Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuyển Tập Truyện Ma & Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Ngạn
Nguyễn Ngọc Ngạn (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1945) là một nhà văn và là xướng ngôn viên người Canada gốc Việt. Ban đầu, ông được biết đến với tư cách nhà văn sở hữu nhiều cuốn sách được người Việt hải ngoại đón nhận. Kể từ năm 1993, ông bắt đầu vai trò người dẫn chương trình (MC) của Paris By Night. Ngoài văn chương chính thống, Nguyễn Ngọc Ngạn còn là tác giả của nhiều truyện ma kinh dị được độc giả hải ngoại biết đến rộng rãi như "Tiếng quạ réo vong hồn", "Ngôi mộ mới đắp", "Đêm trong căn nhà hoang", "Bóng ma bên cửa sổ" ("Bóng ma bên cửa"), "Chuyến xe buýt" ("Bãi đất hoang sau nhà"), "Căn nhà số 24", "Cõi âm", "Đêm không trăng", "Hồn về trong gió". Truyện "Đêm trong căn nhà hoang" của ông đã được chuyển thể thành phim, do Trung tâm Thúy Nga phát hành. Truyện ma mới nhất của ông có tên "Đêm dài vô tận". *** eBook Tuyển Tập Truyện Ma & Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Ngạn gồm có: Bãi Đất Hoang Sau Nhà Bóng Người Dưới Trăng Chuyện Cũ Đêm Trong Căn Nhà Hoang Dòng Mực Cũ Hồn Về Trong Gió Trong đó có tôi *** Chánh Tổng Hoán , ngay khi còn tại chức đã có tiếng là người khắc nghiệt , cái khắc nghiệt đến độ độc ác của ông thể hiện qua những hành vi diễn ra từng ngày , nhưng ông không thấy đó là một khuyết điểm mà trái lại ông luôn tự hào cho rằng mình oai nghiêm và có uy quyền. Với dân chúng , với kẻ ăn người ở trong nhà ông nhẫn tâm đã đành mà ngay cả với vợ con , ông cũng cứng rắn như gỗ đá , lạnh lùng như người dưng nước lã , không để lộ chút tình cảm riêng tư nào. Dường như ông có cái thú được người ta sợ mình vì ông coi đó là một cái uy của một người vừa có chức , vừa có tiền , tha hồ tác yêu tác quái ở vùng nông thôn giữa hàng ngàn người dân thấp cổ bé miệng. Tuổi chưa đến 50 , nhưng ông khệnh khạng đóng vai già trước tuổi , và cả Tổng bất cứ ai chẳng may gặp ông , đều phải đoán ý ông mà chắp tay vái chào từ đằng xa cho phải phép : - Con xin phép lạy cụ Chánh ạ.........ạ........ Lời chào ấy ông nghe quen tai lắm , cho nên vô phúc cho ai tình cờ gặp ông ngoài đường mà lại tỏ ra thân mật , quên không gọi ông bằng cụ : cụ Chánh hoặc cụ Tổng. Chẳng hạn anh Hào con ông thợ nung gạch trong làng , một hôm vác cuốc ngoài đồng trở về , gặp ông Chánh giữa đường , anh bỏ nón , hạ cuốc cuối đầu chào lớn : - Ông Chánh đi dạo mát ạ , ông Chánh xơi cơm chưa ạ ? Ông Chánh coi đó là một lời bất kính , cho nên lập tức ông trừng mắt , vẫy anh Hào lại gần , rồi bất chợt tát cho một cái nảy đom đóm mắt và mắng : - Bố mày cũng không được gọi tao bằng ông , huống chi là mày. Quân láo lếu , không biết trên , biết dưới gì cả. Lần sau còn thế tao bỏ tù nghe chửa ? ... Mời các bạn đón đọc ​Tuyển Tập Truyện Ma & Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Ngạn.
