Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Người Sống Và Những Người Chết

Những người sống và những người chết (tiếng Nga: Живые и мёртвые) là tác phẩm đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết (Những người sống và những người chết, Người ta sinh ra không phải đã là lính, Mùa hè cuối cùng) về đề tài Chiến tranh Vệ quốc (1941 - 1945) của nhà văn Konstantin Simonov. Hai phần đầu tiên của cuốn tiểu thuyết được xuất bản vào các năm 1959 và 1962, phần thứ ba vào năm 1971. Tác phẩm được sáng tác theo hơi hướng sử thi, toàn bộ cốt truyện trải dài theo trình tự từ tháng 6 năm 1941 cho đến tháng 7 năm 1944. Theo các nhà phê bình văn học Soviet, đây là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất về đề tài Chiến tranh Vệ quốc. *** 'Tôi có cảm giác chung với tiểu thuyết Liên xô thời kỳ chống phát xít, đó là mỗi khi đọc xong một cuốn sách, bỗng chợt thấy tất cả nhân vật trong đó, những anh dép, lép, nhép, nốp, lốp, xốp… như trở thành đồng đội của mình, hoặc đúng hơn, thấy mình trở thành một người trong số họ. Tôi đã theo anh phóng viên quân đội Xintxốp suốt những trận chiến đấu, phá vây, chia tay và gặp lại, tôi đã gặp Xerpilin, Tanhia, Dôlôtarép… Tôi cũng gặp những kẻ còn sống mà như đã chết, hèn nhát mạt hạng như gã Thượng úy Kruchikốp, sống bấu víu bằng cách tự lừa mình rằng còn có kẻ còn hèn nhát hơn mình, hoặc dối trá hơn mình, và mình sẽ vạch mặt kẻ đó. Lúc ấy mình sẽ là người hùng. Lúc ấy mình sẽ yên tâm tin rằng mình không hèn nhát. Cỗ máy chiến tranh xay nghiền những thanh niên, trung niên, phụ nữ và trẻ em trong ánh chớp số phận. Thật trớ trêu, những ánh chớp số phận ở đây, hóa ra lại là ánh lửa lóe lên khi mỗi viên đạn bay ra khỏi nòng súng. Sau đó là những người sống và những người chết. Dù kẻ bị nhắm bắn có trúng đạn hay không, anh ta cũng đã bị chiến tranh quẳng ngoéo đi xa khỏi con đường anh vẫn đi trước đó. Nếu anh trúng đạn, chết ngay, hoặc tử thương, đã đành đi một nhẽ, thế là chấm hết một đời. Nhưng nếu viên đạn chỉ làm anh bị thương đâu đó, cho anh một vết sẹo, hoặc biến anh trở thành tàn phế, anh có thể tiếp tục chiến đấu, hoặc dưỡng thương một thời gian rồi tiếp tục chiến đấu, hoặc thậm chí không bao giờ chiến đấu được nữa. Anh phải sống và đối mặt với một cuộc đời khác hẳn. Thậm chí ngay cả khi viên đạn đó tránh khỏi anh, biết đâu đấy, anh lại trở thành một Valentin Hauder, anh chàng trong Ba người bạn của Erich Maria Remarque, ngày ngày say khướt uống mừng mình thoát chết. Không chỉ là chiến tranh, vấn đề đặt ra còn là giữa một con người và một tờ giấy, người ta coi trọng cái nào hơn cái nào. Đến bao giờ người ta mới biết cách tin vào con người ? Tôi không muốn dành nhiều lời xưng tụng cho một tác phẩm để dụ dỗ người khác đến với nó. Chỉ biết rằng Simonov đã viết một cách đầy tiết chế, sự tiết chế của một người đã thực sự trải qua chiến tranh với tất cả sự khốc liệt của nó. Mỗi nhân vật thoáng qua dù chỉ một lần cũng khiến người đọc thấy được dù anh ta sẽ sống hoặc sẽ chết thế nào, anh ta cục cằn, thô lỗ, nóng nảy hay mơ mộng thế nào, và anh ta cũng là một mắt xích không thể