Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Lolita

Lolita là tiểu thuyết của Vladimir Nabokov. Tiểu thuyết được viết bằng tiếng Anh và được xuất bản vào năm 1955 ở Paris, sau đó được chính tác giả dịch ra tiếng Nga và được xuất bản vào năm 1967 ở New York. Tiểu thuyết nổi tiếng cả ở phong cách mới lạ lẫn nội dung gây ra các tranh cãi do nhân vật chính của tiểu thuyết tên Humbert Humbert, một người khá nhiều tuổi có sự ám ảnh về tình dục với một cô gái mười hai tuổi tên Dolores Haze. Sau khi được xuất bản, tiểu thuyết trở thành một tác phẩm kinh điển và là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất và gây ra nhiều tranh cãi nhất trong nền văn chương thế kỷ 20. Cái tên "Lolita" đã đi vào văn hoá phổ thông như là một từ để mô tả cô gái trẻ phát triển sớm về giới tính. *** Chắc một số bạn yêu văn học đã biết đến vụ tranh luận liên quan đến việc dịch giả Dương Tường dịch sai, “đạo” chú thích Lolita trong thời gian vừa qua. Người phản biện trực tiếp các lỗi sai của cụ Dương Tường là chị Haze Dolores (nick facebook). Chị đã viết rất nhiều bài chỉ ra các lỗi sai của cụ Dương Tường và đã dịch lại hoàn toàn tác phẩm khó này, một việc có thể nói là “Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” bởi vì bản quyền đã bị Nhã Nam mua đứt. Như các thành viên TVE đều hiểu, dịch và phát tán như thế này thực chất là vi phạm luật bản quyền. Người dịch chỉ làm vì niềm đam mê với tác phẩm chứ không được lợi lộc gì. Dù đây là bản "dịch lậu", nhưng rất nhiều người đọc, trong đó có mình, nghĩ rằng độc giả có quyền tiếp cận với một bản dịch tốt và đúng, nhất là trong hoàn cảnh Nhã Nam chưa tỏ ra có trách nhiệm gì trước việc tác phẩm bị dịch “sai hàng ngàn lỗi” thế này. Một số bạn có thể phản ứng với cụm từ “sai hàng ngàn lỗi”, cho rằng mình nói quá, cũng như nhiều người đã phản ứng với Haze khi chị chê trách dịch giả Dương Tường rất mạnh mẽ, cho rằng Haze không tôn trọng người lớn tuổi. Có lẽ ngôn ngữ của chị có một chút mỉa mai cay độc khiến người ta phải tức khí chăng? Nhưng mình là người đã theo dõi những bài phân tích của Haze qua FB của anh Gaup – cũng là một người rất giỏi ngoại ngữ và biên phiên dịch* - thì mình nghĩ rằng chị Haze không hề nói quá về chất lượng bản dịch của Dương Tường. Chưa kể cụ còn đạo văn cuốn chú thích Lolita và lên báo tự nhận công sức tìm tòi chú thích là của mình. Điều này làm mình rất thất vọng, bởi vì mình từng rất ngưỡng mộ cụ bắt đầu từ khi đọc “Cuốn Theo Chiều Gió” do cụ dịch. Nhưng thời nay, internet ở khắp mọi nơi và nếu dịch giả không cố gắng, không trung thực, sớm muộn gì người đọc cũng nhận ra. Mình post đường link blog của chị Haze ở đây với mong muốn các bạn có thể đọc và cảm nhận sự khác biệt giữa 2 bản dịch. *Note: anh Gaup có một bài viết rất giá trị chừng 10 năm trước là “Học, đọc, viết như thế nào” liên quan đến việc học ngoại ngữ (Gaup bỏ dở phần cuối là “Viết”, nhưng thế cũng đủ). Bạn nào quan tâm có thể tìm lại trên mạng.  Lời giới thiệu của anh Gaupvn trên FB: Một người bạn lâu năm của mình là chị Haze đã bỏ ra hai năm để hoàn thành bản dịch cuốn Lolita mà trước đây cụ Dương Tường đã dịch và Nhã Nam đã xuất bản nhưng như chị Haze đã chỉ ra bản dịch của cụ Dương Tường có hàng nghìn lỗi sai. Chị Haze đã tham khảo bản tiếng Anh, tiếng Nga, và nhờ các bạn bè giúp tham khảo cả các bản tiếng Trung, Pháp. Chị đã bỏ rất nhiều công sức và thời gian để hoàn thành bản dịch này và mình tin rằng đây là bản dịch tiếng Việt tốt nhất trong hàng chục năm tới nếu không nói là sẽ không bao giờ có bản dịch tiếng Việt nào tốt hơn bản dịch này. Người đặc biệt như chị Haze vừa có tài lại vừa có đam mê lại có đủ điều kiện để bỏ 2 năm cuộc đời ra làm việc vác tù và hàng tổng hiếm có lắm, chắc là chỉ có một mình chị. Tuy thế là người khiêm tốn chị không cho rằng bản dịch của chị là không có lỗi và luôn mong người đọc tinh mắt để ý và thông báo cho chị biết về các lỗi nếu họ thấy để giúp cho việc chỉnh sửa về sau. Vấn đề bây giờ là quyền dịch và xuất bản Lolita sang tiếng Việt hình như đã được bán đứt cho Nhã Nam và vì thế con đường xuất bản chính thức của bản dịch tuyệt vời tốt nhất hiện tại này là không thông. Chị Haze đã quyết định sẽ để kệ mình quyết định và mình sẽ xuất bản bản dịch qua đường vui là chính. Mình ủng hộ chị bằng cách đặt mua 100 bản đặc biệt, đóng bằng tay, có chữ ký của chị và mình sẽ tặng 90 bản cho các bạn trong friendlist của mình.  Rất mong các bản sách sẽ về với những người chủ thực sự quan tâm, sẽ đọc, và nâng niu quý mến cuốn sách để xứng công chị Haze dành thời gian làm việc công ích miễn phí cũng như mình đưa sách gửi tặng bạn bè.  