Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đừng Nói Chuyện Với Cô Ấy

Tuyệt vọng, sụp đổ, tự hủy hoại mình, tự vẫn… Điều đáng sợ không phải ở chỗ chúng ta đã làm ra những việc này. Mà ở chỗ chúng ta căn bản không biết tại sao mình lại làm như vậy. Dùng tâm lý để phạm tội, dùng ý nghĩ để giết người. Đó chính là sức mạnh đáng sợ của hành vi “ám thị giết người”. Những người tự kết liễu cuộc đời mình vì sự ám thị của một ai đó… Rốt cuộc đây là một sức mạnh thần kỳ và khiến người ta kinh sợ tới mức nào? Nó gần như đã làm đảo lộn mọi khái niệm về tâm lý học và tâm lý học tội phạm thông thường, hóa ra cao thủ thực sự chỉ cần dùng mấy câu nói, mấy động tác là đã có thể giết người trong vô hình; hóa ra tinh thần chỉ cần đủ mạnh là có thể đưa người khác vào chỗ chết. Thế giới nội tâm của con người rốt cuộc phức tạp tới mức độ nào? E rằng so với vũ trụ mênh mang còn bao la rộng lớn và sâu thẳm khó lường hơn! Đừng nói chuyện với cô ấy được xem là cuốn tiểu thuyết trinh thám tâm lý tội phạm “cân não nhất” trên văn đàn Trung Quốc. Những triết lý về phân tâm học của Sigmund Freud được tác giả vận dụng khá nhuần nhuyễn trong từng câu chữ, do đó, độc giả nhất định sẽ bị cuốn hút vào từng trang sách, sống cùng nhân vật với những cảm xúc hồi hộp, lo lắng và sợ hãi vô cùng ngoạn mục. Có thể nói, Đừng nói chuyện với cô ấy là một cuốn bách khoa toàn thư hữu ích cho người mới “nhập môn” thể loại tiểu thuyết trinh thám tâm lý tội phạm này. Tuy nhiên, tất cả những tình tiết được đưa ra trong truyện chỉ là những ví dụ nho nhỏ hư cấu nhằm giải nghĩa một bộ phận triết lý trong phân tâm học, không mang tính xác thực và chỉ có nhiệm vụ làm tăng thêm độ hấp dẫn cho tác phẩm. Thể theo nguyện vọng của đa số độc giả, Ban Biên tập xin được giữ nguyên các tình tiết và câu từ của tác giả, để bạn đọc có thể phần nào hiểu rõ hơn về các lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud. *** Bữa tiệc tưng bừng của tâm lý học và những điều bí ẩn Thường có độc giả hỏi tôi, tại sao lại viết ra một câu chuyện như Đừng nói chuyện với cô ấy ? Nguyên nhân viết ra câu chuyện này là gì? Tôi hường trả lời: “Tôi thích công việc viết lách, kiên trì nhiều năm, rốt cuộc đã viết ra được một tác phẩm không tệ, đây hẳn có thể tính là một lẽ thường tình. Còn về nguyên nhân... Không có nguyên nhân gì cả, viết ra một câu chuyện mà còn phải có nguyên nhân ư?” Nhưng tỉ mỉ ngẫm lại, đó rõ ràng là một câu trả lời hết sức qua loa, bởi lẽ bất cứ việc gì xảy ra cũng đều có nguyên nhân. Tôi trả lời là không có nguyên nhân có lẽ là vì tôi lười không muốn suy nghĩ quá nhiều về điều này, cũng có thể là tôi đã biết được nguyên nhân, vậy nhưng xuất phát từ một mục đích nào đó mà lại vô thức tiến hành che giấu hoặc là ngụy trang co những tin tức có liên quan. Bất kể ra sao, để có thể nhân thức rõ bản thân hơn, đồng thời cũng là để có thể mang tới cho các bạn độc giả đã đưa ra câu hỏi này một câu xác đáng, tôi quyết định nhìn thẳng vào nội tâm của bản thân, từ đó tìm ra nguyên nhân thực sự khiến tôi sáng tác ra Đừng nói chuyện với cô ấy. Chuyện có lẽ phải bắt đầu nói từ lúc tôi còn nhỏ. Phần lớn các gia đình trên thế gian này đều không thể coi là đầm ấm, còn tôi thì được sinh ra trong một gia đình có thể nói là rất không đầm ấm. Từ khi tôi bắt đầu hiểu chuyện thì cha mẹ đã ôm mộng làm giàu, không ngừng mang tiền đi đầu tư một cách mù quáng, để rồi nợ nần chồng chất, càng chất càng cao. Vì bận làm ăn, họ rất ít khi để tâm đến gia đình, sau khi về nhà thì chỉ toàn cãi nhau là đem tôi ra trút giận, hơn nữa còn thường xuyên nói chuyện về nợ nần mà chẳng chút kiêng dè. Từ nhỏ tôi đã hiểu được rằng cả cha lẫn mẹ đều là người không đáng tin cậy, do đó rất thiếu cảm giác an toàn, tích cách cũng vì vậy mà trở nên u uất. Năm 2001, tôi từng thử tự sát hai lần, phương thức là dùng thuốc ngủ và cứa cổ tay. Đến khi thực sự làm rồi tôi mới phát hiện giết người không phải là một chuyện đơn giản, đặc biệt là khi giết chính bản thân mìn. Muốn chết mà không được, tôi dần dần biết cách kiên trì và nhẫn nại, đồng thời còn học được biện pháp tìm ra hi vọng trong sự tuyệt vọng. Trong trạng thái tâm lý ấy, tôi gặp được một cô gái có cái tên là Cẩn, bạ cùng lớp của tôi. Giữa những năm tháng nụ tình chớm nở, cô gái ấy đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp trong trái tim tôi, trở thành nơi mà tôi thác gửi niềm hy vọng đối với cuộc sống. Nếu không có cô ấy, có lẽ tôi sớm đã sa ngã để rồi cuối cùng đi đến sự hủy diệt. Gặp được cô ấy có thể coi là một điểm nhấn trong sinh mệnh của tôi, đây chính là nguồn gốc của bút danh “Ngộ Cẩn” Sự vô vọng và u uất trong