thiếu trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chừng nào một đất nước còn những con người như Malinin, Xintxốp, Xerpilin, Masa…, đất nước đó sẽ không bao giờ chấp nhận quỳ gối trước quân xâm lược' . *** Cạnh đường có hai chiếc xe tăng Đức đang đứng như hai cái đài kỷ niệm khiến Malinin không thể nào nhầm được: nòng đại bác của chiếc này chĩa vào chòi súng của chiếc kia. Đây chính là những chiếc xe tăng mà hôm qua, khi đi ngang qua đó, ông có kể lại rằng bọn lính xe tăng Đức đã phải dốc hết xăng ra cho bọn bộ binh. Nghĩa là họ đã đi trở lại được khoảng hai chục cây số. Dù sao chăng nữa, kể từ sáng hôm qua đến giờ, tiểu đoàn đã tiến được khá xa về phía trước... Nghĩ đoạn ông bèn hỏi Karaulốp xem Riáptrenkô đã chỉ định ai làm trung đội trưởng thay anh ta, và khi nghe anh ta trả lời đúng cái tên mà ông dự đoán: «Xintxốp», thì ông lại bực mình sực nhớ ra rằng thế là mình vẫn chưa kịp nói với Xintxốp về lá thư mình gửi lên phòng chính trị. Bây giờ, khi lại một lần nữa nghĩ tới lá thư này, ông vẫn không biết rằng tình trạng chậm trễ ấy không phải là do lỗi của đảng ủy sư đoàn như ông đã kết luận : đảng ủy sư đoàn chẳng liên quan gì đến việc này cả. Số là một đồng chí trợ lý của phòng chính trị tập đoàn quân sau khi đọc đến họ tên của Xintxốp thì chợt nhớ tới một tài liệu trước đây đã đi qua tay mình. Tài liệu đã qua tay anh đó chỉ vẻn vẹn là một tờ giấy xé từ quyển vở học sinh viết đầy một thứ chữ to tướng của con nhà lính : chiến sĩ hồng quân Dôlôtarép vượt khỏi vòng vây ở khu vực mặt trận của tập đoàn quân đã viết giấy lên phòng chính trị trình bày hoàn cảnh mà chính trị viên I. P. Xintxốp đã hy sinh và đề nghị rằng nếu có thể thì báo cho gia đình đồng chí Xintxốp biết. Đồng chí cán bộ phòng chinh trị ấy chưa có thời gian để làm một việc gì theo yêu cầu của lá thư này, nhưng anh cũng không nỡ đang tay xé nó đi, bới thế bây giờ nó đang nằm cùng trong một tập hồ sơ bên cạnh lá đơn của hạ sĩ Xintxốp xin được phục hồi đảng tịch. Mặc dầu trên tập hồ sơ ấy có ghi mấy chữ «để báo cáo», nhưng lúc đó chẳng có ai để mà báo cáo cả; trận tấn công đã bắt đầu và chính ủy trung đoàn Mácximốp, chủ nhiệm chính trị tập đoàn quân, đã ra hỏa tuyến hơn hai ngày nay rồi. — Thế nghĩa là đã có Xintxốp thay cậu rồi đấy hả? Được ! — sau giây lát lặng thinh, Malinin nói với Karaulốp như vậy. Ông nói tựa hồ như mình vẫn còn đang trong tiểu đoàn và tựa hồ như việc đó vẫn phải có sự đồng ý của ông thì mới được. — Vậy tiểu đoàn trưởng vẫn từ chối không chịu chuyển về hậu phương hả? — Đời nào ông ấy chịu! — Karaulốp nói với vẻ tán thành. — Máy bay nào thế nhỉ?—nghe có tiếng máy bay bắt đầu ầm ì trên bầu trời và cảm thấy chú bé ngồi đằng sau mình giật thót người, Malinin liền hỏi vậy. — Máy bay ta, — Karaulốp nói. Bốn phi dội máy bay ném bom của ta, mỗi phi đội chín chiếc nối đuôi nhau bay qua đầu đoàn thương binh, từ phía đông sang phía tây, thong thả rạch ngang bầu trời đông trắng đục. Chiếc xe trượt tuyết liền dừng lại và các chiếc đi sau cùng dừng lại, suýt nữa húc phải nhau. Cả chú bé đánh xe lẫn Karaulốp và Malinin đều nhìn lên trời với cùng một niềm sung sướng và biết ơn. — Sao, bay khuất rồi hả, không thấy nữa rồi hả?