Bạn nào quan tâm nhận sách xin để lại tên ở đây. Nếu có nhiều hơn 90 bạn mình sẽ để Excel lựa chọn ngẫu nhiên. Sách sẽ được chuyển đến tận tay các bạn ở Việt Nam. Bạn nào ở nước ngoài khi có sách mình sẽ liên hệ để xem chuyển cách nào đến bạn là nhanh và đỡ tốn kém nhất. Cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. *** Vladimir Nabokov (1899-1977), tiểu thuyết gia, nhà phê bình văn học, dịch giả, nhà nghiên cứu về thể loại văn học của nước Mỹ, sinh ra tại nước Nga. Nabokov học thức uyên bác, tài hoa đa diện, cuộc đời sáng tác cực kỳ phong phú đa dạng, bao gồm: Thơ, kịch, tiểu thuyết, truyện ký, phiên dịch, cờ tướng và các luận văn về côn trùng học, song ông nổi tiếng thế giới vìtiểu thuyết, như: “Lolita”, “Puning”, “Ngọn lửa đìu hiu” (Pale Fire), “Ada”, “Vật thể trong suốt”, v.v… đều là những danh tác được mọi người biết đến. Ngoài tiểu thuyết và thơ, ông còn công bố bình luận về Gogol, phiên dịch và viết chuyên luận về bộ sách 4 quyển của Pushkin “Napalese Onegin”. Thập niên 70 của thế kỷ 20, danh tiếng của ông đạt tới tột đỉnh, được tôn vinh là “vua tiểu thuyết đương đại”. *** Lời nói đầu “Lolita” hay “Lời xưng tội của một gỡ đàn ông da trắng góa vợ”, ấy là hai cái đầu đề của tập bản thảo kì lạ được gửi đến người viết những dòng này làm mào đầu cho nó. “Humbert Humbert”[1], tác giả của nó, đã chết trong tù vì chứng nghẽn động mạch vành vào ngày 16 tháng Mười một năm 1952, ít hôm trước khi bắt đầu phiên tòa xử ông ta. Khi yêu cầu tôi biên tập những trang này, luật sư của ông ta, Ngài Clarence Choate Clark, nay là thành viên của luật sư đoàn Washington D.C, cũng là bạn và bà con của tôi, dựa trên một điều khoản trong di chúc của thân chủ của ông trao toàn quyền cho người anh họ lỗi lạc của tôi tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết cho việc in ấn cuốn “Lolita”. Quyết định của ông Clark có thể là do người biên tập mà ông chọn vừa được tặng giải thưởng Poling về một tác phẩm khiêm tốn (“Do the Senses Make Sense?”) trong đó có bàn đến một số trạng thái bệnh hoạn và loạn dâm. Nhiệm vụ của tôi hóa ra đơn giản hơn là cả hai chúng tôi đã dự liệu. Ngoại trừ việc sửa những lỗi cú pháp quá hiển nhiên và thận trọng lược bỏ một số chi tiết mà bất chấp những cố gắng của “H. H.” vẫn dai dẳng lưu tồn trong văn bản của ông ta như những tấm biển báo và những tấm bia mộ (chỉ rõ những nơi hoặc những người mà lẽ ra nên giấu đi cho nhã, hoặc nên thương tình bỏ qua), tập hồi ức này được giới thiệu nguyên vẹn. Biệt danh kì dị của tác giả là do chính ông ta đặt; và dĩ nhiên, chiếc mặt nạ này - qua đó, dường như rực lên hai con mắt thôi miên – vẫn được để nguyên không cắt bỏ, theo đúng ý nguyện của người mang nó. Trong khi “Haze” chỉ vần với họ thật của nữ nhân vật chính thôi, thì tên cô[2] lại quyện chặt vào thớ cảm xúc sâu kín của cuốn sách đến độ không cho phép ơi thay đổi nó; vả chăng cũng chẳng có lí do thực tiễn nào (như độc giả sẽ tự thấy) khiến ta thấy cần phải làm thế. Những ai tò mò muốn tìm hiểu kĩ có thể truy cứu các tư liệu liên quan đến tội hình sự của “H. H.” trên các báo hằng ngày trong tháng Chín năm 1952; nguyên nhân và mục đích của tội đó ắt sẽ tiếp tục là một bí mật hoàn toàn nếu số phận không mang tập hồi ức này đến đặt dưới ngọn đèn biên tập của tôi. Để phục vụ các độc giả cựu trào muốn theo dõi số phận của những con người “có thực” bên ngoài câu chuyện “thật”, xin cung cấp một số chi tiết do ông “Windmuller” ở “Ramsdale” chuyển tới, ông này muốn giữ kín nhân thân để “cái bóng dài lê thê của câu chuyện thảm hại và nhớp nhúa này” khỏi chạm tới cái cộng đồng mà ông hãnh diện được là một thành viên. Con gái ông, “Louise”, hiện là sinh viên đại học năm thứ hai. “Mona Dahl” cũng là sinh viên ở Paris. “Rita” vừa mới kết hôn với một chủ khách sạn ở FIorida. Bà “Richard F. Schiller”[3] chết cả hai mẹ con trên bàn đẻ vào đúng hôm Giáng sinh năm 1952 ở Gray Star[4], một khu định cư ở miền Tây Bắc cực kì hẻo lánh, cái thai chết là một bé gái. “Vivian Darkbloom” vừa viết xong một cuốn tiểu sử nhan đề “My Cue”[5] sẽ xuất bản nay mai, và những nhà phê bình đã đọc bản thảo đều cho đó là cuốn sách hay nhất của bà ấy. Những người trông coi các nghĩa trang có liên quan tới câu chuyện cho biết không thấy bóng ma nào hiện về. Xét đơn thuần như là một tiểu thuyết, “Lolita” đề cập đến những tình huống và những cảm xúc mà nếu thể hiện nhờ nhạt bàng các thủ pháp né tránh vô vị thì trước sau chỉ khiến người đọc thấy mơ hồ đến phát cáu. Đúng là người ta không tìm thấy một từ tục tĩu nào trong toàn bộ tác phẩm; quả thật, kẻ phàm tục kiên cường được những ước lệ hiện đại luyện cho quen thói chấp nhận không chút đắn đo hàng loạt chữ tục trắng trợn tràn ngập trong những cuốn tiểu thuyết tầm thường, ắt sẽ phẫn nộ khi không thấy chúng ở đây. Nhưng nếu để chiều theo cái kẻ làm ra vẻ tiết hạnh một cách ngược đời ấy, một biên tập viên tìm cách pha loãng hoặc tước bỏ những cảnh mà một loại đầu óc nào đó có thể gọi là “kích dục” (về phương diện này, xin xem phán quyết trọng đại do Ngài John Woolsey tuyên đọc ngày 6 tháng Chạp năm 1933 đối với một cuốn sách khác còn thẳng thừng hơn nhiều[6]), thì tất phải từ bỏ hoàn toàn việc xuất bản “Lolita” vì chính những cảnh mà người ta có thể kết tội quàng xiên rằng tự thân chúng chứa một hiện sinh nhục cảm, lại đích thị là những cảnh có tác dụng triệt để nhất trong diễn biến của một câu chuyện bi thảm luôn kiên định hướng tới tôn vinh