hiện thực đã thúc ép tôi xây nên cho mình một thế giới tinh thần cực kỳ phong phú. Hồi nhỏ tôi rất thích khoa học tự nhiên, coi việc thăm dò nhữn điều bí ẩn trong vũ trị là mục tiêu cả đời mình. Chính quá trình tiếp xúc với ngành khoa học này đã hình thành nên địa vị chủ đạo của tính duy lý trong cách thức tư duy của tôi. Sau khi thử tự sát hai lần mà đều thất bại, tôi bắt đầu suy nghĩ về sự phức tạp của đời người và thế giới. Đương nhiên tất cả đều mơ hồ. Năm 2002, tôi đọc được cuốn Trăm năm cô đơn trong nhà của một người bạn cùng lớp, thế rồi tức thì đắm chìm vào trong những con chữ tràn trề sắc sống của García Márquez cùng thế giới quan khiến người ta phải gật gù tán thưởng ông. Một năm sau đó, tôi như đói như khát đọc liền một mạch hơn mười bộ danh tác văn học của cả Trung Quốc và nước ngoài, đồng thời bắt đầu thử sáng tác. Kể từ thời điểm đó, sáng tác đã trở thàn một điểm nhấn khác trong sinh mệnh của tôi. Trong quá trình không ngừng đọc và sáng tác, tôi bất ngờ phát hiện, ngoài những thiên thể xa xôi và huyền bím trong vũ trụ còn tồn tại rất nhiều bí ẩn khác, chẳng hạn như sự đổi thay và quy luật trong xã hội loài người, chẳng hạn như thế giới tâm lý phức tạp đến khó tả của từng cá thể nhân loại. Cho dù đã nhận thức được điều này, nhưng trong một thời gian khá dài sau đó, tôi vẫn chưa thể tiếp xúc với các tri thức tâm lý học chuyên sâu. Tôi chỉ biết dựa vào sự tò mò và bản năng của mình để bắt đầu quan sát, tiếp xúc, phân tích, cuồi cùng thử khống chế hoạt động tâm lý của bản thân. Về sau tôi mới hiểu ra, đây chính là cái gọi là “phân tích bản ngã” mà Freud đã nó tới. Tôi thích cảm giác phân tích bản ngã này, thế rồi càng ngày càng đào sâu vào nội tâm của bản thân, từ đó thu được rất nhiều kinh nghiệm phân tích tâm lý. Về sau khi tiếp xúc với tri thức về tâm lý học, đặc biệt là tri thức về phân tích tâm lý, tôi gần như là tự học thành tài, bởi lẽ những tri thức đó sớm đã trở thành một bộ phận trong sự trải nghiệm về tri giác của tôi. Năm 2006, lần đầu tiên tôi đọc được cuốn Giải mộng, tuy rằng không hiểu lắm nhưng vẫn rất say mê. Cuốn sách đó đã mở ra cho tôi một cánh cửa rộng lớn về phân tâm học, tôi loạng choạng bước vào, thế rồi phải “bò” đi một cách khó khăn. Sau khi đi sâu nghiên cứu các cuốn sách như Phân tâm học nhập môn , Tôtem và Tabu, tôi bắt đầu thử học “chạy”. Nhưng đối với tôi của thời điểm đó, để có thể nắm vững được môn khoa học này thì cần có thêm một số kinh nghiệm thực tiễn nữa mới được. Những kinh nghiệm này chẳng bao lâu sau khi đã bất ngờ đến với tôi. Mấy năm trước, khủng hoảng nợ nần của cha mẹ tôi rốt cuộc đã bùng nổ. Sau khi nhà tan cửa nát, tôi bắt buộc đối mặt với áp lực nặng nề từ xã hội. Trong những năm tháng đó, tôi đã tận mắt nhìn thấy mặt hiện mộc mạc nhất trong bản tính con người, cũng từng gặp phải những cái ác trần trụi nhất. Sau bao phen rèn luyện sống không bằng chết, tôi đương nhiên đã có được sự hiểu biết và nhận thức sâu sắc hơn về thế giới tâm lý của loài người. bây giờ ngẫm lại, bắt đầu từ khi đó, câu chuyện Đừng nói chuyện với cô ấy có lẽ đã nảy mầm trong lòng tôi rồi. Đương nhiên, nguyên nhân trực tiếp khiến tôi viết ra câu chuyện này là tôi đã xem hai phần của bộ phim truyền hình Mỹ Breaking Bad [7], để rồi cho rằng mình cũng có thể viết ra câu chuyện về một Giáo sư đại học đi giết người. Ban đầu tôi muốn viết về một vị Giáo sư dùng kiến thức vật lý, hóa học để giết người, vì tôi cũng rất có hứng thú với vật lý và hóa học. Nhưng sau phần mở đầu, tôi bỗng vô thức nảy ra một ý tưởng mới. Tôi vẫn còn nhớ rõ tình cảnh khi đó: Sau khi gõ chữ được đôi dòng, tôi đột nhiên sững người, hai tay rời khỏi bàn phím, hít sâu một hơi, sau đó mới lại đặt hai tay trở về. Hai giây sau, tôi xóa toàn bộ những gì đã viết, quyết định bắt đầu lại từ đầu, sau đó viết ra câu chuyện về một Giáo sư đại học lợi dụng những tác động tâm lý để giết chết người khác. Đây chính là nguyên nhân cụ thể khiến tôi viết ra câu chuyện này. Trong tác phẩm, ngoài những chi tiết đan xen và cô vàn điều bí ẩn thì còn có rất nhiều tri thức tuy sâu sắc nhưng dễ hiểu về tâm lý học, trong đó bao gồm cả một số quan điểm độc lập của người viết về hoạt động tâm lý của loài người. Nội dung trong truyện chủ yếu đề cập tới các phương diện như nguyên lý tâm lý học của hành vi ám thị, cơ chế tổn thương của tâm lý, sự luên quan và khả năng gây ảnh thưởng tới nhau của tâm lý và sinh lý, cơ chế tự bảo vệ của tâm lý, ý nghĩa của việc phát triển tâm lý tình dục đối với các sự kiện toàn tâm lý. Nếu đã đọc phần mở đầu của cuốn sách này rồi, tin rằng bạn sẽ không kìm nén được mà đọc một mạch tới phần