Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cơ May Thứ 2 - Virgil Gheorghiu

Tác phẩm còn được xuất bản bản dịch khác với tựa đề Lối Thoát Cuối Cùng. Chủ đề vẫn là cuộc đại chiến thứ hai, nhưng ở vào giai đoạn ác liệt nhất, giai đoạn điểm đỉnh chuẩn bị kết thúc. Một bức tranh toàn cảnh châu Âu với những cảnh tàn phá khủng khiếp, những nhà giam, những trại tập trung, những cái chết chóc, phân tán, chia ly, những nghi kỵ, âm mưu, những sự thủ tiêu, những sự phản bội... Đặc biệt nổi bật lên ở cuốn tiểu thuyết này là cái cảnh tầng tầng lớp lớp những người dân các nước có chiến tranh đi qua, phần lớn là những trí thức, bỏ cửa nhà, làng mạc quê hương ra đi, đi rất xa, sang những nước ở bên kia Đại Tây Dương: một cuộc di tản ở quy mô có lẽ lớn nhất trong lịch sử. *** Constant Virgil Gheorghiu sinh ngày 15- 9 - 1916 tại Lỗ Ma Mi, Constant Virgil Gheorghiu nghiên cứu triết học và thần học ở Gucarest và Heidelberg trước khi trở thành ký giả, rồi khâm sứ tại Bộ Ngoại giao Lỗ.   (Gheorghiu tên thật là Constantin Virgil Gheorghiu, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1916 tại Valea Albă, một làng trong cộng đồng Războieni, quận Neamţ, xứ Romania. Cha ông là một linh mục Chính thống giáo.)   Chống đối chế độ cọng sản, ông sang Pháp ở vào 1948. Cuốn tiểu thuyết đã làm thế giới tự do biết danh ông là "Giờ Thứ Hai Mươi Lăm "; ông lại càng nổi danh hơn nhờ một cuốn khác viết về cuộc tái chiếm đóng xứ Bessarabie. Ông sang Mỹ sống một thời gian, sau đó trở lại Pháp. Ông đã dùng ngòi bút để chống đối mãnh liệt cái thời đại phi nhân của chúng ta hiện nay trong hầu hết các tác phẩm của ông (La Seconde chance, La Cravache, Les Mendiants de miracles ...). Ngày 23- 5 - 1963 V. Gheorghiu được tấn phong linh mục Giáo hội chính thống.   Ngòi bút của Virgil Gheorghiu quả thật là chua chát và mỉa mai; bởi vì tác giả chống tất cả những chủ trương phi nhân. Các nhân vật của V. Gheorghiu sau những đày ải lần lượt chết đi dưới những vị kỷ khắc nghiệt được ngụy trang rất khéo léo bằng những chủ nghĩa hoa mỹ. Nhưng tất cả phải chết đi để cho ý thức nhân bản trong mỗi con người, mỗi xã hội được sống. Làm sao mà không chua chát và mỉa mai cho được khi mà hơn 20 năm sau, cuộc thế chiến hãi hùng, con người vẫn đang còn bơ vơ, lạc lõng, lo sợ trước những tranh chấp chủ nghĩa, trước những đe dọa đang đẩy họ vào những đường cùng không lối thoát. Và phải chăng V. Gheorghiu cũng đag viết về sự bế tắc của con người đau đớn trên xứ sở Việt Nam thân yêu. *** - Con người không thể sống trần truồng. Một con người có thể sống với những manh áo rách, đúng? Nhưng mà cậu, một manh áo rách cũng không có! Cậu chẳng có một thứ gì! Pierre Pillat nhìn bộ đồng phục kaki của Boris Bodnar. Anh nói tiếp: - Sau ba tháng, viên cảnh sát đầu tiên sẽ lột trần cậu ra, thu hồi những áo quần này gửi trả lại cho nhà trường. Cậu sẽ chẳng còn lấy một mảnh gì che thân nữa. Không còn lấy một chiếc sơmi, không còn lấy một đôi giày. Không một thứ gì cả! Cậu sẽ trần trụi hơn cả một tên Papua[3]. Cậu là người trần trụi