Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cung Đàn Báo Oán

Gia tộc Ichiyanagi vốn là gia tộc được chọn làm quản lý dịch trạm thời Edo. Vào đêm tân hôn của trưởng tộc, bỗng có tiếng hét quái dị cùng tiếng đàn vang lên từ căn biệt thất trong dinh thự của gia tộc. Tại hiện trường, đôi tân lang tân nương bị giết vô cùng tàn nhẫn, nằm sõng soài trong vũng máu. Phía đầu họ là cây đàn tranh gia bảo cùng tấm bình phong vàng còn lưu lại dấu tay ba ngón. Xung quanh biệt thất, tuyết phủ một vùng, biến hiện trường thành căn phòng kín hoàn toàn… Đây là tập truyện đầu tiên trong loạt truyện về thám tử Kindaichi Kosuke của tác giả Yokomizo Seishi. Ngoài “Cung đàn báo oán”, tập truyện còn bao gồm hai truyện ngắn “Tiếng động lạ trong giếng nước” và “Án mạng ở quán Mèo Mun”. *** Cung đàn báo oán (Yokomizo Seishi) – Tập truyện mở đầu của series thám tử Kindaichi Kosuke By Mọt Mọt -  Không kéo dài từ ngày này sang ngày khác, cũng không ẩn chứa những thảm án liên hoàn mà người người thám tử phải lần lượt chứng kiến, trải qua nhưng không thể ngăn chặn; Cung đàn báo oán, với vị thế là tác phẩm mở đầu cho series về vị thám tử tài năng Kindaichi Kosuke, lại là tập hợp của ba vụ án ngắn gọn, cô đọng hơn. Ba vụ án, ứng với ba truyện ngắn riêng biệt vừa mang tính giới thiệu, cũng vừa mang tính định hình phong cách sáng tác của Yokomizo Seishi, tác giả trinh thám nổi danh bậc nhất của thời kỳ trinh thám cổ điển Nhật Bản. Cuốn truyện trải qua hai lần mã hóa Trước hết, cần phải khẳng định lại một điều rằng, Cung đàn báo oán là một tập truyện gồm ba truyện ngắn khác nhau có tên: Cung đàn báo oán, Tiếng động lạ trong giếng nước, Án mạng ở quán Mèo Mun. Bởi cấu trúc cuốn sách như vậy nên tổng thể của tập truyện Cung đàn báo oánnói chung, mỗi truyện ở tác phẩm này nói riêng, đều không có được sự đồ sộ cả về mặt nội dung, tình tiết lẫn sự trải rộng về mặt thời gian sự kiện cùng thời gian phá án như Đảo ngục môn, Rìu, đàn, cúc hay Khúc ca tú cầu của ác quỷ, các tác phẩm thuộc thời kỳ sáng tác sau này của Yokomizo Seishi. Nhưng Cung đàn báo oán vẫn có điểm riêng đầy cuốn hút, từ đó tạo được chỗ đứng cho tác phẩm mở đầu của cả series về thám tử Kindaichi Kosuke. Vị thám tử nổi danh trong lịch sử văn học trinh thám cổ điển Nhật Bản, cái tên đã tạo lên nguồn cảm hứng vô tận cho các sáng tác trinh thám về sau; một bộ óc tài năng ẩn dưới vẻ ngoài có phần lôi thôi, tầm thường và là một sáng tạo văn chương độc đáo của Yokomizo tiên sinh. Điểm riêng đấy, xuất phát từ cách dẫn truyện khá thú vị được Yokomizo Seishi sử dụng xuyên suốt ba câu chuyện: cả tập truyện được xây dựng qua hai lần mã hóa liên tiếp. Tức trọn vẹn cuốn sách Cung đàn báo oán, cấu trúc tác phẩm không đơn thuần chỉ là truyện lồng truyện, án lồng án mà còn thể loại này lồng trong thể loại kia. Từ ấy, tạo lên sự phức điệu trong giọng kể, sự đa dạng ở điểm nhìn đồng thời nối kết ba truyện ngắn riêng biệt trong cùng một tổng thể mang tên: Thám tử Kindaichi Kosuke. Thật vậy, bản thân Cung đàn báo oán đã là một tác phẩm văn chương. Nhưng trước khi sáng tác ấy ra đời, xuất bản, chính tác giả Yokomizo Seishi đã một lần mã hóa tác phẩm bằng việc tự mình hóa thân thành một nhân vật của bộ truyện. Nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám, tên Y, đi khắp nơi thu lượm các mẩu chuyện phá án ly kỳ rồi dựng thành trước tác hoàn chỉnh. Và theo lý giải như vậy, truyện về thám tử Kindaichi cũng chỉ là một phần trong kho tàng văn chương của con người đấy. Vì thế, ở tập truyện Cung đàn báo oán, vừa có giọng kể của “tôi”, nhân vật đứng ở điểm nhìn ngôi thứ nhất kể lại toàn bộ tiến trình anh biết tới vụ án; vừa có giọng kể của người kể chuyện, nhân vật đứng ở điểm nhìn ngôi thứ ba, điểm nhìn toàn tri hướng tới cả những tình tiết dầu là nhỏ nhất. Từ thảm án ở gia tộc Ichiyanagi, xảy ra ở làng Oka–, xóm Yamanotani, “tôi” chủ động đến tận hiện trường án mạng; tới án mạng ở gia tộc Honiden tại làng K và cỗ tử thi kinh hoàng trong quán Mèo Mun thuộc thị trấn G nhà Y “tôi” được nghe Kindaichi trực tiếp kể lại; tất cả đều được xây dựng theo cách thức đó. Cách thức mã hóa hai tác phẩm như vậy tựa một sợi chỉ đỏ xâu chuỗi ba án mạng riêng lẻ, dù không cùng nội dung nhưng lại cùng gặp nhau ở giao điểm mang tên: Kindaichi Kosuke trong chỉnh thể một tập truyện. Đồng thời tạo cho tập truyện Cung đàn báo oán hình thức như một cuốn tiểu thuyết ba chương và đưa tới cho độc giả cái nhìn toàn diện về con người Kindaichi. Chàng thanh niên mang danh thám tử nhưng vẻ ngoài lại lôi thôi, lếch thếch cùng những thói quen kỳ lạ. Song ẩn sau vẻ ngoài ấy là óc phán đoán sắc bén, sự nhạy cảm, tinh tế mãnh liệt trước mỗi vụ án hóc búa; làm cho người đối diện, đi từ ánh nhìn hoài nghi, ngờ vực đến tin tưởng tuyệt đối vào con người vẻ ngoài bình thường mà không hề tầm thường này. Ba vụ án, ba thủ pháp gây án riêng biệt Tuy nhiên, dù xoay quanh cùng một nhân vật trung tâm trong một tập truyện thì Cung đàn báo oán vẫn là tập hợp của ba truyện ngắn với ba vụ án riêng lẻ, xảy ra ở không gian khác nhau, bối cảnh khác nhau và ba hung thủ khác nhau, đã sử dụng ba thủ pháp riêng biệt để gây án. Mà từng thủ pháp ấy như đặc trưng cho một dạng thức chung vẫn thường xuất hiện trong tiểu thuyết trinh thám. Với Cung đàn báo oán là án mạng trong phòng kín, tại Tiếng động lạ trong giếng nước là một người hai vai, còn Án mạng ở quán Mèo Mun lại là tử thi không mặt. Nhưng dẫu có thể dễ dàng gọi rõ thể loại của mỗi vụ án mạng xuất hiện trên trang viết Cung đàn báo oán thì tác giả Yokomizo Seishi vẫn rất khéo léo trong việc dẫn dắt độc giả đến những bất ngờ liên tiếp tới tận khi tấm màn bí mật được vén lên. Và đó chính là chất riêng, khu biệt Cung đàn báo oán với các tác phẩm khác trong cùng series của Yokomizo Seishi và cả các tác phẩm trinh thám cổ điển trước kia hay cùng thời. Như ở Cung đàn báo oán, dù là án mạng trong phòng kín nhưng cuối cùng, sự thật phơi bày trước ánh sáng lại không phải là cách thức hung thủ đã vào phòng kín gây án bằng cách nào rồi thoát ra theo phương thức gì ngay trước mắt bao người chứng kiến. Mà điểm mấu chốt lại nằm ở nạn nhân, nghi phạm cùng thủ pháp gây án kì lạ mang đầy nét ma mị: tiếng đàn tranh lạc nhịp quái dị vang lên trong nhiều đêm liên tiếp. Án mạng trong phòng kín, vừa là án mạng nhưng lại cũng không phải án mạng. Điểm độc đáo của Cung đàn báo oán chính là ở điểm này. Hay như Tiếng động lạ trong giếng nước là trường hợp một người phải diễn hai vai: vừa là người này, cũng lại là người kia. Sự thật trong tiểu thuyết trinh thám từ cổ điển tới hiện đại, “một người hai vai” là dạng thức hết sức phổ biến, khi xuất hiện những cá nhân “vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ.” Nhưng trường hợp của Tiếng động lạ trong giếng nước, “một người hai vai” không chỉ đơn thuần như thế. Bởi vị “thám tử” trực tiếp phá giải vụ án trong câu chuyện này không phải Kindaichi mà chính là một người trong cuộc, cô bé Tsuyuro. Nhưng cũng vì là người trong cuộc, nên cô bé đã bị những ấn tượng ban đầu cùng tác động từ phía ngoài đánh lạc hướng, vô tình gán cho “hung thủ” danh tính khác. Và hung thủ, vô hình trung đã sống và đóng hai vai: vai của chính hắn và vai của người đồng đội, cũng là người em cùng cha khác mẹ đã hi sinh. Hoặc trong Án mạng ở quán Mèo Mun, thoạt trông, đây thật sự là vụ án “tử thi không mặt” điển hình bởi cỗ thi thể lúc được phát hiện đã bị phân hủy đến không thể nhận diện gương mặt. Tuy nhiên, sự việc không đơn giản như vậy bởi càng điều tra, cảnh sát càng như lạc trong mê cung danh tính nạn nhân: Shige hay Ayuko và hung thủ, là Ayuko hay Shige? Bởi, vụ án này, ngoài mang hình thức tử thi không mặt còn chứa đựng yếu tố “một người hai vai” khi hung thủ thật sự đã lợi dụng điểm mù của cả nạn nhân lẫn người điều tra để diễn trọn hai vai đúng “vừa là nạn nhân – vừa là hung thủ”. Chính chất riêng trong nét chung đã làm nên sự độc đáo cho ba vụ án xuất hiện trên trang văn Cung đàn báo oán. Nhất là khi ba câu chuyện không quá dài nên tính cô đọng, hàm súc, tiết tấu tác phẩm cũng nhanh chóng được đẩy lên cao trào. Và tất cả, càng góp phần tăng thêm chất “cổ điển” cho cuốn truyện trinh thám vốn đã mang đậm chất truyền thống ở lối viết tỉ mỉ trong cách hành văn, ở mỗi tấm sơ đồ được vẽ chi tiết này. *** Trước khi bắt tay viết câu chuyện này, bỗng dưng tôi lại muốn ngó qua dinh thự là nơi vụ án kinh hoàng kia đã xảy ra. Nên một chiều đầu xuân, tôi chống ba toong rời nhà, làm chuyến tản bộ tới đó. Tôi sơ tán về vùng nông thôn tỉnh Okayama này