kết thúc. Ngộ Cẩn Ngày 24 tháng 4 năm 2015 *** [Review] Đừng nói chuyện với cô ấy – Ngộ Cẩn Cuối cùng thì cũng đọc xong truyện này. Để giải tỏa tâm lí và thoát khỏi trạng thái bị nhấn chìm trong một tiểu thuyết trinh thám thì tôi quyết định viết một cái review (có spoil). Thực ra thì tôi cũng không biết bắt đầu từ đâu. Thông thường, tôi hay lải nhải về nội dung, sau đó là về nhân vật. Nhưng có lẽ tôi sẽ bình luận quyển trinh thám này theo một cách khác vậy. Hiện giờ tôi vẫn đang ốm sấp mặt nên mọi thứ trong đầu vẫn không được rõ ràng cho lắm… Trước hết là về cái trò giới thiệu của truyện. Nếu tôi nhớ không nhầm thì truyện do Amunbooks gì đó mua bản quyền, cái phần nêu sơ sơ nội dung cũng như bao truyện khác nên không thể nhận xét hơn thua. Tóm lại, ấn tượng là nội dung khiến người ta tò mò và “thèm”. Nhưng mà cũng khiến một đứa hay vớ phải bom xịt  như tôi băn khoăn. Cho nên là pass! Cái hành trình mượn truyện của tôi khá gian nan. Đương nhiên là cuối cùng thì vẫn lên mạng đọc cho khỏe, nhưng mà vẫn thèm cái cảm giác ôm hai quyển ngồi trong chăn, vừa đọc vừa lau nước mũi. Việc bị ốm cũng không thành vấn đề luôn… Lan man một chút là đọc online hơi “khắm”, tôi đọc trên sstruyen và cái chỗ này gõ sai nhiều, hơi bực nhưng cái gì cũng có giá của nó. Giờ thì vào nhận xét truyện đây. Trước khi tìm được bản full, tôi đã đọc được gần 2 chương trên cái trang wordpress của amun và còn đọc đi đọc lại khoảng 4 lần, sau đó thì thêm 2 lần đọc wattpad nhưng ra quá lâu nên tôi cũng cho nó chìm vào quên lãng luôn. Lúc nhìn bản full còn ngỡ là chúng nó vớ vẩn, nhưng mà có 47 trang trên đấy, chắc chắn không đùa và đúng là không đùa thật. Tôi thành công có truyện để đọc và quả thật cái cảm giác đọc lại hai chường đầu lần thứ 7 thật là thốn… Tóm tắt nội dung: Phóng viên tờ Phổ Pháp, Trương Nhất Tân phụ trách phần chuyên mục của báo đến gặp tên tội phạm Diệp Thu Vi, là phụ nữ nhưng lại giết bao nhiêu mạng người bằng phương pháp ám thị. Đấy, đấy! Chỉ có thế thôi á? Đương nhiên là không, và tôi cũng rất vui vì không chỉ có thế. Giống như hồi lớp 9 say mê đọc “Đề thi đẫm máu”, mỗi ngày đọc một chút, chỉ sợ hết không có cái gì đọc, lần này tôi cũng chủ trương là một ngày sẽ đọc khoảng 2 đến 3 chương. Tôi còn nhớ rõ những nạn nhân của Diệp Thu Vi, đó là Thư Tình, Tạ Bác Văn, Đinh Tuấn Văn, Trần Hy, Vương Vĩ, Triệu Hải Thời, Hà Ngọc Bân… Ừm, còn ai nữa không biết nhỉ? Quá đau đầu nên không thể nhớ được… Nếu ai đó tìm kiếm review cho truyện này và đọc cái bài viết này của tôi đến dòng này thì xin cảm ơn vì bạn đã rất kiên nhẫn. Nhưng mà bản thân tôi không nên spoil truyện nhỉ? Thôi thì kệ. Cái làm tôi ám ảnh chính là plot twist của truyện. Một nhân vật “tôi” chắc chắn không phải tầm thường, hơn nữa qua quá trình trò chuyện cùng Diệp Thu Vi, anh ta bộc lộ ra rất nhiều vấn đề, về tâm lí, về trí tuệ và khả năng phân tích tâm lí… Và rồi thì ra cái danh sách người chết ấy phần lớn là do anh ta gây ra, còn cô Diệp kia chỉ là thông đồng với tên họ Thang để đánh thức tâm lí của “tôi” mà thôi. Tôi từng đọc một quy tắc khi viết trinh thám là đặt độc giả một cách công bằng. Nghĩa là tất cả manh mối, bằng chứng và n thứ khác độc giả có quyền biết, có quyền suy luận để tìm ra kẻ đứng sau. Nhưng mà tôi sợ nhất là mấy quyển trinh thám lách luật bằng cách dùng “tôi”. Rất hay! Tôi không thể nào cáu vì sao thằng nhân vật chính này biết ít thế. Nhưng cái truyện  này từ cái lúc “tôi” phát hiện chính mình là sát thủ tâm lí X, đã giết nhiều người và bị phân li nhân cách thì tôi hết chịu nổi. Well, không thể trách ai được nhỉ, ngay cả Trương Nhất Tân giết bao nhiêu người, nhân cách hỗn loạn một cái mà tội ác và sự hối hận cứ như có như không vậy. Trương Nhất Tân, loạn luân với em gái “nuôi”, tự đổ lỗi cho một nhân cách khác trong anh ta. Rồi sau đó chứng kiến em gái bị làm nhục đến chết, anh ta lại rơi vào cái từa tựa như tiến hóa, nắm bắt tâm lí con người và thực hiện bao vụ giết người. Còn Diệp Thu Vi, cũng “tiến hóa”, cũng sử dụng khả năng của mình để giết người và tìm hiểu bí mật của vụ việc năm xưa. Nhưng không hiểu sao tôi lại đồng cảm với Diệp Thu Vi hơn gã kia. Có lẽ là do cái ánh mắt buồn, cái thở dài và phong cách tự tin kia. Nếu như họ Trương đạo mạo trong cái trạng thái sát thủ X thì Diệp Thu Vi lại khéo léo và sắc sảo, không hề sợ hãi. Suy cho cùng thì vẫn là Diệp Thu Vi cao tay hơn. Và tôi vẫn mong Trương Nhất Tân lẫn Diệp Thu Vi phải chịu sự trừng phạt thích đáng… Không hiểu sao mà đoạn kết Diệp Thu Vi vẫn còn sống sau cái tin tự sát trong bệnh viện và Trương Nhất Tân thì bị mất hết kí ức. Hai người gặp nhau, nhưng tôi chả