nhất trần gian. Cậu muốn làm gì? Pierre Pillat tìm đôi mắt xanh của bạn. Đôi mắt xanh của Bodnar đang nhìn xuống đất. - Người ta đã trao tờ quyết định đuổi học của cậu chưa? - Pillat hỏi. Boris Bodnar tiếp tục nhìn xuống mặt đất phẳng lì của sân trường. Anh đưa tay lên túi áo để lấy tờ quyết định. Chiếc áo đồng phục có bốn túi, nhưng để làm nhục những học sinh bị đuổi người ta đã cắt cả bốn túi bỏ đi. Khi ngón tay Boris không sờ thấy túi áo ở chỗ ngày thường của nó, anh lại sờ lên cái túi thứ hai trên ngực. Nó cũng đã bị cắt. Hai túi dưới cũng vậy. Anh đỏ mặt. Boris Bodnar sáng nay, lúc sáu giờ, đã phải mặc quần áo của những người bị đuổi học. Từ khi anh khoác chiếc áo kia vào, anh đã sờ tay tìm túi một cách máy móc không biết bao nhiêu lần. Theo thói quen và không hề để ý, bàn tay anh cứ lần lượt tìm hết túi trên lại tìm túi dưới, cuối cùng nó đành buông thõng, cam lòng, như bây giờ đây: Những chiếc túi bị cắt, đó là nỗi sỉ nhục đầu tiên của Boris Bodnar. Đôi mắt xanh của anh nhìn một lúc vào vị trí thường ngày của nó trước kia. Anh nhận ra không chỉ thiếu túi mà cả cái mép viền màu vàng ở cổ áo cũng đã bị cắt mất. Người ta cũng đã cắt mất cái đường viền tay áo, đường viền dọc nẹp theo ống quần. Cả sáu chiếc khuy của chiếc áo dài cũng đã bị cắt nốt - những chiếc khuy mà anh lau đi lau lại mỗi buổi chiều, như tất cả các học sinh trường trung học hoàng gia, cho tới khi nó chói sáng lên như vàng thật mới thôi - nay cũng không còn. Sáu chiếc tất cả, không còn lấy một chiếc nào. Thay vào đó là sáu chiếc khuy sắt, bé xíu và han rỉ. Sáu cái lỗ khuyết trước đây cài kín sáu khuy vàng giờ đây quá rộng cho mấy cái khuy sắt cỏn con. Nó đã sờn mép và bẩn thỉu. Vắng những chiếc khuy vàng, bây giờ trông nó như những cái hốc mắt mất tròng. Không nhìn Pillat, Boris Bodnar lại sờ tay tìm túi quần. Mỗi học sinh có một quần kaki đồng phục bốn túi. Bốn túi ấy giờ đây đã bị khâu kín lại. Boris Bodnar trở nên cáu kỉnh. Mỗi cái túi mất đi làm cho anh thấy đau nhói trên mình như có ai cắt đi một mảnh con vào da thịt của anh chứ không phải vào bộ đồng phục. Anh nhớ ra rằng anh đã khâu thêm một cái túi con bên trong để cất tờ quyết định. - Anh muốn xem tờ quyết định đuổi học nó giống cái gì có phải không? - Boris hỏi, giọng mỉa mai. Anh đưa cho Pierre Pillat một mảnh giấy vàng gấp tư. Đó là một tờ giấy màu lá úa, một màu sắc hình như được chọn dùng riêng cho những trường hợp bị đuổi học, chết chóc hoặc tù đày. Pillat đọc: Chiếu theo sắc lệnh ban hành quy chế hoạt động của các trường trung học hoàng gia Rumani. Học sinh Boris Bodnar bị đuổi học và chỉ được mặc đồng phục hoàng gia trong thời hạn ba tháng kể từ ngày bị đuổi. Các nhân viên lực lượng cảnh sát có trách nhiệm thi hành quyết định này và giao nộp đồng phục lại cho Trường trung học hoàng gia Kichinev sau khi chấm dứt thời hạn ba tháng. ... Mời các bạn đón đọc Cơ May Thứ 2 của tác giả Virgil Gheorghiu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truy Tìm Dracula - Elizabeth Johnson Kostova