—Malinin hỏi, khi không còn nghe thấy ầm ì nữa và không đủ sức để chống tay nhỏm dậy dõi theo bóng máy bay. — Không, vẫn còn thấy, nhưng bây giờ thì gần như không thấy nữa, bay khuất rồi, — Karaulốp trông theo hút những chấm đen nhỏ bẻ đến tận chân trời và đáp lại như vậy. Tiểu đoàn Riáptrenkô đã tiến được mười cây số kể từ chiếc lán mà đêm qua Malinin đã ngất đi và cách xa cái nơi mà bây giờ đoàn xe trượt tuyết chở đầy thương binh loại nặng về hậu cứ là ba chục cây sồ, tiểu đoàn đang tiến về phía tây trong làn tuyết dày, mừng rỡ vì cuối cùng bão tuyết đã tan. Giờ đây sau khi chiếm được ga Vôxkrêxenxkôiê, những trung đoàn khác của Xerpilin ít bị tiêu hao trong trận đánh hôm qua, đang xông được lên phía trước và từ sáng đến giờ tiểu đoàn vẫn cứ tiến mãi mà không phải nổ một phát súng nào, chỉ thỉnh thoảng lại đụng phải những chiếc xe quân Đức bỏ lại trong tuyết và xác những tên lính bị chết cóng hoặc bị giết. Hiện tượng tiến quân mà không phải nổ súng này cố nhiên chỉ là tạm thời, bởi vì cả bên trái lẫn bên phải họ, tiếng gầm của đại bác vẫn liên tiếp theo gió vọng lại, còn ở ngay phía chân trời thì trong nửa giờ vừa qua đã lại thấy bập bùng khói lửa của những làng mạc bị đốt cháy. Xintxốp, Kômarốp và hai chiến sĩ tiểu liên nữa, — tất cả quân số còn lại của trung đội, — đang nối nhau đi theo sau con ngựa do Riáptrenkô cưỡi. Lẽ ra Riáptrenkô phải sang đội điều trị từ lâu để chữa vết thương, nhưng anh vẫn không chịu thua, vẫn cứ cưỡi ngựa bằng cách bỏ cái bàn chân tê cóng ra khỏi bàn đạp và buộc một chiếc gậy đầu cong do tay anh đẽo gọt lấy hôm qua vào phía sau yên để phòng khi phải xuống ngựa. — Hạ sĩ ơi, theo cậu thì liệu đơn vị mình có sắp được bổ sung thêm quân số không? Kômarốp tiền len ngang với Xintxốp rồi đi bên cạnh anh. — Tớ làm sao mà biết được? — Xintxốp nhún vai, nhưng anh nghĩ thầm trong bụng rằng trong lúc mình chưa dừng lại, chưa chạm trán với quân Đức ở một nơi nào đó, thì chưa làm gì có bổ sung được đâu: tuyết dày như thế này không thể chở quân số bổ sung bằng xe ôtô được, còn như đi bộ thì chẳng ai đuổi kịp được mình, nếu mình cứ đi liên miên không nghỉ như hôm nay. Kômarốp buồn bã thấy trung đội mình bị thương vong nhiều đến như vậy, anh bèn đến tìm một lời an ủi ở người tiểu đội trưởng bây giờ đã trở thành trung đội trưởng của mình, nhưng Xintxốp thì lại nghĩ thầm rằng nếu đêm hôm qua Kômarốp không đến cứu mình ở cạnh lán, không quạt lia lịa thẳng vào tên Đức đang nhảy vọt ra trong giây phút cuối cùng ấy thì anh đã đi đời nhà ma, và bây giờ đã không còn gì để suy nghĩ nữa, dù là chỉ suy nghĩ rằng hôm nay có đánh nhau không và liệu mình có được lành lặn trong trận đánh này không. Nhưng giờ đây anh không muốn dùng lời để nói về tất cả những điều đó, anh chỉ nói bằng mắt, bằng cách yên lặng nhìn vào mắt Kômarốp với lòng biết ơn. —Thế nào, theo ý cậu thì hôm nay cánh mình có đuổi kịp được bọn Đức không? — Kômarốp hỏi. Xintxốp bèn nhìn vào mặt anh ta và hiểu rằng bây giờ Kômarốp cũng đang có những cảm nghĩ giống hệt như mình, vừa muốn