Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thay Lời Vong Linh
Bạn đang đọc truyện Thay Lời Vong Linh của tác giả Tòng 0. Chủ nhân của phòng live stream* thần quái app "Live stream 0 giờ" một đêm bạo hồng. Thông qua phòng live stream, khán giả có thể thấy chủ phòng mang theo nữ quỷ gõ cửa phòng hung thủ, phá giải án treo nhiều năm dễ như trở bàn tay; lại tùy tay đào đất có thể đào ra xương người, đào ra theo thảm án đã phủ bụi từ lâu. ............ Nhưng mà, chỉ có bản thân Thích An mới biết, live stream chỉ là mánh lới tiện lợi cho cô. Chỉ có không ngừng giúp quỷ hồn báo thù cô mới có cơ hội sống sót. Sau đó Thích An phát hiện, vòng cổ bố lưu lại cho cô bỗng nhiên bay ra một vị tướng quân đến từ ngàn năm trước... *** Ngoài tiểu khu Bình An có một cái ngã tư, ngày thường xe chạy qua lại vô cùng náo nhiệt, nhưng hôm nay lại có chuyện ngoài ý muốn. Giữa con đường rộng lớn nằm một thi thể máu chảy đầm đìa. Xe cảnh sát cùng xe gây tai nạn dừng một bên, đông đảo phóng viên vây xung quanh chụp ảnh, ảnh hưởng cực lớn đến giao thông. Thích An cũng đứng trong đám người xem, ngơ ngác nhìn thi thể bị chiếc xe nghiến qua đến thay đổi hình dạng. Đó là thi thể của cô. Đây... đã là lần thứ ba. Lần đầu tiên, cô đang đi qua đường, một tên côn đồ từ phía sau tấn công cô, một dao cắt thẳng qua yết hầu. Cô đến một chút phản kháng cũng không kịp đã chết thảm. Lần thứ hai, cô đi vòng qua con đường kia lại bị một cục gạch từ trên cao đập chết. Linh hồn cô đứng một bên nhìn hồi lâu mới biết nguyên nhân: cục gạch kia là một đứa bé trai 7 tuổi từ cửa sổ tầng 13 ném ra, nó cùng với bạn thách đố nhau ai có thể ném gạch trúng người đi đường, mà cô chính là cái người bất hạnh đó. Lần thứ ba, cô dứt khoát xin nghỉ muộn một ngày mới quay lại trường học, chỉ giúp mẹ đi sang chợ ngay đối diện mua thức ăn mà thôi, cả đường đi vô cùng cẩn thận rồi lại bị tài xế say rượu vượt đèn đỏ đâm chết. Cô chú ý thấy tên tài xế đó không chỉ uống rượu mà còn đi một đôi giày không tiện cho việc lái xe. Tóm lại, ngày 20 tháng 6 quả nhiên là ngày chết của cô. ...................... "Đinh linh linh..." Tiếng chuông di động bên gối vang lên khiến Thích An bừng tỉnh. Cô bật người ngồi dậy, kinh hồn chưa định nhìn bốn phía. Phát hiện đang ở trong kí túc xá trường học, cô thở phào nhẹ nhõm một hơi. Cầm di động lên xem nhưng không thấy hiển thị cuộc gọi đến, cô kéo xuống thanh thông báo phía trên màn hình. Góc trái phía trên hiện ngày tháng: ngày 18 tháng 6 năm 2019, 7 giờ 23 phút sáng. Mấy chữ "Ngày 18" đâm vào mắt cô phát đau. Cô vô lực ném di động xuống, dựa vào đầu giường hít sâu một hơi. Giấc mơ kia cô đã mơ liên tiếp ba lần, mỗi lần đều cảm thấy nó không chỉ là mơ, bởi vì hết thảy trong giấc mơ đó đều vô cùng chân thật, đặc biệt là một khắc lúc cô tử vong. Càng quỷ dị chính là từ khi giấc mơ đầu tiên bắt đầu cô rất thanh tỉnh. Cô vẫn tư duy rõ ràng, cũng tự do khống chế hành động của chính mình. Thậm chí cô còn nhớ trước khi chết đã tìm mọi cách lẩn tránh, nhưng không tránh khỏi kết quả phải chết. Mỗi lần cảnh trong mơ đều bắt đầu lúc Thích An tỉnh lại trên giường trong