NXB Văn học và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam vừa cho ra mắt cuốn sách Truy Tìm Dracula, tác phẩm đầu tay của Elizabeth Johnson Kostova. Ngay sau khi ra đời, Truy Tìm Dracula đã được dịch ra 28 thứ tiếng, giành giải Hopwood Award cho Tiểu thuyết đang hoàn thành (2003), Quill Award cho Tác phẩm đầu tay (2005) và giải thưởng Book Sense Award dành cho Tiểu thuyết xuất sắc nhất (2006). Tác phẩm gần như một kỳ tích trong ngành xuất bản khi tác giả của nó, khi ấy còn là một nhà văn vô danh, đã nhận được hai triệu đôla Mỹ nhuận bút ứng trước, gấp nhiều lần mức trung bình dành cho một tác giả ở cùng tầm cỡ.  Năm 2007, Sony đã mua bản quyền dựng phim tác phẩm này. Elizabeth Kostova đã mất 10 năm để viết ra Truy Tìm Dracula, từ những cảm nhận mơ hồ và nhờ trí tưởng tượng vô cùng phong phú của bà. Những gì đã được viết mở ra hành trình khám phá thú vị cho bạn đọc, như Victoria A. Brownworth đánh giá trên tờ Baltimore Sun "vừa là chuyện kinh dị, vừa là lịch sử, vừa là chuyện tình lãng mạn... Kostova có một khả năng kể chuyện sắc sảo, cùng một câu chuyện kỳ diệu để thuật lại với chúng ta". “Cuốn tiểu thuyết hoành tráng với một phụ nữ thông minh vừa là nhân vật chính vừa là người kể chuyện sẽ kéo bạn vào từng trang sách, bạn sẽ đọc suốt đêm và sẽ thoáng rùng mình khi những cơn gió mùa rền rĩ bên ngoài cửa sổ.” - Uma Mahadevan-Dasgupta, Indian Express “Kostova đã tái tạo một Dracula vừa kinh hoàng vừa đáng sợ như hình ảnh ma cà rồng hút máu đã từng in đậm trong truyền thống văn hóa dân gian qua câu chuyện kể của Bram Stoker từ năm 1897… Nhưng trong phần kết thúc, có lẽ Kostova còn xuất sắc hơn cả Stoker.” - USA Today “Mê hoặc như thôi miên… Gần như không thể bỏ cuốn sách xuống được… Một cảm giác rùng mình ớn lạnh xuyên suốt câu chuyện.” - Brian Richard Boylan, Denver Post. “Truy tìm Dracula là loại sách mà người ta không thể nửa chừng bỏ xuống được.” - Charles Matthews, San Jose Mercury News “Gần như không thể bỏ Truy tìm Dracula xuống một khi đã đụng đến gáy sách.” - Michael D. Clark, Houston Chronicle “Một bí ẩn lịch sử đồ sộ… với tham vọng can thiệp vào lịch sử, căng thẳng hồi hộp, lãng mạn, đầy tri thức… Kostova đã dần dần làm sáng tỏ truyền thuyết về ma cà rồng.” - Sherryl Connelly, New York Times News “Không chỉ là câu chuyện lịch sử súc tích, phong phú đậm chất văn hóa và phiêu lưu, Truy tìm Dracula còn là một truyện trinh thám thần bí thông minh và đáng đọc.” - Lev Grossman, Time Tác giả Elizabeth Johnson Kostova: Nhà văn Elizabeth Johnson Kostova Elizabeth Johnson Kostova sinh năm 1964 tại Mỹ, tốt nghiệp đại học Yale và lấy bằng Thạc sĩ Văn chương tại Đại học Michigan. Tháng Năm 2007, Elizabeth Kostova thành lập một quỹ mang tên cô. Quỹ này sẽ hỗ trợ việc sáng tác và dịch thuật các tác phẩm văn học đương đại của Bungari, đồng thời tăng cường tình hữu nghị giữa các tác giả Bungari vàcác tác giả Anh, Mỹ. Elizabeth Kostova vừa ra mắt tiểu thuyết mới nhất, “The Swan Thieves”, vào ngày 12 tháng 1 năm 2010 vừa qua. Mời các bạn đón đọc Truy Tìm Dracula của tác giả Elizabeth Johnson Kostova.  
Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp - Andrew Lang
Tên ebook: Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp (full prc, pdf, epub) Tác giả : Andrew Lang Thể loại: Cổ đại, Sách hay, Tiểu thuyết, Thần thoại, Văn học phương Tây Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa thông tin Xuất bản năm:  2008 Khổ: 13 x 20.5 cm Số trang : 556 Thực hiện ebook : hoi_ls Nguồn: thuvien-ebook.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp - Andrew Lang Giới thiệu: Thành Troy có thực sự tồn tại hay không? Cuộc chiến và con ngựa khổng lồ thành Troy là huyền thoại hay là một thực tế lịch sử? Theo sử thi Iliad của Hy Lạp, hoàng tử Paris thành Troy đã "nẫng" mất nàng Helen xinh đẹp tuyệt trần từ tay vua Hy Lạp Menelaus chồng nàng. Vì hành động này mà hai nước vốn giao hảo với nhau bỗng nổi can qua, và cuối cùng người anh hùng Achilles đã dẫn đoàn quân Hy Lạp sang vây hãm thành Troy để "rửa mối quốc nhục". Theo truyền thuyết, nhà thơ Homer viết thiên sử thi này vào khoảng thế kỷ VIII - IX trước CN, sau cuộc chiến tranh khoảng vài trăm năm. Phần lớn tác phẩm, từ nhân vật cho đến diễn biến, đều mang nặng màu sắc huyền thoại. Hơn nữa, không có một bằng chứng nào về sự tồn tại của cả Achilles lẫn Helen. Tác giả Andrew Lang: Nhà văn Andrew Lang             Andrew Lang sinh ngày 31 tháng 5 năm 1844 tại Selkirk, Scotland, mất ngày 20 tháng 7 năm 1912. Mọi người thường gọi ông là anh bạn Scots của những lá thư bởi trong suốt cuộc đời mình ông đã viết rất nhiều thư. Ông là một nhà thơ, một nhà tiểu thuyết, một nhà phê bình văn học và là người có nhiều đóng góp cho ngành Nhân loại học. Hiện tại, ông được mọi người biết đến nhiều nhất với tư cách là nhà sưu tầm những câu chuyện dân gian và thần thoại. Tại trường đại học St Andrews, các bài học được đặt tên theo tên của ông.             Ông học tại Học viện Edinburge, Đại học St. Andrews và đại học Balliol, Oxford. Năm 1868, sau khi học xong năm cuối, ông trở thành nghiên cứu sinh và sau này là Hội viên danh dự của Trường cao đẳng Merton. Sau khi tốt nghiệp, ông vừa viết báo, vừa làm thơ, vừa là nhà phê bình và nhà lịch sử, chính vì vậy ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng với tư cách là một trong những nhà văn có tài và có năng lực nhất vào thời bấy giờ. Nhưng chuyên ngành ông dành nhiều thời gian và tâm huyết là Chuyện dân gian và Nhân loại học.             Ngày nay, Lang được biết đến nhờ những cuốn sách về chuyện dân gian, những câu chuyện thần thoại và tôn giáo. Tác phẩm xuất bản đầu tay của ông là Phong tục và thần thoại, Nghi lễ và Tôn giáo (1887), trong hai tác phẩm này ông giải thích những nhân tố "phi lý" của thần thoại chính là những gì còn sót lại của những hình thức nguyên thuỷ. Cuốn Đi theo Tôn giáo của ông chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng Người nguyên thuỷ quý tộc vào thế kỷ XVIII. Trong tác phẩm này, ông đề cập đến sự tồn tại của những ý tưởng tinh thần siêu nhiên giữa những bộ tộc được gọi là "hoang dã", nó tồn tại song song với những mối quan tâm hiện đại vào thời bấy giờ về những sự kiện huyền bí ở nước Anh.   Truyền thuyết thành Troy và Hi Lạp được xuất bản lần đầu tiên năm 1902 bao gồm những câu chuyện mang màu sắc thần thoại, huyền bí, hấp dẫn. Sau đó cuốn sách được tái bản nhiều lần và được in bằng nhiều thứ tiếng trên thế giới. Nó lôi cuốn bao thế hệ trẻ em và cả người lớ cho đến tận bây giờ. Tiếp theo là một loạt các tuyển tập chuyện thần thoại khác của ông được xuất bản, tạo thành Những cuốn sách thần thoại của Andrew Lang. Mời các bạn đón đọc Truyền thuyết thành Troy và Hy Lạp của tác giả Andrew Lang.