đạo đức. Kẻ khuyển nho có thể nói rằng loại văn chương “con heo” thương mại cũng lập luận tương tự, nhà học giả có thể phản bác bằng cách khẳng định rằng lời thú tội tâm huyết của “H. H.” chỉ là cơn bão trong ống nghiệm; ràng ít nhất 12%[7]  đàn ông trưởng thành ở Mĩ - một ước tính “dè dặt” theo tiến sĩ Blanche Schwarzmann[8](thông báo miệng) - năm nào cũng thưởng thức theo cách này hay cách khác các trải nghiệm đặc biệt mà “H. H.” mô tả một cách tuyệt vọng đến thế; rằng nếu vào cái mùa hè định mệnh năm 1947 ấy, người viết hồi ức điên khùng của chúng ta tìm đến một bác sĩ bệnh lí - tâm thần giỏi, thì chắc đã chẳng xảy ra tai họa; nhưng nếu vậy thì cũng chẳng có cuốn sách này. Kẻ viết những dòng bình luận này xin mạn phép được nhắc lại một điều hắn thường nhấn mạnh trong các cuốn sách và bài giảng của mình, cụ thể rằng “gây sốc” nhiều khi chỉ là một từ đồng nghĩa với “khác thường”; và một tác phẩm nghệ thuật lớn, dĩ nhiên, bao giờ cũng độc đáo, và như vậy, bởi chính bản chất của nó, ắt tạo nên một bất ngờ ít nhiều gây sốc. Tôi không hề có ý định ca ngợi “H. H.”. Rõ ràng, ông ta thật gớm ghiếc, ông ta thật bỉ ổi, ông ta là một thí dụ nổi bật về chứng phong hủi đạo đức, một hỗn hợp của tàn bạo và đùa cợt mà ẩn sau đó, có lẽ là một nỗi khốn khổ cùng cực song chẳng khiến ai đồng cảm. Tính khí ông ta vừa thất thường vừa tẻ ngắt, ông ta phát biểu văng mạng nhiều ý kiến nhố nhăng về con người và phong cảnh đất nước này. Một mạch thành thật tuyệt vọng đập chộn rộn suốt dòng tâm sự ăn năn, song nó không thể xá được cho ông ta khỏi những tội lỗi xảo trá quỉ quyệt, ông ta bất bình thường, ông ta không phải là người hào hoa phong nhã. Nhưng cây vĩ cầm réo rắt của ông ta có cái ma lực gợi nên một niềm trìu mến và thương cảm đối với Lolita, khiến ta mê mẩn với cuốn sách, đồng thời kinh tởm tác giả của nó! Với tư cách là một hồ sơ bệnh án[9], “Lolita” chắc sẽ trở thành một tư liệu kinh điển trong giới y học tâm thần. Với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật, nó siêu vượt trên khía cạnh chuộc tội của nó; và đối với chúng tôi, điều còn quan trọng hơn cả ý nghĩa khoa học và giá trị văn học, là tác động đạo lí mà cuốn sách sẽ tạo nên đối với độc giả nghiêm túc; vì trong nghiên cứu cá nhân xót xa này, ẩn chứa một bài học phổ quát; đứa trẻ ngang ngạnh, người mẹ ích kỉ, gã quỉ ám hổn hển, không phải chỉ là những nhân vật sống động trong một câu chuyện duy nhất; họ cảnh báo ta về các khuynh hướng nguy hiểm; họ chỉ ra những cái xấu đầy cường lực. “Lolita” khiến tất cả chúng ta - những người làm cha mẹ, những nhà hoạt động xã hội, những nhà giáo dục - phải dốc sức, với tinh thần cảnh giác cao hơn nữa và sáng suốt hơn nữa, vào nhiệm vụ nuôi dạy một thế hệ tốt hơn trong một thế giới an toàn hơn. Widworth, Mas. Tiến sĩ John Ray, Jr[10]   5 tháng Tám năm 1955 Mời các bạn đón đọc Nàng Lolita (Tiếng Việt) của tác giả Vladimir Nabokov & Dương Tường (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hùng Karô
Cùng với Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Tường, Khuất Quang Thụy, Dương Hướng... Chu Lai là một trong những nhà văn tự khẳng định mình trong giai đoạn văn học sau 1975. Ông được đọc giả biết đến là một nhà văn quân đội " đậm chất lính tráng": rắn rỏi mạnh mẽ nhưng không kém phần sâu sắc. Chu Lai sáng tác trên nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, hồi ký, bút kí... Tất cả đã chứng tỏ ông là một nhà văn có sức viết khỏe và bền bỉ. Trong đó, tiểu thuyết của ông là bức tranh toàn cảnh gồm nhiều tầng, nhiều mảng khác nhau của hiện thực đời sống. Hùng Karô là một thể nghiệm bút pháp khác lạ của Chu Lai, câu chuyện kể về cuộc đời giông bão của nhân vật chính cùng tên Hùng Karô, một gã giang hồ có một tuổi thơ và cả tuổi trưởng thành lầm than khốc liệt.  Gã từ hoang sơ cỏ dại đi lên, vượt qua mọi thăng trầm trong cuộc sống, vào tù rồi ra tù, hối cải để trở thành một công dân tử tế, rồi từ công dân tử tế thành một doanh nhân thậm chí là doanh nhân thành đạt để rồi nhận một cái kết thật buồn khi cuộc đời này, thể chế còn nhiều góc khuất chưa phân định sáng tối này đã đánh vào anh một đòn cuối cùng... Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Tôi tên là Hùng, gọi đủ theo giấy khai sinh là Trần Văn Hùng, nhưng người đời chẳng hiểu sao lại cứ thích gọi tôi là Hùng Ka Rô, Hùng tướng cướp, Hùng hung thần, tử thần, Hùng sát thủ máu lạnh rồi gọi cả cái tên xem ra có vẻ rất rắc rối này nữa: Kẻ đa tình dữ tợn!) Vâng, thôi thì cứ để mặc cho người ta gọi, miệng lưỡi thế gian có khi nào không ngứa ngáy song tôi có đa tình hay dữ tợn thật không thì những trang viết vụng về dưới đây sẽ trả lời các bạn tất cả. Viết! Khổ! Tôi có viết lách bao giờ đâu. Từ nhỏ tôi đã kinh sợ cây bút và trang giấy, như sợ ma. Chữ nghĩa dưới tay tôi nó đùn ra lục cục, lôi thôi lắm, có lúc còn nhăng nhít, thô lậu nửa, ấy vậy nhưng mọi người cứ bảo tôi ngồi vào bàn đi, cuộc đời ông phong trần trồi sụt khác thường như thế, không viết nó phí đi, phí lắm! Rồi ngay cả.