từ tháng Năm năm ngoái. Ở đây, hễ gặp dân làng, tôi lại được nghe kể về vụ án tiếng đàn sát nhân xảy ra với gia tộc Ichiyanagi. Vốn dĩ khi biết tôi là nhà văn trinh thám, mọi người thường kể cho tôi những vụ án giết người mà họ được mắt thấy tai nghe. Dân ở đây cũng vậy, song tình cờ tất cả luôn nhắc tới cùng một vụ. Thế thôi là đã đủ thấy vụ án này để lại ấn tượng sâu đậm nhường nào với dân địa phương. Tuy nhiên nhiều người trong số họ lại chưa biết đến điều kinh hoàng nhất của vụ án. Trong những vụ án tôi từng nghe, chẳng có mấy vụ thực sự thú vị như người kể tưởng, hay ít nhất là tôi chưa gặp được vụ nào đáng đem ra làm tư liệu viết tiểu thuyết. Tuy nhiên vụ này thì khác. Mới qua vài chi tiết vụn vặt, tôi đã rất hứng thú. Đến khi biết được chân tướng sự việc qua một người tường tận là anh F, tôi càng phấn khích hơn. Nó hoàn toàn khác với các vụ giết người thông thường, bởi kế hoạch của hung thủ vô cùng tỉ mỉ, hơn nữa còn là “án mạng trong phòng kín”. Nhà văn trinh thám nào chẳng muốn một lần viết về “án mạng trong phòng kín”. Thật khó cưỡng lại mong muốn phá giải vụ giết người xảy ra trong căn phòng nội bất xuất ngoại bất nhập, nên phần lớn họ đều thử sức với đề tài này ít nhất một lần. Theo lời anh bạn đáng kính Inoue Eizo[1], các tác phẩm của Dickson Carr[2] đều là biến thể của “án mạng trong phòng kín”. Tôi cũng mang danh nhà văn trinh thám, nên định sẽ thử sức khi có dịp. May thay, giờ tôi đã có cơ hội mà chẳng phải tốn công tốn sức. Xem ra tôi phải cảm ơn tên hung thủ tàn nhẫn máu lạnh, kẻ đã dùng phương cách đáng sợ để đâm đôi nam nữ kia. Lúc mới nghe chân tướng vụ án, tôi liền lục lại kí ức, xem trong số tiểu thuyết từng đọc đã xuất hiện tình tiết tương tự chưa. Đầu tiên là Bí mật căn phòng vàng của Leroux[3]. Sau đó đến Những chiếc răng cọp của Leblanc[4], Án mạng Canary[5] và Án mạng Kennel[6] của Van Dine[7], Vụ mưu sát tại biệt thự Plague Court[8] của Dickson Carr. Cuối cùng là một biến thể của án mạng trong phòng kín, Vụ thảm sát gia đình Angells[9] của Scarlett[10]. Nhưng tình tiết trong những tiểu thuyết ấy đều khác hẳn vụ này. Phải chăng hung thủ đã đọc hết chúng, giải mã từng thủ đoạn, rồi nhặt ra các yếu tố cần thiết, từ đó xây dựng cho mình một cách thức hoàn toàn mới? Dám lắm chứ! Nếu so sánh thì vụ án này có nhiều điểm tương đồng nhất với Bí mật căn phòng vàng. Tuy nhiên, điểm giống không phải chân tướng sự việc, mà là bầu không khí tại hiện trường. Gian phòng trong vụ án này không dán giấy tường màu vàng, mà thay vào đó, từ cột trụ, trần nhà cho đến xà ngang, cửa chớp đều sơn màu đỏ son. Thật ra nhà màu đỏ son không hiếm ở vùng này. Căn nhà tôi đang ở cũng thế, chỉ khác là khá cũ nên đã ngả sắc đen. Còn gian phòng hiện trường thì vừa được sơn sửa trước khi vụ án xảy ra, nên lúc đó hẳn vẫn đậm sắc đỏ. Chiếu và cửa trượt còn mới tinh, lại thêm bình phong dát vàng quây trước đôi nam nữ nằm trong vũng máu. Quang cảnh xem chừng vô cùng ấn tượng. Ngoài ra, tiếng đàn tranh xuyên suốt vụ án cũng là yếu tố bí ẩn lôi cuốn tôi. Mỗi lần xảy ra chuyện, tiếng đàn đều vang lên điên cuồng! Tôi vốn không bỏ được tính lãng mạn sến sẩm, nên thấy chi tiết đó có sức hút cực kì khó cưỡng. Giết người trong phòng kín, căn phòng tuyền đỏ son, và tiếng đàn… Vụ án này có quá đủ yếu tố để trở thành tiểu thuyết, nên nếu không viết ra, tôi thật chẳng đáng mặt nhà văn nữa. Hơi lan man rồi. Nhà tôi cách hiện trường vụ án là dinh thự gia tộc Ichiyanagi khoảng mười lăm phút đi bộ. Dinh thự nằm ở làng Oka—, xóm Yamanotani. Y như cái tên, xóm này có ba mặt giáp núi[11], núi non không cao lắm, uốn lượn tựa chân loài sao biển vươn ra vùng đồng bằng. Và ở một mũi chân của sao biển chính là dinh thự rộng lớn của gia tộc Ichiyanagi. Phía Tây dãy núi “chân sao biển” kể trên có một dòng suối, còn phía Đông là con đường nhỏ dẫn sang làng Ku—, xuống tới vùng đồng bằng không bao xa thì dòng suối giao với con đường, tạo nên khu đất hình tam giác méo mó, diện tích hơn sáu nghìn năm trăm mét vuông. Dinh thự gia tộc Ichiyanagi nằm trên khu đất đó, Bắc giáp rìa núi, Tây sát dòng suối, Đông nhìn ra con đường dẫn tới làng Ku—. Cổng chính của dinh thự dĩ nhiên hướng ra con đường này. Đầu tiên, tôi đi đến trước cổng chính của dinh thự. Cánh cổng lớn màu đen gắn nhũ sắt[12], hai bên là tường bao sừng sững, dài hơn hai trăm mét. Nhòm qua cổng thì thấy bên trong lớp tường ngoài còn một lớp tường nữa che kín khuôn viên dinh thự. Quả là nhà quyền thế. Tôi bèn vòng sang mạn Tây, men theo dòng suối ngược lên phía Bắc. Đến chỗ cuối bức tường bao, tôi băng qua cây cầu đất đằng sau cái guồng nước hỏng để lên vách núi nằm ở phía Bắc, nơi có một rừng tre. Tôi len vào bụi tre rậm rạp ở rìa vách để nhìn về phía Nam. Cảnh trí khu dinh thự thu hết vào tầm mắt. Trước hết, tôi để mắt tới mái căn biệt thất nằm ngay dưới vách núi. Án mạng xảy ra ngay dưới lớp mái này. Nghe nói đây vốn là nơi gia chủ đời trước xây để ẩn cư dưỡng già. Bên trong có một gian tám chiếu và một gian sáu chiếu. Biệt thất dẫu nhỏ song vẫn là nơi ẩn cư, nên sân vườn được thiết kế rất kì công, từ Nam qua Tây bày trí nhiều cây cảnh và non bộ tới mức hơi quá đà. Chuyện về biệt thất sau này tôi sẽ kể chi tiết hơn, còn giờ thì phóng tiếp tầm mắt về phía Nam sẽ thấy căn nhà chính một tầng rộng rãi quay mặt về hướng Đông, tiếp đến là nhà của chi thứ, nhà kho hay lán nằm không theo quy tắc. Nhà chính được ngăn cách với biệt thất bằng hàng rào tre, thông nhau chỉ qua một cánh cửa tre nhỏ. Cả rào lẫn cửa tre giờ đều đã hư hỏng nặng, không sao nhìn ra hình dạng ban đầu, nhưng lúc vụ án xảy ra thì hẵng còn mới và kiên cố. Chính chúng đã ngăn mọi người từ nhà chính ập tới hiện trường ngay sau khi nghe thấy tiếng la hét. Vậy là đã nhìn bao quát xong một lượt dinh thự gia tộc Ichiyanagi nên tôi rời bụi tre, qua ủy ban làng Oka—. Ủy ban nằm ở mé Nam của làng, mấy dãy nhà dân chạy tới đây là hết. Từ đây đi tiếp về phía Nam cho tới khi gặp làng Kawa sẽ toàn là đồng ruộng. Giữa các cánh đồng là con đường thẳng tắp, rộng độ ba, bốn mét. Cứ thẳng đường này đi bộ khoảng bốn mươi phút sẽ tới ga tàu hỏa, Vì thế, những người ngồi tàu tới đây sau đó muốn vào làng thì kiểu gì cũng phải đi theo con đường này, qua phía trước ủy ban. Đối diện ủy ban là một căn nhà có phần nền đất[13] rộng, mặt ngoài lắp cửa kính thô sơ. Đây vốn là một tiệm cơm nhỏ, nơi nghỉ chân dành cho dân thồ hàng bằng ngựa. Tiệm cơm này liên hệ mật thiết với vụ án mạng xảy ra tại dinh thự Ichiyanagi, bởi là nơi đầu tiên người đàn ông bí ẩn với bàn tay phải chỉ có ba ngón ghé vào. Chuyện bắt đầu vào chiều tối 23 tháng Mười một năm 1937, hai ngày trước khi án mạng xảy ra. Bên ngoài tiệm cơm, bà chủ tiệm ngồi ghế gấp, đang tán gẫu với một cán bộ ủy ban và một dân thồ hàng là khách quen. Bỗng từ hướng làng Kawa có người đàn ông lê bước tới. “Xin hỏi đi lối nào thì tới được nhà Ichiyanagi ạ?” Đang nói dở câu chuyện, nghe hỏi, bà chủ tiệm, viên cán bộ ủy ban và tay dân thồ hàng bèn cùng quan sát trang phục của người đàn ông rồi nhìn nhau. Cả ba đều thấy lạ vì hắn có vẻ ngoài vô cùng nhếch nhác, chẳng ra dáng có quan hệ với gia tộc lớn như Ichiyanagi chút nào. Đầu đội mũ tai bèo nhăn nhúm, mặt đeo khẩu trang to, tóc tai bờm xờm thò ra bên dưới mũ, râu ria lởm chởm từ cằm lên tới má, dáng vẻ cực đáng nghi. Hắn không mặc áo khoác nhưng cổ chiếc áo đang mặc lại cài kín như sợ lạnh. Áo quần đầy bụi bẩn, vị trí khuỷu tay và đầu gối bị mài đến bạc phếch. Đôi giày há mõm, bụi bám trắng bệch. Trông hắn cực kì mệt mỏi, tuổi độ trên dưới ba mươi. “Nhà Ichiyanagi đằng kia kìa, nhưng cậu tìm nhà ấy có việc gì?” Trước ánh nhìn chòng chọc của viên cán bộ ủy ban, người đàn ông chớp mắt như bị chói, miệng lẩm bẩm gì đó sau lớp khẩu trang. Đúng lúc ấy, cũng từ hướng làng Kawa—, một chiếc xe kéo chạy ngang qua. Bà chủ tiệm thấy thế liền bảo, “Này cậu gì ơi, gia chủ nhà Ichiyanagi mà cậu hỏi vừa mới đi qua đấy.” Ngồi trên xe là một người đàn ông trạc tứ tuần, da ngăm, vẻ mặt nghiêm nghị. Anh ta mặc âu phục đen, ngồi ngay ngắn, mắt nhìn thẳng, không hề ngó ngang liếc dọc. Má hóp, mũi thẳng cao, trông qua có vẻ khó gần. Đó chính là Kenzo, gia chủ nhà Ichiyanagi. Chiếc xe kéo chở anh ta chạy ngang qua trước mặt mấy người kia rồi mất hút ở ngã rẽ. “Bà chủ này, nghe nói gia chủ nhà Ichiyanagi sắp lấy vợ. Có thật không?” Không thấy bóng dáng xe kéo đâu nữa, tay dân thồ hàng mới hỏi. “Thật đấy. Nghe bảo ngày kia là tổ chức đám cưới rồi.” Mời các bạn mượn đọc sách Cung Đàn Báo Oán của tác giả Yokomizo Seishi & Hoài Đan (dịch). 

