Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Phim Trường

Một ngày nọ, nữ minh tinh Stella Lamar đã đột ngột tử vong giữa lúc đang quay một bộ phim trinh thám tại ngôi biệt thự ở Tarrytown.  Bác sĩ khám nghiệm cô không phát hiện ra bất cứ triệu chứng khác thường nào cả, nhưng thám tử - nhà khoa học Kennedy nhanh chóng phát hiện ra dấu hiệu cho thấy cô đã bị đầu độc. Kennedy và cộng sự Walter theo quá trình điều tra khám phá những mối quan hệ phức tạp trong làng điện ảnh. Rồi vụ những án mạng và mưu sát tiếp tục xảy ra. Danh sách kẻ tình nghi lên đến 9 người, thậm chí, hung thủ chưa chắc đã hành động một mình… *** Bối cảnh vào cuối những năm 1910 kỷ nguyên phim câm. Cô diễn viên Stellar Lamar đột ngột tử vong khi đang quay một bộ phim trinh thám. Nghi phạm đều trong giới làm phim và có mối quan hệ ân oán phức tạp với nạn nhân. Cảnh sát mời nhà khoa học - thám tử Craig Kennedy hỗ trợ điều tra... Tác giả Arthur B. Reeve cũng là một nhà khoa học, cùng với Richard Austin Freeman là những người đi tiên phong trong dòng trinh thám "thực chứng". Dòng trinh thám này kết hợp suy luận logic với kiến thức khoa học để giải quyết vụ án. Nhịp truyện diễn ra từ tốn, nhưng không ù lì vì người đọc thường được thám tư Kennedy "giảng giải" những kiến thức khoa học và độc học thú vị. Và những xét nghiệm khoa học trong truyện không còn xa lạ với bạn đọc hiện đại nhưng viết cách đây 100 năm thì rất nể kiến thức của tác giả và chúng đã góp phần quan trọng vạch mặt thủ phạm. Ngoài ra truyện còn cung cấp nhiều kiến thức thú vị về công nghệ làm phim thời đó cho những ai quan tâm. Chỉ tiếc một chút khi mình đã kì vọng sẽ có thêm twist xoắn hơn ở kết cũng như động cơ được nói kĩ hơn. Nhưng tổng thể truyện cũng khá đáng đọc, hợp với với ai thích khoa học-suy luận. *** Điểm: 8/10 ‘Vụ Án Phim Trường’ là một trong những cuốn trinh thám mà mình mê vì bối cảnh hơn là vụ án. Truyện được sáng tác vào thời kỳ đầu của điện ảnh, tức là thời kỳ phim câm và đen trắng. Tác giả đã bỏ công nghiên cứu quy trình quay phim, cách xưởng phim hoạt động, các mẹo lên hình sao cho ăn ảnh và các mối quan hệ yêu ghét lẫn lộn trong giới điện ảnh, tất cả những chi tiết ngoài lề này hết sức thú vị. Mỗi lần đến với tác phẩm trinh thám cổ điển, ngoài việc truy cầu một vụ án hay, mình còn mong muốn tìm được thứ văn chương giàu sức truyền cảm hay những câu chuyện bên lề của một thời đại đã qua.   Vụ án trong truyện ở mức ổn. Hung thủ thực sự có đầu óc, biết lên kế hoạch hiệu quả, biết đánh lạc hướng qua lại. Mình thích vụ phóng hỏa nhất vì nó rất kỳ công, đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về hóa học và sự sáng tạo. Phía cảnh sát đối trọng thì có mấy pha xử lý hơi cồng kềnh. Tác giả để hung thủ gây án thêm nhiều lần nhằm đẩy mạch truyện lên cao trào, ok mình đồng ý, nhưng cái lý do ông để cảnh sát không ngăn chặn được thì thật ba chấm. Đúng là hung thủ được tạo điều kiện gây án hết mức. Điểm đột phá của truyện – việc phá án bằng khoa học – hẳn là gây ấn tượng mạnh với độc giả thời ấy hơn độc giả hiện đại, song nhà khoa học hình sự Craig Kennedy vẫn có vài mánh lới khác nên công tác điều tra không đến nỗi lỗi thời tẻ nhạt. Nếu phía cảnh sát hành động hợp lý hơn thì vụ án có thể lên được mức tốt. Về phần nhân vật chính, có lẽ vì đây là cuốn thứ 13 trong series, Craig Kennedy không được miêu tả nhiều lắm, dù mình tưởng tượng trong đầu rằng anh này là một phiên bản ít cực đoan hơn của Sherlock Holmes. Anh cộng sự Walter Jameson thì đóng vai trò người kể chuyện và làm tất cả những việc mà mấy ông cộng sự thám tử khác vẫn hay làm: quan sát việc điều tra, trầm trồ thán phục, chạy loăng quăng để tỏ ra mình có ích, đưa ra vài giả thuyết nào đó rồi khăng khăng cho là mình đúng,… Lâu lâu mình muốn được đọc một người cộng sự có ích hơn hay bớt phiền