nhà, cũng cầm lấy di động xem ngày, trên màn hình mỗi lần đều hiển thị: ngày 20 tháng 6 năm 2019. Sau đó cô đã trải qua ba cách chết khác nhau. Lần đầu tiên mơ cô còn không để trong lòng, nhưng ba lần liên tiếp, liệu có phải như cô nghĩ... đây là điềm báo tử vong? Nếu nó thật sự biểu thị cô sẽ chết vào ngày 20, hôm nay đã là ngày 18, tính cả hôm nay cô chỉ còn lại hai ngày để sống? Tiếng chuông di động vang lên thật lâu, vì không có người nghe nên đột ngột chấm dứt, rất nhanh lại vang lên tiếp giống như cô mà không nhấc máy thì tuyệt đối không bỏ qua. Đang mơ ngủ ở giường đối diện, bạn cùng phòng Lý Duyệt trở mình mơ màng nói: "Tiểu An, nghe điện nhanh lên kìa..." Thích An hồi phục tinh thần, vội vàng cầm di động. Nhìn dãy số hiện lên, là số điện thoại hoàn toàn xa lạ. Cô nghi hoặc bấm nghe, một khắc đưa điện thoại lên tai thanh âm đối phương cũng vừa lúc vang lên: "Chỉ còn lại hai ngày..." Ngắn ngủn năm chữ làm lông tơ cả người Thích An dựng đứng! Thân thể cô cứng đờ, vội vàng hỏi: "Ông là ai? Hai ngày gì cơ?" "Ngày chết... của cô..."   Mời các bạn đón đọc Thay Lời Vong Linh của tác giả Tòng 0.
Người Mẹ Quỷ
Người Mẹ Quỷ là câu chuyện của Việt Nam về cương thi, hay gọi bằng cái tên quen thuộc hơn: quỷ nhập tràng. Có lẽ nghe tới quỷ, mọi người sẽ nghĩ đây là một bộ truyện kinh dị. Nhưng thật ra, khi bạn càng đọc về sau, bạn sẽ càng nhận rõ những tình cảm khác trong truyện: tình cảm gia đình, tình mẫu tử, tình thầy trò,... tất cả sẽ đọng lại trong từng chap truyện của Người Mẹ Quỷ… Ngoài những yếu tố kinh dị, ly kỳ, hấp dẫn, truyện còn mang một thứ gì đó hơi hướng nói về Tình Người *** Cuối thu đầu đông là thời điểm thích hợp cho việc cải táng mồ mả cho người đã khuất. Nhà có người mất cũng đã tròn 3 năm, ngày bốc mả cũng đã đến. Trước đó mấy hôm tôi thấy mấy bác trong nhà tất bật chuẩn bị đồ đạc, gọi điện cho những người bốc mộ thuê nhớ phải đến đúng hẹn. Từ trước đến giờ nghe những từ như cải táng, sang cát cũng khá quen thuộc nhưng để mục sở thị tận mắt một lần thì tôi chưa bao giờ được thấy. Vốn tính tò mò, lại là người thích nghe những câu chuyện về kỳ ma, dị sĩ..những chuyện âm hồn người chết nên lần này tôi đánh bạo hỏi một bác lớn trong nhà: — Hôm nào mà bôc mộ cho cháu ra đồng xem với được không..? Ông bác tôi quay ra mắng: — Chuyện bốc mộ cho người chết không phải chuyện đùa đâu mà xem với xét. Mà còn phải xem tuổi tác xung hợp thế nào mới được đi. Đâu phải cứ thích là di được, mà trời lạnh này ở nhà mà ngủ cho sướng. 2-3h sáng đã phải lịch kịch chuẩn bị đồ rồi đợi người ta đến là phải đi rồi đấy. Tôi nghe thấy thế cũng hơi ái ngại, nhưng bác gái lên tiếng: — Ôi dào, con cháu trong nhà, cậu nó ngày còn sống cũng quý nó lắm. Nó muốn đi thì cứ để nó đi, ông cứ quan trọng hóa. Cứ thế sau này giả dụ chết đi con cháu nó muốn bốc mả cho thì nó biết làm như thế nào. Việc này cũng không hay ho gì nhưng nó cần thiết đấy, ngày kia sang đây ngủ khi nào đi bác gọi dậy. Bác trai nghe thế cau mặt: — Ừ thì đi, nhưng đợi gọi điện cho bên kia hỏi qua tuổi đã. Không thừa, mà mày tuổi ngựa phải không….? Tôi gật đầu lia lịa, đứng chờ đợi đợi