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Án Mạng Mười Một Chữ
Tình cờ phát hiện những điều bất thường sau cái chết thảm khốc của người yêu, nhân vật “tôi”, một nữ nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám đã cùng bạn mình, Hagio Fuyuko, cũng là biên tập viên phụ trách sách của “tôi” quyết định điều tra về cái chết này. Trong quá trình điều tra hai người phát hiện người yêu của “tôi” đã từng gặp tai nạn lật thuyền trong chuyến du lịch đảo một năm trước. Và khi họ tìm tới những người cũng tham gia chuyến đi đó để tìm hiểu thì những người này cũng lần lượt bị sát hại. Cuối cùng “tôi” buộc phải tự mình phán đoán, điều tra để tìm ra chân tướng sự việc. Án mạng mười một chữ cũng đã được chuyển thể thành phim truyền hình vào năm 2011. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Higashino Keigo là tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu Nhật Bản với nhiều tác phẩm hàng triệu bản bán ra trong và ngoài nước, gặt hái vô vàn giải thưởng. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung đều có diễn biến bất ngờ, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, làm nên nét riêng biệt trong chất văn của Higashino Keigo. *** Review Mọt Mọt:   Án mạng mười một chữ: Higashino Keigo – Những kẻ vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ Khi một vụ án chẳng ai là người trong sạch. Khi tình bạn bị lợi dụng cho mục đích cá nhân. Khi sự thật được phơi bày khiến tất cả đều thương tổn. Bên tình, bên lý, biết chọn bên nào? Án mạng mười một chữ, nỗi đau quá khứ, kéo dài tới hiện tại, lạnh lùng, tàn nhẫn mà đắng cay, chua chát. Cuốn tiểu thuyết mang âm hưởng của trinh thám cổ điển Ra đời vào năm 1987, có thể nói, Án mạng mười một chữ được Higashino Keigo xây dựng rất khác so với các tác phẩm sau này: ngắn gọn, súc tích, tập trung nhiều hơn về mặt tình tiết, quá trình điều tra, phá án. Từ đấy, ông đã đưa sáng tác tiến gần hơn với thể trinh thám cổ điển. Xét về mặt dung lượng, tiểu thuyết Án mạng mười một chữ chỉ gói gọn trong 258 trang truyện, ngắn hơn nhiều khi đặt cạnh hàng loạt các tác phẩm về sau của Keigo-sensei như Bí mật của Naoko, Đơn phương, Bạch dạ hành hay Phương trình hạ chí… Bởi thế, dòng sự kiện của tác phẩm được chú trọng vào cốt truyện chính: quá trình một nhà văn chuyên viết truyện trinh thám đi tìm lời giải đáp cho cái chết đầy bí ẩn của người đàn ông cô yêu. Và trong quá trình đó, cô gái ấy khám phá ra hàng loạt bí ẩn cả trong quá khứ lẫn hiện tại, cả các bí mật về những con người cô vốn không quen biết tới người bạn cô vốn tưởng đã rất thân quen. Từ đấy, Keigo tiên sinh tạo lên kết cấu truyện lồng truyện, sự việc này nối tiếp, là nhân quả cho sự việc kia: Bí ẩn hôm nay, liên đới với cái chết năm xưa; hành động trả thù cho quá khứ, làm nên án mạng trong hiện tại. Một khía cạnh nữa khiến cho Án mạng mười một chữ trở lên gần gũi với các tác phẩm trinh thám cổ điển còn nằm ở yếu tố: Keigo-sensei đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng tình tiết và tạo dựng những cuộc đối thoại, tương tác giữa các nhân vật. Nói như thế không có nghĩa Án mạng mười một chữ thiếu đi các phân cảnh miêu tả nội tâm hay sự biến đổi tâm trạng nhân vật. Vẫn có những day dứt, những hối hận, những mệt mỏi, những sợ hãi… của một con người theo đuổi đến cùng hai chữ chân lý, của một cô gái lần đầu vướng vào những bí ẩn liên hoàn đã cướp đi người đàn ông cô yêu, người bạn thân của cô, thậm chí bản thân cô thiếu chút nữa cũng đã mất mạng. Nhưng trong cuốn sách 258 chương, tình tiết liên tiếp, dồn dập diễn ra; cùng với đó là bản thân nhân vật tôi gặp gỡ hàng loạt nhân vật khác, những người liên đới trực tiếp tới vụ án; vì thế tần suất của các cuộc đối thoại cũng trở nên dày đặc. Không chỉ vậy, trong Án mạng mười một chữ, tác giả còn kết hợp sử dụng nhiều câu văn ngắn, điều đó càng góp phần đẩy mạnh nhịp truyện cũng như tiến trình sự kiện diễn ra nhanh hơn nữa. Nhưng tất cả, đều nằm trong một trục quá trình: Hành trình tìm kiếm sự thật của nữ nhà văn viết truyện trinh thám, đang tự đặt mình vào vai thám tử trong câu chuyện cuộc đời của chính cô. Đồng thời, tác giả cũng khước từ việc gắn Án mạng mười một chữ với những vấn đề quá mức đao to búa lớn trong xã hội. Cho nên tác phẩm dẫu mang hình thức truyện lồng truyện, một án mạng không đứng độc lập mà luôn gắn với bí ẩn phía sau – động cơ gây án của hung thủ và án mạng có thể tiếp nối án mạng mãi chẳng dừng nếu hận thù con người chẳng dứt thì cốt truyện của Án mạng mười một chữ vẫn rất gọn. Từ đó mà làm cho cuốn tiểu thuyết trở nên gần gũi hơn với trinh thám cổ điển. Những kẻ, vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ. Mặc dù mang nội dung, cốt truyện và cách triển khai cốt truyện gần với trinh thám cổ điển thì Án mạng mười một chữ vẫn là một tác phẩm trinh thám chứa đựng những yếu tố trinh thám hiện đại do Higashino Keigo sáng tạo lên. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm – xưng tôi, tự kể lại trải nghiệm của bản thân về vụ án, về quá trình cô điều tra, phá án để đi tới được ánh sáng ẩn sau bức màn. Nhưng nhân vật ấy lại không phải thám tử hay điều tra viên chuyên nghiệp. Cô chỉ là một nhà văn tự do viết tiểu thuyết trinh thám mà thôi. Vì thế bản thân cô hẳn chưa khi nào tưởng tượng tới việc chính mình lại trở thành nhân vật chính cho tấn bi kịch kéo dài với đủ plot twist như một cuốn truyện trinh thám như vậy. Cũng bởi không phải người điều tra chuyên nghiệp, tiếp cận vụ án với tâm thế của người đến sau, bị động nên “tôi” không tránh khỏi những hành động, suy đoán có phần nghiệp dư, nhẹ dạ, thậm chí ngây thơ. Và đây hoàn toàn là tâm lý tự nhiên của con người khi phải ứng phó với một hoàn cảnh bất ngờ, khi phải đối diện trước sự phức tạp của sự việc lẫn lòng người như thế. Sáng tạo lên một nhân vật chuyên sáng tác trinh thám đồng thời đặt nhân vật đó một tác phẩm trinh thám để giải quyết vụ án chính nhân vật vướng phải, đây vừa là sáng tạo, cũng vừa là cách thức Keigo-sensei phần nào tái hiện hiện thực: sự khác biệt rất lớn giữa đời sống với trang văn. Bên cạnh đó, ngoài hình thức truyện lồng truyện, Án mạng mười một chữ còn mang kết cấu đa thanh, đa bội ngôi kể, đa dạng điểm nhìn ở từng chương truyện. Đó là sự đan xen của bốn màn độc thoại ngắn vào mạch truyện chính. Ở đó, người độc thoại không phải nhân vật “tôi” – nữ nhà văn trinh thám mà là một “tôi” khác, theo sát bước chân nhân vật chính đồng thời tham gia trực tiếp vào hàng loạt vụ án mạng trong hiện tại. Tất nhiên, nếu độc giả là một người đã quá quen thuộc với dòng truyện trinh thám thì không thật khó khăn để biết được, tôi trong bốn màn độc thoại ngắn kia là ai. Nhưng sáng tạo lên một cái “tôi” bí ẩn, Keigo-sensei đã tạo lên tính phức hợp, phức điệu cho cuốn tiểu thuyết chỉ hơn 200 trang của ông. Ở đấy, có sự đa thanh của lời kể, đặt độc giả vào những dòng tự sự khác nhau, qua những điểm nhìn khác nhau để từ đó, người đọc có được cái nhìn tổng quan, toàn diện, đa chiều về hệ thống nhân vật cũng như toàn bộ câu chuyện ông xây dựng. Để từ đó, người đọc nhận ra, Án mạng mười một chữ gần gũi với trinh thám cổ điển, cũng dễ đoán biết hung thủ của những vụ án liên hoàn là ai, song đây không phải một cuốn tiểu thuyết được tạo dựng lên một cách đơn giản. Mà trong câu chuyện đó, trong tấn bi kịch kéo dài mãi từ quá khứ cho tới hiện tại và có thể vẫn tiếp nối tới tương lai, là muôn vàn gương mặt: vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ, không ai hoàn toàn trong sạch song cũng không ai lại đáng trách hoàn toàn. Kẻ là nạn nhân hôm nay, trong quá khứ khi xưa đã từng là hung thủ của một vụ ám sát đầy tàn độc. Hung thủ trong hiện tại, lại là nạn nhân của bi kịch quá khứ. Nạn nhân trong quá khứ, phần nào lại trở thành hung thủ khi đặt trên sự phán xét của khía cạnh đạo đức. Kẻ như đứng sau tất cả bi kịch, lại bỗng trở thành nạn nhân nếu toàn bộ sự thật bị phơi bày… Ai cũng có động cơ riêng, ai cũng có nỗi khổ tâm riêng đẩy người ta vướng vào tội ác. Xây dựng lên những khuôn mặt đó, Keigo-sensei lần nữa, đưa tác phẩm của ông tiến gần tới hiện thực cuộc sống. Bởi cuộc sống đa diện và phức tạp, phải – trái, trắng – đen, đúng – sai,… vốn đâu thể lúc nào cũng có thể phân định rạch ròi. Vì thế, sự thật vốn được giấu trong chiếc hộp Pandora, khi người ta nhất quyết khai mở, chạm vào đó chỉ là nghiệt ngã, khổ đau, day dứt. Và con người, đứng trước hiện thực tàn nhẫn, chỉ có thể lựa chọn cách giải quyết để xoa dịu tâm hồn, để bản thân không phải hối hận về sau. Giống như một phương trình có vô số nghiệm, người ta chỉ có thể lựa chọn nghiệm tối ưu cho cuộc đời mà thôi. Và ở khía cạnh này, Higashino Keigo đã gặp gỡ tác giả Agatha Christie, khi bà viết lên Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông cũng với những gương mặt vừa là hung thủ, vừa là nạn nhân như vậy. Nhưng với lối tạo dựng cốt truyện, cách tạo dựng hệ thống nhân vật và khắc họa từng cá nhân, mỗi cái “tôi” khác nhau mà Keigo-sensei đã tạo lên Án mạng mười một chữ thật sự là của riêng bản thân ông, một tác phẩm, vừa cổ điển cũng vừa hiện đại. Dẫu sự thật ra sao, cuộc sống vẫn tiếp tục chảy trôi không ngừng. Có lẽ, cách kết truyện của Án mạng mười một chữ với một hiện thực phơi bày: ai cũng là nạn nhân, ai cũng là hung thủ và chẳng kẻ nào phải trả giá trước pháp luật là một cái kết khó chiều lòng tất cả độc giả, đặc biệt những ai muốn có sự rạch ròi, muốn kiếm tìm sự trắng – đen phân minh trong một tác phẩm trinh thám. Nhưng như đã nói, cuộc đời vốn không phải lúc nào cũng thể phân rõ phải – trái, đúng – sai và dẫu sự thật có ra sao, người ta chọn cách sống thế nào, thì thời gian vẫn tiếp tục chảy trôi, cuộc đời vẫn tiếp tục diễn tiến và con người vẫn phải tiếp tục hướng đến tương lai. Chỉ là, hận thù chắc chắn không thể giải quyết bằng hận thù, kéo dài đau thương, bi kịch chỉ khiến cho tâm hồn thơ dại, trong sáng của những đứa trẻ vô tội như cô bé Yumi càng thêm đau khổ mà thôi. Vậy tại sao, mỗi người không buông bỏ thù hằn, như nhân vật “tôi”, đã chấp nhận sự phức tạp của cuộc đời để có thể đối diện với tương lai bằng thái độ bình thản nhất: “Nhưng từ giờ mọi chuyện ra sao cũng được, tôi sẵn sàng đón nhận. Vì tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Dù ngày mai có xảy ra chuyện gì, thì hôm nay cứ đi ngủ cái đã.” *** Anh đang bị đưa vào tầm ngắm đấy.” Anh nghiêng ly rượu bourbon. Những viên đá trong ly lanh canh nhảy múa. “Bị đưa vào tầm ngắm?” Nghĩ anh đang đùa, tôi nhếch môi cười, hỏi lại. “Nhưng cái gì… bị ngắm cơ?” “Tính mạng anh.” Anh trả lời. “Hình như ai đó đang muốn giết anh.” Tôi vẫn cười. “Tại sao người đó lại muốn giết anh?” “À thì…” Anh im lặng chốc lát rồi tiếp tục. “Anh cũng không biết. Tại sao vậy nhỉ?” Giọng anh nặng nề quá đâm tôi không cười nổi nữa. Ngắm nghía khuôn mặt nhìn nghiêng của anh một hồi, tôi quay qua nhìn gương mặt người pha chế đang đứng quầy, rồi nhìn lại tay mình. “Tức là anh không biết tại sao, nhưng linh cảm thế à?” “Không chỉ linh cảm thôi đâu.” Anh nói. “Anh đang gặp nguy hiểm thật đấy.” Rồi anh gọi thêm một ly bourbon nữa. Tôi nhìn quanh, để chắc chắn không ai để ý, rồi mới quay sang gương mặt nhìn nghiêng của anh, cất lời: “Anh có thể giải thích rõ hơn được không? Rốt cuộc đã có chuyện gì?” “Thì đấy…” Anh uống cạn ly rượu, rồi châm lửa hút thuốc. “Anh đang gặp nguy hiểm. Vậy thôi.” Rồi anh nói khẽ: “Anh cũng thật là… Không định nói với em, mà lại lỡ lời. Chắc do ảnh hưởng của câu chuyện hồi trưa.” “Chuyện hồi trưa?” “Không có gì đâu,” anh lắc đầu. “Nói chung em không cần biết chuyện này.” Tôi chăm chú nhìn cái ly trong tay mình. “Vì em có biết cũng chẳng giải quyết được gì à?” “Không chỉ vì mỗi lý do đó.” Anh nói. “Em biết chỉ thêm lo thôi. Trong khi nỗi bất an của anh thì vẫn còn đó.” Tôi không đáp lại lời anh, chỉ bắt tréo hai chân đang để dưới quầy. “Này, tức là ai đó đang muốn hãm hại anh à?” “Ừ, cứ cho là vậy đi.” “Anh có thấy gì khả nghi không?” “Em hỏi lạ quá!” Lần đầu tiên anh bật cười kể từ lúc bước vào quán bar này. Làn khói màu trắng bồng bềnh phả ra từ kẽ răng. “Em nghĩ có ai đang yên đang lành lại kêu tính mạng mình đang bị đe dọa không? Em thì sao?” “Ừ thì…” tôi ngập ngừng. “Có thể không mà cũng có thể có. Vì em nghĩ chủ ý sát nhân xét cho cùng cũng giống với quan điểm sống thôi.” “Anh cũng nghĩ vậy.” Anh khẽ gật đầu. “Vậy là anh thấy gì đó khả nghi đúng không?” “Không phải tự mãn đâu, nhưng anh tìm được manh mối ở nhiều việc lắm.” “Nhưng anh lại không thể nói ra.” “Vì anh có cảm giác nếu nói ra rồi, thì những hoài nghi ấy sẽ trở thành sự thực.” Rồi anh tiếp. “Anh nhát gan lắm.” Sau đó chúng tôi im lặng ngồi uống rượu, đến khi mệt rồi thì đặt ly xuống, rời khỏi quán, thả bộ trên con đường mưa rơi. _Anh nhát gan