thích một chút nào. Tình cảm của Trương Nhất Tân đối với cô em gái nuôi Trương Minh Khê đã làm tôi cảm thấy khó chịu, thế mà đoạn kết lại chứng kiến cảnh anh ta gặp lại Diệp Thu Vi trong một thứ cảm giác mơ hồ như vậy. Chả có lẽ người đáng thương, đáng đồng cảm nhất truyện lại là vợ của anh Trương này à? Ok, cuối cùng vẫn phải gửi một lời khen cho truyện. Đó là nó cho tôi rất nhiều kiến thức, đại loại như là mặc cảm Oedipus, chứng OCD, một vài loại hóa chất độc,… Hơn nữa nó làm tôi muốn đọc ngay cuốn “Giải mộng” và “Vẻ đẹp của tiềm thức”… Nhìn chung vẫn là một quyển sách (hai quyển) đáng đọc. P/s: Ngày hôm trước làm test trầm cảm, 15 điểm, rơi vào trầm cảm vừa. Và bản thân tôi giờ vẫn chưa thoát khỏi cái trạng thái này. Nhưng có lẽ đỡ hơn rồi. Như một cách hay ho, đọc mấy quyển sách có những cái liên quan đến tâm lí lại giúp bản thân tự hiểu vấn đề riêng. À thôi, dừng ở đây thôi. Mời các bạn đón đọc Đừng Nói Chuyện Với Cô Ấy của tác giả Ngộ Cẩn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Chó Tru Trong Đêm - Erle Stanley Gardner
Truyện rất tuyệt, một trong những #Mason hay nhất tôi từng đọc. Tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn kết phải nói là: Hảo Hảo - Mỳ tép số 1 VN. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** - Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, - Della Street mở cửa. - Ông Mason đang đợi ngài ạ. Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng. - Ngài là Perry Mason? - Ông ta hỏi. - Ngài là luật sư ạ? - Vâng, - Mason đáp. - Xin mời ngài ngồi. Người đàn ông ngả xuống ghế bành, rút thuốc lá nhét một điếu vào miệng và chìa bao thuốc cho Mason. Trầm ngâm ngó bàn tay run rẩy, Mason lắc đầu từ chối. - Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn. Người đàn ông hấp tấp nhét bao thuốc vào túi. Quẹt diêm, tựa khuỷu tay vào tay vịn của ghế và châm thuốc hút. - Thư kí của tôi báo với tôi rằng. - Mason thong thả nói. - ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc. - Về con chó và di chúc, - người đàn ông lặp lại như tiếng vọng. - Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm! Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy. - Tên ngài là gì? - Artur Cartrait. - Tuổi? - Ba mươi hai. - Địa chỉ thường trú? - 4893, Milpas Draiv. - Có vợ hay độc thân? - Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng? - Vâng, - Mason nói, ngước nhìn khách hàng. - Điều đó không quan trọng đối với di chúc, - ông kia cự lại. - Mặc dù thế vẫn cần. - Nhưng tôi đã nói rồi, điều đó không liên quan gì với di chúc của tôi. - Vợ ngài tên là gì? - Paula Cartrait. - Bà ấy sống với ngài chứ? - Không. - Vậy thì ở đâu? - Tôi không rõ. Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay. - Được rồi, - ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, - trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không? - Không. - Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai? - Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không? Mason im lặng gật đầu. - Chúng ta cứ cho rằng, - Cartrait tiếp tục. - theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y? - Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, - Mason đáp. - Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc? - Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác. - Ngài có ý gì? - Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu. Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ. - Ngài muốn để tài sản lại cho ai? - Mason nhắc lại. - Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889. Mason sửng sốt nhướng lông mày. - Cho bà hàng xóm ư? - Cho bà hàng xóm, - Cartrait khẳng định. - Rất tốt. Nhưng hãy lưu ý, ngài Cartrait, ngài đang nói với luật sư của mình. Ngài không nên có bí mật gì đối với tôi. Xin đừng lo, tất cả những điều nói ra tại đây, sẽ ở lại giữa hai chúng ta mà thôi. - Thì tôi có giấu giếm gì đâu! - Cartrait kêu lên nôn nóng. - Tôi không tin chắc vào điều đó, - Mason nhận xét trầm tĩnh. - Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã. - Tôi nói hết rồi. - Hết là thế nào? - Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli. Perry Mason đặt bút xuống bàn. - Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy. - Con chó tru. Mason gật đầu vẻ khuyến khích. - Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết. - Con chó này sống ở đâu? - Trong ngôi nhà bên cạnh. - Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru? - Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli. - Hiểu rồi, - Mason gật đầu. - Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait. Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành. - Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc. - Tôi nghe đây. - Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli. - Ngài có ý nói gì? - Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp. - Điều đó không có ý nghĩa gì, - Mason chậm rãi đáp, - nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ... - Tôi không quan tâm điều đó, - Cartrait sốt ruột cắt lời ông. - Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không? - Điều đó không nhất thiết. - Thế nếu như, - cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, - vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà? - Tôi đã giải thích với ngài rồi, - Mason nhẫn nại đáp, - điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ? - Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi. - Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không? - Tất nhiên không, - Cartrait cắt ngang. - Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả. - Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó. - Ngài phải làm gì đó với con chó này. - Đề xuất của ngài? - Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù. - Dựa trên cơ sở nào? - Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, - Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc. Mason lắc đầu. - Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và... - Tôi biết, tôi biết, - Cartrait cắt lời ông. - Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi. Mason mỉm cười yếu ớt. - Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư. - Không! - Cartrait kêu lên. - Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, - ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. - Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn. Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn. - Thưa ngài Cartrait, - ông thốt ra dè dặt, - nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu? - Tôi mong được như thế. - Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài. - Tốt, - Cartrait đáp. Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi. - Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt? - Vâng. - Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo? - Ngài chưa biết Fouli, - Artur Cartrait nhắc lại. - Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy. - Con chó giống gì? - Bécgiê cảnh sát to tướng. Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười. - Nếu người đưa đơn kiện đã sơ bộ nhờ đến luật sư, kể hết với ông ta tất cả không che giấu điều gì, và trong tương lai tuân thủ các lời khuyên của luật sư, thì trong khi xem xét tố tụng về sự buộc tội giả trá, điều đó sẽ có lợi cho người kiện. Còn bây giờ, tôi muốn làm để sao cho Clinton Fouli không có nguyên cớ đâm đơn kiện ngài lên toà. Tôi sẽ đưa ngài đến gặp trợ lí ngài biện lí khu, người phụ trách những vấn đề tương tự. Tôi muốn để ngài nhắc lại với ông ấy tất cả những gì liên quan đến con chó. Có thể không nhắc tới bản di chúc. Nếu ông ấy quyết rằng điều ngài nói là đủ để có lệnh bắt giam, thì lệnh sẽ được viết. Nhưng tôi cảnh báo trước, ngài không nên giấu giếm gì cả. Hãy đưa ra trước ông ấy tất cả các cứ liệu, và lúc ấy bất cứ đơn kiện nào của Fouli cũng không làm hại được ngài. Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây? - Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, - Mason đáp. - Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy. - Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu. Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm... Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên. - Bị cắm sừng à? - Cô hỏi. - Tôi không biết, - Mason đáp, - nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta. Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ. Dorcas ở đầu dây. Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói. - Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì. - Ông ta cần gì? - Ông ta muốn đâm đơn kiện. - Về lí do gì? - Về con chó tru. - Về... - Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư. - Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế. - Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này. - Chỉ vì tiếng chó tru ấy à? - Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên. - Điều đó là chính xác, - Dorcas đồng ý. - Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ? - Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi. - Tôi sẽ đợi các anh, - ngừng một chút, Dorcas nói. - Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. - Mason đặt ống nói xuống. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #04: Tiếng Chó Tru Trong Đêm của tác giả Erle Stanley Gardner.