Kem Đá - Yonezawa Honobu
Bước vào lớp Mười trường trung học Kamiyama, nhận lệnh từ chị gái, cậu học trò “màu xám” Oreki Hotaru – người theo chủ nghĩa “tiết kiệm năng lượng”, không tích cực với bất cứ hoạt động gì từ học hành, thể thao cho tới yêu đương – miễn cưỡng tham gia vào Câu lạc bộ Cổ Điển đã ba năm không có nổi một thành viên. Nhưng ở đây, cuộc chạm trán bất ngờ với Chitanda Eru, cô bạn học cùng khối, người tò mò với tất thảy mọi thứ, đã dắt Hotaru vào một cuộc phiêu lưu thú vị, lần tìm về quá khứ cách đây ba mươi ba năm của trường Kamiyama… Không quá ly kỳ, gay cấn, nhưng qua giọng kể lôi cuốn, pha chút tinh nghịch của Yonezawa Honobu, cuộc sống học đường của các cô cậu học trò trường Kamiyama ở quá khứ lẫn hiện tại dường như luôn đầy ắp các bí ẩn cần khám phá. *** Kem đá là một tiểu thuyết thuộc thể loại kỳ bí, học đường sáng tác bởi nhà văn Yonezawa Honobu xuất bản năm 2001. Đây là tập sách đầu tiên trong seri "Câu lạc bộ Cổ Điển"  gồm tổng cộng 6 tập tính đến năm 2016.  Kem Đá Thằng Khờ Trình tự Kudryavka Búp bê Hina đi đường vòng Khoảng cách xấp xỉ giữa hai người  Dù được ban đôi cánh *** Chào em, Houtarou. Chị đang ở Benares, ở Nhật Bản thì gọi như thế chứ người ta toàn bảo nơi này là Vanarasi thôi. Benares khá là tuyệt đấy Houtarou à. Thị trấn này nổi tiếng với tang lễ và những nghi thức độc đáo từ xa xưa. Tự nhiên chị có cảm giác là ai mà qua đời ở đây thì linh hồn sẽ được bay thẳng lên thiên đường. Kì lạ quá ha? Hoá ra cảm giác của chị cũng đúng phần nào khi người ta gọi Benares là "vùng đất biệt lập với vòng xoay luân hồi", nghĩa là ai qua đời ở đây đều trở thành một a-la-hán - một danh hiệu cao quý của Phật Giáo. Ở Trung Quốc chị từng được dạy rằng một linh hồn muốn đạt được trạng thái "giải thoát" ấy phải trải qua nhiều khổ hạnh, nhưng ở đây tất cả công việc cần làm chỉ là nằm xuống và nhắm mắt lại. Thực lòng mà nói, chị thấy Trung Quốc có cả đống truyền thuyết mà cái nào cũng đau khổ và lâm li. Nói bây giờ quả là hơi trễ, nhưng chúc mừng em đã hạ cánh vào cao trung an toàn. Cũng là trường Kamiyama như chị phải không? Chán chết, nhưng dù sao cũng chúc mừng. Là chị hai yêu dấu của em chị nghĩ mình có nghĩa vụ dành cho cậu em năm nhất một lời khuyên quan trọng: Vào CLB Cổ Điển đi. ... Mời các bạn đón đọc ​Kem Đá của tác giả Yonezawa Honobu.