lắm._ Tôi vẫn nhớ lời sau cùng của anh. 2 Tôi quen Kawadu Masayuki qua sự giới thiệu của một người bạn. Người bạn đó biên tập sách của tôi, tên Hagio Fuyuko. Fuyuko bằng tuổi tôi, là người phụ nữ chỉ biết đến công việc, và làm ở nhà xuất bản đã gần mười năm nay. Cô luôn đóng bộ áo vest đĩnh đạc như phụ nữ nước Anh, bước đi đầy tự tin. Tôi chơi với cô từ khi bước vào giới này, thấm thoắt cũng đã được ba năm. Nhưng khoảng hai tháng gần đây, một Fuyuko như thế bỗng nhiên lại hăng say bàn tán chuyện đàn ông nhiều hơn là bản thảo. Đúng cái hôm có thông báo quần đảo Amami sắp bước vào mùa mưa. “Tớ biết một anh chàng tuyệt lắm.” Cô nói với gương mặt nghiêm túc. “Một nhà văn tự do tên là Kawadu Masayuki. Cậu biết anh ấy không?” Tôi trả lời là không biết. Tên người cùng ngành lắm lúc tôi còn chẳng biết. Huống chi mấy nhà văn tự do. Theo lời Fuyuko kể thì anh Kawadu Masayuki đó sắp ra sách, và họ đã dần trở nên thân thiết sau vài lần tình cờ cùng tham gia mấy buổi họp xuất bản. “Anh ấy cao, đẹp trai lắm.” “Ừ.” Fuyuko mà lại nói về đàn ông cơ đấy, thật hiếm hoi làm sao. “Tớ thật muốn gặp người được Fuyuko khen hết lời như vậy một lần.” Nghe tôi nói, cô cười đáp: “Ừ, vậy để lần tới nhé.” Tôi chỉ tiện miệng nói chơi, mà hình như cô cũng chẳng cho là thật. Thế nên chẳng bao lâu sau tôi đã quên béng mất lời hẹn như mấy câu chuyện làm quà khác ấy. Nhưng sau đó vài tuần, rốt cuộc tôi cũng gặp Kawadu Masayuki. Anh tình cờ có mặt trong quán bar tôi đến cùng Fuyuko. Cùng đi với anh là một họa sĩ to béo đang mở triển lãm cá nhân tại Ginza. Kawadu Masayuki quả là một người đàn ông bảnh bao. Anh cao khoảng một mét tám, gương mặt thon gọn, rám nắng. Chiếc áo jacket màu trắng trông thật hợp với anh. Vừa nhìn thấy Fuyuko, anh liền vẫy cánh tay đang đặt trên mặt quầy gọi. Fuyuko thoải mái bắt chuyện với anh, rồi giới thiệu tôi. Đúng như tôi dự đoán, anh chưa từng nghe đến tên tôi. Kể cả khi nghe giới thiệu tôi là nhà văn viết truyện trinh thám, anh cũng chỉ gật đầu như thể đang bối rối. Hầu hết mọi người đều có phản ứng tương tự khi nghe tôi giới thiệu như vậy. Sau đó, cũng tại quán bar ấy, chúng tôi trò chuyện một lúc lâu. Giờ ngẫm lại, tôi vẫn thấy lạ, không hiểu sao chúng tôi có thể nói chuyện lâu đến vậy. Tôi cũng không nhớ nổi chúng tôi đã nói những gì với nhau. Trừ một việc là sau cuộc nói chuyện đó, chỉ có tôi và Kawadu Masayuki rời khỏi quán. Chúng tôi đi đến một quán khác, rồi rời đi sau khoảng một tiếng đồng hồ. Tôi hơi say, nhưng chưa tới mức cần anh đưa về. Mà anh cũng không gượng ép đề nghị. Ba ngày sau, anh gọi điện, mời tôi đi ăn. Tôi không có lý do nào để từ chối, sự thực thì anh là một người đàn ông không tồi, nên tôi cũng chẳng mấy do dự, cứ thế nhận lời. “Tiểu thuyết trinh thám hay ở điểm nào vậy?” Anh hỏi khi chúng tôi đang nhâm nhi chút rượu vang ở nhà hàng trong khách sạn. Tôi không nghĩ ngợi gì, chỉ máy móc lắc đầu. “Nghĩa là cô không biết?” anh hỏi. “Tôi mà biết thì sách của tôi đã bán chạy hơn rồi,” tôi đáp. “Thế anh nghĩ nó hay ở điểm nào?” Anh vừa gãi gãi mũi vừa nói, “Hay ở điểm người ta đã tạo ra nó chăng?” “Những vụ án trong đời thực nhiều khi không phân định rạch rời trắng đen. Ranh giới giữa cái đúng và cái sai rất mơ hồ. Vậy nên dù vấn đề được đặt ra rồi, nhưng người ta lại không thể mong chờ một kết luận tương xứng. Bởi vì nó chỉ là một phần của cái gì đó lớn lao mà thôi. Nhưng ở điểm đó thì tiểu thuyết lại làm trọn vẹn. Đó là một dạng kết cấu. Và tiểu thuyết trinh thám chẳng phải là thể loại kỳ công nhất trong việc xây dựng kết cấu đó hay sao?” “Có lẽ là vậy,” tôi nói. “Anh đã bao giờ phải trăn trở trước ranh giới giữa cái đúng và cái sai chưa?” “Có chứ.” Anh nhếch môi. Tôi nghĩ anh không nói dối. “Rồi anh có đem nỗi trăn trở ấy viết vào sách không?” “Cũng có,” anh đáp. “Nhưng phần lớn là tôi không thể làm được.” “Tại sao lại không thể?” “Vì nhiều lý do lắm.” Gương mặt anh hơi khó chịu, nhưng chỉ một loáng sau anh đã lấy lại vẻ hiền lành vốn có, và rồi bắt đầu nói về tranh vẽ. Tối hôm đó anh đến căn hộ của tôi. Căn hộ vẫn còn vương lại mùi của người chồng cũ. Thoạt đầu trông anh có vẻ hơi lúng túng nhưng chỉ một lát sau anh lập tức quen ngay. “Anh ấy từng là nhà báo,” tôi nói về chồng cũ. “Anh ấy hiếm khi ở nhà. Rồi rốt cuộc cũng chẳng còn lý do nào để trở về ngôi nhà này nữa.” “Và thế là anh ta không quay lại đây nữa?” “Vâng.” Trên chiếc giường chồng cũ từng ôm ấp tôi, Kawadu Masayuki đã cho tôi những khoái cảm dịu dàng hơn rất nhiều so với người chồng cũ. Làm tình xong, anh còn vòng tay ôm vai tôi, đề nghị, “Lần sau em đến chỗ anh nhé?” Chúng tôi gặp nhau khoảng một, hai lần một tuần. Hầu hết là anh đến chỗ tôi, nhưng cũng đôi khi tôi tới nhà anh. Anh độc thân, hình như cũng chưa từng kết hôn, vậy mà phòng ốc lại ngăn nắp như thể phòng của người đã lập gia đình. Tới mức tôi còn tưởng tượng hay là có ai đó dọn dẹp phòng giúp anh? Rồi chẳng mấy sau đó, mối quan hệ của chúng tôi bị Fuyuko phát hiện. Số là Fuyuko đến chỗ tôi lấy bản thảo đúng lúc anh đang có mặt ở đó, nên tôi không thể bịa ra được lý do nào để giải thích. Mà thật ra tôi cũng đâu cần phải giải thích điều gì. “Cậu yêu anh ta à?” Fuyuko hỏi lúc chỉ có hai người chúng tôi. “Tớ thích anh ấy,” tôi trả lời. “Thế cậu có định kết hôn không đấy?” “Làm gì có chuyện.” “Vậy à.” Fuyuko thở phào như trút được gánh nặng, đôi môi khẽ nở một nụ cười duyên dáng. “Thấy hai người thân thiết, người bắc cầu như tớ đây cũng vui lắm. Nhưng cậu đừng sa đà quá. Cứ duy trì mối quan hệ như hiện tại thôi.” “Không sao đâu. Tớ đã có bài học nhớ đời rồi mà,” tôi nói. Rồi hai tháng trôi qua. Mối quan hệ giữa tôi và Kawadu Masayuki vẫn được duy trì đúng mực như lời hứa với Fuyuko. Ngay cả hồi tháng Sáu, khi chúng tôi đi du lịch cùng nhau, may thay anh cũng không đả động gì tới chuyện kết hôn. Bằng không hẳn tôi phải bối rối lắm. Nhưng nghĩ lại, dẫu anh có nhắc đến chuyện kết hôn thì cũng chẳng có gì là lạ. Anh đã ba mươi tư tuổi, tính chuyện lập gia đình cũng là lẽ đương nhiên. Hay là anh cũng đang cố duy trì một mức độ nhất định nào đó trong mối quan hệ với tôi? Nhưng nếu cứ mải bận tâm đến điều đó e là tôi sẽ làm mất đi ý nghĩa của mối quan hệ này mất. Thế rồi khi chúng tôi quen nhau được hai tháng. Thì Kawadu Masayuki chết ngoài biển. 3 Vào một ngày tháng Bảy, cảnh sát đến thông báo cho tôi về cái chết của anh. Anh ta điềm tĩnh, song vẻ ngoài tầm thường hơn nhiều so với những cảnh sát tôi vẽ ra trong tiểu thuyết của mình. Có thể dùng từ “có sức thuyết phục” để miêu tả về người này. “Sáng nay, người ta phát hiện một thi thể nổi trên vịnh Tokyo. Khi vớt thi thể ấy lên, từ di vật còn sót lại chúng tôi xác định đó là anh Kawadu Masayuki.” Vị cảnh sát nhỏ nhắn nhưng có vẻ khỏe mạnh gần bốn mươi tuổi thông báo. Bên cạnh anh ta là một cảnh sát trẻ khác. Anh này thì chỉ yên lặng đứng đấy. Tôi mất vài giây không thốt nên lời, sau đó nuốt nước bọt. “Vậy là các anh xác định được danh tính rồi ạ?” “Vâng,” vị cảnh sát thu cằm lại. “Nạn nhân quê ở Shizuoka. Em gái anh ta đã đến nhận dạng thi thể, ngoài ra chúng tôi cũng đã giám định răng và chụp X quang.” Rồi vị cảnh sát nhấn mạnh thêm, “Kết quả cho thấy đó là anh Kawadu Masayuki.” Thấy tôi vẫn im lặng, anh ta tiếp, “Có thể phiền cô bớt chút thời gian để chúng ta thong thả trao đổi không?” Cánh cửa trước sảnh ra vào vẫn đang mở. Tôi đề nghị họ đợi ở quán cà phê gần nhà, nghe vậy hai vị cảnh sát khẽ gật đầu rồi rời đi. Nhưng đến khi họ đi khuất, tôi vẫn đứng ở cái sảnh ấy, lơ đễnh nhìn ra bên ngoài, mãi sau mới thở dài, đóng cửa, đi về phòng ngủ, thay đồ để ra khỏi nhà. Đứng trước bàn trang điểm để tô chút son mà tôi như ngừng thở. Gương mặt phờ phạc của tôi phản chiếu trong tấm gương. Trông tôi có vẻ mệt mỏi ngay cả với việc biểu lộ cảm xúc. Tôi rời mắt khỏi cái gương, lấy lại nhịp thở, rồi nhìn lại khuôn mặt mình trong gương. Lần này có vẻ khá hơn rồi. Tôi gật gù hài lòng với biểu cảm ấy. Tôi thích anh ấy. Nhưng anh đã chết, tôi buồn là lẽ đương nhiên. Vài phút sau, tôi đã ngồi đối diện hai vị cảnh sát trong quán cà phê mình vẫn thường hay lui tới. Ở đây còn bán cả bánh ngọt nữa. Bánh ở đây tươi, vị ngọt thanh. “Anh ta bị sát hại,” vị cảnh sát nói như tuyên bố. Nhưng tôi không lấy gì làm ngạc nhiên lắm. Vì đó là lời mà tôi đã lường trước. “Anh ấy bị sát hại như nào vậy ạ?” tôi hỏi. “Cực kỳ khủng khiếp,” vị cảnh sát nhăn mặt. “Gáy bị đập mạnh bởi một vật cùn. Thi thể thì bị vứt lại bên cạnh vịnh. Chỏng chơ như rác.” Người yêu tôi đã bị người ta vứt ở đó như một đống rác. Vị cảnh sát ho một tiếng. Tôi ngẩng mặt lên. “Vậy nguyên nhân tử vong là do xuất huyết bên trong não hay là…?” “Không phải.” Anh ta ngắt lời, nhìn lại gương mặt tôi rồi nói tiếp. “Hiện tại chúng tôi chưa thể khẳng định chắc chắn điều gì. Tuy có dấu vết bị đập vào gáy, nhưng chừng nào chưa có kết quả giải phẫu thì tất cả chỉ là phỏng đoán.” “Vậy ạ?” Nghĩa là có khả năng anh ấy bị sát hại bằng một phương thức khác, nhưng sau đó hung thủ còn đập mạnh vào gáy và vứt anh đi ư? Nếu đúng như vậy, thì tại sao hung thủ phải tàn bạo đến mức đó? “Còn chuyện này…” Vị cảnh sát gọi tôi, chắc do thấy tôi lơ đễnh quá. “Hình như cô cũng gần gũi với anh Kawadu Masayuki nhỉ?” Tôi gật đầu. Chẳng có lý do gì để phủ nhận điều đó. “Cô là người yêu của anh ấy à?” “Tôi nghĩ vậy.” Vị cảnh sát hỏi quá trình chúng tôi gặp gỡ. Tôi trả lời thành thật. Tôi cũng sợ sẽ phiền đến Fuyuko nhưng cuối cùng vẫn nhắc đến tên cô. “Lần cuối cùng cô nói chuyện với anh Kawadu là khi nào?” Tôi suy nghĩ giây lát rồi trả lời. “Tối hôm kia. Anh ấy gọi tôi tới.” Chúng tôi dùng bữa ở nhà hàng, sau đó uống rượu ở quán bar. “Hai người đã nói những chuyện gì?” “Chúng tôi nói nhiều chuyện lắm… trong đó…” Tôi cúi mặt, mắt nhìn cái gạt tàn bằng thủy tinh. “Anh ấy có nói rằng mình đang bị ai đó nhắm.” “Bị nhắm sao?” “Vâng.” Tôi kể những điều mình đã nghe từ anh trong buổi tối hôm kia. Đôi mắt vị cảnh sát bỗng sáng lên lấp lánh. “Và anh Kawadu cũng thấy có điều gì khả nghi?” “Tôi không dám khẳng định.” Vì anh cũng không khẳng định chắc chắn điều đó. “Nhưng cô thì không thấy có gì khả nghi à?” Tôi gật đầu. “Vâng.” Sau đó vị cảnh sát hỏi về quan hệ bạn bè và công việc của anh. Tôi hầu như không biết gì. “Tiện đây xin hỏi tối qua cô đã ở đâu vậy ạ?” Câu hỏi cuối cùng của anh ta nhằm mục đích xác nhận chứng cứ ngoại phạm của tôi. Họ không hỏi thời gian cụ thể hẳn là do chưa xác định được thời gian tử vong chính xác. Nên dù tôi có đưa ra thời gian cụ thể thì cũng chẳng giúp ích gì cho chứng cứ ngoại phạm của mình cả. “Hôm qua tôi ở nhà cả ngày,” tôi trả lời. “Tôi làm việc.” “Nếu có ai làm chứng được cho cô thì tốt.” Vị cảnh sát ngước lên nhìn tôi với vẻ kẻ cả. “Tiếc là không có,” tôi lắc đầu. “Việc đó e là không thể. Vì tôi ở nhà một mình, cũng chẳng có ai đến chơi cả.” “Tiếc thật. Cuộc đời đúng là có nhiều chuyện đáng tiếc quá.” Sau đó vị cảnh sát xin lỗi vì đã làm phiền tôi rồi đứng dậy. Đúng như tôi đoán, chiều tối hôm đó Fuyuko tới. Cô thở gấp như thể đã chạy như bay đến nhà tôi vậy. Khi ấy tôi đã mở sẵn văn bản để soạn thảo, dù chưa đánh được chữ nào, và đang uống bia. Trước khi uống bia tôi đã khóc. Khóc mệt nên tôi mới uống bia. “Cậu nghe rồi chứ?” Vừa nhìn thấy tôi, Fuyuko lập tức hỏi. “Cảnh sát tới đây rồi,” tôi đáp. Cô có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng chấp nhận điều hiển nhiên ấy. “Cậu có thấy gì khả nghi không?” “Tớ không, chỉ biết là anh ấy bị người ta nhắm đến thôi.” Đôi mắt Fuyuko tròn xoe, miệng há hốc vì ngạc nhiên, tôi kể cho cô chuyện hôm kia. Cô ấy lắc đầu tiếc nuối y chang vị cảnh sát đó. “Chẳng nhẽ không có cách gì để ngăn chặn sao? Như là báo cảnh sát chẳng hạn.” “Tớ cũng không biết. Nhưng chắc anh ấy có lý do riêng nên mới không làm vậy.” Cô lại lắc đầu. “Vậy nghĩa là cậu không thấy có gì khả nghi à?’ “Không. Thật ra…” tôi ngập ngừng, rồi tiếp tục, “Tớ hầu như chẳng biết gì về anh ấy cả.” “Thế à?” Fuyuko nghe chừng thất vọng lắm. Biểu cảm của cô y hệt vị cảnh sát đến đây hồi trưa. “Từ nãy tới giờ tớ cứ nghĩ về anh ấy mãi,” tôi nói. “Nhưng mà tớ không biết gì cả. Có một đường kẻ được vạch ra giữa tớ và anh ấy, cả hai đều cố để không xâm phạm đường kẻ ấy. Mà vụ án lần này lại xảy ra bên vùng của anh ấy.” Tôi hỏi Fuyuko có muốn uống gì không, cô gật đầu nên tôi vào bếp mang bia ra. Giọng Fuyuko vang lên từ sau lưng tôi. “Trong số những chuyện anh ấy nói, có chuyện nào để lại ấn tượng với cậu không?” “Dạo gần đây bọn tớ không chuyện trò với nhau nhiều.” “Nhưng cũng phải nói chuyện gì chứ. Chẳng lẽ gặp nhau là lên giường ngay à?” “Cũng gần như là vậy đó,” tôi nói, má hơi rúm lại. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Mười Một Chữ của tác giả Higashino Keigo & Phương Phương (dịch).