phức hơn chút đỉnh. Phải nói là mình hết sức hài lòng với trải nghiệm đọc này và sẵn sàng tìm đọc thêm vài cuốn trong series Craig Kennedy. Nhân tiện, thi thoảng mình mới thấy Cổ Nguyệt làm được cái bìa đẹp và đúng chủ đề như cuốn này. Phan Quỳnh Lê *** Ngôi sao nổi tiếng với sự nghiệp diễn xuất đang lên như diều gặp gió Stella Lamar gục xuống rồi lăn ra chết một cách quằn quại trong khi đang đóng những thước phim tiếp theo của bộ phim “Nỗi kinh hoàng màu đen”, không một dấu hiệu khác thường nào được bác sĩ tìm thấy trong quá trình khám nghiệm cho cô. Cái chết của cô được coi là kì quái cho tới khi giáo sư Kennedy, một thám tử tư kiêm nhà nghiên cứu khoa học, cùng cộng sự của anh, phóng viên Walter Jameson của Thời báo Star được mời đến, và vết xước nhỏ xíu tới mức khó có thể nhận ra được Kennedy tìm thấy, nó được cho là nguyên nhân gây ra cái chết của nữ diễn viên lộng lẫy với vẻ đẹp ngọt ngào những năm 20. Số nghi phạm lên tới 9 và tất cả họ đều thuộc hoặc liên quan tới giới diễn xuất bao gồm đủ mọi công việc từ diễn viên, biên kịch, nhà quảng bá cho tới nhà đầu tư, những kẻ có thể khoác lên mặt mình những tấm mặt nạ hoàn hảo nếu họ thích. Bên cạnh đó, mọi chuyện trở nên khó khăn hơn với những chứng cớ ít ỏi, mong manh, những lời khai mập mờ và đầy sự nghi kị của người trong cuộc cùng những mánh khóe kín đáo, thủ pháp gọn gàng và thái độ bình tĩnh tới đáng sợ của hung thủ khi gây án. Liệu việc ứng dụng khoa học vào điều tra vụ án có thể giúp Kennedy và Walter vạch trần hung thủ? Vụ Án Phim Trường không có nhiều twist, hung thủ khá dễ đoán. Nhưng cách tác giả xây dựng bối cảnh, lồng ghép những chi tiết về phim ảnh và khoa học lại khéo léo một cách đáng ngạc nhiên và không có sự liệt kê, phô bày như thể đang chứng minh học thức. Qua những trang sách của Vụ Án Phim Trường, vẻ lộng lẫy của những phim trường đen trắng với những bộ phim năm cuộn thời Chaplin, sự mĩ miều hoa lệ tới mức hào nhoáng của màn bạc với những chàng và nàng diễn viên, những cuộc viếng thăm, những mánh khóe con buôn của các nhà làm phim khi tranh thủ sự tài trợ, thậm chí là những ghen tuông, nghi kị lừa lọc và cạnh tranh phía sau màn ảnh, tất cả làm nên một bức tranh đầy đủ về thế giới điện ảnh những năm 20. Chúng không hề thừa thãi mà ngược lại còn làm cho câu chuyện có nét quyến rũ xa hoa, tôn lên một màu sắc, một không khí nhẹ nhàng tản mát rất phù hợp với tấm thảm kịch – nơi mà những con người tắm mình trong ánh sáng vàng son ấy của sự nổi tiếng, tưởng như nắm tất cả danh vọng trong tay, vậy mà giây phút ra đi không một ai thương tiếc họ, tất cả chỉ chạy theo lợi nhuận, theo khát khao nổi tiếng, dù có là máu lạnh, là vô tình. Bên cạnh đó, không thể kể tới thủ pháp phá án riêng biệt của Kennedy. Khi đọc Vụ Án Phim Trưởng, người ta dễ nhận thấy của Sherlock Holmes nơi Kennedy Craig, và trong dáng vẻ vội vã hấp tấp của Walter, ta nhìn thấy một bác sĩ Watson cũng bộp chộp không kém. Thế nhưng Arthur B. Reeve đã thành công tách Kennedy thành một hình tượng riêng biệt, không chỉ dựa vào những phán đoán đơn thuần, Kennedy bắt đầu đi sâu vào sử dụng biện pháp khoa học để chứng minh một chứng cứ, hay giúp đỡ quá trình phá án. Và như đã nói ở trên, những kiến thức khoa học tuy khá dày nhưng không gây ngán, khá đồng đều và dễ hiểu. Đây có thể coi là một bước tiến lớn trong xu hướng trinh thám thời kì đó. Nói chung, Vụ Án Phim Trường có tình tiết câu chuyện được xử lí gọn gàng không dàn trải, câu văn đơn giản, chậm rãi, dễ thấm, văn phong ổn định, mượt mà. Tuy vẫn chưa hài lòng với cái kết bỏ ngỏ, xong từng ấy điều cũng đủ khiến độc giả mong chờ tác phẩm tiếp theo về thám tử Kennedy. Ngoài ra, nói về chất lượng sách thì bìa Cổ Nguyệt làm khá đẹp, in ấn cũng rất rõ ràng, chỉ tiếc mực in bị thấm, có thể nhìn thấy cả mặt sau, dàn trang chưa