tiếp tục đuổi kịp quân Đức, lại vừa tiếc rẻ phải từ biệt giờ phút nghỉ ngơi lấy sức mới được hưởng sau trận chiến đấu hôm qua. — Có lẽ đuổi kịp đấy,—anh cố nén cái ý nghĩ ấy trong lòng, dấn bước đi lên, rồi đáp vậy, — bởi vì ta lại trông thấy khói kia rồi! Đằng kia, ở nơi tuyết phủ, nơi mà họ đang rảo bước tiến đến đám khói từ một xóm làng bị cháy vẫn bốc lên mỗi lúc một cao. Tiểu đoàn trưởng Riáptrenkô cưỡi ngựa đi đằng trước Xintxốp, có lúc người anh che khuất đám khói ấy, có lúc nó lại lộ ra, mỗi khi con ngựa bước lệch đường sang bên cạnh. — Kômarốp, Kômarốp ơi! — Gì thế? — Cho xin điếu thuốc! — Đang đi sao lại hút thuốc thế? — À thì tự nhiên thấy thèm... — Xintxốp không giải thích tại sao lại thèm. Nhưng anh thèm thuốc, bởi vì giờ đây khi nhìn vào đám khói ở đằng xa phía trước mặt, anh cố buộc mình phải quen với ý nghĩ gay cấn: mặc dù đã trải qua biết bao nhiêu chặng đường, nhưng phía trước vẫn còn cả một cuộc chiến tranh.. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Sống Và Những Người Chết của tác giả Konstantin Simonov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truyện Ngắn Trong Lòng Bàn Tay - Yasunari Kawabata
Tiểu thuyết lòng bàn tay (掌の小説 Tenohira no Shōsetsu?) hay còn được biết đến với tên Truyện ngắn trong lòng bàn tay là một "chưởng biên tiểu thuyết" (掌編小説), "chưởng thiên tiểu thuyết" (掌篇小説) của Kawabata Yasunari, tập hợp khoảng trên 100 truyện ngắn được viết từ thời tác giả còn trẻ. Ấn bản đầu tiên phát hành năm 1971. Về sau tái bản sách còn bổ sung những truyện xuất bản sau khi tác giả lâm chung năm 1972. Đặc trưng của các truyện ngắn là mỗi truyện đều ngắn, như để được "trong lòng bàn tay". Khi dịch ra những ngôn ngữ khác, độ ngắn không còn được bảo toàn nữa. ** Trong thung lũng có hai cái ao. Ao dưới óng ánh như ao bạc, ao trên một màu xanh lướt chết chóc, cuốn xuống đáy sâu những bóng núi thầm lặng. Mặt mày nhày nhụa. Tôi ngoái lại thấy máu dính trên bụi cỏ và tre càng cua mình vừa bước qua. Những giọt máu như đang đi. Máu mũi lại tuôn ra từng đợt nóng hổi. Quýnh quá, tôi tóm bừa một góc vải thắt lưng đút nút lỗ mũi, rồi nằm vật ra. Mặt trời không rọi thẳng vào người nhưng phản chiếu trên những chòm lá làm tôi chói mắt. Máu mũi bị chặn nửa đường, chạy ngược trở lại còn ghê hơn, nó òng ọc lên theo nhịp thở. Tiếng ve inh ỏi đầy ắp bầu khí núi, một con bỗng dưng mắc chứng la hoảng lên. Trời gần trưa tháng Bảy, không gian căng mỏng như thể một mũi kim rơi cũng làm long trời lở đất. Tôi như bị tê liệt. Nằm dài mồ hôi vã ra, tôi mặc cho tiếng ve ầm ĩ, màu xanh lá cây áp đảo, mùi đất ẩm, tiếng tim đập, cùng chui tuốt vào đầu nằm chết cứng trong đó rồi thoắt cái lại ào ra tản mát đâu mất. Tôi có cảm tưởng nhẹ hỗng như mình bị hút lên trời. - Cậu ơi! Cậu ơi! Cậu đâu rồi? Nghe thấy tiếng gọi từ nghĩa địa, tôi vùng dậy. Sáng nay đến lượm xương ông nội sau lễ tang hôm qua, trong lúc đang cời than hãy còn ấm, tôi chảy máu cam, bèn lén rời lò thiêu trèo lên đồi, đút nút lỗ mũi với giải thắt lưng vải. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trong Lòng Bàn Tay của tác giả Yasunari Kawabata.