Đơn Phương
Một tuyệt tác trinh thám viết về những người bạn thân đã cùng trải qua một thời thanh xuân không bao giờ phản bội nhau. Bức tranh khắc họa hiện thực xã hội, ca ngợi tình bạn, đồng thời là một lời dự đoán cho tương lai. Thân thể là con gái, nhưng tâm hồn là con trai. Đau khổ chịu đựng suốt gần ba mươi năm, đến khi có cơ hội sống đúng với bản chất của mình thì Mitsuki lại vô tình dính vào một vụ giết người ngang trái. Đầu thú hay bỏ trốn? Trước khi đưa ra quyết định cuối cùng, Mitsuki muốn gặp lại những người bạn đại học đã cùng cô chia sẻ tuổi thanh xuân nồng nhiệt. Tetsuro cùng vợ mình, đồng thời là bạn thân của Mitsuki, quyết định giúp đỡ cô, nhưng… Phải chăng khoảng thời gian mười năm đã khiến tình bạn của họ, thậm chí cả bản thân họ, thay đổi? Còn hơn cả một tiểu thuyết trinh thám, "Đơn phương" là bức tranh khắc họa hiện thực xã hội, ca ngợi tình bạn, đồng thời là một lời dự đoán cho tương lai. Một lần nữa, tài hoa bậc thầy của Keigo Higashino đã đưa một tác phẩm hay lên tầm tuyệt tác. Keigo Higashino sinh năm 1958 tại Osaka, có thể nói ông là nhà văn trinh thám với nhiều tác phẩm bestseller nhất hiện nay của Nhật Bản. Những tiểu thuyết của Keigo Higashino được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh còn nhiều hơn cả Tom Clancy hay Robert Ladlum, và không thua kém gì Michael Crichton. Đoạn trích tiêu biểu: “Tớ đang bị truy lùng.” Mitsuki thở hắt ra một cái. “Hả?” Tetsuro nói. Anh nghĩ mình nghe nhầm ở chỗ nào đó. “Bị truy lùng?” “Đúng vậy, bị truy lùng. Nói chính xác thì giờ này họ đã bắt đầu truy bắt tớ rồi… có lẽ thế.” Mitsuki gật gù tỏ vẻ chắc chắn. “Cảnh sát ấy, việc họ bắt được tớ chỉ còn là vấn đề thời gian thôi. Sau đó mọi chuyện sẽ kết thúc.” “Cảnh sát á? Hiura, cậu…” Tetsuro cảm thấy hoang mang. “Đã làm gì vậy?” “Cậu thật sự muốn biết?” “Tất nhiên.” “Ừ. Tất nhiên nhỉ?” Mitsuki nhún vai rồi nhìn Tetsuro lần nữa. “Tớ phạm tội sát nhân. Tớ đã giết người.” *** Review Linh Naby: Đơn phương – Làm sao để được sống là chính mình? “Con người ta chỉ có một đời sống”, bởi vậy, ai mà chẳng muốn “phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí”, ai mà chẳng muốn được sống là chính mình, được là chữ “tôi trọn vẹn”. Nhưng “cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, có những con người, sinh ra mà thể xác và tâm hồn đã là sự sắp đặt trái ngang của tạo hóa; có những con người, sinh ra đã mặc định khó lòng sống được là chính mình bởi những định kiến nghiệt ngã của cuộc đời.  Nói đến những kiếp người như vậy ngay từ những năm đầu thế kỷ 21, trong tiểu thuyết Kataomoi – Đơn phương, Higashino Keigo lần nữa chứng minh, tác phẩm của ông, không đơn thuần chỉ là trinh thám. Mà ở đó là những mảnh ghép đời thực muôn màu với những số phận bé mọn của con người, đang lầm lũi, vẫy vùng để tìm thấy ánh sáng, tìm ra con đường sống cho bản thân. Một câu chuyện không hoàn toàn là trinh thám Như nhiều sáng tác khác của Higashino Keigo, Đơn phương không hoàn toàn là một câu chuyện thuần trinh thám, thậm chí chất trinh thám chìm vào rất sâu trong tiến trình diễn biến của cốt truyện để làm nổi bật lên là chất xã hội; là những dòng suy nghĩ, nội tâm, những giằng xé trong trái tim con người.  Nếu định nghĩa “tiểu thuyết trinh thám” là tiểu thuyết phá án, thì Đơn phương đáp ứng đủ yếu tố của một tác phẩm trinh thám chuẩn mực: Có vụ án xảy đến – một người đàn ông, tình nghi là kẻ bám đuôi, đã bị giết chết một cách bí ấn và vứt xác cách xa địa điểm gây án. Tang chứng quan trọng trong vụ án: chiếc xe đã xảy ra xô xát giữa nạn nhân và hung thủ biến mất. Từ những bí ẩn của vụ án, cảnh sát đã vào cuộc điều tra nhằm tìm ra hung thủ, thu hồi vật chứng.  Tuy nhiên, đó lại chỉ là bề nổi là tiền đề, chất xúc tác, là cách Keigo-sensei mào đầu cho hàng loạt những đau thương, bí ẩn, những góc khuất thẳm sâu trong xã hội: Góc khuất của con người mang mặc cảm về giới tính. Trước khi bàn về vấn đề giới tính trong Đơn phương, cần phải nói rằng: Đơn phương được viết vào năm 2001, năm đầu thế kỷ 21. Khi ấy, con người, nhất là những người sống ở một đất nước vẫn còn mang nặng giáo lý đạo Khổng như Nhật Bản chưa thể có cái nhìn toàn diện, đúng đắn nhất về giới tính như người hiện đại ngày nay. Bởi thế, cần nhìn nhận Đơn phương của Higashino Keigo như một trong những tác phẩm tiên phong, đầy giá trị hiện thực và nhân đạo khi ông dám viết, dám nhìn nhận hiện thực dưới nhiều góc độ hết sức khác nhau.  Thật vậy, Kataomoi – Đơn phương là cuốn sách được tạo lên từ hiện thực: một hiện thực đầy tàn khốc và nghiệt ngã với những kiếp người bé mọn, sinh ra mà không được làm chính mình, không được theo đuổi ước mơ của bản thân, không được đối xử như một con người bình thường. Họ đã phải đấu tranh, đã phải vẫy vùng tìm đường sống giữa định kiến của người đời, thậm chí, họ đã phải đánh đổi cả căn cước của bản thân, để được sống thật với tâm hồn thật sự ẩn sâu trong thân xác. Mà một con người, còn gì đau đớn khi ngày ngày sống trong lo âu với những bí ẩn không thể phơi bày khi bản thân họ đã chối bỏ đi danh tính, chối bỏ đi sự tồn tại của chính mình, để sống dưới bóng của một người khác?  Tạo dựng hiện thực ấy trên trang văn, dẫu rằng, kiến thức về giới trong Đơn phương ở nhiều phân đoạn còn giản đơn, thậm chí là có chỗ sai lệch, mang không ít mâu thuẫn do xuất phát từ yếu tố thời gian, bối cảnh tác phẩm ra đời; nhưng Higashino Keigo đã thể hiện rất rõ cái tâm cùng tấm lòng nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Bởi, nếu không thật sự yêu thương và quan tâm đến con người, không có cái nhìn cảm thông tới những số phận phải chịu giằng xé cả về mặt thể xác lẫn tâm hồn, Keigo-sensei sẽ chẳng thể nào tái hiện được lên nhiều mâu thuẫn đến thế ở tình tiết, sự kiện. Và ông cũng chẳng thể nảo, vẽ ra một con đường đầy đau thương mà những người thuộc cộng đồng LGBT có thể sẽ đi để được sống đúng là “tôi trọn vẹn”.  Bên cạnh vấn đề về giới, Đơn phương còn là câu chuyện về những con người lẫn một xã hội rất Nhật, đang cựa mình sau thời kỳ kinh tế bong bóng vào những năm đầu thế kỷ XXI. Mỗi người họ, đều mang trong mình một cuộc khủng hoảng căn cước, một cuộc khủng hoảng về “cái tôi” riêng. Ai cũng phải đấu tranh, trên con đường cũng như lựa chọn ngã rẽ cuộc đời. Vì thế, có thể nói chăng, câu chuyện về nhóm bạn từng gắn bó bên nhau trong câu lạc bộ bóng bầu dục ngày trước không còn là câu chuyện của những cá nhân độc lập trên bờ vực tan vỡ tình bạn. Mà đó còn như là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Nhật Bản với đủ các mảng màu khác biệt trong một bức tranh loang lổ màu sắc, nơi đấy, người ta phải đứng trước nhiều ngã rẽ, nhiều lựa chọn giữa tình cảm con người với trách nhiệm cộng đồng, sự ích kỷ cá nhân với những quan hệ xã hội khác nhau.  Tuy nhiên, bởi khai thác trên nhiều khía cạnh, góc độ, mang cấu trúc lớp lang truyện lồng truyện móc xích, ngoài ra còn là sự song chiếu liên tục giữa quá khứ – hiện tại, giữa kiến thức của thi đâu cùng các vị trí trong bóng bầu dục với đời sống thực mà hơn 500 trang truyện Đơn phương dễ khiến độc giả cảm thấy hụt hơi. Giống như những lúc, Mitsuki cũng phải mệt mỏi với cuộc sống bản thân trên chặng đường dài vô tận để cô tìm được bản chất con người thật của chính mình. “Chỉ sống thôi là chưa đủ, tôi muốn được là tôi trọn vẹn” (Mượn ý từ vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ). Cuộc sống của con người phải là sự hòa hợp của phần hồn và phần xác. Sinh ra là con gái nhưng mang tâm hồn là con trai, sinh ra là con trai nhưng nội tâm lại là một nhi nữ, hoặc sinh ra mang hình hài con gái nhưng lại có cả hai bộ phận sinh dục của nam và nữ… Những con người ấy, bản thân họ không thể tự mình lựa chọn giới tính mà mình sinh ra, cũng không thể lựa chọn được cơ thể sẽ chứa đựng nội tâm họ. Vì thế, khi ý thức được những mâu thuẫn sâu sắc giữa phần hồn và phần xác, họ dằn vặt, tự làm đau bản thân để rồi cuối cùng đã tìm đến những hướng giải quyết tiêu cực nhất. Bởi xã hội khi đó, không thể chấp nhận cho họ được sống là chính mình.  Đi sâu, khai thác, tái hiện lên những gì là giằng xé, mong manh, những gì là lo âu, sợ hãi của mỗi kiếp người đang ngày đêm sống với khao khát được làm chính mình, quả thực Keigo-sensei đã lần nữa thể hiện những gì là hiện sinh, nhân bản, và cũng là nhân quyền nhất. Đó là tiếng nói, đòi quyền bình đẳng, đòi quyền sống cho những con người như Kaori, như Taiteishi, như cô bé Mutsumi hay ông chủ đoàn kịch Saga Seido. Và nếu người đời, cứ mãi giữ định kiến, cứ mãi giữ “thành kiến nặng tựa quả núi lớn” trong lòng, thì sẽ còn lắm những bi kịch cá nhân, bi kịch gia đình xảy ra. Do vậy, hàng loạt nhân vật xuất hiện trong Đơn phương, có người chỉ đóng vai trò thoáng qua, nhưng chẳng ai là nhân vật thừa trong hệ thống nhân vật đồ sộ của cuốn tiểu thuyết hơn 500 trang này. Nhưng Đơn phương, có đơn thuần Higashino Keigo chỉ đề cập tới những người thuộc cộng đồng LGBT đang vật lộn để được sống là chính mình không? Hẳn là không phải. Bởi từng nhân vật xuất hiện trên trang văn của ông, ai chẳng có khao khát được sống là chính mình? Ai chẳng có nỗi niềm riêng để bản thân họ, chẳng thể “sống là tôi trọn vẹn”. Một Mitsuki ở giữa dải Mobius, đau đớn không thể xác định được bản thân là con trai hay con gái, mang tâm hồn của nữ hay nam, đã tự làm khổ bản thân, tự hành hạ cảm xúc cũng như cơ thể hết lần này đến lần khác. Một Tetsuro lỡ dở với ước mơ trở thành cầu thủ bóng bầu dục chuyên nghiệp, rồi cũng lỡ dở với khát vọng trở thành nhà văn, đành chôn ngòi bút nơi trang tin thể thao của một tờ báo. Một Risako đã phải chôn vùi dự định trở thành một phóng viên ảnh vào những ràng buộc của cuộc sống hôn nhân, gia đình. Một Nakao, dịu dàng hơn hết thảy nhưng cũng quyết đoán hơn tất cả khi phải đưa ra quyết định, con đường bản thân phải đi. Một người, xác định rất rõ tình cảm bản thân, yêu ghét hận thù nhưng đến cuối cùng, lại chẳng thể ra đi với trọn vẹn danh tính thật.  