ổn, cỡ chữ hơi to. Điểm: 7/10. *** Vụ án phim trường mở đầu bằng cái chết của nữ diễn viên nổi tiếng Stella Lamar – một cái chết bất ngờ và kì lạ , và rồi từ đó mở ra 1 vụ án bí ẩn , mưu mô , ẩn giấu sau những rối răm của ánh hào quang Hollywood . Ngay từ đầu tác giả B.Reeve đã lôi kéo thành công người đọc chìm vào trong câu chuyện với cái chết của Stella Lamar . Cái chết diễn ra ngay trước mặt của đoàn làm phim – nơi gần như kẻ thủ ác không có khả năng gây án . Nữ diễn viên gục xuống mà không có bất cứ thương tổn nào ngoài 1 vết xuốc nhỏ nơi cánh tay . Điều kì lạ từ thời gian , địa điểm , cách thức cho đến hung khí gây án , đã giúp vụ án trở nên thú vị và cuốn hút người đọc theo chân thám tử Kennedy và người cộng sự Walter lần theo từng manh mối để phá án . Mở đầu bằng 1 án mạng , nhưng tiếp theo tiết tấu của truyện lại ko đc B.Reeve đẩy lên cao ngay lập tức – mà lại đc kìm lại , với 1 tiết tấu chậm , vừa phải của công việc điều tra , thẩm vấn , tưởng như sẽ khô khan và buồn ngủ . Thế nhưng không , công cuộc điều tra chậm rãi này , đã đc tác giả khéo léo sử dụng để xây dựng nên một mối quan hệ chồng chéo và rắc rối giữa các nghi phạm . Ẩn sau những mối quan hệ tưởng chừng như thân quen , lại là những mảng tối của ngành nghệ thuật thứ 7 . Nơi những kẻ thủ ác có thể khoác lên mình bất cứ khuôn mặt nào , từ một nhà quảng bá phim thành đạt nhưng đầy mưu mô , một nhà tư vấn tài chính tưởng chừng giàu có nhưng lại đang sắp phá sản , một nam diễn viên đẹp trai nhưng lại là kẻ ăn chơi ..v..v.. 9 kẻ tình nghi hiện lên với 9 khuôn mặt và các mối quan hệ chồng chéo , đan xen và xoay quanh nạn nhân Stella Lamar . Cặp đôi thám tử Kennedy- Walter có lẽ đc xây dựng trên hình tượng cặp đôi nổi tiếng Holmes- Watson nên có rất nhiều nét tương đồng . Một thám tử tài năng xen chút lập dị , kết hợp vs người cộng sự nhiệt tình năng nổ nhưng đôi chút ngờ nghệch dễ dang gợi cho độc giả hình ảnh cặp đôi nổi tiếng người Anh . Thế nhưng Craig Kennedy cũng sự độc đáo của riêng mình . Vị thám tử tài hoa này đem lại cảm giác đó là sự kết hợp giữa Holmes và Lincol Rhymer . Kennedy áp dụng thành thạo các cơ sở lý luận đầy logic của Holmes , cũng như tin tưởng đầy chắc chắn vào phương pháp nghiên cứu khoa học từ những manh mối thu đc như Rhymer – sự kết hợp tốt cho hình ảnh 1 thám tử tài năng . B.Reeve cũng đã thể hiện được kiến thức cho tác phẩm của mình. Các hung khí trong truyện đều được tìm hiểu tốt và độc đáo , không xuất hiện nhiều trong các tác phẩm trinh thám khác , cho thấy sự đầu tư và tránh lối mòn của tác giả . Ngoiaf ra , truyện cũng thể hiện khá rõ nét quy trình dựng phim vào đầu thế kỉ 20 , cung cấp thêm cho độc giả hình ảnh của Hollywood những năm 20 của thế kỉ trước . Có thể khẳng định đây là 1 tác phẩm hay . Tuy nhiên , đáng tiếc rằng đoạn kết của truyện lại hơi cụt , khi tác giả để vụ án kết thúc hơi nhanh . Cũng như sự lí giải của thám tử về vụ án cho mọi người có chút ngắn , khiến cho 1 vài tình tiết trong truyện chưa được giải thích rõ ràng cho độc giả – tuy không ảnh hưởng đến nội dung nhưng lại đem tới chút tò mò và hụt hẫng . Hy vọng ở những tác phẩm sau của Arthur B.Reeve được xuất bản có thể khắc phục được điểm yếu này . Trần Mạnh Hiệp   *** Stella Lamar, ngôi sao đang lên của ngành điện ảnh những năm 1920, đang trong cảnh quay thước phim trinh thám “Nỗi Kinh Hoàng Màu Đen” thì lăn ra chết đau đớn. Cảnh này không hề có trong kịch bản. Bác sĩ khám nghiệm xác không phát hiện ra bất kỳ điều gì khác thường. Giáo sư Kennedy, một thám tử tư, cùng cộng sự Walter Jameson được mời đến, và chính Kennedy là người phát hiện ra vết xước nhỏ tí trên cánh tay Stella và cho rằng nguyên nhân chết là bị đầu độc. Trong một đoàn làm phim đông đảo của hãng phim Manton Pictures, Kennedy cùng Walter phải tự lần mò qua những khúc