ông nhà văn già bất đắc chí ở phố núi tối tối mút xương gà như mút kẹo cũng bảo: "Tất cả bọn cầm bút thật hay giả ở cái nước không coi văn chương là trọng này đều ước muốn có một phần mười cái vốn sống mà cậu đã trải qua" Trời đất! Oách thế kia à? Vậy thì tôi viết, không, đúng ra là kể, chỉ kể thôi chứ viết nghe có vẻ sang quá, véo von vít vông quá, người ta cười, tức là thấy gì kể nấy, không thấy không kể, tức là dòng đời tôi thế nào tôi cứ cho nó tuôn ra ùng ục ra thế ấy, một mạch từ đầu đến cuối, thẳng đuột, phẳng lỳ, không chìm nổi, không lắt léo, không bịa đặt, không tô vẽ, không chơi chữ chơi nghĩa, không chương hồi, không lớp lang, không đảo lên đảo xuống, không cắt dán, không bố cục, không hồi tưởng, không đa chiều đa kích lằng nhằng, không màng đến tính nhân văn tính tư tưởng cao siêu gì gì đó mà có màng cũng chả được, và cũng không hư cấu tí tẹo nào hết, bởi tôi có biết hư cấu là cái quái gì đâu mà hư, hư bậy bạ, có khi lại thành cái thằng rao bán thuốc hôi nách thuốc hắc lào ngoài chợ. Kệ thì giống như kể câu chuyện mình đã trải qua, đã ngửi thấy, sờ thấy, nếm thấy vậy việc gì phải tính nọ tính kia cho rắc rối. Kệ, vả lại tôi viết rồi để đó, viết để lấp đầy im lặng, viết cho riêng tôi, viết cho khỏi cắn lưỡi mà chết chứ có viết cho ai đâu mà đo đắn nọ kia. Và còn vì điều này nữa tôi giấu cho riêng mình, giấu cả vợ, người đàn bà thân yêu nhất mà tôi đi tìm cả đời mới thấy, đó là tôi đã nhìn thấy cái lỗ huyệt há hoác đang từng phút chờ nuốt tôi vào cái bụng đen ngòm, tanh tưởi của nó. Những dòng chữ chắc chắn sẽ là hết sức nhức nhối này tôi muốn gửi lại như một món quà lòng thành tặng riêng cho cô ây, chỉ một cô ây thôi. Tất nhiên tôi cũng bắt chước thiên hạ là đánh số một số hai, ghi rõ phần một phần hai để cô ây dễ theo dõi. Cái này lại ông nhà văn già bất đắc chí ở phố huyện chỗ tôi thường gọi là: Thái độ tôn trọng người đọc. Tôi bắt đầu kể đây! Kể đúng theo ngôn từ, khẩu khí của một thằng đã trải qua những tháng ngày ở dưới đáy xã hội nên có thể sẽ rất nghịch nhĩ, rất dễ gây phản cảm, rất khó chịu nhưng cái tạng nó trót là vậy rồi, có muốn sửa cũng chả được. Mời các bạn đón đọc Hùng Karô của tác giả Chu Lai.
Gió Không Thổi Từ Biển
Gió không thổi từ biển, gió thổi từ lòng người là câu chuyện viết về những tính cách, những số phận khác nhau của các chiến sĩ khu biệt động Sài Gòn. Ba Xuân một vị đội trưởng đội biệt động anh dũng, bất khuất, dù có bị uy hiếp, đe dọa, thậm chí cái chết có cận kề ngay trước mắt vẫn kiên quyết giư kín thân phận, không hé răng dù chỉ một lời bán đứng đồng chí, anh em chiến đấu của mình. Trái ngược với anh là tên phản bội Hoàng Xanh, một kẻ mưu mơ, xảo quyệt, tìm mọi cách để tiêu diệt anh, người đồng đội cũ của mình. Câu chuyện còn là sự hy sinh thầm lặng, kiên cường chiến đấu của người vợ Ba Xuân - Thanh Nhàn. Cô vượt qua nỗi đau mất chồng mà tiếp tục vững bước, cùng với những người đồng đội mà đứng lên tiêu diệt kẻ thù, chống lại âm mưu của Hoàng Xanh, thực hiện nốt ước mơ vẫn còn dang sở của Ba Xuân. Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hi vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Mấy bữa nay xuất hiện ở trước chợ Vườn Chuối một người đàn ông bán thuốc nam. Nhìn vẻ ngoài anh ta chẳng có gì đáng chú ý. Tuổi anh ta, vì nước da mai mái nên thật khó đoán. Tóc anh ta để dài, rồi xoăn, người tầm thước. Hai con mắt nhìn vừa hiền lành, vừa rụt rè như tất cả những người dân cao nguyên một năm đôi bận xuống thành phố mua bán. Nếu có gì khác chăng, thì là việc các môn thuốc của anh ta thường được nhiều người mua, nhiều người tới ngó nghiêng. - Cái nhà anh này làm ăn coi bộ thiệt thà. - Dùng thuốc của anh trị bịnh cho con nít thì khỏi liền. - Tiền nong ông cũng lấy chừng mực lắm, không mắc như mấy người khác đâu. Bà con đi chợ thường nói về anh như vậy. Có người khen ngay trước mặt, anh chỉ cười. Cái cười ngượng nghịu như chỉ quen với núi đồi hoang vắng mà không quên phô bày tình cảm ở trước phố chợ đông người, để lộ hàm răng xỉn màu ngồ ngộ như cái cười của đứa trẻ sún răng. Dáng ngồi làm lũi của anh thật tương phản với cảnh chợ nhức mắt những sắc màu, những ồn ào chát chúa của hàng rẫy quán tiệm, của những tốp lính người Việt, người ngoại quốc xộc vào, xộc ra, nghiêng ngả và của tất cả những âm thanh hỗn tạp, kì quái vốn có của một cái chợ tràn ngập hàng hóa. Màu áo chàm của anh càng tương phản với tòa cư xá Mỹ cao vòi vọi ở gốc phố bên kia đường. Vào những lúc xế chiều, cái dáng nhỏ nhoi hơi khập khiễng của anh bị bóng rợp tòa nhà làm bạc đi xiêu vẹo. Anh ngước nhìn lên một chút, mặt hơi nhăn lại như bị ngộp thở rồi lại cúi xuống chậm rãi cất từng bước một. Người bán thuốc đi tìm chỗ nghỉ đêm. Vào những lúc ấy, nếu anh bớt rụt rè đi một chút hoặc giả có ai đó đột nhiên gọi lại đưa nốt số tiền mà anh quên chưa lấy, có lẽ anh sẽ bắt gặp một đôi mắt từ xa đang dọi thẳng vào gáy mình. Dưới đôi mắt ấy là cái miệng mím chặt và phía trên vàng trán vuông căng ra, kéo đôi mắt xếch lên.   Mời các bạn đón đọc Gió Không Thổi Từ Biển của tác giả Chu Lai.