Sợi Chỉ Mỏng Manh - Yakov Naumov & Aleksandr Yakovlev
Thiếu tá KGB Andrey Mironov và các đồng sự khám phá ra kế hoạch gián điệp do một nhóm phản động âm mưu thực hiện vào những năm đầu sau chiến tranh vệ quốc. *** Đã một giờ trôi qua và có lẽ là hơn nữa, thiếu tá An-đrây Mi-rô-nốp miệng vẫn không rời điếu thuốc lá – hết điếu này anh lại châm ngay điếu khác. Mi-rô-nốp đi đi, lại lại từ góc này sang góc kia trong căn phòng làm việc. Anh đếm mười bốn bước đi, quay lại mười bốn bước, rồi lại đi mười bốn bước nữa. “Đi bao nhiêu bước rồi: năm trăm, một ngàn, năm ngàn hay mười ngàn?” – ý nghĩ đó thoáng đến rồi vụt biến đi vì nó có nghĩa lý gì đâu. Mi-rô-nốp dừng lại bên cửa sổ, anh mở rộng hai cánh cửa. Không khí mát mẻ mùa thu ùa vào căn phòng. Những làn khói thuốc lá đang luẩn quẩn quanh bàn, xao động và tan dần. Tỳ tay vào khung cửa, Mi-rô-nốp nhìn ra đường. Trước mắt anh là những khung cảnh quen thuộc: bên phải là đường phố hẹp mang tên Đgiéc-gin-xki ngược về phía trước, đường hơi dốc thoai thoải. Về buổi chiều, đường phố náo nhiệt hẳn lên với những ô tô du lịch, tơ-rô-lây-buýt và xe khách loại lớn. Bên trái, trông rõ một phần quảng trường Đgiéc-gin-xki với cửa hàng bách hóa “Thế giới thiếu nhi” đang tấp nập người ra vào. Từ trên tầng năm của tòa nhà Ủy ban an ninh nhà nước, có thể trông rõ dòng người vô tận trên các vỉa hè, đường rẽ… Mi-rô-nốp trầm ngâm ngắm nhìn cảnh người, xe tấp nập, nhộn nhịp. Nhưng khung cảnh gần gũi và quen thuộc thường ngày ấy hôm nay đối với anh không thể gợi lên được một niềm vui nào như mọi hôm. Anh đang bận tâm suy nghĩ một vấn đề quan trọng. Mi-rô-nốp thở dài, đóng cửa sổ lại và quay về bàn làm việc. Ngồi xuống chiếc ghế mềm, Mi-rô-nốp lại kéo cặp tài liệu và dở tập ” Hồ sơ số…” Bìa tập hồ sơ màu nâu mỏng dính. Trong đó chỉ có mười đến hai mươi trang. Chính những vấn đề trong cặp hồ sơ ít ỏi đó đã làm cho người thiếu tá an ninh mất ăn mất ngủ suốt ba hôm nay. Anh mở cặp giấy và lại một lần nữa, không hiểu là lần thứ mấy rồi, chăm chú đọc hết trang này sang trang khác. Nhưng tất cả đều vô ích, vì không có gì sáng sủa hơn. Càng đọc bao nhiêu anh càng thấy bế tắc bấy nhiêu (và quả là Mi-rô-nốp hầu như đã gần thuộc lòng) anh không làm sao lần ra đầu mối của cuốn chỉ để theo đó có thể tiến hành cuộc điều tra. Còn nhiều điều chưa rõ ràng, chưa được xác minh. Phải tập trung chú ý ai trước? Phải nghiên cứu ai trước? Mi-rô-nốp suy nghĩ. Xa-môi-lốp-xcai-a ư? Điều này chẳng cần phải nói vì chính là đã bắt đầu từ mụ ta, tuy nhiên Mi-rô-nốp cũng tin là Xa-môi-lốp-xcai-a chỉ là một con cờ ngẫu nhiên không đáng được các cơ quan an ninh nhà nước chú ý. Trê-nhi-a-ép chăng? Rất mơ hồ. Quả thật nếu như tin vào lời khai của Xa-môi-lốp-xcai-a (nhưng có nên tin mụ ta không?) thì trường hợp của Trê-nhi-a-ép quả là lạ lùng thật. Tại sao ông ta, một con người sống phong lưu, dư dật lại phải đi bán những quần áo phụ nữ nhập cảng. Nếu quả như vậy thì dù chỉ là một giả thuyết tồi nhất: điều đó có khác gì một kẻ đầu cơ. Bản thân Trê-nhi-a-ép lại là một đảng viên, từng tham gia cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, một trung tá kỹ sư, một người đã được thưởng nhiều huân chương, một nhà xây dựng cỡ lớn. Không thể nào ông ta lại giống một kẻ có thể gây nên những tội lỗi chống Tổ quốc, chống Nhà nước xô-viết. Vậy thì là ai bây giờ? Tác giả của mẩu thư còn sót lại chăng? Cũng có thể lắm. Nhưng, nên bắt đầu với anh ta như thế nào nếu như chưa biết rõ anh ta, hay đúng hơn là cô ta, là ai? Phải tìm tác giả bức thư đó ở đâu? Tìm như thế nào? Nếu như trong tay Mi-rô-nốp đã có được một mối chỉ nào đấy thì nó cũng rất mỏng manh, rất rời rạc… ... Mời các bạn đón đọc Sợi Chỉ Mỏng Manh của tác giả Yakov Naumov & Aleksandr Yakovlev.