quanh, những âm mưu, những lời dối trá của tận 9 nghi phạm vừa là diễn viên, đạo diễn, ông bầu, biên kịch v.v… Những kẻ luôn có khả năng diễn xuất siêu việt. Thêm vào đó họ còn phải hiểu biết cả nghệ thuật làm phim, dựng phim thời kỳ đó, vốn lạc hậu và khác xa so với bây giờ. Khi những cái chết ngày càng nhiều lên liệu Kennedy cùng Walter sẽ phải làm sao để vạch mặt chân tướng hung thủ? Arthur B. Reeve đã dựng lên một bối cảnh tuyệt vời cho vụ án mạng. Bối cảnh điện ảnh những năm 1920 tuy vẫn còn lạc hậu so với bây giờ nhưng vẫn hào nhoáng, đẹp đẽ, lộng lẫy với danh vọng, với vinh quang và những dối trá, âm mưu, ghen tuông, thù hận. Những đoạn tả cảnh diễn xuất, bối cảnh trường quay và nghệ thuật làm phim rất sinh động. Có thể tác giả đã quá tham lam diễn tả những nghệ thuật này nhưng nếu so sánh nó với bối cảnh khám nghiệm bằng khoa học của Kennedy thì sẽ thấy rất thú vị. Hai bối cảnh hỗ trợ nhau, bằng cách nào đó như thể đang đối đầu với nhau. Bối cảnh phòng thí nghiệm của Kennedy thì đơn sơ, mộc mạc và xấu xí hơn nhưng giúp anh tìm ra chân tướng thực sự của hung thủ. Đọc truyện chúng ta dễ dàng thấy sự tương đồng giữa Arthur B. Reeve với Conan Doyle. Trong việc khám nghiệm hiện trường rất tỉ mỉ của Kennedy, trong cái vụng về, bộp chộp của Walter, trong cảnh suy luận vạch mặt hung thủ được đưa về cuối truyện. Truyện có rất nhiều đoạn suy luận sắc bén của Kennedy khi phân tích chất độc, khi bác bỏ những giả thuyết của Walter hay khi khám nghiệm hiện trường. Thêm vào đó nét tính cách của toàn bộ 9 con người kia hiện lên rõ nét. Phần nào vẽ lên môi trường điện ảnh ngày xưa vẫn tồn tại những hỉ nộ ái ố, những cạnh tranh trong nghề nghiệp và cả trong tình yêu của giới làm phim. Tuy là tác phẩm trinh thám cổ điển nhưng văn phong của truyện lại rất mượt mà. Những đoạn Walter phải lòng Enid Faye, diễn viên thay thế Stella Lamar đọc rất vui. Bản dịch rất chuẩn khi dịch các kỹ thuật, công nghệ làm phim và kỹ thuật khoa học. Không biết khi dịch nó dịch giả có phải tra cứu nhiều không. Nói chung truyện đáng đọc! Điểm: 8/10 Nguyen Quang Huy *** Nói về cuốn trinh thám này, cuốn Vụ án phim trường của nhà văn Arthur Benjamin Reeve… Nhà văn lấy bối cảnh những năm 20s của thế kỷ trước. Đề tài nói về những thảm án tại phim trường, cái thời vẫn còn quay bằng từng thước phim ngắn âm bản, rồi rửa, rồi phơi, rồi in,… cái thời theo mình nghĩ là còn sơ khai của ngành điện ảnh. Cái thời mà mình nhớ không nhầm, nó cùng thời với Charlie Chaplin, cái thời phim còn đen trắng, diễn câm, lời thoại được lồng vào phim, các diễn viên cử động thì giật giật như công nông lên dốc vì lý do thời đó chỉ quay được khoảng 24 hình/giây, và trước đây cũng có một chương trình nói về phim ảnh trên kênh VTV3 cũng có tên là 24 hình/giây… Có vẻ mình nói hơi miên man về phim ảnh, cái lĩnh vực mà ông tác giả cũng đánh vào hơi sâu, giải thích có thể nói là hơi quá mức trong cuốn sách này… nhưng cũng cho thấy sự tìm hiểu sâu xa để tác giả có thể đưa người đọc như đứng ngay tại phim trường ấy. Tiếp đó là lời thoại cũng hơi nhiều, hay có vẻ do mình thích đọc kiểu suy luận hơn là thoại nhiều quá! Cách thức giết người cũng tinh vi, xảo quyệt. Cách suy luận, thu thập chứng cứ, cách làm lộ mặt hung thủ cũng khá khoa học, hợp lý trong bối cảnh thời điểm đó. Cái kết không quá khó đoán, nhưng cho người đọc thấy được sự tài tình của tác giả trong việc dẫn dắt câu chuyện và đưa ra sự hợp lý để vạch mặt hung thủ. Nói chung, đây cũng là một cuốn trinh thám đáng đọc của nhà Cổ Nguyệt. Bìa sách đẹp, giấy tốt, nội dung ổn, lại nói về lĩnh vực phim ảnh thời kỳ những năm 20s của thế kỷ trước nên chắc chắn sẽ có nhiều người muốn tìm hiểu. ••••••••• Đánh giá: 8/10 Dương Linh *** Bối cảnh vào cuối những năm 1910 kỷ nguyên phim câm. Cô diễn viên Stellar Lamar đột ngột tử