Bãi Bờ Hoang Lạnh
Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khoác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu Lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Trong số đó thì Bãi bờ hoang lạnh cũng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với những câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Cuốn tiểu thuyết mở ra với bối cảnh là một bãi bờ ven biển heo hút thời hòa bình, chỉ vỏn vẹn bốn căn chòi với ba người đàn ông độc thân sinh sống. Ba người họ mang trong mình những số phận riêng biệt, đều là những nỗi khổ, dằn vặt nhưng không có ai có thể san sẻ cùng ai. Bãi biển đã chết, sự có mặt của ba người này càng làm cho nó quạnh quê giá lạnh hơn. Thế rồi một ngày, cô họa sĩ Dung - một người đàn bà đẹp đã từ thành phố xuống và nhậm cư vào cái xóm nhỏ ven biển này. Cô gái ấy là ai? Liệu giữa họ đã từ có sợi dây ràng buộc gì trong quá khứ? Cuộc sống nơi đây từng chút từng chút một thay đổi cùng với sự xuất hiện của cô Bãi bờ hoang lạnh nhưng tình người thật ấm áp. Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cụng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thưc. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Vào lúc nửa đêm, không gian chỉ toàn những gầm gào của sóng của gió và thời gian lại dường như ngưng đọng đạc sệt, dẻo quánh, người đứng đầu thị trấn đột nhiên bị dựng dậy bởi hàng loạt những tiếng đập cổng bấn loạn vô hồi. Chưa đến ba mươi tuổi, tráng kiện săn rắn hệt một gã thuyền chài chuyên đi săn bắt cá lớn ở khơi xa, không thích lấy vợ nhưng lại ưa dính dáng đến đán bà, chủ tịch thị trấn nhanh tỉnh như sáo, cây súng ngắn nhét hờ dưới gối được chuyển thành thạo lên tay. Tiếng đập cổng vẫn riết róng đến vô lễ, đến hỗn hào. - Cái gì thế? Cái gì vậy? - Chủ tịch hỏi gay gắt. Một bóng người cao lớn, ở trần, mặc độc chiếc quần cụt đã đứng choán ngay trước mặt anh. Trong đêm tối chỉ thấy một đôi mắt trợn ngược, một hàm răng nhe ra trắng ởn, một đống những râu và tóc dữ tợn rậm rì. Giọng chủ tịch thị trấn chợt dịu xuống: - Có gì không Quang? Vào nhà đã? Đừng đứng đó lạnh. Một tiếng cười khô và nhạt thếch. Sau đó là tiếng nói khàn khàn vọng âm như được phát từ trong đất đai, trong chum vại: - Bạn bè coi thường nhau hả? Sao lại không có gì? Không có gì mà dám đến đá cổng lão chủ tịch lúc nửa đêm này à? Láo! - Ừ thôi, cho xin lỗi đi! - Chủ tịch nhăn nhó - Mình vừa đi họp về, mệt quá! Vào nhà uống bậy ly rượu cho ấm bụng đã rồi có gì ta tính. - Bây giờ không phải lúc - Con mắt trắng đã xếch lên - Chủ tịch mà chỉ lo uống rượu say mèm trong khi ngoài bãi chúng nó đang tụ tập làm bạo loạn hả? Láo! - Cái gì? Ai bạo loạn? Ở đâu bạo loạn? Bãi nào? - Chủ tịch hỏi giật giọng. - Khắc ra khắc biết. Vui lắm! Ông cố nội nó! Nói xong, để văng ra một tiếng cười nhạt thếch nữa, bóng đen ngoắt người đi luôn. Vai rộng, bụng thon, đùi nhái… Anh ta đi xiêu xiêu ra biển, in vào nền trời màu cháo loãng, đẹp như một pho tượng đá biết chuyển dịch trong thế giới cổ tích, huyền thoại âm thầm. Nhoáng lát, guồng máy bạo lực của thị trấn được bôi trơn phát nổ rầm rầm. Hơn năm chục con người súng ống tua tủa, nai nịt đầy người, đằng đằng sát khí đã tề tựu đầy đủ. Với cây súng nhỏ xíu trên tay, chủ tịch Lân trực tiếp chỉ huy trận càn mang ý nghĩa tổng lực vào đêm tối, nom anh đẹp ra đáng. Bộ quân phục năm xưa còn giữ được tóc bay tung, giày Adidas đế mềm, khuôn mặt vuông vức sáng láng khá hấp dẫn, anh lao lên trước, giò xoải dài hệt một chú ngựa chiến. Hơn năm chục con người cả trai lẫn gái ưu tú của thị trấn bươn bả theo sau. Một tiếng thét lạnh khí tử thần sắp vang lên: Những tiếng nổ chát chúa sắp xuyên vào da thịt con người… Một cảnh bao bủa gầm ghì rồi tiếp liền một cảnh đầu hàng còm róm… Kết cục bao giờ cũng xảy ra gọn sạch như trong băng hình VIDEO. Thường là như thế. Nhưng lần này cái màn chót mang tính bi kịch tất yếu không xảy ra. Nằm dang chân dang tay giữa vòng người thở dốc lại không phải ai khác ngoài Quang, kẻ báo tin, bức tượng âm thầm đang tạc dở. Gió mát hây hẩy, trăng bắt đầu lên… Những con người nắm bạo lực trong tay thoáng lặng đi. Vẻ đẹp hoang sơ của người đàn ông một chân đạp vào cát mịn, chân kia thọc sâu vào nước, mắt nhắm thiêm thiếp, tóc bồng bềnh, vồng ngực vuông vức đẫm ánh trăng và cát sáng, và ngoài kia sóng lại sóng cứ từng đợt, từng đợt dội về như mơn man, như khảm bạc, như muốn cuốn lấy, rủ rê đứa con của biển, của bóng đêm trở về cõi thân thuộc vĩnh hằng đá tưới rảy vào trái tim họ, cái góc trong cùng của mọi điều bừa bộn lo toan chút tĩnh lặng mơ hồ. - Thôi về nghỉ! Cám ơn các bạn. Coi như đêm nay ta tập trận giả nhân thể ngắm trăng dạo mát. Câu nói có duyên của vị chủ tịch được tán thưởng bằng sự tản ra nhanh chóng của vòng người. Thoáng thấy vài ba ánh mắt con gái kín đáo nhìn lại … Chủ tịch Lân nấn ná ở lại sau cùng. Anh khẽ khàng đắp lên tấm thân trần đang sáng dần lên chiếc áo bludông màu bộ đội vừa được cởi ra của mình, lầm bầm nói một câu gì đó rồi đứng dậy rảo bước theo dòng người. Mời các bạn đón đọc Bãi Bờ Hoang Lạnh của tác giả Chu Lai.