Buồn Nôn - Jean Paul Sartre
BUỒN NÔN   Thông Tin     Tên truyện: Buồn Nôn Tác giả: Jean Paul Sartre Dịch: Phùng Thăng Thể loại: Tiểu thuyết, Triết học, Nhật ký, Văn học phương tây. Tạo ebook © Romance Book, 2013 Thực hiện: Summer Scent, Nguyet Anh, Vũ Vũ, Nini Quynh Cảm ơn Russie, thành viên diễn đàn TVE đã scan sách để nhóm thực hiện ebook này. Edit ebook lần 2: Kayako Saeki Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com   Giới Thiệu   Với phương pháp mô tả theo hiện tượng học, nền văn nghệ thời mới đã thực hiện được cuộc hôn phối toàn bích với khoa triết lý. Trong số những triết gia ở trên đỉnh cao của thời hiện đại, Sartre là hình ảnh biểu trưng toàn vẹn cho lời quả quyết trên, nhờ vào thiên tài văn nghệ và sức sáng tác phong phú của ông. Dòng máu văn nghệ luân lưu trong huyết quản Sartre đã chuyên chở đến cho quần chúng độc giả những chất liệu cần thiết để đi vào tư tưởng Sartre, và còn gây nhiều ảnh hưởng quan trọng hơn là những bộ tiết luận vĩ đại của ông. Tác phẩm Buồn Nôn (La Nausée, 1938) là một trong số những tác phẩm giá trị nhất của nền văn học thế kỷ thứ XX, đồng thời cũng là tác phẩm thuộc vào loại khó đọc, vì ngoài giá trị về phương diện thẩm mỹ, tác giả còn muốn đưa ta chạm mặt thực sự với một trực giác nguyên uỷ, làm trung tâm điểm cho nền hiện sinh vô thần của ông: trực giác về hiện hữu của sự vật. Tất cả cố gắng của Roquentin – nhân vật chính và cũng là tác giả tập Nhật ký này - nhằm xoáy sâu cái nhìn, xuyên thủng qua những lần vỏ ngoài bao bọc, đề đạt đến tri kiến đích thực về bản chất của thực tại. Tri kiến ấy là tri kiến của hiện tính (existence) của vạn vật. Sự vật hiện hữu. Sự hiện hữu ấy mang tính chất lầm lì, dày đặc, bất khả giải ngộ và ngẫu nhiên. Chính cái tính cách bất tất (contingence) của sự vật là chất men gợi dậy cơn Buồn Nôn. Người ta bị đẩy vào trong cõi bao la đồng nhất của hiện hữu, một hiện hữu thoát vượt ra ngoài mọi tương quan để chỉ còn giữ lại mối tương quan duy nhất là tính chất “dư thừa” của những sự vật với nhau. Tất cả dư thừa nên tất cả đều là phi lý. Mọi sự đều phi lý: đây không phải là tiếng kêu phẫn hận với cuộc đời mà là một nỗi cay đắng âm thầm phát sinh từ trực giác về hiện hữu của sự vật. Ông cho tận cùng nỗi cay đắng ấy, con nguời lại tìm thấy sinh lộ giải phóng trực giác về hiện hữu dẫn đến sự khước từ Thượng đế và tự do trong trách nhiệm để tự thể hiện lý vận mệnh của mình. Người ta đã có lý khi xem Buồn Nôn là khai từ thơ mộng cho thiên triết luận hữu thể và vô thể, hồng tâm của tư tưởng Sartre. Giờ đây, chỉ còn buông mình theo lời kể và dần dà đánh thức dậy anh chàng Roquentin đang ngủ im trong mỗi người chúng ta.
eBook Lối Mòn Rêu Phủ - Nguyễn Thị Phi Oanh full prc, pdf, epub [Tình cảm]
      Thông Tin   Tên truyện: Lối mòn Rêu Phủ Tác giả: Nguyễn Thị Phi Oanh Thể loại:  T truyện teen, Tình cảm, Văn học việt nam, Văn học phương đông Edit ebook: Kayako Saeki Nguồn: diendanlequydon.com Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com     Giới Thiệu   Mộng Nghi, Đình Nghi, Dung Nghi, ba người con, ba tính cách khác nhau, nhưng họ chính là sức sống cho cả gia đình, khiến người ta thấy được những mảng màu đa sắc của cuộc sống, trẻ trung lại sâu sắc trong suy nghĩ.   Mộng Nghi thích ngồi một mình bên hồ nước vào những chiều để nhìn cá lượn, mây bay khi bóng hoàng hôn buông mình trên lối cỏ . Chị yêu thơ thích nhạc, chị quý màu sắc trang nhã trên lớp quần áo không kiểu cọ của mình   Dung Nghi thích hợp với vai người tình trên đường phố, một người yêu trên piste lúc về đêm dưới ánh đèn mờ của vũ trường rực rỡ, hoặc phu nhân của nhà doanh nghiệp trong những cuộc tiếp tân nhộn nhịp hơn là người vợ đơn thuần.