Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF MẶC HỌC (MẶC TỬ VÀ BIỆT HỌC) - NGUYỄN HIẾN LÊ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Trong tập Hồi kí, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết về cuốn Mặc học như sau:Từ năm 1977, được nhàn rỗi, tôi lại tiếp tục nghiên cứu hết các triết gia lớn đời Tiên Tần, để thực hiện xong chương trình tôi đã vạch từ sáu năm trước và soạn thêm năm cuốn nữa: Mặc Học, Lão Tử, Luận Ngữ, Khổng Tử, Kinh Dịch.– Mặc học (gồm Mặc Tử và phái Biệt Mặc)Đạo Mặc là đạo Khổng của bình dân, do một tiện nhân thành lập. Mặc Tử sinh sau Khổng Tử, chịu ảnh hưởng của Khổng, cũng tôn quân, trọng hiền, đề cao đạo đức và sự tu thân như Khổng, nhưng chống Khổng ở chỗ ghét lễ nghi, cho nó là phiền phức, xa xỉ, ghét ca nhạc, mà lại có tinh thần tín ngưỡng rất mạnh. Đạo Mặc gần như một tôn giáo, tổ chức cũng chặt chẽ như một tôn giáo. Nó chỉ thịnh ở thời Chiến Quốc, các thời sau không một triều đại nào dùng nó vì thuyết kiêm ái và bỏ chính sách mĩ thuật, sống khắc khổ của nó không hợp nhân tình, nhưng nó có ảnh hưởng khá lớn: mở đường cho Lão Tử vì nó chủ trương bình đẳng giữa các giai cấp (không kẻ giàu người nghèo) và trở về lối sống bình dị; mở đường cho cả pháp gia nữa vì trọng quyền lực, trọng lao động và buộc người dưới phải thống nhất tư tưởng với người trên, buộc dân phải cáo gian…Mặc Tử mất rồi, chỉ trong vài thế hệ, môn đồ không còn giữ chủ trương của ông nữa, bỏ hẳn chính trị, đạo đức, mà suy tư về tri thức, biện luận, khoa học (hình học, lực học, quang học)… khiến cho triết học Trung Hoa có được vài nét của triết học phương Tây thời Hi Lạp. Đó là một cống hiến đáng kể của bọn môn đệ Mặc Tử mà người ta gọi là phái Biệt Mặc.Gần đây các học giả Trung Hoa rất chú ý tới Mặc học vì họ nghĩ rằng giá triết học đó không bị dìm trong mấy ngàn năm thì chưa biết chừng Trung Hoa đã có tôn giáo, khoa học như phương Tây. Một lẽ nữa là chính sách của Mặc Tử có vài điểm hợp với chế độ cộng sản.Ở nước ta, mới chỉ có Ngô Tất Tố giới thiệu Mặc Tử trong một tập mỏng. Bộ của tôi dày 350 trang, nửa trên về Mặc Tử, nửa dưới về Biệt Mặc, gọi chung là Mặc học. Tôi lại trích dịch mười chín thiên quan trọng nhất của Mặc Tử. Ông có giọng một nhà truyền giáo: hùng hồn, bình dị, lập đi lập lại để đập vào óc thính giả.Đọc cuốn Mặc học chúng ta thấy có rất nhiều chỗ cụ dịch lại những đoạn mà trước kia hai cụ và cụ Giản Chi đã dịch trong Đại cương triết học Trung Quốc, và một phần do vậy mà nhận định của cụ về học thuyết của Mặc tử trong tác phẩm đó nhiều chỗ cũng không giống nhau. Ngay trong cuốn Tuân tử cũng có chỗ khác biệt với cuốn Mặc Học. Trong cuốn Tuân tử, hai cụ bảo:“Tuân Tử rất đề cao nhạc, cho nên ông lấy làm quái về cái chủ trương “phi nhạc” của Mặc gia vì Mặc kết tội nhạc là thứ nhạc của bọn cầm quyền, xa xỉ, không ích gì cho dân, mà tốn của dân. Trái lại, Tuân Tử năm lần, bảy lượt, nhắc đi nhắc lại câu hỏi: “Mặc Tử chê nhạc nghĩa là làm sao?” (Nhi Mặc Tử phi chi nại hà?). Và ông kết luận: Mặc đáng làm tội: “Thế mà Mặc Tử lại cho lễ nhạc là không phải thì thật đáng làm tội” (Nhi Mặc Tử phi chi, cơ ngộ hình dã).Thật ra, kết tội Mặc thì oan cho Mặc. Không phải Mặc không biết trọng lễ nhạc. Không phải Mặc chỉ thấy cái lợi của cái “hữu” mà không thấy cái dụng của cái “vô”. Cũng không phải Mặc không biết cái lẽ “ngựa kéo mãi không nghĩ, cung dương mãi không buông, giống có huyết khí ai mà chịu nổi” (Lời Trịnh Phồn phê bình chủ trương “phi nhạc” của Mặc trong Tam Biện). Sở dĩ Mặc “phi nhạc” là vì dân chúng đương thời cùng khổ quá mà đối với trăm họ đói rét thì cơm áo cấp thiết hơn âm nhạc, ca vũ và các bộ môn nghệ thuật khác nhiều. Có lẽ chỉ giản dị như thế thôi!”Còn trong cuốn Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê bác ý kiến trên. Sau khi dẫn một đoạn trong thiên Công Mạnh, cụ kết như sau:“Rõ ràng Mặc tử bắt mọi người phải khắc khổ như ông, mạc sát nhạc và mọi mĩ nghệ, không hiểu rằng nhạc, nếu tốt, có công dịch tục, mà có mĩ nghệ thì kinh tế mới phát triển được. Ông bảo nhu cầu của dân mệt thì được nghỉ ngơi, mà ông quên rằng nghe nhạc là một cách nghỉ ngơi rất tốt; ông chỉ lo tận lực làm việc, sản xuất cho thật nhiều, nhưng ca nhạc có thể giúp cho năng suất tăng lên mà quên mệt, tức như các điệu dân ca khi đi cấy, các điệu hò chèo thuyền v.v… Ngày nay tại các xí nghiệp lớn, người ta còn cho thợ vừa làm việc vừa nghe những bản nhạc êm đềm nữa”.Sau cuốn Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê còn soạn thêm một số tác phẩm nữa, trong đó có bộ Sử Trung Quốc. Trong Mặc học, cụ nêu thuyết vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn như sau:“Theo truyền thuyết, vua Nghiêu trị vì 100 năm, từ 2357 đến 2257, rồi nhường ngôi cho vua Thuấn chứ không truyền lại cho con. Vua Thuấn trị vì từ 2255 đến 2207, rồi nhường ngôi cho vua Vũ (nhà Hạ) chứ không truyền ngôi cho con. Hai ông ấy rất thương dân, rất bình dân, được dân coi như cha. Và dân tộc Trung Hoa từ thời Tiên Tần đến thời Thanh, đều coi thời thịnh trị của Nghiêu, Thuấn là hoàng kim thời đại của họ. Truyền thuyết đó đáng tin đến mức nào, chưa ai quyết đoán được; có thể hai ông ấy chỉ là tù trưởng của một bộ lạc lớn thời mà Trung Hoa mới biết canh tác, theo chế độ thị tộc, chưa thành một quốc gia, mà việc “truyền hiền” chứ không “truyền tử” chỉ là tục chung của các bộ lạc chứ không phải là “đức lớn” của Nghiêu, Thuấn: khi họ chết thì lựa người nào có tài, có công lớn hơn cả, đưa lên thay họ, họ không có quyền truyền ngôi cho ai hết”.Còn trong bộ Sử Trung Quốc, cụ lại nêu một thuyết khác. Cụ bảo:“Nghiêu và Thuấn chỉ là tù trưởng của một thị tộc. Có thể Nghiêu được nhiều bộ lạc liên hiệp bầu làm thủ lĩnh (mỗi bộ lạc gồm nhiều thị tộc). Nghiêu, Thuấn lên ngôi cách nhau cả trăm năm như truyền thuyết chép lại thì khó có sự Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn được: lúc đó Nghiêu bao nhiêu tuổi, Thuấn bao nhiêu tuổi? Có lẽ Thuấn là thủ lĩnh nhiều bộ lạc khác, sau chiếm được đất đai của Nghiêu, rồi thay Nghiêu mà làm “thiên tử”.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Triết học Descartes
Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes". Triết học truyền thống khởi đi từ thế giới và luôn lấy thế giới làm nền, còn triết học Descartes lại khởi sự từ hành vi suy tưởng của con người và luôn lấy đó làm căn cứ. Triết học của Descartes là triết học tinh thần và triết học truyền thống là triết học thiên nhiên. Descartes đả phá tất cả, Hy Lạp và Trung cổ khởi công từ chỗ truy nhận thế giới vĩnh cửu và tuyệt đối chân thật, nay Descartes khởi sự từ chỗ coi thế giới là truyện bày đặt, truyện biến ngôn và ông khởi sự từ hành vi suy tư của con người. Descartes xác định lại 2 lĩnh vực khoa học và triết học, phân ranh rõ rệt giữa những truy tầm khoa học và những suy niệm triết học. Descartes khởi sự triết học từ tư tưởng con người, tức yếu tố tinh thần của con người chứ không xây triết học trên thế giới như triết học truyền thống đã làm. Vì vậy, triết học của Descartes là triết học về con người, nhưng ngạc nhiên là ông không định nghĩa con người là con vật có lý trí. Ông đề cao ý chí (volonté) và tự do hơn. Ông coi ý chí là yếu tố căn bản và cao trọng nhất nơi con người. Có thể nói rằng, con người trong triết Descartes không còn là một vật trong thiên nhiên nữa, nhưng là một tinh thần. Descartes coi con người là một hữu thể siêu việt. Và Descartes là chỗ đứt quãng, phân ranh hai thời đại đi trước và đi sau thành hai nền tư tưởng khác hẳn nhau. Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes". Triết học truyền thống khởi đi từ thế giới và luôn lấy thế giới làm nền, còn triết học Descartes lại khởi sự từ hành vi suy tưởng của con người và luôn lấy đó làm căn cứ. Triết học của Descartes là triết học tinh thần và triết học truyền thống là triết học thiên nhiên. Descartes đả phá tất cả, Hy Lạp và Trung cổ khởi công từ chỗ truy nhận thế giới vĩnh cửu và tuyệt đối chân thật, nay Descartes khởi sự từ chỗ coi thế giới là truyện bày đặt, truyện biến ngôn và ông khởi sự từ hành vi suy tư của con người. Descartes xác định lại 2 lĩnh vực khoa học và triết học, phân ranh rõ rệt giữa những truy tầm khoa học và những suy niệm triết học. Descartes khởi sự triết học từ tư tưởng con người, tức yếu tố tinh thần của con người chứ không xây triết học trên thế giới như triết học truyền thống đã làm. Vì vậy, triết học của Descartes là triết học về con người, nhưng ngạc nhiên là ông không định nghĩa con người là con vật có lý trí. Ông đề cao ý chí (volonté) và tự do hơn. Ông coi ý chí là yếu tố căn bản và cao trọng nhất nơi con người. Có thể nói rằng, con người trong triết Descartes không còn là một vật trong thiên nhiên nữa, nhưng là một tinh thần. Descartes coi con người là một hữu thể siêu việt. Và Descartes là chỗ đứt quãng, phân ranh hai thời đại đi trước và đi sau thành hai nền tư tưởng khác hẳn nhau.Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes". Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes".
Trang Tử - Trí tuệ của tự nhiên
Trang Tử (tiếng Hán: 莊子; ~365–290 trước CN[1]) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu (莊周) và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông còn có tên là Mông Lại (蒙吏), Mông Trang (蒙莊) hay Mông Tẩu (蒙叟). Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Trang Tử (tiếng Hán: 莊子; ~365–290 trước CN[1]) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu (莊周) và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông còn có tên là Mông Lại (蒙吏), Mông Trang (蒙莊) hay Mông Tẩu (蒙叟). Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Cuốn sách Trang Tử - Trí tuệ của tự nhiên do NXB Đồng Nai ấn hành được xem là tập ngụ ngôn thể hiện một trí tuệ mênh mông và phóng túng mang một màu sắc lãng mạn xa vời có ảnh hưởng lớn đến triết học, văn học đời sau. Cuốn sách Trang Tử - Trí tuệ của tự nhiên do NXB Đồng Nai ấn hành được xem là tập ngụ ngôn thể hiện một trí tuệ mênh mông và phóng túng mang một màu sắc lãng mạn xa vời có ảnh hưởng lớn đến triết học, văn học đời sau.Cuốn sách gồm 33 chương. Mời các bạn cùng tham khảo.Mục Lục : 1. Tiêu dao du 2. Tề vật luận 3. Dưỡng sinh chủ 4. Nhân gian thế 5. Đức sung phù 6. Đại Tông Sư 7. Ứng Đế Vương 8. Biển mẫu 9. Mã đề 10. Tề khiếp 11. Tại hựu 12. Thiên địa 13. Thiên đạo 14. Thiên vận 15. Khắc ý 16. Thiên tính 17. Thu thủy 18. Chí lạc 19. Đạt sinh ..... 28. Nhượng Vương 29. Đạo chích 30. Thuyết kiếm 31. Ngư phụ 32. Liệt ngự khấu 33. Thiện địa Mục Lục :1. Tiêu dao du2. Tề vật luận3. Dưỡng sinh chủ4. Nhân gian thế5. Đức sung phù6. Đại Tông Sư7. Ứng Đế Vương8. Biển mẫu9. Mã đề10. Tề khiếp11. Tại hựu12. Thiên địa13. Thiên đạo14. Thiên vận15. Khắc ý16. Thiên tính17. Thu thủy18. Chí lạc19. Đạt sinh.....28. Nhượng Vương29. Đạo chích30. Thuyết kiếm31. Ngư phụ32. Liệt ngự khấu33. Thiện địa
Bên kia Thiện Ác - Friedrich Nietzsche
Thiện ác:Ngày nay sự phát triển con người không thể tách rời việc quan tâm sâu sắc, toàn diện đến văn hóa của nó. Vấn đề quan trọng là làm thế nào con người có được hiểu biết, có ý thức và đời sống văn hóa thực sự cao, sâu sắc cho quá trình này. Hi vọng việc tìm hiểu tác phẩm nổi tiếng của F. Nietzsche Bên kia thiện ác, sẽ đem lại cho người đọc một trong những câu trả lời quan trọng và thuyết phục. Bởi vì, đối với F. Nietzsche, văn hóa có nghĩa là giá trị, mà những giá trị cao quý chỉ có thể được sáng tạo bởi triết học.
Đường Vào Hiện Sinh - Krishnamurti
Đường Vào Hiện Sinh Đường Vào Hiện SinhTác giả: Jiddu Krishnamurti Tác giả: Jiddu KrishnamurtiNhà xuất bản: Lao Động Nhà xuất bản: Lao ĐộngNgười dịch: Thích Thiện Sáng (Thanh Lương) Người dịch: Thích Thiện Sáng (Thanh Lương)Người đọc: Tuấn Anh, Kiều Hạnh Người đọc: Tuấn Anh, Kiều Hạnh Jiddu Krishnamruti sinh năm 1895 tại Ấn Độ, ở độ tuổi 13 được Hội Thông Thiên Học nhận về và xem ông là phương tiện truyền bá chân lý cho bậc "đạo sư của thế giới" mà sự sắp xuất hiện của ngài đã luôn được họ công bố. Krishnamurti nhanh chóng nổi bật là một bậc đạo sư có quyền lực, không thoả hiệp và không thể xếp loại, vì những cuộc nói chuyện và tác phẩm của ông không hề có liên kết gì với bất kỳ tôn giáo cá biệt nào và cũng không thuộc về Đông phương hay Tây phương mà là cho toàn thể thế giới. Kiên quyết chối từ hình ảnh cứu thế, năm 1929 ông đột ngột giải tán tổ chức lớn lao có nhiều tiền bạc được tạo dựng xung quanh ông và tuyên bố chân lý là một "lãnh địa không có đường vào" mà không một tôn giáo, triết học hay tông phái chính thức nào có thể tiếp cận đến được. Jiddu Krishnamruti sinh năm 1895 tại Ấn Độ, ở độ tuổi 13 được Hội Thông Thiên Học nhận về và xem ông là phương tiện truyền bá chân lý cho bậc "đạo sư của thế giới" mà sự sắp xuất hiện của ngài đã luôn được họ công bố. Krishnamurti nhanh chóng nổi bật là một bậc đạo sư có quyền lực, không thoả hiệp và không thể xếp loại, vì những cuộc nói chuyện và tác phẩm của ông không hề có liên kết gì với bất kỳ tôn giáo cá biệt nào và cũng không thuộc về Đông phương hay Tây phương mà là cho toàn thể thế giới. Kiên quyết chối từ hình ảnh cứu thế, năm 1929 ông đột ngột giải tán tổ chức lớn lao có nhiều tiền bạc được tạo dựng xung quanh ông và tuyên bố chân lý là một "lãnh địa không có đường vào" mà không một tôn giáo, triết học hay tông phái chính thức nào có thể tiếp cận đến được.Trọn phần còn lại của đời minh, Krishnamurti khăng khăng nhất mực bác bỏ địa vị đạo sư mà người ta đã cố gán cho ông. Ông vẫn tiếp tục thu hút thính giả đông đảo khắp thế giới nhưng không hề đòi hỏi quyền lực nào, không hề muốn có đệ tử, và luôn luôn nói chuyện như là một cá nhân với một cá nhân. Cốt lõi giáo lý của ông là sự nhận thức rõ ràng rằng những cuộc thay đổi nền tảng trong xã hội có thể được phát sinh chỉ bởi một sự chuyển hoá thức tâm cá nhân. Sự cần thiết phải có sự tự tri và tự thấu hiểu chính mình những ảnh hưởng có tính giới hạn, chia rẽ của những quy định tôn giáo và quốc gia không ngừng được nhấn mạnh. Trọn phần còn lại của đời minh, Krishnamurti khăng khăng nhất mực bác bỏ địa vị đạo sư mà người ta đã cố gán cho ông. Ông vẫn tiếp tục thu hút thính giả đông đảo khắp thế giới nhưng không hề đòi hỏi quyền lực nào, không hề muốn có đệ tử, và luôn luôn nói chuyện như là một cá nhân với một cá nhân. Cốt lõi giáo lý của ông là sự nhận thức rõ ràng rằng những cuộc thay đổi nền tảng trong xã hội có thể được phát sinh chỉ bởi một sự chuyển hoá thức tâm cá nhân. Sự cần thiết phải có sự tự tri và tự thấu hiểu chính mình những ảnh hưởng có tính giới hạn, chia rẽ của những quy định tôn giáo và quốc gia không ngừng được nhấn mạnh.Krishnamurti đã luôn luôn vạch ra cho thấy sự mở rộng tâm hồn, vì "khoảng không bao la trong trí não đó sẽ có thứ năng lực không thể tưởng được". Điều này dường như đã là suối nguồn cảm hứng sáng tạo của riêng ông và là chìa khoá cho ảnh hưởng của ông đối với một công chúng rộng lớn đa dạng như thế. Krishnamurti đã luôn luôn vạch ra cho thấy sự mở rộng tâm hồn, vì "khoảng không bao la trong trí não đó sẽ có thứ năng lực không thể tưởng được". Điều này dường như đã là suối nguồn cảm hứng sáng tạo của riêng ông và là chìa khoá cho ảnh hưởng của ông đối với một công chúng rộng lớn đa dạng như thế.Krishamurti tiếp tục nói chuyện khắp nơi trên thế giới cho đến khi ông mất năm 1986 ở tuổi 90. Những cuộc nói chuyện và đàm thoại, những bài viết, nhật ký và thư từ của ông đã được lưu trữ giữ gìn trong 60 quyển sách và hàng trăm băng đĩa. Quyển sách này được kết tập từ khối lượng giáo lý đồ sộ đó, đặc biệt thích hợp và khẩn thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Krishamurti tiếp tục nói chuyện khắp nơi trên thế giới cho đến khi ông mất năm 1986 ở tuổi 90. Những cuộc nói chuyện và đàm thoại, những bài viết, nhật ký và thư từ của ông đã được lưu trữ giữ gìn trong 60 quyển sách và hàng trăm băng đĩa. Quyển sách này được kết tập từ khối lượng giáo lý đồ sộ đó, đặc biệt thích hợp và khẩn thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta.Đến với ĐƯỜNG VÀO HIỆN SINH, ta sẽ cảm nhận một trạng thái ngây ngất xuất thần khi đọc nó, dù chỉ trong một giây phút ngắn ngủi cũng sẽ mở ra cho ta một chân trời bao la chưa tùng có, mà trước đó ta chưa từng được tận hưởng khi sống trong thế giới hiện tại. Đến với ĐƯỜNG VÀO HIỆN SINH, ta sẽ cảm nhận một trạng thái ngây ngất xuất thần khi đọc nó, dù chỉ trong một giây phút ngắn ngủi cũng sẽ mở ra cho ta một chân trời bao la chưa tùng có, mà trước đó ta chưa từng được tận hưởng khi sống trong thế giới hiện tại.