kết quả từ phía bác trai. Lát sau ông ấy nói: — Ừ không sao, nhưng hôm đấy đi thì nhớ cầm củ tỏi cho vào túi. Kẻo cậu cháu hợp vía, sống đã thân nhau rồi sợ lại theo này theo nọ rắc rối lắm. Bác gái nói: — Có theo thì nó cũng phù hộ cho cháu nó chứ cũng chẳng hại, mà từ hồi cậu ấy mất thằng này cũng kể nằm mơ thấy cậu mấy lần còn gì. Toàn cho lộc đấy mà có biết ăn đâu… Tôi gãi đầu cười, bác đang nói đến cậu Long của tôi, cậu Long chết cách đây ba năm rồi. Cậu mất năm đó là 45 tuổi, gọi là đi được một nửa cuộc đời. Nhưng cậu lại không có vợ con gì, ngày còn sống cậu quý các cháu lắm. Chẳng hiểu sao bao năm cậu không chịu lấy vợ. Vì không lấy vợ sinh con nên tình cảm cậu dành hết cho các cháu. Nhất là tôi, có gì ngon là cậu để dành cho, lại hay cho tôi tiền nên tôi cũng quý cậu lắm. Đùng một cái năm đó cậu bị ốm, một trận ốm có lẽ cũng rất bình thường nhưng rồi nó đã cướp đi mạng sống của cậu một cách nhanh chóng. Tôi lúc đó còn không tin là cậu Long đã chết, cái chết của cậu đến nhanh rồi khi người ta đưa quan tài của cậu xuống cái huyệt đã đào sẵn cũng nhanh như vậy. Nó quá bất ngờ với tôi, cậu mất được một tuần mà tôi còn không tin đó là sự thật.   Mời các bạn đón đọc Người Mẹ Quỷ của tác giả Trường Lê.
Ngải Hài Nhi
Bạn đọc yêu thích những câu chuyện ma quái, tâm linh, có yếu tố kỳ bí chắc hẳn cũng không cảm thấy xa lạ với bùa và ngải... Ngải là một thứ nguyền rủa, khá âm độc,....và những người nuôi ngải dĩ nhiên cũng có mưu mô, tư lợi riêng... Đối với Vân, từ khi cha cô qua đời, cuộc sống của cô bỗng rơi vào khủng hoảng. Mẹ cô bắt đầu một cuộc hôn nhân mới bạn thân của chồng. Và cha dượng của Vân không phải một người bình thường, ông nuôi ngải, loại ngải tàn ác, hiểm độc...và từ đó bắt đầu cho hàng loạt cái chết từ những người xung anh Vân Liệu Vân có tìm được người giúp đỡ, để cô thoát khỏi cuộc sống u ám, lạnh lẽo với nỗi sợ hãi bao trùm. Hãy đọc Ngải Hài Nhi để biết thêm về tâm linh, để cảm nhận cuộc sống: Ma Quỷ đôi khi không đáng sợ Con Người mới thực sự là Độc nhất. *** Bùa Ngải là một vật tâm linh có từ thời cổ đại xa xưa. Thời mà người ta gọi những người Luyện Ngải là Phù Thuỷ, Pháp Sư. Những người dành cả đời để tu luyện những thứ tà ma, dị đạo...Xã hội ngày càng phát triển nhưng càng tiến bộ thì con người ta lại càng muốn tìm hiểu về cái gọi là Tâm Linh, những thứ khoa học chưa thể giải thích được. Và những câu chuyện về Bùa Ngải được dân tình truyền tai nhau, không ít người dám lấy cả mạng sống của mình ra thề trước trời đất: Bùa Ngải Là Có Thật. Bạn có tin vào chuyện Ma Quỷ...? Tôi cũng không tin, nhưng khi nghe chính nhân vật kể lại thì tôi thấy lạnh sống lưng, đôi mắt vô hồn, nó như nhìn sâu thẳm vào trong tâm can người đối diện, nhưng nó u uất, lạnh lẽo. Ánh mắt đó khiến người ta phải nổi da gà khi nhìn vào nó. Đôi mắt chứa đầy ám ảnh đó là của Vân, cô gái năm nay 24 tuổi. Tôi không quen Vân và Vân cũng không quen chú tôi. Hôm nay là ngày đầu tiên ba người chúng tôi gặp nhau. Chú tôi là bộ đội xuất ngũ những năm 1975, là bộ đội cho nên những năm chiến tranh phải đóng trong rừng, trong núi có khi cả năm trời. Rồi