vong khi đang quay một bộ phim trinh thám. Nghi phạm đều trong giới làm phim và có mối quan hệ ân oán phức tạp với nạn nhân. Cảnh sát mời nhà khoa học – thám tử Craig Kennedy hỗ trợ điều tra… Arthur B.Reeve cũng là một nhà khoa học, cùng với Richard Austin Freeman là những tác giả đi tiên phong trong dòng trinh thám “thực chứng”. Dòng trinh thám này kết hợp suy luận logic với kiến thức khoa học để giải quyết vụ án. Nhịp truyện diễn ra từ tốn, nhưng không ù lì vì người đọc thường được thám tư Kennedy “giảng giải” những kiến thức khoa học và độc học thú vị. Và những xét nghiệm khoa học trong truyện tuy không còn xa lạ với độc giả hiện đại nhưng viết cách đây 100 năm thì phải nể kiến thức của tác giả và chúng đã góp phần quan trọng vạch mặt thủ phạm. Ngoài ra truyện còn cung cấp nhiều kiến thức thú vị về công nghệ làm phim thời đó cho những ai quan tâm. Chỉ tiếc một chút khi mình kì vọng sẽ có twist xoắn hơn ở cuối cũng như động cơ được nói kĩ hơn. Nhưng tổng thể truyện cũng khá đáng đọc, hợp với với ai thích khoa học-suy luận. Chấm 7,75/10. Hy vọng sẽ còn được tái ngộ thám tử Kennedy ở cuốn sau với lĩnh vực phân tâm học. Nam Do Mời các bạn mượn đọc sách Vụ Án Phim Trường của tác giả Arthur B. Reeve & Nguyễn Thành Long (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thập Giác Quán - Yukito Ayatsuji
“Phải giết từng đứa, từng đứa một…” Một ngày nọ, có bảy sinh viên thuộc Hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám Đại học K ra thăm hoang đảo Tsunojima. Ở đây có một tòa nhà độc đáo hình thập giác, tác phẩm của một kiến trúc sư đã chết cháy nửa năm về trước. Vốn yêu thích và ham suy luận, họ toan kết hợp việc vui chơi với điều tra khám phá các bí mật ẩn sau vụ chết cháy này, nhưng chẳng ai ngờ chuyến thăm đảo lại mau chóng biến thành một chuỗi án mạng mới, và các sinh viên lần lượt biến thành nạn nhân trong một kế hoạch ám sát tinh vi. Bảy ngày và bảy người… Giác quán giữa Giác đảo… Ai là kẻ sát nhân? Ai là người tiếp theo phải chết? Tại sao? Và quan trọng hơn: Làm cách nào thoát nạn? Chẳng thể tin tưởng một ai, từng nạn nhân đơn độc đối mặt với quỷ dữ, run rẩy vén bức màn ma mị để tìm ra sự thật. Bằng kiến thức thu lượm được từ kho truyện trinh thám đã tích lũy, liệu họ có vạch mặt chỉ tên được kẻ thủ ác và thoát nạn, hay có học mà không có hành, cuối cùng sẽ đi đến kết cục bi thảm là cuối cùng chẳng còn một ai? Thập Giác Quán được đánh giá là có cái kết khiến người đọc sững sờ nhất trong lịch sử tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Cung Quán – 1988; Hình Nhân Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. Thập Giác Quán được đánh giá là có cái kết khiến người đọc sững sờ nhất lịch sử tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. Thập Giác Quán gồm 12 chương (không kể mở đầu và hồi kết), xoay quanh chuyến hành trình một tuần ghé thăm hoang đảo Tsunojima của bảy sinh viên thuộc Hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám Đại học K. Mỗi nhân vật đều có cho mình một biệt hiệu riêng mượn từ tên các nhà văn trinh thám Âu-Mỹ mà họ ngưỡng mộ, theo thứ tự lần lượt là: Yamasaki Yoshifumi – Edgard Poe, Suzuki Tetsuro – John Dickson Carr, Matsuura Junya – Ellery Queen, Iwasaki Yoko – Agatha Christie, Oono Yumi – Emma Orczy,  Higashi Hajime – Gaston Leroux và Morisu Kyoichi – S.S Van Dine. *** Có cùng mô tuýp với Mười người da đen nhỏ của nữ hoàng trinh thám người Anh Agatha Christie về bối cảnh và lối gây án, song Thập Giác Quán đã tạo được chỗ đứng nhất định cho mình khi đã lồng ghép rất hoàn hảo các diễn biến của vụ án cả trên đảo và đất liền. Tình tiết được xây dựng khá lôi cuốn ngay từ những trang đầu tiên, luôn thôi thúc người đọc mau chóng khám phá sự thật, nhưng càng về cuối lại càng không thành công. Tuy được đánh giá là có cái kết ấn tượng, nhưng