Những Kẻ Phiêu Lưu
“… “Đây là một người hùng,” nhà báo nói. “Trái đất rung chuyển khi ông bước, đàn ông yêu ông và sợ ông, đàn bà run rẩy trước sức mạnh nơi bắp vế ông, người ta tìm kiếm sự chiếu cố của ông. Mà giờ không một ai ở đây để tưởng nhớ ông.” Nhà báo quay đi. “Ông nói đúng. Người chết là cô đơn.” Ông cai lại nắm tay áo ông. Nhà báo quay lại, đối diện ông ta, cảm thấy mệt mỏi rã rời. Ông mong giá mình không thấy mấy dòng thông cáo, đã không đi dưới mặt trời kinh khủng để đến nơi nẻo hãi hùng này, đến cáci thế giới không ký ức này. “Thưa ông, không”, ông cai nói nhỏ. “Tôi nhầm. Ông ta không cô đơn. Ông ta đã ở đây mà…” Câu chuyện xoay quanh cuộc đời nhân vật chính Diogenes Alejandro Xenos (hay còn gọi là Dax). Lớn lên với một tuổi thơ đầy ám ảnh về cái chết bi thảm của mẹ và người chị gái, cuộc đời Dax trải qua rất nhiều sóng gió nhưng cũng không kém phần oanh liệt. Thông qua cuộc đời nhân vật Dax, độc giả sẽ được chứng kiến nhiều sự kiện, biến động của xã hội phương Tây trong những năm trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai. Những sự kiện liên tiếp diễn ra khiến người đọc bị hấp dẫn và lôi cuốn không thể nào dừng lại được. Xung quanh nhân vật chính, tác giả cũng xây dựng nên nhiều tuyến nhân vật với đủ loại thân phận thuộc các giai tầng khác nhau, rất phong phú và đa dạng. Một xã hội phương Tây như được thu nhỏ trong mỗi trang văn của Harold Robbins. Những kẻ phiêu lưu vừa mang yếu tố hiện thực sâu sắc vừa mang tính lãng mạn với những khát khao, đam mê cháy bỏng của tình yêu. Harold Robbins (1916 – 1997) là một trong những nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại của Mỹ. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã viết hơn 25 cuốn sách, được dịch sang 32 ngôn ngữ và bán được hơn 750 triệu bản. *** Mười năm sau cuộc bạo động, trong đó anh đã chết. Thời của anh trên trái đất này đã qua. Hạn tro của anh trong chiếc hộp bé tẹo cuối cùng để ẩn náu này cùng đã hết. Giờ đây, quy trình đã được hoàn tất. Anh đã trở về với tro bụi của trái đất, là nơi anh đã sinh ra. Mặt trời xứ nhiệt đới phả những đợt sóng ẩm nóng chói chang xuống những cây thập tự sơn đen bên những bức tường sét trắng của nghĩa trang khi nhà báo Mỹ bước ra khỏi taxi bên những cánh cổng sắt hoen gỉ. Ông đưa cho người lái xe tờ năm peso rồi quay đi trước khi anh ta kịp nói lời cám ơn. Các quầy bán hoa đã tấp nập. Những người đàn bà vận đồ đen đang mua những bó hoa nhỏ. Những tấm mạng đen dầy cộp của họ như che chắn cho họ khỏi sức nóng và ngăn niềm thương đau của họ với cuộc đời. Đám ăn mày cũng ở đấy, những đứa trẻ nhỏ với những cặp mắt thẫm mầu thô lố nằm trong những quầng đen trũng, bụng chúng trương lên vì đói. Khi ông đi qua, chúng giơ những bàn tay bé nhỏ dơ dáy ra đón những đồng xu ông lơ đễnh buông xuống. Khi đã qua cổng thì chỉ còn ắng lặng. Cứ như thể có một cầu dao chính nào đó đã ngắt hẳn thế giới bên ngoài. Một người đàn ông vận đồng phục đang ngồi trong chiếc chòi để hở. Nhà báo đi về phía ông ta. "Làm ơi chỉ giùm, senior?". Và thấy một thoáng ngạc nhiên trên mặt khi người đàn ông trả lời "Phố Sáu, nhà hai mươi". Nhà báo Mỹ mỉm cười, quay đi. Hầu như trong cái chết họ vẫn bám lấy dòng đời. Những lối mòn được gọi là đường phố và nơi họ an nghỉ sau bốn bức tường được gọi là khu nhà. Rồi ông lấy làm lạ về nét ngạc nhiên trên khuôn mặt người đàn ông. Ông đã đọc thấy mấy dòng thông báo mà ông hằng tìm kiếm khi ngồi trong hành lang một khách sạn mới, lật qua các báo chí địa phương, như ông vẫn làm mỗi khi đến một thành phố mới. Đó là bốn dòng nhỏ xíu vùi giữa các trang cuối, hầu như mất hút trong mớ hỗn độn các thông cáo khác lớn hơn. Ông đang thả bộ xuôi con đường mòn với những lăng mộ cá nhân trau chuốt. Một cách trễ nải, ông quan sát các tên người: Ramirez, Santos, Oberon, Lopez... Dù dưới sức nóng mặt trời, ông vẫn thấy giá lạnh phả ra từ những tấm cẩm thạch trắng và cảm thấy mồ hôi ẩm lạnh nơi cổ áo. Giờ đây lối mòn đã rộng hơn. Phía trái ông là những bãi trống lô nhô những bia mộ nhỏ. Bé nhỏ, không được coi sóc, bị quên lãng. Đó là những nấm mồ của kẻ nghèo. Bị ném vào lòng đất trong những hộp gỗ mỏng dính và mặc cho tan biến vào thiên nhiên mà chẳng hề có sự trông nom hay tưởng nhớ. Bên phải ông là các "dãy nhà". Khu chung cư của người chết. Đó là những toà nhà lớn mái lợp ngói Tây Ban Nha đỏ và xám, cao hai mươi, rộng bốn mươi, dài tám mươi foot, gồm những khối xi măng trắng, từng cụm ba khối. Mỗi ô vuông ba foot, đều mang tên kẻ ngụ cư, một thập tự nhỏ khắc chìm vào xi măng ở bên trên tên người, còn ngày qua đời thì ở bên dưới. Ông nhìn lên toà nhà đầu tiên. Có một biển kim loại nhỏ gắn trên mái hiên. Phố 3, nhà 1. Ông còn phải đi xa. Cái nóng bắt