chẳng biết trời xui đất khiến thế nào ông ấy cưới luôn gái trong Bản, người mà bây giờ tôi gọi là cô. Hai vợ chồng sống với nhau bao năm nay nhưng chưa hề có cãi vã. Tại sao tôi hay sang nhà ông ấy chơi vì sang đó tôi được nghe về những câu chuyện kì dị, những câu chuyện rừng thiêng nước độc, chuyện những ông thầy pháp luyện Ngải nơi thâm sâu cùng cốc. Tôi không rõ vợ chồng cô chú tôi làm gì nhưng tháng đôi lần họ vẫn dẫn người lên Hoà Bình, về bản của cô tôi. Nhiều lúc tò mò tôi cũng hỏi ông ấy: - Sao tháng nào cô chú cũng đưa người lên đó vậy...?? Mà lần nào cũng chỉ đưa một người mặc dù cháu thấy nhiều người đến tận nơi hẹn lịch. Ông ấy ngồi vắt chân chữ ngũ trên cái sạp bằng gỗ lim, rít hơi thuốc lào rõ đanh, ông ấy nhả khói, chầm chậm nhấp ngụm trà rồi mới nói: - Chú nói sợ mày không tin nhưng chú dẫn người lên đó giải bùa, mà làm bùa cũng có...Trên đó có ông Thầy năm nay đã gần 90 tuổi...ông ấy.... Đang nói thì bà cô tôi đi ra hắng giọng: - E hèm...e hèm... Ông chú vội vã lặng câm sau cái liếc sắc như dao của vợ. Bà cô đi vào trong ông ấy ghé sát lại tai tôi nói nhỏ: - Ông ấy Luyện Ngải... Nghe xong câu đó tôi tự nhiên thấy lạnh hết sống lưng, tôi giật mình lùi lại: - Chú lại trêu cháu, chắc hai người lên đó mua đặc sản hay thuốc thang mà dưới này không có.. Ông ấy cười nhẹ rồi lại vê bi thuốc lào chuân bị làm bi nữa. Nhưng số người đến nhà ông ấy không phải ít, tuy nhiên không phải ai vợ chồng chú ấy cũng tiếp. Chỉ khi nào cô Muôn ( vợ ông chú) đồng ý sau khi nhìn mặt thì mới nói chuyện tiếp. À quên không nói tên ông chú, ông ấy tên Năm nhé. Tên các cụ đặt từ ngày xưa ấy mà, nhà có 4 ông con trai thì Ba, Năm, Bảy mỗi chú út đẻ sau khi giải phóng thì tên đẹp hơn một chút, chú Thái. Vì cái tên này mà vào làng chỉ cần hỏi vợ chồng Muôn Năm thì ai cũng biết. Chắc Vân đến tìm vợ chồng chú tôi lý do cũng như những người trước đây. Vân không đi một mình, còn một bà hơi đứng tuổi, ăn mặc sang trọng, vàng đeo đầy người. Lúc mới vào cửa tôi thấy cô Muôn nói với ra: - Chị để cháu ở đây rồi ra ngoài hiên uống nước đợi nhé.. Bà kia hẩy nhẹ vai Vân về trước mồm nói: - Đi....đi vào đi..Ở đây có khi họ giúp được đấy. Ngay cái nhìn đầu tiên tôi cũng thấy ở Vân có cái gì đó rất khác lạ. Vân có gương mặt thanh tú, tóc dài ngang lưng, đặc biệt mái tóc đen nhánh và dày. Từ khi Vân bước vào phòng khách không khí bỗng nhiên thay đổi. Một cái lạnh tuy rất nhẹ nhưng đủ khiến tôi thấy gai người. Tôi quay sang nhìn ông chú. Cái vẻ cợt nhả thường ngày biến mất, ông ấy lặng im một cách bất thường. Đột nhiên ông ấy nói: - Cháu đứng im đó đi. Đừng bước tới nữa.... Vân vội rụt chân lại, cô ấy có lẽ cũng hiểu lý do vì sao chú tôi lại yêu cầu như thế. Cô Muôn từ trong đi ra, bà ấy mặc một bộ quần áo theo tôi là của người Dân Tộc. Trên tay cô Muôn cầm một cái túi nhỏ màu đỏ. Đi đến gần Vân cô Muôn lấy ra một chiếc vòng có xỏ những hạt đá màu đen bóng loáng, cô Muôn nói: - Cháu đeo chiếc vòng bằng dâu tằm này vào. Sau đó ngồi xuống ghế kia, trong thời gian khoảng 1 tiếng nó sẽ không nghe thấy cháu nói gì. Mời các bạn đón đọc Ngải Hài Nhi của tác giả Trường Lê.