Chiến Dịch Trái Tim - Amanda Quick
Trong giấc mơ hoang đường nhất, Venetia Milton cũng không ngờ được vị hôn phu của nàng lại ĐỘI MỒ SỐNG DẬY, phá hỏng một buổi sáng đẹp trời… Bởi đó là vị hôn phu nàng chỉ mới ranh mãnh "sắm" được sau một đêm hoan lạc. Anh chàng xuất thân dòng dõi mà nàng mượn danh để thuận lợi tiến vào xã hội London, hòng gây dựng sự nghiệp nhiếp ảnh gia thời thượng, chứ không hề có ý gắn bó lâu dài, đừng nói đến hôn nhân. Vị hôn phu mà cái chết đã được đăng khắp các mặt báo. Nhưng người đàn ông đó, vẫn sống điềm nhiên, lại sắp dõng dạc bước vào cuộc đời nàng. Và sau tất cả những hiểm nguy chàng mang theo, sau tất cả những bông đùa giễu cợt, những toan tính bí hiểm, chàng rắp tâm đánh cắp trái tim nàng một lần nữa, trọn vẹn… Là tác giả sách bán chạy theo bình chọn của New York Times, Amanda Quick sẽ dẫn dắt bạn qua một chuyến phiêu lưu tình ái đầy đam mê trong thời đại Victoria xưa. *** Nhận định “Một câu chuyện thú vị và sắc sảo về những bí mật… Với đối thoại dí dỏm, các nhân vật đa chiều, kết cấu truyện thông minh và trí khôi hài phong phú, Amada Quick muôn đời được yêu thích lại viết thêm một tác phẩm nổi bật.” - Booklist “Nếu bạn bắt đầu đọc một cuốn sách của Amanda Quick vào buổi xế chiều, thì chắc chắn bạn sẽ thức trắng cả đêm cùng nó.”- The Denver Post *** Mãi cuối triều đại Nữ hoàng Victoria…   BỘ XƯƠNG NGƯỜI nằm trên chiếc giường mạ vàng được chạm trổ tinh xảo đặt ngay chính giữa phòng luyện kim cổ xưa nay là hầm mộ của nhà giả kim.   Đống xương hai trăm năm tuổi vẫn còn được vấn trong mớ quần áo tơi tả chắc chắn từng có thời là những loại nhung gấm lụa là cao giá nhất. Bao tay và dép mềm được thêu viền chỉ vàng chỉ bạc bao lấy phần xương của hai bàn tay bàn chân, tạo nên vẻ ngoài rờn rợn của da của thịt.   “Tay thợ may của ông này hẳn là yêu ông ta lắm nhỉ,” Gabriel Jones lên tiếng.   “Cho dù có là một nhà giả kim thì khách hàng của anh ta vẫn được quyền có gu thời trang tinh tế chứ,” Caleb Jones nhận xét.   Gabriel liếc sang quần áo của cậu em họ rồi xem xét phục trang trên người mình. Quần âu và áo sơ mi vải lanh họ đang mặc phủ đầy bụi bẩn và cáu ghét nhưng cả quần áo lẫn đôi ủng của họ đều được làm thủ công, vừa vặn như in.   “Có vẻ như là nét biểu trưng của dòng họ nhỉ,” Gabriel bảo.   “Thêm một nét duyên cho huyền thoại dòng họ nhà Jones đây mà,” Caleb đồng tình. ... Mời các bạn đón đọc Chiến Dịch Trái Tim của tác giả Amanda Quick.