Hay một Hayata, dẫu cứng rắn nhưng luôn xiêu lòng, luôn mâu thuẫn trước một bên là nhiệm vụ xã hội với một lên là tình cảm bạn bè, cá nhân. Với những con người như vậy, trừ Mitsuki, thì mâu thuẫn nảy sinh không thật sự bắt nguồn từ vấn đề giới tính, mà bắt nguồn từ việc bản thân mỗi người, vẫn đang vẫy vùng để khẳng định cái tôi cá nhân, khẳng định bản ngã, khẳng định sự tồn tại giữa cuộc đời và giữa những người xung quanh. Họ ý thức được kiếp “sống mòn” họ đang trải qua, nhưng bản thân, lại không thể nào đủ động lực để vượt thoát những xiềng xích trói buộc tư tưởng để sống là chữ “tôi” trọn vẹn. “Nhưng anh vẫn không tài nào mường tượng được khung cảnh trong đó hai người cùng chung sống với nhau. Anh có thể tưởng tượng được hình ảnh hai người dưới một mái nhà, nhưng sống một cách vô hồn không khác gì hai con búp bê trong ngôi nhà đồ chơi.” Chính vì thế, tiêu đề tác phẩm: Kataomoi – Đơn phương, đâu đơn thuần chỉ là ám chỉ tình cảm của người này hướng đến người kia nhưng không được hồi đáp? Đó còn là sự đơn phương trên chặng đường đầy đau thương để được sống là chính mình của những người lưỡng tính và chuyển giới. Là sự đơn phương của những người song tính (bisexual) trên dải mobius tính hướng của bản thân: khi tâm hồn là con trai, khi tâm hồn lại là con gái. Mà không chỉ vậy, đơn phương, đó còn là sự chấp nhận nhưng không buông bỏ của con người với chính ước mơ, với chính cái tôi mà bản thân hướng đến. Đơn phương và câu chuyện của hôm nay Được viết vào năm 2001, vấn đề về giới tính được Higashino Keigo thể hiện trong tác phẩm, trong nhiều phân đoạn còn chưa thực thỏa đáng. Nếu là một độc giả hiện đại, nắm vững khái niệm về giới, thậm chí có thể sẽ thấy Keigo-sensei xây dựng lên một Mitsuki có phần trẻ con, ấu trĩ.  Nhưng, nếu không nhờ các tác phẩm như Đơn phương là phát pháo tiên phong cho việc đòi quyền bình đẳng, đòi nhân quyền, đòi quyền được sống là chính mình; thì sao độc giả hôm nay, có thể có được cái nhìn nhân bản, nhân đạo nhất với những ai thuộc cộng đồng LGBT.  Hơn cả, gần 20 năm đã qua nhưng đây vẫn là cuốn tiểu thuyết của hôm nay, với tất cả những gì là hiện sinh về lẽ sống, về ước mơ, về tình cảm, về trách nhiệm của con người với khát vọng của bản thân, và với những quan hệ xã hội phức tạp xung quanh họ. Mời các bạn đón đọc Đơn Phương của tác giả Higashino Keigo & Yên Châu (dịch).
Cảnh Ngộ
Cùng chia sẻ cảnh ngộ được trại trẻ mồ côi nhận nuôi từ khi vừa lọt lòng mẹ, Takakura Yoko – phu nhân một chính trị gia, và nữ nhà báo Aida Harumi trở thành đôi bạn thân gắn bó với nhau sâu sắc. Bước ngoặt xảy ra khi cuốn sách tranh Ruy băng trên trời xanh mà Yoko vẽ tặng con trai Yuta dựa trên câu chuyện đời của Harumi bất ngờ đoạt giải thưởng lớn tầm cỡ và trở thành sách bán chạy. Một thời gian ngắn sau đó, Yuta mất tích. Lá thư đe dọa gửi về văn phòng Takakura có đoạn: “Nếu muốn thằng bé trở về bình an vô sự, hãy công khai sự thật cho mọi người biết”. “Sự thật” đó rốt cuộc là gì? Và ai là hung thủ đã bắt cóc Yuta? TÁC GIẢ: Minato Kanae Tác giả tiểu thuyết Nhật Bản, sinh năm 1973 tại Hiroshima. Năm 2007, với truyện ngắn Kẻ truyền đạo bà đã giành được giải Tác giả tiểu thuyết trinh thám mới lần thứ 29. Năm 2008 bà viết tác phẩm đầu tay Thú tội với chương đầu chính là truyện ngắn Kẻ truyền đạo, đứng vị trí thứ nhất trong Bảng xếp hạng top 10 truyện trinh thám năm 2008 của tuần báo Bunshun, sau đó giành được giải Booksellers’ Award lần thứ 6. Đến năm 2014, Thú tội lại được tờ Wall Street Journal của Mỹ chọn làm một trong 10 tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất. Năm 2012, truyện ngắn Sao trên mặt biển trong tập truyện Vọng hương của bà đã nhận giải Hiệp hội tác giả truyện trinh thám Nhật Bản lần thứ 65 trong hạng mục truyện ngắn. Năm 2016, tiểu thuyết Utopia của bà nhận giải Yamamoto Shugoro lần thứ 29. Những tác phẩm khác của Minato Kanae đã được Nhã Nam xuất bản: - Thú tội - Chuộc tội - Tất cả vì N - Vòng đu quay đêm *** [SHORT REVIEW] CẢNH NGỘ - KANAE MINATO  Khi vừa đọc xong cuốn sách này ngày hôm qua mình đã phân vân không biết có nên viết review cho cuốn này không vì thực sự nó không để lại nhiều cảm xúc trong mình. Nhưng nghĩ rằng có thể sẽ có ích những bạn chưa mua và đọc cuốn này nên quyết định vẫn đưa review này lên sóng. Mạch truyện khá chậm và những cú twist dễ đoán chính là điểm khiến mình không ấn tượng nhiều về tác phẩm lần này. Với những ai từng đọc các tác phẩm khác của Kanae Minato đều cảm nhận được nét đặc sắc của chuyện dựa vào việc bà đi sâu vào tâm lý của từng nhân vật. Tuy nhiên, với tác phẩm lần này câu chuyện vẫn được kể theo cách đổi vai đan xen nhưng mình lại không thấy tâm lý 2 nhân vật chính được khắc họa rõ. Có lẽ vì đây là một câu chuyện nói về tình người nên cách truyền tải có phần nhẹ nhàng và không quá kịch tích, cao trào.  Về thông điệp của cuốn sách, ngay từ lúc mở đầu một câu hỏi đã được đặt ra “Liệu rằng 2 người thân nhau là do cùng chung cảnh ngộ?”. Với cảm nhận của bản thân, mình nghĩ rằng tác giả muốn truyền tải thông điệp: Việc 2 người gặp và đồng cảm với nhau có thể là do cảnh ngộ nhưng để thấu hiểu và chia sẻ sâu sắc được với nhau thì phải bắt nguồn những giai đoạn cùng trưởng thành, tình cảm chúng ta dành cho nhau đã được vun đắp qua năm tháng.  Tổng kết, “Cảnh ngộ” có lẽ là một tác phẩm chưa thể hiện được những điểm đặc sắc của Kanae Minato. Toàn bộ câu chuyện không tệ nhưng cũng không đọng lại nhiều dấu ấn. Bạn có thể đọc nó như thêm một câu chuyện về tình người nhưng sẽ không phải là lựa chọn lý tưởng cho những ai muốn tìm hiểu về Kanae Minato.   Rating: 2,5/5 (0,5 điểm là cho bìa thiết kế rất đẹp và câu chuyện thiếu nhi Ruy băng trên trời xanh). Thêm một góp ý nữa là mong Nhã Nam sẽ không gắn tag Trinh thám ở bìa cho những câu chuyện không phải vì có thể dễ gây nhầm lẫn cho người đọc. Enjoy reading! *** Review Cảnh ngộ “Chúng mình thân nhau là vì có cảnh ngộ giống nhau phải không?” Cảnh ngộ là cuốn tiểu thuyết trinh thám được viết bởi một nữ nhà văn đình đám của xứ hoa anh đào, Minato Kanae, tác giả của cuốn Thú tội đã quá nổi tiếng và gây sốt một thời gian dài. Tuy nhiên đối với cá nhân mình, công tâm mà nói thì Cảnh ngộ thực sự là cuốn gây thất vọng nhất trong tất cả các cuốn sách từ đầu năm đến giờ mà mình đọc được. Phải chăng do đã đặt quá nhiều kỳ vọng vào Cảnh ngộ trước khi đọc, nên vô hình trung khi tác phẩm này khép lại, nó gây cho mình một cảm giác hụt hẫng không thể nói thành lời. Dưới đây sẽ là bài review chi tiết về Cảnh ngộ, có giải thích và spoil về cốt truyện, đưa ra những nhận định chủ quan của mình, và tại sao mình lại cho rằng đây là một tác phẩm đáng thất vọng. Trước hết sẽ nói về một chút thủ pháp kể, Cảnh ngộ là một câu truyện thuân thủ đúng theo phương thức kể chuyện của cấu trúc ba hồi (mình sẽ nói kỹ hơn ở dưới), trật tự trước sau của các biến cố xảy ra theo trục tuyến tính của thời gian, được dẫn dắt dưới hai giọng kể thay phiên nhau của hai nữ nhân vật chính. Mình thực sự đánh giá cao cách kể này, bởi sự đa chiều đến từ hai góc nhìn, người đọc sẽ dể dàng quan sát một cách bao quát hơn toàn cảnh câu truyện, tránh được sự phiến diện, từ đó suy luận ra thủ phạm cuối cùng rất dể dàng. Ấy vậy mà chính cách kể này lại gây nên một đòn phản tác dụng cực lớn, bởi vì tâm lý của hai nhân vật chính được xây dựng một cách rất nông, thiếu chiều sâu và hời hợt, thành ra mối quan hệ và tương tác giữa họ với các nhân vật khác trong truyện, và mối quan hệ chỉ giữa hai con người họ không khiến mình cảm thấy thuyết phục chút nào. Thêm vào đó, mâu thuẫn trong truyện cũng không đủ mạnh, dẫn đến động cơ của thủ phạm không rõ ràng, các nút thắc được giăng lên một cách chấp vá, việc tháo gỡ nó vẫn chưa được thoả đáng, và lẽ dĩ nhiên, những điều đó tạo nên một tổng thể vô cùng cứng ngắc. Cảnh ngộ được chia làm bốn chương và tuân thủ theo cấu trúc ba hồi như đã đề cặp ở trên, mình sẽ giải thích một chút về phương thức kể này. Như một bài tập làm văn mà chúng ta thường hay viết sẽ có ba phần (mở – thân – kết) thì trong văn chương, đặc biệt là tiểu thuyết, nguyên tắc kết cấu đấy rất thường được áp dụng dưới cái tên là “cấu trúc ba hồi” nhằm tạo ra một cốt truyện mang yếu tố hoàn chỉnh và chặt chẽ về mặt nội dung. Mỗi hồi sẽ có những mục đích khác nhau, cụ thể: Hồi một (mở đầu) sẽ là phần giới thiệu nhân vật, bối cảnh hay là đất để tác giả xây dựng một thế giới giả tưởng riêng cho tác phẩm của mình, rồi vẽ nên một (hay nhiều) biến cố khởi đầu để tạo nên mâu thuẫn/bước ngoặc đầu tiên; Hồi hai (phát triển) thường được chia ra hai phần, phần đầu là một sự kiện lớn nào đó (có thể làm thay đổi cuộc đời nhân vật chính) để dẫn đến kết quả của mâu thuẫn/bước ngoặc mà hồi một để lại. Từ kết quả đấy, nhân vật chính sẽ quyết định số phận và con đường đi của chính bản thân mình. Tại đây thì tính cách các nhân vật cũng dần được thể hiện rõ (phe chính hay phản diện), để rồi kéo đến nửa phần sau là một sự kiện mới hòng đưa mâu thuẫn lên cao trào, khiến nhân vật chính lâm vào thế bế tắc buộc phải thay đổi hay đưa ra quyết định nào đó mang đính chủ chốt. Hồi ba (kết thúc) là vòng xoắn cốt truyện (plot twist) để đẩy kịch tính lên đến đỉnh điểm, rồi cuối cùng là giải quyết các xung động, gỡ bỏ mọi nút thắt được giăng lên từ trước và tạo thành một kết cục mở hay đóng tuỳ thuộc vào tác giả. Ở Cảnh ngộ, ta