cửa ra, bà luôn đứng đón ông với nụ cười bao dung, âu yếm. Cảm thấy mình lâu nay quả có thiếu quan tâm đến vợ, ông nói dối thêm một lần nữa: - Khi được ra viện, mình cứ tạm thời tĩnh dưỡng một thời gian. Rồi tôi sẽ đưa mình đi suối nước nóng dưỡng sức. - Không việc gì mà phải phí tiền như vậy vì em đâu. “Không việc gì...” Câu nói nghe đượm vẻ cô đơn lẫn bi ai, giống với tiếng rao của người bán khoai ngoài kia một cách lạ lùng. Chẳng lẽ vợ ông đã mon men biết sự thật? Đột nhiên, bà như lẩm bẩm một mình: - Lúc nãy em đã nhìn cái cây. - Vợ ông hướng mắt ra ngoài cửa sổ nhìn cây ngân hạnh lá cành sum suê như đang ôm ấp một thứ gì đó. - Cây đó sống được bao lâu rồi mình nhỉ? - Dám cả hai trăm năm. Có lẽ nó là cây cổ thụ sống lâu nhất ở khu này. - Cây cổ thụ đó đã nói đó mình. Rằng sinh mệnh không bao giờ biến mất. Hồi vợ ông chưa bệnh, bà vẫn có thói quen nói chuyện với hoa cỏ như những cô gái xuân thì mỗi khi tưới các chậu hoa trước hành lang. “Hoa xinh đẹp kia ơi, nở cho tôi vài đóa!” “Cảm ơn hoa nhé!” Kiểu chuyện trò với hoa như thế, bà học theo người mẹ vốn yêu hoa của mình, và sau khi lấy chồng, bà vẫn giữ thói quen đó. Nhưng cái kiểu bà nói chuyện với cây cổ thụ lần này cho thấy Mời các bạn đón đọc Bên Dòng Sông Hằng của tác giả Shūsaku Endō.