Giếng Thở Than - Montague Rhodes James
Giếng thở than là tập truyện ngắn kinh dị của M.R James bao gồm 30 tác phẩm. Các tác phẩm này được chọn lọc từ nhiều tập truyện khác nhau của nhà văn như Những truyện ma của những nhà khảo cổ, Thêm truyện ma nữa, Một con ma gầy và những truyện khác... Những câu chuyện kì bí, rùng rợn và hấp dẫn trong bối cảnh cuộc sống đời thường chủ yếu được một nhân vật xưng “tôi” kể lại bằng giọng điệu khách quan và không có lời bình luận. Các tác phẩm như “Còi ơi, ta sẽ đến với mi, chú bé của ta”, Quăng các chữ Runes, Phòng số mười ba, Vườn hồng… là những truyện ngắn nổi tiếng của tác giả.     Nhận định   Đọc tập truyện ma của M.R James, người ta có cảm giác được ngồi nghe một người già đáng kính với vốn kiến thức uyên thâm và cuộc đời từng trải kể lại những trải nghiệm lý thú trong cuộc đời. Truyện của ông súc tích, ngắn gọn, thường lấy bối cảnh nơi đồng quê, những lâu đài cổ xưa. Nhân vật chính chủ yếu là những con người có học thức. Nhờ vậy, truyện ma của M.R James có được vẻ tinh tế, rùng rợn mà không phóng đại, kì ảo mà không phi lý… Cuốn sách không chỉ mang lại cho người đọc những giây phút đầy hứng thú với cảm giác mạnh mà còn đưa đến những kiến thức về đời sống văn hóa tinh thần, tôn giáo của người phương Tây. - Nhã Nam   “Nếu bạn thích một câu chuyện sực nức một mùi vị nước Anh của những cỗ xe ngựa và những đường ray tàu hỏa; nếu nhà thờ cổ xưa và tư dinh cũ kỹ làm bạn thích thú; nếu những ma mị hắc ám với tay dài lông lá cùng móng vuốt làm bạn lo sợ; nếu bạn tin vào sự kinh dị luôn luôn có đó, hoặc bạn chẳng tin, hãy mua cuốn sách này” - John Betjeman “Những hồn ma bóng quỷ được James dựng lên thực sự đầy sáng tạo và được thể hiện qua một hình thức sắc sảo, sống động khiến cho ta có thể bị chấn động. Thị giác, khứu giác, thính giác, xúc giác đều được kích thích với ấn tượng chân thực, với cảm giác tưởng chừng như chúng ta cũng sẽ bất ngờ trông thấy những điều kì dị” - Clark Ashton Smith *** Tập truyện kinh dị Giếng Thở Than gồm có: Quyển sách dán ảnh của tu sĩ Alberic Những trái tim bị mất Bức tranh in khắc Cây tần bì Con số 13 Bá tước Magnus "Còi ơi, ta sẽ đến với mi, chú bé của ta" Kho tàng của Tu viện trưởng Thomas Một chuyện ở trường học Vườn hồng Luận văn Middoth Quăng các chữ Runes  Ghế ngồi hát thánh ca ở nhà thờ Barchester Khu đất có rào Martin Ông Humphreys và địa sản thừa kế Nơi cư ngụ ở Whitminster Nhật ký của ông Poynter Một giai đoạn của lịch sử nhà thờ lớn Chuyện một mất tích và một xuất hiện Hai bác sĩ Ngôi nhà búp bê bị ma ám Quyển sách kinh bất thường Mốc địa sản của láng giềng Cảnh nhìn từ một ngọn đồi Cảnh cáo kẻ tò mò Giải trí một buổi chiều Có một người sống bên cạnh nghĩa trang nhà thờ Chuột Giếng Thở Than Những truyện tôi đã thử viết *** Vào năm 19... có hai hướng đạo sinh thuộc một trường nổi tiếng, một người tên là Arthur Wilcox, một người tên là Stanley Judkins. Hai người cùng tuổi với nhau, cùng ở một ngôi nhà, cùng thuộc một đơn vị và dĩ nhiên cùng là một thành viên trong một đội tuần tra của hướng đạo. Về mặt hình thức, họ trông giống nhau đến mức có thể lầm lẫn, khiến cho các thầy giáo phải bực mình khi tiếp xúc