Tiền 2: Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Paul Loup Sulitzer
Cậu chàng Frank Cimballi, 19 tuổi, con nhà tỉ phú chỉ biết ăn chơi, bỗng rơi tõm vào một cảnh ngộ bi đát: Bố, mẹ chết, người yêu tự sát, gia tài khổng lồ được thừa kế bị cưỡng đoạt sạch sành sanh. Bị đẩy đến xứ Kenya Châu Phi xa lạ với hai bàn tay trắng - theo đúng nghĩa đen, cậu chàng bắt buộc phải sống, phải làm lại cuộc đời mình. Thế mà chỉ năm năm sau, Cimballi đã trở thành triệu phú, lần luợt đánh bại tất cả những kẻ độc ác đã “gây nên cuộc lừa đảo có tầm cỡ thế kỷ”, kể cả tên trùm tư bản tài chính Martin Yahl. Đánh bại, không phải bằng vũ lực mà bằng chính sức mạnh của đồng tiền, bằng các mánh lới, các thủ đoạn kinh doanh. Và rồi chính Cimballi, đang ngất ngưởng trên đỉnh cao chót vót thắng lợi huy hoàng, lại một lần nữa bị lôi tuột xuống vực cũng bằng những cái “bẫy” nghề nghiệp... Dịch và giới thiệu “Tiền!...” vào lúc này, chúng tôi hy vọng có thể giúp bạn đọc tiếp cận với “thế giới kinh doanh”, với “nghệ thuật làm giàu”, và còn hơn thế nữa, có một cái nhìn đầy đủ, xác thực về thời đại mình đang sống. *** Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Ngày 7 tháng năm. Ngày hôm ấy, sáng hôm ấy tôi ở Amsterdam. Từ London tới, sau đó phải đi ngay Frankfurt, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Có hẹn trong buổi chiều và ngay tối hôm đó đi Paris ở độ ba bốn ngày, rồi từ Paris bay đi California, qua New York để gặp Catherine. Đây không phải chuyến đi đặc biệt. Trong mấy tháng gần đây tôi đã đi mười lăm hai mươi chuyến như thế này rồi. Ngày 7 tháng năm này cũng không phải là một ngày khác thường. Tôi không hề mường tượng đến điều đang đợi mình. Không một chút linh cảm nào. Cuộc gặp gỡ bên Hà Lan chán phè. Một người không nhìn được đã nhận xét: “Anh còn rất trẻ!” Còn tôi vẫn đưa ra câu trả lời quen thuộc: “Xin yên tâm, điều đó không lây sang ông đâu mà lo”. Sau các thủ tục xã giao đó, chúng tôi vào việc. Họ cho biết có chuyện làm ăn muốn bàn với tôi. Nói với tôi chuyện đó, họ đề phòng cẩn thận như những tên trộm cắp. Tuy chuyện của họ thật đơn giản: Họ có tiền (không ít) và muốn có nhiều hơn (tất nhiên), họ muốn bỏ vốn vào một công ty đầu tư tư nhân thật hoàn toàn ẩn danh đặt trụ sở ở Curacao trong quần đảo Antilles thuộc Hà Lan cũ, hoặc ở Panama, hoặc Caiman, hoặc Bahamas, hoặc Liechtenstein, hoặc bất cứ đâu cũng được miễn là giữ được bí mật triệt để. Họ mong đợi công ty sẽ thu được lợi nhuận cao nhờ tài quản lí tinh ranh của Franz Cimballi. Franz Cimballi chính là tôi. Tóm lại, một chuyện làm ăn kinh điển. Tiếp theo là bài vè cổ truyền về thuế má. Tôi ngồi nghe nhưng đầu nghĩ đến việc khác, cuối cùng tôi bảo: “Tôi hiểu ý mấy ông, xong rồi, mọi việc sẽ tốt đẹp”. Tôi chia tay với họ sau độ một tiếng bàn bạc. Lúc ấy vào khoảng mười một giờ mười lăm. Tôi đi dọc bến Singel, những chiếc xuồng kết hoa đầy ắp hàng chở đi chợ, nhẹ nhàng lướt trên sông. Đến tận hôm nay trong mũi tôi vẫn còn phảng phất hương thơm những bó hoa ấy, trước mặt vẫn còn hiển hiện sắc mầu của chúng. Đi qua quảng trường Rembrandt[1], có lẽ thời tiết tốt nên xung quanh tượng đài nhà danh họa mới đông người thế kia. Việc tôi đi bộ ngày hôm ấy chắc hẳn là một điều gì đó. Tôi vẫn thường đi bộ khi bàn luận, khi muốn thuyết phục người đối thoại, tôi ít khi ở yên một chỗ, nhưng đi như thế này ngoài đường giữa một thành phố, chứng tỏ tôi đang băn khoăn về một điều gì đó tôi không nhớ lại được. Đến trưa tôi về khách sạn Amstel. Tay phóng viên Mỹ đã đợi tôi trong đại sảnh. Tôi không nhớ ra anh ta. Anh ta nói: - Anh quên tôi rồi hả? - Đừng nghĩ bậy! Tôi đã nhớ tới anh ngay. Tên anh là gì tôi cũng quên mất rồi: Mac Quelque gì đó. Anh ta cất công từ New York tới chỉ để gặp tôi, rất sung sướng, và phỏng vấn để viết bài cho tạp chí của anh ta đang có ý định dành hẳn một hoặc hai trang nói về tôi. - Tại sao lại nói về tôi? - Vì không có mấy người làm nổi một trăm triệu đôla ở tuổi hai lăm. - Tôi đâu có làm ra một trăm triệu đôla! Một nửa? - Một nửa cũng được. Một nửa chừng đó cũng giật gân lắm rồi, anh Cimballi. Gọi anh là Franz dược chứ? Vả lại anh còn chưa đến hai lăm nữa kia. Trông mới độ mười tám đôi mươi. Bất thình lình tôi nhớ ra tên anh ta: MacQueen. Michael MacQueen. - Nào ta đi, Mike. - Anh không bằng lòng khi nghe nói mới độ mười tám? - Còn đỡ hơn nếu anh bảo tôi trông như ông cụ năm mươi. ... Mời các bạn đón đọc Tiền 3: Sòng Bạc của tác giả Paul Loup Sulitzer.