thấy rõ ràng cấu trúc này nhất nên mình sẽ tóm tắt cốt truyện dựa theo từng hồi. Hồi một (Chương 1: Ruy băng xanh là mẹ), mở đầu bằng thông tin tác phẩm Ruy băng trên trời xanh đoạt giải “Gương mặt mới” của Giải thưởng sách tranh toàn quốc, tác giả là Takakura Yoko, phu nhân của một chính trị gia đang trong giai đoạn tranh cử. Sau đó là màn giới thiệu hai nhân vật chính, Yoko và Harumi, đôi bạn thân gắn bó với nhau sâu sắc do có cùng CẢNH NGỘ. Cả hai đều là những đứa trẻ bị đem gửi vào hai trại mồ côi khác nhau trong cùng một năm từ lúc mới chào đời, không hề biết mặt cha mẹ ruột cũng như là ngày sinh tháng đẻ của mình. Nếu Yoko may mắn được một cặp vợ chồng hiến muộn hiền lành nhận nuôi ngay trong năm đó, được trưởng thành trong vòng tay bao bọc của gia đình có cả cha và mẹ, phải đến khi làm hộ chiếu cô mới phát hiện được sự thật mình là đứa con được nhận nuôi. Ngược lại Harumi thì kém may mắn hơn, đã trải qua mười tám năm trong trại trẻ Asashi, cho đến tận lúc tốt nghiệp cấp ba thì cô mới có cơ hội rời khỏi nơi ấy. Nhưng chốn dung thân mới của Harumi không phải ở một gia đình nào cả, mà chỉ là trong một căn phòng trọ nhỏ bé và tối tăm để tiện cho việc đi học đại học. Harumi trở thành một nhà báo với hy vọng sẽ điều tra ra thân thế của chính bản thân mình, còn Yoko cũng không từ bỏ, cô vẫn giữ vững niềm tin rằng một ngày nào đó sẽ tìm thấy được cha mẹ ruột của mình bằng cách tham gia rất nhiều hoạt động thiện nguyện ở các trại trẻ mồ côi khác nhau. Tiếp sau đó xuất hiện một biến cố khởi đầu, đứa con trai năm tuổi của Yoko, người duy nhất trên đời chảy chung một dòng máu với mình mà cô biết, bị bắt cóc. Hồi hai (Chương 2: Nếu muốn con trai trở về bình an vô sự và Chương 3: Vụ án mạng ở Moninoki), sự kiện dẫn đến bước ngoặc đầu tiên là một tờ fax do thủ phạm gửi đến với nội dung yêu cầu Yoko hãy công khai sự thật cho mọi người biết. Sự thật gì thì thủ phạm không đề cặp đến, chỉ là đưa ra gợi ý rằng “hãy nhớ lại vụ án ở thung lũng Shirakawa”. Như vậy, mục đích chính của hung thủ thật ra là muốn nhắm đến bí mật về xuất thân của Yoko hay là về chuyện nghi ngờ nhận tiền quỹ tranh cử bất chính hồi năm ngoái ở văn phòng Masaki (chồng của Yoko). Phải chăng cảnh ngộ đã tôi dũa Yoko trở nên bình tĩnh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn những người khác, làm cho cô không thể đặt trọn vẹn niềm tin vào bất kỳ ai, kể cả người chồng bao năm chung sống? Ngoại trừ duy nhất một người mà Yoko tin tưởng, kẻ có cùng cảnh ngộ với mình – Harumi. Vì bảo vệ an nguy của đứa con trai, Yoko quyết định không báo cảnh sát và cùng Harumi dấn thân vào con đường tự điều tra. Biến cố mới dẫn đến một bước ngoặc khác để đẩy cốt truyệt lên cao trào là bức thư thứ hai từ hung thủ, một gợi ý mới về sự thật, đó là “vụ án mạng ở Mominoki”. Sau đó Yoko cùng Harumi tra ra được chuyện ai là người đã tố cáo chồng cô năm xưa cũng như là cả thân thế của mình, rằng Yoko là đứa con của một kẻ giết người. Hồi ba (Chương 4: Công khai sự thật), cú plot twist được dựng lên nhưng có vẻ chưa đủ thuyết phục mình lắm. Thực chất người đọc hoàn toàn có thể suy luận ngay ra thủ phạm từ các twist mà tác giả đã ngầm cắm cài từ trước. Các xung đột được giải quyết, một cái kết đóng và có hậu cho tất cả mọi người. Đầu tiên, mình sẽ dành một lời khen cho tác giả Minato Kanae bởi yếu tố mở đầu của câu truyện rất thú vị và gợi sự liên tưởng. Cảnh mở màn cũng chính là biến cố dẫn đến bước ngoặc đầu tiên ở hồi một, cuốn sách tranh của Yoko sáng tác dựa trên một câu chuyện có thật bất ngờ được giải thưởng lớn tầm cỡ và trở thành cuốn sách bán chạy, đưa Yoko từ một kẻ tầm thường không ai biết thành một tác giả nổi tiếng. Chẳng phải đây cũng chính là bối cảnh ngoài đời thực của tác giả Minato Kanae, người đã ngay lập tức thành công và giành được nhiều giải thưởng chỉ bằng một cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Thú tội. Lời khen tiếp theo là dành cho việc lựa chọn đề tài quá thông minh của Minato Kanae, cô đã dũng cảm bốc trần nhiều thực trạng nóng trong xã hội Nhật Bản. Có ba yếu tố phản ánh hiện thực xã hội mà Minato Kanae đã khéo léo lồng ghép vào: – Thứ nhất là những cái nhìn xấu xí chứa đầy các định kiến đã thâm căn cố đế trong suy nghĩ của rất nhiều người về những đứa trẻ mồ côi. Bởi vì không rõ thân thế của họ nên không thể biết được dòng máu đang chảy trong con người họ được thừa hưởng từ những kẻ như thế nào. Trong Cảnh ngộ, cũng bởi vấn đề này mà dẫn đến cảnh tượng mẹ chồng – nàng dâu. Vì thân thế nên Yoko chưa bao giờ nhận được sự công nhận đến từ mẹ chồng, cô luôn nhẫn nhịn và chịu đựng mọi sự hành hạ về tin thần thông qua những lời nói mang tính ám chỉ cùng cách đối xử đầy tình yêu thương dành cho Aki (cô gái vốn là đứa con dâu theo kế hoạch của bà) thay vì là một cô con dâu chính thống như mình. Chuyện đã chung sống với nhau bốn năm nhưng chưa có con cũng khiến cho sự bất hoà cùng ánh nhìn đầy kinh thường của mọi người đối với Yoko được đẩy lên cao. “Hay là cô đã từng nạo phá thai? Hay gen di truyền có vấn đề? Tôi nghe nói những người cơ thể không bị sao nhưng dòng giống gia đình lại khó có con, nhưng với trường hợp của cô thậm chí còn không thể tìm hiểu được. Đổi lại, nếu là con bé Aki, nó có những ba người anh trai, không biết chừng có thể sinh cho Masaki một cậu quý tử nối dõi tông đường…” Một cái xã hội hào nhoáng bên ngoài nhưng lại rỗng ruột ở bên trong, nơi mà khi đi phỏng vấn tìm việc làm, cho dù Harumi có giỏi đến như thế nào thì những câu hỏi về gia đình như “Bố cô làm nghề gì? Mẹ cô làm nghề gì? Cô có anh chị em không? Anh chị của cô đang làm gì?” vẫn luôn là khắc nghiệt và không thể trả lời được. Lúc đó, Harumi đem chuyện của mình lớn lên ở trại trẻ mồ côi nói ra, cô bảo rằng cô đã được rất nhiều người giúp đỡ, cả những người hiện diện trước mắt lẫn những người chưa từng gặp mặt nâng đỡ nên mới có cô của bây giờ, vậy nên cả xã hội này đều là cha mẹ, là gia đình của cô. Khi ấy người phỏng vấn liền bày tỏ thái độ rất thương cảm, nhưng những ngày sau tuyệt nhiên chẳng có kết quả gì… Chưa dừng lại ở đó, góc nhìn của những bậc phụ huynh mới càng cay đắng làm sao. Theo số liệu mà mình tìm hiểu được trên internet thì “Hiện tại ở Nhật có đến 90% trẻ em sống trong những cơ sở phúc lợi, trong khi chỉ có 10% sống cùng cha mẹ nuôi tạm thời”, chính bởi vì cái lối suy nghĩ cổ hủ rằng bản tính của một đứa trẻ sẽ do dòng máu được truyền từ cha mẹ ruột không rõ lai lịch quyết định, nên họ liền áp đặt ngay sự tiêu cực lên các đứa trẻ tội nghiệp ấy. Đến cả những tầng lớp tri thức, tiến bộ cũng không ngoại lệ, như nhân vật Yoshii trong tác phẩm này, là một Phó giáo sư Kinh tế – Chính trị nhưng khi hay tin vợ mình có ý muốn nhận con nuôi, anh liền buông lời bình luận cay nghiệt: “ […] Nếu nhận con cái họ hàng làm con nuôi đã đành một nhẽ, đằng này lại đi nuôi một đứa trẻ không biết từ đâu ra, sao có thể làm một việc phát ớn như thế được nhỉ.” Nếu xã hội còn tồn tại những ý nghĩ tiêu cực như thế thì liệu có còn con đường nào dành cho những đứa trẻ tội nghiệp đã thua một cách triệt để trên đường đua của số phận ngay từ lúc chào đời như Yoko và Harumi? – Tiếp theo đó là tư tưởng môn đăng hộ đối, vợ chồng về căn bản phải có cùng hệ quy chiếu thì mới hoà hợp được lâu bền. Aki là người phụ nữ được ấn định sẽ là vợ của Masaki từ trước nên mẹ của Aki luôn ép buộc cô phải học những thứ như nội trợ, quán xuyến gia đình… những chuyện mà Aki rất ghét. Masaki và Aki vốn dĩ chẳng hề có tình cảm với nhau nhưng vì gia đình hai bên mà bắt họ phải trở nên thân cận. Cho đến khi Masaki gặp được Yoko, xuất phát từ tình yêu chân chính mà muốn cưới cô, những tưởng chiến thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng với gia đình hai bên và trở thành vợ chồng rồi thì hạnh phúc sẽ xuất hiện, ngờ đâu lại dẫn đến một nỗi phiền luỵ khác, đó là mối quan hệ giữa mẹ chồng – nàng dâu như mình đã có đề cặp ở trên. – Cuối cùng là một tư tưởng tiêu cực đã quá quen thuộc trong một số đầu sách trinh thám, tuy cũ nhưng nay được Minato Kanae khéo léo thổi vào một cách mới mẻ hơn: “con cái cũng phải gánh chịu tội lỗi của cha mẹ?” Với mình, tội lỗi mà cha mẹ gây ra chẳng liên quan gì đến con cái, và xét theo một khía cạnh nào đó thì con cái cũng chính là nạn nhân bị thiệt thòi nhất hay sao? Động cơ cấu thành cốt truyện của Cảnh ngộ rất sâu sắc là thế nhưng với mình thì đây vẫn là cuốn sách gây thất vọng. Tâm lý của tất cả các nhân vật được xây dựng vô cùng hời hợt, thật ra Cảnh ngộ sẽ rất hay nếu tác giả chịu đào sâu hơn vào tuyến nhân vật phụ, để họ có thể phát huy được hết giá trị của mình vào tác phẩm thay vì chỉ xoay quanh hai nhân vật chính. Cụ thể như nhân vật Yoshii được giới thiệu ở hồi một, mình thực sự nghĩ nhân vật này chắc chắn sẽ làm nên chuyện nhưng càng về sau thì càng bay màu, hầu như chẳng được xuất hiện ở hai hồi sau, ngoại trừ có mặt trong một câu nhắc chừng đến Yoko “gần đây hình như có một Phó giáo sư kinh tế nào đó đang đứng ra tranh cử”, thế là hết. Bên cạnh đó, tình bạn giữa Masaki và Iwasaki dù được đề cặp là rất sâu sắc, tựa như một phiên bản ngược giới với tình bạn của Yoko và Harumi nhưng lại không miêu tả rõ động cơ hình thành, khiến cho nguồn gốc của tình bạn ấy trở nên mơ mồ và kém thuyết phục. Tóm lại, Cảnh ngộ đối với cá nhân mình là một cuốn sách với điểm xuất phát ý tưởng tuyệt vời nhưng lại làm không tới, càng về sau càng đuối, khép lại bằng một cái kết đóng vô cùng nhạt nhoà, không bật lên giá trị nhân văn, vì vậy nó khiến mình cực kỳ hụt hẫng và thất vọng. – Kim Hân (IG: hanquilrish) Mời bạn đón đọc Cảnh Ngộ của tác giả Minato Kanae & Mai Khanh (dịch).