với họ. Nhưng con người bên trong thì họ khác nhau không biết bao nhiêu! Thầy hiệu trưởng bảo với Arthur Wilcox khi ngẩng lên nhìn cậu bé bước vào phòng: “Này, Wilcox, em mà ở trường lâu hơn nữa thì quỹ phần thưởng của nhà trường sẽ không đủ mất! Em nhận lấy tập sao chụp đóng rất đẹp này, ‘Cuộc đời và tác phẩm của giám mục Ken,’ cùng lời ngợi khen của tôi tới em và cha mẹ ưu việt của em.” Vẫn lại Arthur Wilcox, là người mà thầy hiệu trưởng nhận xét với thầy hiệu phó khi nhác trông thấy cậu băng qua sân chơi, “Thằng bé này có đôi lông mày lạ thực.” “Phải, đúng vậy,” thầy hiệu phó nói, “nó nói lên bộ óc hoặc là thiên tài hoặc là nước lã.” Là một hướng đạo sinh, Wilcox đạt mọi huy hiệu và danh hiệu trong các cuộc thi: Huy hiệu về nấu ăn, về lập bản đồ, về cứu hộ, về nhặt giấy vụn, về đóng cửa nhẹ nhàng khi ra khỏi lớp, và nhiều huy hiệu khác nữa. Riêng về cứu hộ tôi sẽ nói vài lời sau, khi chuyển sang nhận xét về Stanley Judkins. Các bạn sẽ không ngạc nhiên khi nghe nói ông Hope Jones trong mỗi bài hát của mình lại thêm vào một câu thơ đặc biệt để tặng cho Arthur Wilcox, hoặc thầy giáo lớp dưới đã òa khóc khi trao tặng cậu bé mề đay hạnh kiểm tốt đựng trong chiếc hộp màu đỏ thắm, được toàn thể hệ lớp ba nhất trí bầu chọn. Chỉ có mỗi một người không tán thành: Đó là Judkins - mi(1), cậu ta nói rằng mình có lý do đúng đắn để làm việc ấy. Hình như cậu ta ở cùng một phòng với đội trưởng của mình thì phải. Các bạn còn ngạc nhiên thêm khi biết Arthur Wilcox, sau nhiều năm, đã là người đầu tiên và duy nhất trở thành chỉ huy hướng đạo sinh của cả trường lẫn học sinh ngoại trú. Vì nhiệm vụ quá nặng nề thêm vào việc học hành thường ngày, thành ra cậu ta bị căng thẳng thần kinh phải nghỉ học hoàn toàn trong sáu tháng, sau đó cậu sẽ đi du lịch một vòng quanh thế giới: Thầy thuốc của gia đình tuyên bố như vậy. ... Mời các bạn đón đọc Giếng Thở Than của tác giả Montague Rhodes James.
Gặp Ma - Phan Văn Đà
Đã năm ngày nay trời mưa tầm tã, cả năm ngày không có một tí ánh nắng nào, ai cũng có cảm giác như đang phải sống những ngày trong hang, trong lỗ, ngột ngạt đến tức thở. Mọi người bần cùng lắm mới ra đường, nhất là đối với người già. Ông Giang vốn là người ưa hoạt động, ngày nào ông cũng phải đi ra ngoài vài tiếng đồng hồ. Nào là đi tập thể dục buổi sáng, buổi chiều; nào là đi gặp gỡ bạn bè đàm đạo thơ phú; nào là đi sinh hoạt hội đồng hương, hội người cao tuổi, hội Cựu chiến binh... Mấy ngày nay ông phải ngồi lì trong nhà, trông ông luôn hiện lên gương mặt cau có, bức bối như bị kiến cắn khắp người. Ngoài cái khổ không đi đâu được, ông còn cái khổ nhà dột, ẩm thấp. Ngôi nhà thuê ba tầng gần một trăm mét vuông nhưng lại có tới tám người ở của ba thế hệ; chỉ riêng việc phơi quần áo cho mọi người đi làm về bị ướt cũng đã khổ rồi. Mấy đứa cháu ngoại đang cùng ở với ông bà thì chẳng biết sợ là gì, mỗi ngày vài ba lần chúng chạy ra sân để hứng nước mưa, lại còn xô đẩy nhau ngã lấm hết cả. Ông bảo chúng nó không nghe, có lần ông phải đem roi ra dọa bọn chúng mới chịu vào. Bà Nhân - vợ ông, thấy các cháu đùa quá làm ông phải cáu, bà nói: - Bao giờ có được cái nhà để không phải đi thuê, để san sẻ bớt