nếu bạn là người “sành” trinh thám, thì chỉ cần vài chương là đã đoán được hung thủ là ai. Tác giả đã đề cập luận điểm “chủ nhà” khá sớm, và mặc dù diễn biến dần khiên cưỡng và mờ mịt, nhưng dường như cũng không có ý phủ nhận luận điểm này. Động cơ gây án cũng là một điểm trừ nữa cho Thập Giác Quán, khi trong mắt độc giả, lý do trả thù dường như không đủ để gây ra một vụ thảm sát có tính toán và quy mô lớn nhường này. *** Thập Giác Quán vẫn là một cuốn truyện đáng mua đối với những ai đam mê trinh thám nói chung. Còn một khi bạn đã là fan “ruột” của thể loại trinh thám cổ điển, thể loại mà theo lời Ellery nói thì: “Có thể cho tôi là hoài cổ, nhưng tiểu thuyết trinh thám thực chất chỉ cần: một thám tử tài ba, một tòa nhà rộng lớn, những kẻ mờ ám, bi kịch đẫm máu, tội ác không tưởng, và những trò lừa có một không hai của hung thủ.”; sẽ thật may mắn nếu bạn không mua phải cuốn này.
Hồ Sơ Tội Phạm - Diệp Mộc Nhiên
Tâm lý học tội phạm bao hàm một phạm vi rất rộng gồm nhiều chủ đề hấp dẫn. Suốt nhiều thế kỷ qua, con người đã luôn hứng thú với tội ác, và trong hàng trăm năm gần đây, tâm lý học đã phát triển từ một một môn học non nớt thành một một bộ phận trọng yếu trong cuộc sống. Ở một vài nước trên thế giới (như Mỹ, Anh Quốc), tâm lý học nằm trong top 3 môn học phổ biến được nhiều sinh viên chọn học nhất ở trường đại học và cao đẳng. Tâm lý học bây giờ đã được công nhận là có mối liên hệ bậc nhất với nhiều khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt với những tội phạm, tù nhân, cảnh sát, nhân chứng và tòa án. Cuốn sách này được viết cho cộng đồng nói chung, những ai có mong muốn hiểu thấu đáo hơn về tâm lý học tội phạm hơn là những kiến thức từ phương tiện truyền thông phổ biến như báo chí và truyền hình. Trong cuốn sách này, chúng tôi giải thích bằng một cách thân thiện, dễ hiểu đối với độc giả về nền tảng của tâm lý học tội phạm hiện đại. Do đó cuốn sách sẽ phù hợp với những ai có sở thích bắt đầu nghiên cứu về tâm lý học tội phạm. *** Hồ Sơ Tội Phạm 1 Chủ Đề: Triệu Chứng Chung Của Người Bị Biến Thái Nhân Cách Tội Phạm Biến Thái Top 5 Nữ Đồ Tể Khét Tiếng Nhất Trong Lịch Sử Nhân Loại Biến Thái Quá Trình Thiết Lập Hồ Sơ Tội Phạm Lập Hồ Sơ Tội Phạm Dựa Theo Địa Lý Vùng Gây Án (Geographic Profiling) Phần 1 Thái Nhân Cách - Trừng Phạt Chẳng Có Nghĩa Gì Tâm Lý Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt - "Mục Tiêu Danh Vọng" Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 1) Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 2) Những "Bậc Thầy" Của Những Tên Sát Nhân Mô Phỏng Tội Phạm Cũng "Quan Trọng Tiểu Tiết" Cách Những Kẻ Lừa Đảo Ẩn Mình Dưới Con Mắt Người Thường Những Tội Phạm Trông Khác Biệt Với Những Người Không Phải Tội Phạm "Biến Mình" Thành Kẻ Sát Nhân Để Truy Tìm Tội Phạm Hội Chứng C.S.I Tâm Lý Hung Thủ Giết Người Cảnh Sát Phân Tích Tâm Lý Tội Phạm - Lực Lượng Đặc Biệt Của Cảnh Sát Tâm Lý Học Tội Phạm: Tội Ác Phát Sinh Từ Đâu? Cái Chết Của Tên Tội Phạm Và Nghi Án Về Chứng "Loạn Dâm" Gây Ngạt Lệch Lạc Tình Dục: Phô Dâm, Thị Dâm Và Loạn Dục Cảm Xúc Rối Loạn Ám Ảnh Cưỡng Chế Và Rối Loạn Nhân Cách Ám Ảnh Cưỡng Chế (Ocd & Ocpd) Rối Loạn Nhân Cách Hoang Tưởng (Paranoid Personality Disorder) Đại Cương Về Chứng Thái Nhân Cách *** Lời Biên Tập Viên: Đây không phải sản phẩm do mình làm ra mà là những kết tinh trí tuệ của các nhà tâm lý tội phạm học. Là kết quả tìm hiểu và sưu tầm của mình với mục đích học tập và giải trí nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá về phương diện tâm lý cũng như chia sẻ cho mọi người đọc. Trong chuỗi bài sưu tầm có thể có những vụ án mạng kinh hãi,dễ gây ảnh hưởng đến tâm lý sau này. Xin hãy suy xét kĩ trước khi đọc,hãy đọc khi đủ tuổi trưởng thành... Cuối cùng,cảm ơn vì đã ủng hộ. Nếu cảm thấy hay thì vote cho mình 1 phiếu. Cảm ơn!