Con Quỷ Áo Xanh
Câu chuyện Con Quỷ Áo Xanh xảy ra tại thành phố Los Angeles, năm 1948. Người cựu chiến binh da đen Easy Rawlin, vừa bị sa thải khỏi xưởng sản xuất của một hãng quân sự. Easy đang ngồi uống rượu tại một quán bar do người bạn làm chủ, gã bồn chồn lo lắng không biết có trả được món tiền vay thế chấp, chợt một lão người da trắng bước vô quán, qua vài câu chuyện lão đề nghị chi món tiền khá lớn nếu Easy tìm ra được tung tích Daphne Monet, một nàng con gái xinh đẹp tóc vàng thường hãy lui tới mấy quán bar nhạc Jazz của người da đen... Bộ sách về Easy Rawlins gồm có:  Con Quỷ Áo Xanh Bướm Trắng Nàng Betty Đen ... *** Walter Mosley là nhà văn Mỹ da đen, tác giả nhiều tập truyện trinh thám huyền ảo. Ông là một tác giả được tổng thống Bill Clinton ưa chuộng nhất với lối viết trang nhã, lôi cuốn người đọc. Nhân vật chính trong những tập truyện trinh thám của ông là nhà thám tử Easy Rawlins. Ông đã từng được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn trinh thám Mỹ, thành viên Ban giám khảo giải sách hàng năm, sáng lập viên Hội sách Trung tâm văn bút Mỹ. Hiện ông là nhà văn trinh thám hàng đầu ở Mỹ, tác phẩm của ông được báo New York Times xếp hạng bestseller. Liền sau đó các tác phẩm nổi tiếng ra đời: Cái chết đỏ; Nàng Betty đen; Bướm trắng; Thủ lĩnh Jones v.v... *** Tôi ngạc nhiên nhìn thấy lão da trắng bước vô quán bar của Joppy. Cái chuyện lão là người da trắng không có gì đáng nói nhưng đằng này lão mặc một bộ vét vải lanh trắng ngà, bên trong là một chiếc áo sơ mi cùng thứ vải, đầu đội mũ rơm kiểu Panama, đi đôi giầy da màu be, mang bít tất hàng siu trắng. Nhìn nước da lão trơn nhẵn tái nhợt lốm đốm nét tàn nhang. Vành mũ rơm sút rời ra mấy cọng. Lão đang đứng ngoài thềm cửa, thân hình to con, đôi mắt nhợt nhạt đảo nhìn quanh một vòng bên trong gian phòng, tôi chưa từng thấy ai có mẫu mặt như lão. Chợt lão nhìn về phía tôi, một cảm giác rùng mình chạy khắp bên trong cơ thể, rồi nó vút tan biến nhanh bởi tôi đã quen chung sống với bọn da trắng từ dạo năm 1948 tới nay. Tôi đã từng chung sống với mấy ông bà da trắng suốt năm năm trời từ Châu Phi qua nước Ý, đi khắp nước Pháp trở về lại quê cha đất tổ. Tôi đã từng ăn ngủ chung với họ và tay tôi đã từng bắn chết mấy mạng còn non trẻ có cặp mắt xanh, bọn chúng nó cùng biết sợ chết như ai. Lão da trắng nhếch mép cười nhìn tôi, lão bước tới bên quầy bar, Joppy đang mắc tay lau chùi trên mặt quầy được lát bằng đá hoa. Lão chào hỏi rồi chìa tay ra bắt như thế họ là những người bạn cũ lâu ngày gặp lại nhau. Lại thêm một ngạc nhiên nữa là khi nhìn thấy lão, Joppy có vẻ lúng túng. Trước đây Joppy là tay võ sĩ quyển anh hạng nặng từng đấm đá ngoài đường phó, trên võ dài. Một thời oanh liệt như thế, vậy mà giờ đây gã lặng lẽ cúi đầu chào mỉm cười trước một lão da trắng với thái độ của kẻ biết thất cơ lỡ vận. Tôi quăng một đô la trên quầy định bỏ đi, vừa dặm chân bước xuống, Joppy khều tay chỉ về chỗ hai người đang nói chuyện: - Ồ, Easy lại đây. Tớ định giới thiệu cậu với ông khách này. - Tôi chạm phải ngay cặp mắt nhợt nhạt của lão. - Ồ, này Easy, đây là bạn của tôi, ông Albright. - Cứ gọi tôi là DeWitt được rồi, Easy! - lão cất tiếng. Cái bắt tay thật chặt nhưng trơn trợt y như là con rắn cuộn mình trên tay tôi. - Chào ông bạn. - Tôi mở lời. - Phải đấy, Easy - Joppy nói theo, đầu cúi xuống miệng cười - Ông Albright đây lâu ngày mới gặp lại. Cậu biết không đây là ông bạn cố tri từ lúc còn ở Los Angeles. Và bọn ta đang nhắc lại chuyện ngày xưa. - Chớ sao, - Albright nhếch mép cười. - Ta nhớ đâu chừng năm 1935 lúc quen biết Jop. Tính đến nay thì sao nhỉ? Đã mười ba năm rồi còn gì. Tính ra là trước thời kỳ chiến tranh, trước cái ngày từng đoàn nông dân và người chị dâu của hắn nối đuôi nhau qua Los Angeles làm ăn. Nghe kể Joppy cười khà! Tôi thủng thỉnh cười theo. Tôi chưa thể hình dung ra Joppy có quan hệ làm ăn gì với lão, ngay lúc này tôi cũng chưa thể đoán ra lão định hợp tác với tôi ra sao. - Này Easy, quê anh ở đâu? - Albright hỏi. - Ở Houston. - Houston à, thảo nào! Đó là một thành phố đẹp. Mấy lúc có việc ta mới ghé qua đó. - Lão ngồi đó cười vô tư. Lão từng đi khắp đây đó. - Anh làm ăn gì ở đây? Nhìn gần hơn cặp mắt lão như màu trứng chim cổ đỏ, mờ đục lờ đờ. - Hắn mới làm cho hãng Champion Aircraft được hai bữa. - Joppy nói xen vô - Hắn bị đuổi việc. Lão Albright trề môi ra tỏ vẻ tức giận. - Thật là một điều không may. Mấy công ty bề thế đó chẳng thêm ngó ngàng tới anh đâu. Tiền quý không cân đối bọn chúng cho nghỉ việc hết mười công nhân có gánh nặng gia đình. Anh có gia đình chưa, Easy? - Nghe giọng lão nói rên rên như dân nhà giàu miền Nam. - Chưa, tôi chỉ sống một mình, - Tôi đáp. - Bọn chúng chẳng thêm đếm xỉa đến chuyện đó. Bọn chúng không quan tâm chuyện đó. Dù cho anh có mười đứa con, còn một đứa sắp đẻ chúng cũng cho anh thôi việc luôn?" - Chứ còn gì nữa! Joppy nói lớn. Giọng gã vang rền rộn ràng như tiếng bước chân của toán lính bước trên đường sỏi đá. - Bọn chúng quản lý mấy công ty cỡ bự không hao tổn một giọt mồ hôi, tay nhấc điện thoại tính xem hôm nay được bao nhiêu tiền. Bọn chúng hoặc được nghe câu trả lời xuôi tai hoặc có ai bị phạt. Lão Albright phá ra cười vỗ vỗ tay Joppy. - Này Joppy rót rượu mới khách đi chứ? Cho tớ một ly Scotch. Easy uống gì? - Như mọi bữa chứ? Joppy hỏi lại. - Chứ còn gì nữa. Joppy quay đi, lão Albright đảo mắt nhìn quanh bên trong gian nhà. Lão ngồi nhìn một hồi, nhích người qua một bên xem có gì khác lạ. Chẳng có gì thay đổi. Quán rượu của Joppy ở trên tầng hai nhà kho của cửa hàng bàn thịt. Khách hàng phần đông là dân da đen bán thịt giờ này mới xế trưa ai này còn lo làm ăn buôn bán. Mùi thịt thối lần toả khắp mọi ngóc ngách bên trong ngôi nhà, lúc này chỉ có lèo tèo mấy khách hàng không phải là dân bán thịt còn ráng chịu ngồi lại quán bar của Joppy. Joppy mang rượu ra, một ly scotch cho lão Albright, còn tôi một ly bourbon bỏ đá. Vừa đặt hai ly rượu ra quầy, gã nói: "Ông Albright đây đang cần một người làm công việc dò tìm, Easy, tờ vừa nói cậu đang tìm việc làm để trả nợ món vay thế chấp. - Gay đấy, - lão Albright lại lắc đầu. - Mấy tay làm ăn lớn chẳng để ý hoặc chăm lo cho công nhân đang tự xoay xở để vượt qua khó khăn. - Ông biết không, Easy rất chịu khó. Hắn vừa nhận giấy tốt nghiệp trung học lớp buổi tối, rồi định xin theo học trường cao đẳng". Joppy tay cầm khăn lau sách mặt quầy lát đá hoa nói tiếp. - Hắn là anh hùng quân đội đấy, ông Albright. Hắn gia nhập đội quân Patton. Linh tình nguyện mà. - Đúng quá chứ, - Albright nói. Vẻ mặt lão vẫn lạnh như tiền - Ta kiếm thêm chiếc ghế đi, Easy! Đằng kia gần cho cửa sổ. * * * Cửa số nhà Joppy bám đầy bụi nhớp nhúa ngồi bên trong không nhìn thấy đường phố 108. Nếu bạn ngồi chỗ chiếc bàn nhỏ sát bên may ra còn được hưởng chút ánh nắng ban ngày. - Anh đang cần tiền trả nợ họ, Easy? Ngân hàng khó chịu hơn mấy công ty. Đúng hạn anh phải lo trả nếu trễ qua bữa sau cảnh sát sẽ đến gõ cửa nhà anh. - Chuyện đó liên can gì đến ông đâu, ông Albright? Tôi ngại nên không muốn nói ra lời khiếm nhã rằng mới vừa gặp ông được vài phút mà ông đã muốn hỏi chuyện làm ăn của tôi ra sao. - Phải đây, tôi nghe Joppy kể anh đang cần việc làm nếu không sẽ bị xiết nhà. - Bởi vậy nên ông muốn xen vô chuyện của tôi? - Tôi đang cần tìm một người tinh mắt thính tai, biết nghe ngóng để giúp việc cho tôi, Easy. - Ông định làm việc gì nào? - Tôi hỏi lại. Tôi muốn vứt chạy ra khỏi chỗ này nhưng nghĩ lại ông ta biết rõ chuyện tôi thiếu nợ. Ông ta cũng hiểu biết chuyện làm ăn ở ngân hàng. - Tôi đã từng làm luật sư lúc còn ở Georgia. Nay thì tôi chỉ muốn giúp đỡ bạn bè, vì tình nghĩa bè bạn với nhau. - Ông giúp như thế nào? - Tôi không nói ra được, Easy - Lão nhún vai - Tôi giúp ai bất kỳ việc gì. Cụ thể lúc anh cần nhắn tin cho người thân nhưng lại không thể tự mình làm lấy được phải nhờ đến tôi, tôi giúp ngay. Thấy chưa tôi chỉ giúp khi có yêu cầu, nên ai cùng biết, tôi có khối việc mà lắm. Có lúc phải cần người phụ mới xong. Anh đến vừa đúng lúc. - Vậy là thế nào? - chợt tôi hỏi lại. Ngồi nghe lão nói chuyện chợt tôi nhớ lại một người bạn cũ hồi còn ở Texas - Tên hắn là Raymond Alexander bọn tôi thường gọi hắn là Mouse. Nhắc tới Mouse tôi cảm thấy trong người khó chịu. - Tôi đang cần một người làm công việc dò tìm. - Ông muốn tìm ai... - Này Easy - lão cắt ngang. - Theo chỗ tôi biết, anh là người thông minh, biết đặt câu hỏi, tôi sẽ bàn với anh chuyện đó sau. Ở đây không tiện. - Nói xong lão rút túi lấy ra tấm danh thiếp, tay cầm bút máy. Lão viết hí hoáy mấy chữ xong đưa cho tôi. - Anh nhớ kể lại cho Joppy nghe và nếu muốn thử thời vận tối nay anh ghé qua văn phòng tôi làm việc sau bẩy giờ. Lão nốc cạn ly rượu nhìn về phía tôi, nhếch mép cười đứng ngay dậy. Kéo tay áo lại cho thẳng. Lão đưa tay sửa mũ lệch qua một bên gật đầu chào Joppy đang đứng sau quầy vẫy tay chào cười đáp lại. Lão DeWitt Albright thong thả bước ra khỏi quán bar của Joppy như một khách hàng quen mỗi buổi trưa ghé vô làm một ly. Tấm thiếp in tên chữ nổi. Địa chỉ ghi ngay ở phía dưới văn phòng đặt ở trung tâm thành phố, từ chỗ khu phố Watts đến đó cùng khá xa. * * * Tôi nhìn lại thấy lão DeWitt Albright không phải trả tiền rượu. Còn Joppy cũng không vội vàng hỏi lão có trả tiền hay chưa.   Mời các bạn đón đọc Con Quỷ Áo Xanh của tác giả Walter Mosley.