chúng nó ra cho đỡ khổ. Nghe bà nói vậy, ông Giang nói ngay: - Kể nhiều lúc cũng bực, nhưng nhiều khi có lũ trẻ cũng vui. Nếu không có chúng nó đánh cãi nhau thì làm sao bà lại trở thành quan Tòa xử kiện; không có chúng nó múa hát, đóng kịch thì làm sao tôi với bà có được những trận cười vỡ bụng. Nói cho công bằng, chúng nó có công to lắm, chúng nó làm cho mình trẻ lại, có đúng không bà? - Vâng, tất nhiên rồi, nhưng về lâu dài chắc chúng nó cũng không ở mãi như thế này đâu, vừa chật chội, vừa mất tự do của chúng nó. - Tôi cũng hiểu như bà nhưng với hoàn cảnh nhà mình hiện nay muốn tách cũng khó lắm, tôi với bà chỉ trông vào mấy đồng lương hưu, các con cũng chưa tích lũy được bao nhiêu, nếu có làm nhà thì phải đi vay, vay nhiều thì chết, nhà và đất bây giờ đắt lắm. Ông đang nói thì có tiếng chuông điện thoại, ông vội cầm ống nghe. - Ai gọi tôi đấy ạ? Từ đầu dây bên kia có tiếng người phụ nữ trả lời. - Tôi là Bao đây, ông có cần tiền lương sang mà lấy. Nghe vậy ông vội vàng mặc áo mưa để đi. Bà hỏi: “Có việc gì mà ông phải đi vội thế?” - Bà Bao điện tôi sang mà lĩnh lương hưu.Ông thừa hiểu hoàn cảnh của gia đình rồi nhưng ông vẫn hỏi “bà cần tiêu chưa để tôi đi lấy?” Bà nhìn ông với con mắt ái ngại, vì thương ông phải đi lúc mưa gió nhưng bà vẫn phải nói. Không lĩnh lấy gì mà tiêu, mấy ngày nay ở chợ cái gì cũng đắt, từ con cá mớ rau, đến cân gạo, củ khoai... Ông Giang bước vào sân nhà bà Bao, đã thấy trong nhà có mấy ông bà cùng cảnh đến lĩnh lương, đang chuyện trò rôm rả. Ông Giang cất tiếng chào bà Bao và mọi người, mọi người cũng đồng thanh chào lại. Ông Thành, một ông cụ vui tính, đến trước đã nhìn ông Giang và nói: “Mưa gió thế này cứ đắp chăn mà ngủ, ông đến đây làm gì?” Ông Giang trả lời hóm hỉnh: “Tôi cũng như các ông, nhớ bà Bao quá nên phải đến”... mọi người đều cười. Bà Bao đang phát tiền phải ngừng tay nói xen vào: “Các ông nhớ Bác Hồ chứ nhớ gì tôi, nói như ông Giang, nhà tôi nghe thấy thì chết”. Mọi người lại cười... Lâu ngày gặp nhau lĩnh lương ai cũng thấy vui, nhưng rồi ai cũng mong lĩnh xong để về còn lo chuyện mưa bão ở nhà. Lấy được đồng lương hưu về đưa cho bà, thấy bà tươi hẳn lên vì ngày mai đã có tiền ra chợ. Ông Giang vừa đưa mấy đồng lương cho bà, cái vui nho nhỏ vừa chợt đến thì bà lại lộ ra nét mặt lo âu, bà nói: “Lúc ông vừa đội áo mưa đi ra cổng thì ông Tường chủ cho thuê nhà vừa đến, ông ấy đến để lấy tiền thuê nhà tháng tới, ông ấy nói từ tháng tới mỗi tháng phải tăng thêm năm trăm ngàn, tức là tăng thêm 10%. Tôi có nói ông cháu đi lĩnh lương hưu chưa về nên chưa có tiền nhà đưa ông, tôi có đề nghị ông ấy cân nhắc lại giá thuê như thế thì cao quá, lấy đâu trả được. Tôi vừa nói xong ông ấy nói ngay với thái độ dứt khoát: “Tùy ông bà, bây giờ thị trường giá thuê nhà lên rồi, không tin ông bà đi mà khảo giá, nếu ông bà không thuê tôi lấy lại cũng được, hiện nay khối người hỏi thuê nhà nhưng không có nhà mà cho thuê. Vừa nói ông ấy vừa nhìn quanh nhà như muốn tìm kiếm điều gì, sau đấy ông ấy nói luôn: “Tôi cũng muốn lấy lại để sửa chữa nâng cấp thêm, sau khi nâng cấp giá thuê phải gấp rưỡi hiện nay.” ... Mời các bạn đón đọc Gặp Ma của tác giả Phan Văn Đà.