Việc Máu - Michael Connelly
Terry McCaleb không ở  đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dặn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội  ác ở Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã  đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt  mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ  đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và McCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối  đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lồng ngực. Terry McCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của các tội ác, cũng như bí ẩn trong mối quan hệ tình cảm con người. Michael Connelly ở độ chín của tài năng và phong cách, một cuốn tiểu thuyết trinh thám có nhịp điệu mạnh liên hồi, tàn khốc nhưng không mất đi sự mềm mại, nhân bản, thậm chí là lãng mạn. *** Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. *** McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” ... Mời các bạn đón đọc ​Việc Máu của tác giả Michael Connelly.
Sáu Ngày Của Condor - James Grady
James Grady là nhà văn tiến bộ Mỹ. Ông sinh năm 1949 tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana. Ngày nhỏ sống tại quê nhà. Sau khi tốt nghiệp đại học Montana, J. Grady trở thành nhà báo. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường đại học, ông đã say mê tìm hiểu các môn khoa học xã hội - chính trị và sử học. Tuy rất có năng khiếu về văn chương, nhưng J. Grady vẫn không dám sống bằng nghề cầm bút, vì ông vốn biết chắc mười mươi rằng "phàm đã là nhà văn thì khó lòng được sống một cuộc đời no đủ". Bởi thế, J. Grady xin vào làm trợ lý các vấn đề lập pháp tại Uỷ ban soạn thảo hiến pháp bang Montana. Tiếp đó, suốt nhiều năm liền ông đã làm qua đủ mọi nghề: khi thì công nhân, khi thì chuyên gia bài trừ tệ nạn phạm pháp trong trẻ em, khi thì phóng viên báo chí. Cuộc sống của ông cứ tiếp tục trôi qua như thế cho mãi đến năm 1974, năm J. Grady công bố cuốn truyện đầu tay, làm chấn động dư luận: "Sáu ngày của Condor" 1 (trong những lần tái bản sau này được đổi tên thành "Ba ngày của Condor"). Cuốn tiểu thuyết đã đem lại cho tác giả danh tiếng ấy lập tức được đạo diễn Mỹ có tên tuổi là Sydney Pollack đưa lên màn ảnh và càng làm xôn xao dư luận. Năm 1975, J. Grady cho ra mắt bạn đọc thiên tiểu thuyết thứ hai: "Cái bóng của Thần Ưng". Nhân vật chính ở đây vẫn là anh chàng Ronald Malcolm quen thuộc mà một nhà phê bình đã từng tặng cho danh hiệu là "gã điệp viên đáng mến và hấp dẫn nhất, nhưng đồng thời cũng lại là tên điệp viên khó gặp và phi hiện thức nhất trong lịch sử tồn tại của cơ quan CIA". Ngay cả khi tác phẩm đầu tay đã có tiếng vang rộng khắp, J. Grady vẫn còn nấn ná khá lâu mãi tại quốc hội Mỹ với chức vụ trợ lý của một hạ nghị sĩ. Còn hiện thời, J. Grady đang làm thư ký riêng cho một nhà báo Mỹ lừng danh. Ông chỉ sáng tác truyện trinh thám những khi rỗi việc. Các cốt truyện trong sáng tác của ông thường xây dựng trên chất hiện thực. Những gì được hư cấu hoàn toàn không phải nhằm mục đích "thêm nhưn thêm nhị" mà chỉ là phương tiện để gắn kết các biến cố thực lại với nhau cho bố cục tác phẩm được cân xứng, thật hài hoà. Năm 1980, tác phẩm thứ ba của J. Grady ra đời: "Bắt lấy ngọn gió lành". Mùa xuân năm 1981, lại một tiểu thuyết hấp dẫn nữa của nhà văn, thiên truyện thứ tư ra mắt bạn đọc: "Kẻ trốn chạy ngoài phố". Những biến cố trong "Sáu ngày của Condor" bắt đầu từ việc một nhân viên trong một tiểu ban của CIA (gọi là "Hội Văn Sử") phát hiện ra một vụ gian lận về