Bóng Trăng Trắng Ngà
Bóng Trăng Trắng Ngà là câu chuyện về tâm linh được sáng tác dựa theo mô phỏng của bài hát Thằng Cuội của ca sĩ Ngọc Hiển.  Tác phẩm đi theo phong cách mới nhưng không kém phần hấp dẫn và li kỳ. Bảo là nhân vật chính của câu chuyện, cậu bé vô tình được nghe kể những bí mật kinh hoàng nằm trong lời bài hát này.... *** Hoàng hôn đang buông dần xuống trên những mái nhà ngói đỏ san sát trong xóm. Bầu không khí đã lảng bảng khói bếp hun lên từ một số căn nhà. Dưới ánh đèn vàng vọt trên con đường làng, bóng dáng những đứa trẻ đang chạy về nhà để ăn cơm. Ở miền quê này, 5 rưỡi, 6 giờ mới ăn cơm là muộn. Và tôi cũng là một trong số những đứa trẻ đó, đang chạy vắt chân lên cổ về nhà, mong chờ một bát cơm nóng hổi để lấp đầy cái bụng đói meo. "Ê, Bảo Bảo!!" Thằng Tuấn bạn tôi gọi với từ đằng sau. "Xong qua nhà tao đấy!" "Ờ...Tao nhớ rồi!"Tôi nói với ra đằng sau. Tôi, thằng Tuấn, thằng Hưng là ba thằng bạn thân từ hồi tóc còn để chỏm. Chúng tôi còn học chung trường cấp 2 của Huyện nữa. Năm nay tôi đang học lớp 7, còn mải chơi lắm. Cuộc sống của tôi thiếu chúng nó còn gì vui? Một tuần phải tới 5,6 ngày tôi lêu lổng sang nhà chúng nó chơi, hết lắp ghép mô hình đến xem phim hành động. Cuối tuần hoặc những buổi chiều chiều, ba chúng tôi lại rủ nhau ra sân nhà văn hóa đánh bi, chơi trò chơi với mấy đứa trong xóm. Dọc hai bên đường làng là những cánh đồng bát ngát. Dân làng tôi vẫn theo nghề nông phần nhiều. Nhà tôi cũng có một thửa ruộng nho nhỏ, do họ nhà nội tôi để lại. Ông nội tôi năm ấy chia ra cho các con trai mỗi đứa một mảnh. Bố tôi để đó trồng lúa, hoa màu, chủ yếu cũng để phục vụ gia đình, thừa thì đem bán cho có đồng ra đồng vào. Bố tôi vẫn làm cán bộ trên xã còn mẹ tôi ở nhà nội trợ. Đồng ruộng bao quanh xóm làng của chúng tôi. Nếu men theo vài con ngõ, có thể bắt gặp ngay những thửa ruộng mênh mông nằm gần một con sông nhỏ. Vào những dịp nghỉ hè, chúng tôi cũng hay chạy lên đê chơi, tìm những chỗ không vướng dây điện để thả diều. Gia đình không có điều kiện như những bạn ở thành phố, chúng tôi chỉ biết lấy mấy trò nghịch ngợm vặt cây hái quả ra làm thú vui. Nhà đứa nào mà có máy tính bàn có cài game là quý lắm, tranh nhau mon men sang nhà ngồi xem nó chơi. Bây giờ đã là tháng 8, chuẩn bị vào mùa gặt. Những cánh đồng bắt đầu ngả màu vàng thích mắt. Chiều nào tôi cũng mang bi, bài ra sân nhà văn hóa chơi với mấy thằng bạn. Xung quanh cũng có vài đám con gái ngồi chơi với nhau. Chúng nó hay chơi nhảy dây, ô ăn quan, đồ hàng,...Có những lúc hứng lên, chúng tôi tụ cả đám lại với nhau chơi