đầu đổ xuống. Ông nới rộng cổ áo và rảo bước. Đến giờ rồi, mà ông thì không muốn trễ. Thoạt tiên ông tưởng mình đến nhầm chỗ. Không một ai ở đấy. Ngay cả những người phu đám cũng không. Ông kiểm tra tấm biển kim loại trên toà nhà, rồi kim thời gian trên chiếc đồng hồ đeo tay. Cả hai đều đúng. Ông mở tờ báo xem thử mình có nhầm ngày chăng, nhưng ngày cũng đúng. Ông thở dài nhẹ nhõm và châm điếu thuốc. Đây là Mỹ La tinh. Ở đấy thời giờ chẳng chính xác như ở nhà. Ông chậm rãi dạo quanh, đọc tên người trên các ô vuông. Cuối cùng, ông có được điều ông tìm kiếm đang ẩn trong một góc tối dưới mái hiên phía tây nam của toà nhà. Bản năng khiến ông vứt điếu thuốc đi, ngả mũ và chằm chằm nhìn lên văn bia. D.A.X 10 tháng Năm 1955 Ông nghe thấy tiếng xe ngựa lọc xọc trên đá cuội phía sau. Đấy là chiếc xe trần do con lừa mệt mỏi kéo đi, hai tai dán chặt vào đầu để phản đối việc bị cưỡng bức làm việc trong nóng bức. Xà ích mặc bộ đồ kaki đã bạc. Ngồi bên gã là người đàn ông mặc complê đen, đội mũ đen, chiếc cổ áo trắng hồ bột đã ngả vàng vì mồ hôi và bụi bặm. Đi bên xe là một gã phu với chiếc cuốc chim trên vai. Chiếc xe hộc lên rồi dừng lại. Người vận đồ đen tụt xuống, rút từ trong túi áo ra tờ giấy, liếc qua, rồi nhìn vào những bia mộ dọc theo các bức tường. Mãi tới lúc ông ta dừng lại trước mặt nhà báo Mỹ mới nhận ra rằng người ta đến để mở căn hầm mộ. Người vận đồ đen, cũng là ông cai, vẫy gã xà ích đến bên rồi nhìn chăm chăm vào căn hầm, khẽ lầu bầu gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha trong khi gã xà ích trễ nải kéo lê theo chiếc thang nhỏ chắp bằng nhiều mảnh gỗ. Gã dựng thang vào tường rồi trèo lên, nhìn sát vào khối xi măng hầm mộ. "Dax", gã nói, giọng khàn đặc. "Dax", ông cai gật đầu, nhắc lại bằng giọng thoả mãn. Gã phu mang ra cuốc chim cũng gật đầu. Có một âm hưởng thích thú trong giọng của gã. "Dax". Gã xà ích đứng trên thang đưa tay ra. "Cuốc". Rồi với một cú bổ thiện nghệ, gã choảng mạnh lưỡi cuốc vào giữa khối bê tông. Nó bắn toé chùm tia, rạch qua dòng chữ đục, toả ra tứ phía, đúng vào lúc mặt trời đi ngang góc mái hiên. Gã chửi đổng mặt trời bỗng dưng xuất hiện và kéo mũ sụp xuống che mắt, rồi lại choảng mũi cuốc chim vào xi măng. Lần này phiến đá vỡ toang, mảnh bay rào rào trên nền cuội. Nhà báo nhìn ông cai. Ông ta có vẻ đang theo dõi hai người phu, nhưng rõ ràng là chẳng quan tâm gì tới công việc họ đang làm. Ông ta như chán nản với tất cả. Đây chỉ là công việc muôn thuở mà thôi. Ông ta quay lại khi nhà báo bước tới. "Những người khác đâu cả?" Nhà báo hỏi bằng thứ tiếng Tây Ban Nha ngập ngừng của mình. Người đàn ông nhún vai. "Chẳng có ai khác nữa". "Nhưng trong báo... " Nhà báo ngừng lại. Ông hầu đã cạn vốn tiếng Tây Ban Nha "Nói tiếng Anh chứ?" Ông cai mỉm cười kiêu hãnh "Vâng, vâng". Ông ta ré lên. "Xin hầu ông". "Tôi thấy thông cáo trên báo", nhà báo nói với cảm giác nhẹ nhõm, "nên tưởng sẽ có những người khác nữa". "Không có ai cả", ông cai nói. "Nhưng ai đã đăng thông cáo? Chắc chắn phải có ai đó chứ. Ông ta là một người nổi tiếng. Rất nổi tiếng". "Văn phòng đăng thông cáo. Thời gian đã qua khá lâu để ai đó đến mà nhận thi thể. Còn bao kẻ đang chờ chỗ này. Thành phố cứ liên tục phình ra mà. Chúng tôi đã quá chật chội rồi. Ông thấy đấy". "Tôi thấy rồi" nhà báo nói, ngập ngừng. "Thế không còn ai nữa à? Gia đình. Hoặc bạn bè. Ông ta có rất nhiều bạn bè". Một nét u ám thoáng nơi cặp mắt người đàn ông. "Người chết là cô đơn". Một tiếng kêu làu bàu phát ra từ gã xà ích trên thang. Họ quay nhìn lên. Gã đã phá thủng mặt ngoài, và qua đó có thể thấy chiếc quan tài gỗ đã bị mối đã ăn luỗng và bạc màu. Giờ gã đang dùng lưỡi cuốc chim để nậy những mảnh xi măng còn lại rồi nhoai người vào trong hầm mộ kéo chiếc quan tài ra. Nhà báo quay lại ông cai. "Bây giờ sẽ làm gì tiếp?" "Ông ta sẽ được đưa lên dàn hoả". "Rồi sau đó?" Ông cai nhún vai. "Vì chẳng có ai đến nhận nên tro sẽ đổ chung với tro người khác rồi đổ vào bãi đất mà chúng tôi đang lấn ra đầm lầy". Chiếc quan tài được đặt trên dải xi măng hẹp bên toà nhà. Ông cai nhìn xuống, kiểm tra dòng chữ viết trên tấm biển kim loại nhỏ trên nắp với tờ giấy trong tay. "Đúng". Ông ta nói, rồi nhìn lên nhà báo. "Ông muốn xem bên trong quan tài?" "Không", nhà báo lắc đầu. "Vậy... khi không có gia đình để trả tiền thì những người phu được phép. Chắc ông hiểu?" Nhà báo gật đầu và quay đi khi hai người phu bắt đầu mở nắp quan tài, lắng nghe tiếng họ thì thầm khi bàn luận về những thứ mà họ tìm được, và chia chác chúng ra sao. Có một lời rủa khẽ. Rồi âm thanh đóng ván thiên. Ông cai trở lại bên nhà báo. "Hai anh phu đang thất vọng", ông ta nói "Chẳng có gì ngoài mấy chỗ hàn răng bằng vàng, và chiếc nhẫn này". Nhà báo