Kẻ Mạo Danh - Erle Stanley Gardner
Một hộp giầy đựng đầy tiền, một ông chủ mỏ đột nhiên biến mất.... khiến cô thư ký bị ghép vào tội giết người......   *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant]   13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** Sue chờ đợi ngày nghỉ cuối tuần nhưng có điện tín cho biết bà Amelia Corning ở Nam Mỹ dự trù sẽ về tới công ty vào sáng thứ hai, do đó cô phải hoàn tất một số báo cáo và kết toán tài khoản vào phút chót mà Sue chưa kịp hoàn tất đêm thứ Sáu. Vì vậy cô hứa với Endicott Campbell, Giám đốc công ty Mỏ Corning và Đầu tư Smelting, cô sẽ đến sở sáng thứ Bảy và đánh máy tiếp bản báo cáo và soạn đầy đủ hồ sơ trên bàn làm việc của ông, để sẵn sàng các kết toán tài khoản vào sáng thứ Hai. Tình trạng sức khỏe của bà Amelia Corning thật khó khăn vì bị thấp khớp nên phải ngồi trên xe lăn và càng trở ngại hơn nữa là mắt bà càng ngày càng bị giảm thị lực. Ở Nam Mỹ người ta còn đồn rằng mắt bà đã bị mờ hẳn, chỉ còn phân biệt được ban ngày và ban đêm mà thôi, bà nhìn người ta chỉ thấy lờ mờ và không phân biệt được các cử chỉ của họ. Sue Fisher đã làm việc với công ty trên một năm và chỉ được biết bà Amelia Corning qua chữ ký cứng nhắc và khó đọc xuất hiện ở cuối các lá thư ngắn gọn và thường hay cáu giận để chỉ thị các công việc làm ăn. Mười giờ ba mươi, Sue Fisher đang vùi đầu trong công việc, bỗng nghe tiếng chân chạy, sau đó có tiếng gõ cửa và một giọng con nít vang lên. - Cô Sue! Cô Sue! Sue hơi bực mình nhưng rồi dịu mặt lại. Sau đó cô nhíu cặp lông mày tò vẻ khó chịu. Carleton Campbell, cậu bé bảy tuổi con trai của ông giám đốc, cậu yêu thích cô và coi cô như thần tượng và ngược lại cô cũng bị lôi cuốn bởi cậu bé. Nhưng còn Elizabeth Dow, cô bảo mẫu, theo Sue nghĩ thì cô ta càng ngày càng có khuynh hướng đưa đẩy trách nhiệm cũng như các vấn đề dạy dỗ cậu bé sang cho Sue. Sue tắt điện cơ chạy máy đánh chữ, bước ra khỏi phòng thư ký sang bên phòng tiếp khách và mở cửa. Carleton Campbell với cặp mắt sáng rỡ, ôm một hộp đựng giầy định khoe với cô. - Chào cô Sue, chào cô Sue. - Cậu bé nói. Elizabeth Dow còn ở ngoài hành lang đang cố ý chậm rãi đi tới. Sue đưa hai tay ra trước ôm cậu bé nhấc bổng lên và hôn trên má rồi đứng đợi Elizabeth Dow. Cô bảo mẫu vẫn không hề rảo bước và cũng chẳng thèm chào hỏi từ xa mà vẫn bình thản tiến lại gần đến đúng khoảng cách mà cô không cần phải cất cao giọng để chào hỏi : - Chào cô Sue. - Cô bảo mẫu nói. - Chào cô Elizabeth. - Tôi ghé vào đây vì họ nói cô có mặt ở đây sáng nay. - Vâng, tôi có việc phải làm - Sue nói, và ngừng một chút rồi tiếp - Công việc rất quan trọng. Chúng tôi phải tranh thủ đúng thời gian. - À ra vậy - Elizabeth Dow nói với giọng hoàn toàn lãnh đạm không liên quan gì đến vấn đề khẩn cấp đó cả. Elizabeth Dow chỉ quan tâm đến những gì liên quan tới Elizabeth Dow mà thôi. Còn những vấn đề của người khác thì chẳng hề mảy may quan trọng đối với Elizabeth Dow cả. - Sue - Cô ta nói - Cô có thể vui lòng trông giùm Carleton hộ tôi ba mươi phút được không? Tôi có hẹn và không thể đem theo em bé được… và cô thấy đấy, em chỉ theo có một mình cô thôi. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #64: Kẻ Mạo Danh của tác giả Erle Stanley Gardner.