Đồ cứu, Cá sấu lên bờ,...Có mấy lượt mà hết cả buổi chiều. Ngày nào tôi về nhà tay chân cũng lấm lem đất bụi, mẹ tôi cứ mắng tôi sa sả. Có những hôm tôi mải chơi bên nhà thằng Tuấn không kịp về giờ cơm, bố tôi cứ mang cây chổi dựng ở góc nhà quật cho mấy cái vào chân tím hết cả. Thế là tôi ngoan ngoãn cả tuần sau đó. Được một thời gian thì chứng nào tật nấy. Vào mỗi buổi tối, tôi thường làm bài tập quấy quá cho xong rồi lại tót sang nhà chúng nó chơi, trừ những hôm bố tôi không vừa lòng, kiểm tra bài tập của tôi không xong lại bắt tôi ở nhà hoàn thành nốt. Nhiều hôm ông cũng không ở nhà, hay ra quán nước đầu làng uống nước chè đánh cờ với mấy chú bác trong xóm. Mấy hôm như thế tôi lại tranh thủ tót đi chơi một lúc rồi về lựa khi bố tôi chưa có nhà. Gia đình tôi ngoài bố mẹ và tôi ra còn có chị gái và bà nội. Ông nội tôi mất từ trước khi tôi ra đời, giờ chị còn bà nội. Chị gái tôi năm nay học cấp 3, lớp 11. Chị tôi học giỏi lại ngoan ngoãn, chẳng bù cho tôi. Tôi chẳng thích học. Sau này tôi sẽ làm quân nhân, như trong mấy bộ phim tôi hay xem, cầm sung bắn kẻ địch vô cùng oai hùng. Tôi vô cùng quấn bà nội. Bà nội tôi ngoài 70 tuổi rồi. Bà ở bên tôi từ bé, hay bảo vệ tôi trước những trận đòn roi của bố. Bà bảo: "Đánh nó làm gì cho hư người, bảo ban con cái nhẹ nhàng thôi!". Có mấy lần bà giận bố tôi đến mấy ngày chỉ vì ông đánh tôi đau quá, tước cả máu ra, bà xót. Từ hồi còn bé, tôi đã hay nằm ngủ với bà. Người bà có mùi dầu thoang thoảng, làn da nhăn nheo ram ráp. Bà hay kể chuyện cổ tích cho tôi nghe. Lớn hơn thì bà hay bật đài cho tôi nghe trước khi đi ngủ. Trên đài của bà hay có mấy kênh ca hát dân ca, nhạc vàng,...Tôi nghe từ bé đâm ra nghiện. Không phải tôi không thích nhạc trẻ mà tôi nhận ra rằng, những câu hát trên chiếc đài của bà không phải là không dễ chịu... Đợt đó, bọn trẻ con trong làng tôi rộ lên mốt bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng làm đèn. Chúng nó còn sơn trứng đủ màu làm mấy dây đèn trông rất hay. Thế là tôi với thằng Tuấn, thằng Hưng quyết tâm không thể thua bạn kém bè. Tối hôm ấy ăn cơm xong chúng tôi hẹn nhau ra bờ đê sau làng để bắt đom đóm. Chúng tôi còn cá nhau xem ai bắt được nhiều đom đóm hơn. Tôi với hai thằng chia nhau ra mỗi đứa một ngách, hẹn nhau 1 giờ nữa ở trên đê, so xem ai nhiều đom đóm hơn. Thế là tôi cầm chắc trên tay cái vợt với cái lọ thủy tinh bà tôi rửa cho tôi ở nhà, bắt đầu nhảy xuống mấy bụi cây gần bờ sông để tìm. Mê mải một lúc, tôi cứ đi dần lên trước, chiếc hũ của tôi mới được tầm chục con đom đóm, không thể nào thua chúng nó được, tôi đã cược gần hết số bi của tôi rồi. Càng tiến về trước, đom đóm bay lên càng nhiều. Tôi vô cùng phấn khích vợt lấy vợt để. Thế rồi, đập vào tai tôi là một tiếng hát trong trẻo. tiếng hát hay như ở trong chiếc đài của bà tôi vọng ra vậy: "Bóng trăng trắng ngà...Có cây đa to...có thằng Cuội già...