Cầu Ô Thước - Antoine Audouard
Năm 1945, Pierre Garnier tòng quân, gia nhập quân viễn chinh Pháp sang tham chiến ở Đông Dương. Giữa lúc đang hoang mang tột độ trước thực tế trần trụi của chiến tranh, cậu lạc bước vào tình yêu. Những mối tình mãnh liệt mà bất khả. Những niềm hạnh phúc không thể nào nắm giữ. Cho đến ngày thất trận. Nhiều năm sau, có một người con trai quyết định lần về quá khứ, tìm lại những con người cũ, những mong vén được bức màn bí ẩn về cha, một người cha vắng mặt. Nhưng khi sự thật ấy được phơi bày, liệu lòng anh đã yên? Cầu Ô Thước là một trang lịch sử bị tách rời, nơi thời gian ngưng đọng, nơi dựng lại cái không khí sôi sục của chiến tranh Đông Dương, nơi hiển hiện những nhân vật đã làm nên một phần thế kỷ XX. Nhưng hãy khoan nghĩ bạn đang đọc một cuốn sách lịch sử, bởi như tờ Le Figaro đã nói: "đây không phải một cuốn sách lịch sử, mà là một câu chuyện tình yêu." *** Tôi nhận được cuộc điện thoại vào lúc tối muộn. Một giọng nói lạ hoắc, xoe xóe hỏi xem có phải tôi tên là André Garnier, có đúng tôi là con trai của Pierre Garnier không và khi tôi đang lúng búng trả lời rằng đúng là tôi nhưng ai thế? ai vậy? thì giọng nói ấy tiếp tục: “Cha anh, ông Garnier sẽ tới nhà anh ngày mai. Lúc 10 giờ 30 được chứ?” Chắc chắn, chúng ta không sống trong một thế giới mà người cha là đoàn tàu và con cái là sân ga; chắc chắn người phụ nữ này không có thật, bà ta không xưng danh và tôi cũng chẳng hỏi. Thế nhưng, ngày hôm sau, có hai nhân viên cứu thương - một to con, một gầy nhẳng - gõ cửa nhà tôi rồi đưa một tờ giấy màu xanh cho tôi ký, cứ như là họ đi giao thư bảo đảm vậy. “Đúng 10 giờ 30 phải không nhỉ?” người gầy nhẳng ra vẻ thành thạo hỏi, rồi hai người đàn ông rời đi không để tôi kịp ngậm miệng lại. Bố và tôi cứ đứng trên lối nhỏ dẫn vào nhà, lạ lẫm với nhau. Ông hơi lắc lư người, hai bàn tay nắm chặt chiếc túi da du lịch. “Mẹ con có khỏe không?” cuối cùng ông cũng lên tiếng và tôi thấy lòng mình ngổn ngang những cảm xúc đầy mâu thuẫn mà nổi trội là một cơn giận dữ rất thường tình - tức giận vì đột nhiên tôi phải làm người cha chăm sóc ông trong khi ông chưa từng một ngày làm cha tôi. “Thế còn vợ con?” ông tiếp tục, với giọng niềm nở. “Tốt cả,” tôi nói nhỏ, không cố để ông nghe thấy. Ông đến chậm mất ba mươi năm so với ngày mẹ tôi mất, nhưng chỉ muộn có ba hôm so với ngày vợ tôi bỏ đi. Một chút cố gắng thôi là ông đã có thể đến kịp. ... Mời các bạn đón đọc Cầu Ô Thước của tác giả Antoine Audouard.
Người Vô Hình
Herbert George Well thôi học năm 14 tuổi để làm người trông coi cửa hàng, rồi thi đỗ đại học, và sau đó trở thành giáo viên. Sau một thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, ông trở thành một nhà văn viễn tưởng nổi tiếng. Trong các tác phẩm của mình, H.G. Wells đã mô tả máy bay và tàu ngầm đi lại, trước khi người ta mơ hồ tin rằng những hành trình như vậy có thể thực hiện được. Là một con người đầy nghị lực H.G. Wells viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Phác thảo lịch sử (An Outline of History - 1920) và nhiều nghiên cứu về khoa học và chính trị. H.G. Wells đã phỏng vấn nhiều nhà lãnh tụ chính trị nổi tiếng và luôn có chính kiến về các sự kiện trên thế giới. Nhưng người ta lại nhớ đến một H. G. Wel1s tiểu thuyết gia hơn. Kẻ Vượt Thời Gian (The Time machine - 1895) và Người vô hình (The Inrrsible Man - 1897) đã trở nên rất gần gũi với công chúng và cũng được các nhà làm phim đặc biệt ưa thích. *** Trong đau đớn, khốn cùng, trong khoái cảm, và cái chết - Đó là đời sống mà nhà khoa học Griffin đã nếm trải khi trở thành một người vô hình. Ở Người vô hình, thiện và ác là những bện xoắn rất chặt vào nhau, ràng buộc, tựa nương vào nhau mà phát triển. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Giết người sẽ dẫn đến giết người. Có lẽ đó là cái lý lẽ phù hợp với quy luật tự nhiên nhất, và nó chạy theo nhau, đẩy mãi, đẩy mãi đến tận cùng của xung đột. Cái chết của người vô hình là sự hóa giải cuối cùng. Tại sao cuộc đời người vô hình lại đi đến mức ấy? Người vô hình là một vật thể lạ giữa loài người. Và loài người từ xưa tới này vốn là sinh vật không chấp nhận sự khác biệt, hoặc hoảng sợ, hoặc ruồng rẫy, và trước sau gì sự hủy diệt cũng sẽ xảy ra. Là tham vọng hay thực chất chỉ là thanh trừng những gì không nằm trong hệ thống. *** Vào một ngày mùa đông đầu tháng hai, gió lạnh thổi từng cơn như cắt da, những đợt tuyết cuối cùng trong năm rơi xuống phủ lên mặt đất một màu trắng xóa. Từ ga xe lửa Bramblehurst, có một người khách lạ đi tới, mình mặc áo khoác đen, cầm một túi đen nhỏ trên tay mang găng dày, chân mang ủng. Ông ta quấn kín từ đầu đến chân, và một chiếc nón rộng vành che hết khuôn mặt chỉ chừa lại chóp mũi sáng bóng. Tuyết rơi phủ trên vai và lưng trông giống như ông ta đang mang một túi hành lý thật nặng. Ông ta bước vào quán trọ “Xe và Ngựa” như là một người sắp chết và ném cái túi xuống. - Lò sưởi! Làm ơn cho tôi thuê một phòng có lò sưởi! - Ông khách kêu lên. Ông ta dậm chân và lắc mình làm tuyết rơi đầy trong quán rượu và theo chân bà Hall, vợ chủ quán đi vào phòng khách mà không cần hỏi giá. Không nói lời nào, khách lạ ném hai đồng vàng sovereign lên bàn và đi vào phòng của ông. Giữa những ngày đông tháng giá, không có một bóng khách qua lại thì đây là một dịp may hiếm có cho bà Hall. Bà vội vàng đốt lò sưởi cháy đỏ lên và tự đi lo bữa ăn thậi xứng đáng cho ông khách. Khi thức ăn, nước uống đã được làm xong bà đem khăn, dĩa, ly vào dọn lên bàn. Mặc dù lửa trong lò sưởi đã cháy đượm, nhưng ông khách lạ vẫn còn để nguyên quần áo và nón, đứng nhìn đăm đăm ra cửa sổ xem tuyết rơi ngoài sân, lưng quay về phía bà và dường như ông ta đã hóa đá. Đôi tay đeo găng của ông chắp ra sau và có vẻ như ông ta đang mải mê suy nghĩ. Bà thấy tuyết trên vai ông khách đã tan thành nước và chảy ròng ròng xuống, làm ướt cả tấm thảm trải sàn nhà. Bà ngạc nhiên hỏi: - Thưa ông, ông cho phép tôi mang nón và áo khoác vào nhà bếp để hong khô chứ? Không hề ngoái lại người khách nói: - Không cần, bà cứ để mặc tôi. Bà chắc mình đã không nghe rõ câu trả lời, nên lặp lại câu hỏi. Ông ta quay đầu lại nhìn qua vai bà và nói: - Tôi thích để như vậy! - Ông ta nhấn mạnh từng lời với vẻ thật cương quyết. Bà để ý thấy ông khách mang một cặp kính to màu xanh đen, mớ tóc rậm và một hàm râu rậm rạp phủ đến tận cổ áo khoác che khuất cả gò má và khuôn mặt. - Được thôi, thưa ông. Nếu ông thích như vậy. Chỉ một chút nữa căn phòng sẽ ấm lên theo ý ông muốn. - Bà nói. Ông khách không trả lời, lại quay mặt đi nơi khác. Bà Hall cảm thấy không phải là lúc tiếp tục cuộc nói chuyện nên để mọi thứ lên bàn rồi lặng lẽ rời khỏi phòng. ... Mời các bạn đón đọc Người Vô Hình của tác giả Herbert George Wells & Nghiệp Khánh (dịch).