chứng từ, sổ sách, và muốn làm "sáng tỏ", anh bèn viết một tờ trình ngắn gởi lên cấp trên. Tờ trình rơi vào tay một "ông lớn" ở Tổng hành dinh CIA. Nhân vật này cho thi hành "những biện pháp khẩn cấp nhằm huỷ diệt hết tất cả các "khoản" cùng những hồ sơ lưu trữ có liên quan đến công việc, lẫn những nhân viên của cái tiểu ban có dính đến câu chuyện nêu trong "tờ trình". Thế là ngay đêm hôm đó, nhân viên viết tờ trình bị thủ tiêu tại nhà. Và sáng hôm sau thì toàn bộ người của tiểu ban bị giết một cách thảm khốc, trừ mỗi một mình anh chàng Malcolm, vì sáng hôm đó đi vắng, nên thoát chết. Trở về trụ sở và chứng kiến cảnh giết chóc tàn khốc nọ, Malcolm với biệt danh Thần Ưng (Condor), đã dùng điện thoại báo động. Báo động! Báo động khẩn cấp! Phong toả ngay căn cứ!... Và từ đó bắt đầu cuộc săn lùng, cuộc đấu trí, chung quanh cái trục là Malcolm, "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cả hai phía; phía "chính thống" và phía "buôn lậu ma tuý" đều lùng sục Malcolm, bởi vì anh là người nắm được đầu mối của cái tấn kịch khủng khiếp. Malcolm, cái anh chàng "thư lại" ấy, bỗng chốc phải đối phó với hàng trăm tình huống gay cấn - và tình huống cũng đã buộc anh phải hành động mưu trí, sáng tạo để thoát chết và để khám phá ra bọn thủ phạm vụ án. Vấn đề là trong khi hành động như thế, Malcolm cũng dần dần hiểu ra một điều cơ bản là cả hai phía săn lùng anh cùng có chung một bản chất: "Maronic là đứa giết người thuê. Malcolm bỗng nhớ lại giọng nói của những nhân viên nhà nghề ở đầu đường dây "Báo động", những người cũng y hệt như Maronic vậy. "Không", anh nghĩ bụng, - cuộc săn lùng từ trước đến giờ chỉ nhằm vào mỗi một mình mình. Vấn đề đặt ra chỉ có thế này họ chống lại mình, họ hại mình" (chương Thứ ba (đêm) - Thứ tư (Rạng sáng)). Thông qua toàn bộ câu chuyện, J. Grady cũng phơi bày được một bộ mặt bản chất của xã hội Mỹ: đó là một xã hội với những tội ác kinh điển, thường trực, một xã hội đầy dẫy bọn buôn lậu, bọn găng- xtơ thích máu, mà đối với chúng việc giết người "chỉ là công việc làm ăn, không hơn không kém" và "họ không xúc động mảy may nào về những hậu quả do họ gây nên". Điều đáng chú ý nữa là cái bọn tội phạm ấy lại chính là những nhân vật có cỡ nằm ngay trong nội bộ CIA. Đúng hơn, một số nhân vật có cỡ trong CIA đã móc ngoặc với bọn găng xtơ, làm ăn phi pháp và gây tội ác. Và việc chúng khử cả một tiểu ban của CIA một cách lạnh lùng, tàn bạo… để bịt đầu mối, đã nói lên cái bản chất của những con người trong cái công cụ đáng nguyền rủa ấy của nước Mỹ. Qua cuốn tiểu thuyết, nội tình của CIA, cái mặt trái của tổ chức cồng kềnh này, đã bị phơi trần. Nó có nội gián. Nó mọt ruỗng từ bên trong. Nó kém hiệu lực mặc dù hùng hổ. Đứng trước sự khủng hoảng, nó đối phó lúng túng. Cái gì sẽ xảy ra nếu không có anh chàng Malcolm? Nhân vật "ông già hiền hậu" chỉ là nhân vật tỉnh táo gần như duy nhất, trong trường hợp ấy cũng sẽ chẳng làm nên chuyện gì. Còn Malcolm? Anh là "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cái kết thúc phần nào "có hậu"của cuốn truyện, tuy không hẳn đã phản ảnh chân xác lô- gich của xã hội Mỹ, nhưng cái kết thúc ấy cùng với phần nào cái chất lương thiện trong con người bình thường Malcolm, biểu tượng của khát vọng về lẽ phải và lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ, đã đem lại cho người đọc cảm tình và hy vọng. Đó là một tích cực đáng nói của cuốn truyện này Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng Mời các bạn đón đọc Sáu Ngày Của Condor của tác giả James Grady.