Ôm một mối mơ..." Tôi tò mò tiến lại gần để xem nguồn gốc tiếng hát đó từ đâu ra. Trước mặt tôi là một thửa ruộng gần sông, đom đóm bay rợp trời. Cảnh tượng đập vào mắt tôi thơ mộng lạ thường. Ở mỏm đá gần bờ sông, có một cô bé tầm trạc tuổi tôi, đang ngồi nghêu ngao hát, một bài hát rất hay mà tôi đã từng nghe nhưng không nhớ tên. Xung quanh cô bé, đom đóm quây đầy. Quả thực đẹp như trong những bộ phim hoạt hình vậy. Tôi cứ đứng im như phỗng lắng nghe cô bé hát, sợ phá nát bầu không khí này. Giai điệu bài hát cứ lặp đi lặp lại, nhiều lời thế nhưng lại không hề nhàm chán. Tôi rất muốn biết được tên bài hát này. Tôi từng nhìn thấy các anh trai dùng đàn guitar để hát. Tôi cũng rất muốn học. Tôi mà hát được bài này thì tuyệt đỉnh. Cô bé hát hết bài hát rồi bắt đầu ngân nga giai điệu. Tôi đánh liều một phen, bèn rón rén lại gần cô bé, tính hỏi tên bài hát. "Ê! Cậu gì ơi!" Tôi cất tiếng. Cô bé quay đầu lại nhìn tôi ngạc nhiên. Một khuôn mặt xinh xắn nhưng tôi chưa gặp bao giờ. Thực ra làng tôi khá rộng, lại có nhiều lối vào. Khu nhà tôi nằm ở phía Đông làng, nhà đứa nào gần thì thân với đứa ấy, chứ tôi cũng không biết hết trẻ con trong làng. Có lẽ cô bé này ở khu khác. "Ừ?" Cô bé nói: "Có chuyện gì thế?" "À thì.." Tôi gãi đầu. "Cái bài hát...cậu vừa hát ấy...hay quá!" "Ừ, cảm ơn cậu" Cô bé nhoẻn cười. "Tối rồi cậu còn ra đây à?" "Ừ...tớ đi bắt đom đóm..." "Hì hì.." Cô bé cười. "Cậu dùng vợt thế kia bắt được mấy đâu..Đom đóm bay hết ấy. Phải đợi nó đậu xuống cành tre hay cành cây rồi bắt nhẹ nhàng ấy..." Thấy cô bé có vẻ thân thiện, tôi cũng thấy vui vui. "Thế...cậu ra đây làm gì?" Tôi hỏi "À...Sắp Trung thu rồi mà. Tớ ra đây xem trăng.Chỗ này quang nhất, trăng sáng nhất làng đấy." "Ừ nhưng mà hôm nay đã đến Rằm đâu? Làm gì có trăng?" "Tớ cứ ra thôi, theo thói quen, nhỡ đâu bắt gặp thì sao?" Cô bé lai cười hiền. "Thế...cho tớ hỏi tên bài hát được không?" Tôi đi thẳng vào mục đích chính. "À...Là bài Thằng cuội ấy...Cậu thấy hay à?" "Ừ..Có vẻ nhiều lời nhưng vẫn hay." Tôi đáp. "Nó có 5 lời tất cả ấy." Cô bé nói. "Khiếp..nhiều thế mà cậu vẫn nhớ được hết á?" "Ừ, tại nó đâu đơn giản là lời bài hát" Cô bé nói ra chiều bí mật lắm. "Thế nó là cái gì?" Mời các bạn đón đọc Bóng Trăng Trắng Ngà của tác giả Thục Linh.