nhìn xuống chiếc nhẫn trong tay ông ta. Một lớp bụi phủ kín nó. "Tôi lấy chiếc nhẫn" ông cai nói "còn để họ lấy mấy mối hàn. Chiếc nhẫn có giá trị, phải không?" Ông ta lấy chiếc khăn nhớp nhúa trong túi ra lau nhẫn rồi đặt nó trong lòng bàn tay. Nhà báo cúi nhìn. Đó là chiếc nhẫn vàng gắn một mặt đá đỏ thẫm. Ông cầm lên và đọc dòng chữ quen thuộc. Đó là nhẫn của trường Harvard, 1939. "Vâng" ông nói "Nó có giá trị đấy". "Mười đô la Mỹ?" ông cai hỏi. Phải mất một khoảnh khắc trước khi nhà báo nhận ra mình được mời mua chiếc nhẫn. Ông gật đầu và rút tiền ra. "Cảm ơn" ông cai nói. Nhà báo cất nhẫn vào túi. Họ quay về phía các gã phu đòn. Chiếc quan tài đã nằm trên xe. "Đi thôi. Giờ thì đến giàn hoả" ông cai nói, trèo lên xe và ra hiệu chỗ ghế bên cạnh cho nhà báo. Trời nóng hơn. Chiếc sơ mi của nhà báo ướt đẫm, thấu sang cả áo ngoài. Mất đến hai mươi phút trước khi họ đến một ngôi nhà mái bằng, xám xịt, tẻ ngắt dùng làm nơi hoả táng. Trong không khí thoáng có mùi khói khi nhà báo xuống xe đi theo hai gã phu đòn khênh chiếc quan tài vào tiền sảnh rộng. Vào trong, ông ngạc nhiên thấy nhà không có mái. Thay vào đó là bầu trời nóng bỏng trên cao. Có sáu chiếc lò hở miệng bằng đá đặt thành trời vòng tròn trong bốn bức tường của ngôi nhà. Trên mỗi miệng lò, bầu không khí chập chờn, nhảy múa với sức nóng trong lòng nó. Một người đàn ông mặc chiếc áo khoác ngoài xám phủ đầy tro bụi, tiến đến phía họ. "Đúng chứ?" Ông cai gật đầu và đưa cho ông ta mẩu giấy trắng. "Đúng". Ông ta ra hiệu cho các phu đòn. "Lò một". Hai gã phu bước đến lò đá gần nhất và lao chiếc quan tài vào. Ông cai cầm cánh tay nhà báo và họ đến bên lò. Chiếc quan tài nằm trên những thanh sắt ám khói đen, bên dưới hình như là một lưới sắt nhỏ mắt. "Lấy tro không?" Nhà báo gật đầu. Người đàn ông vận áo khoác xám đứng nhìn. Ông cai giật tay aó nhà báo. "Hắn chờ năm peso cho công việc này đấy. Lệ thế mà". Nhà báo thò tay vào túi và đưa ra tờ giấy bạc. Hai hàm răng loé trắng giữa bộ mặt ngăm đen. "Cảm ơn". Ông ta ra hiệu cho họ và, vẫn tuân theo áp lực trên cánh tay, nhà báo lùi lại cho đến khi họ cùng áp sát bức tường xa. Rồi người đàn ông vận áo khoác xám bắt đầu kéo bễ. Thoạt tiên là tiếng sôi ùng ục nhẹ trong lò, rồi chuyển nhanh thành tiếng réo ầm ầm. Cứ như thể sấm rền trong chiếc hộp nhỏ, mà vẫn không thấy ngọn lửa. Chiếc quan tài hầu như chỉ ánh lên trong những luồng khí nóng. Bỗng người đàn ông kéo cánh tay đòn và trong khoảnh khắc hầu như toàn bộ lửa của địa ngục chồm lên. Nhà báo cảm thấy luồng nóng táp vào mặt, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, rồi những ngọn lửa biến mất và chiếc quan tài như tanthành đám bụi xám, xẹp dần trong lò. Ông cai giật tay áo nhà báo. "Chúng ta ra ngoài hút thuốc đi. Trước khi hút xong, hắn sẽ mang tro đến". Ông cai nói đúng. Họ chưa hút xong điếu thuốc thì người đàn ông đã ra với chiếc bình nhỏ đựng tro hoả táng bằng sứ xám. Ông ta nhìn ông cai. "Chiếc bình năm peso đấy" ông cai thì thầm như có lỗi. Nhà báo lấy tiền trả. Người đàn ông lại gật đầu cám ơn và đưa chiếc bình cho ông cai. "Giờ chúng ta ra xe" ông cai nói, rồi cho xe quành về phía sau toà nhà. Một chiếc xe nhỏ với con lừa mắt ngái ngủ đang đỗ đấy. Xe đầy rác, bụi và ruồi bay vù vù xung quanh. "Chúng ta đổ tro vào đây". Nhà báo nhìn chiếc xe chằm chằm. Có điều gì đó bỗng kinh lợm trong ông. "Không còn chỗ nào khác à?" Ông cai nhìn ông chằmchằm, gật đầu "Có một trang trại ở bên kia đường. Chỉ năm peso là người nông dân sẽ cho chúng ta rắc tro ở đấy". "Chúng ta đến đó". Họ đi qua cánh đồng khoai, rồi qua đường. Người nông dân xuất hiện như thể từ trong lòng đất, nơi khoai đã mọc lên. Ông ta biến mất ngay khi nhận đồng năm peso. Ông cai đưa chiếc bình ra "Mời ông?" Nhà báo lắc đầu. "Ông biết ông ta chứ ạ?" ông cai hỏi. "Vâng" nhà báo nói. "Tôi biết ông ta". Ông cai mở nắp bình, rắc tro vào trong gió. Lặng lẽ, họ nhìn gió trải tro bay ngang cánh đồng. "Nhảm hết" nhà báo chợt nói "Nhảm hết". "Vì sao, thưa ông?" "Đây là một người hùng" nhà báo nói. "Trái đất rung chuyển khi ông ta bước. Đàn ông yêu ông ta và sợ ông, đàn bà run rẩy trước sức mạnh nơi bắp vế ông ta, người ta tìm kiếm sự chiếu cố của ông ta. Mà giờ không một ai ở đây để tưởng nhớ ông". Nhà báo quay đi. "Ông nói đúng. Người chết là cô đơn". Ông cai lại nắm tay áo ông. Nhà báo quay lại, đối diện ông ta, cảm thấy mệt mỏi và rã rời. Ông mong giá mình đã không thấy mấy dòng thông cáo, đã không đi dưới mặt trời kinh khủng để đến nơi nẻo hãi hùng này, đến cái thế giới không ký ức này. "Thưa ông, không" ông cai nói nhỏ. "Tôi nhầm. Ông ta không cô đơn. Ông ta đã ở đây mà". Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Phiêu Lưu của tác giả Harold Robbins.