Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thay Đổi Tí Hon Hiệu Quả Bất Ngờ

Wall Street Journal Bestseller, USA Today Bestseller, Publisher's Weekly Bestseller Nằm trong Top 20 tựa sách thể loại non-fiction bán chạy và được tìm đọc nhiều nhất của Amazon suốt 40 tuần tính đến tháng 9/2019. “Thành công là sản phẩm của thói quen hằng ngày – không phải của một cuộc biến hình một-lần-trong-đời” “Một thay đổi tí hon có thể biến đổi cuộc đời bạn không? Hẳn là khó đồng ý với điều đó. Nhưng nếu bạn thay đổi thêm một chút? Một chút nữa? Rồi thêm một chút nữa? Đến một lúc nào đó, bạn phải công nhận rằng cuộc sống của mình đã chuyển biến nhờ vào một thay đổi nhỏ... Và đó chính là sức mạnh của thói quen nguyên tử…”  “Quyển sách hữu ích và có giá trị ứng dụng tối đa. James Clear đã chắt lọc thông tin cơ bản nhất về sự hình thành thói quen, nhờ đó bạn có thể đạt được nhiều thành quả hơn bằng cách tập trung ít hơn”       Mark Manson, Tác giả của The Subtle Art Of Not Giving A F*CK *** Hệ thống mang tính cách mạng giúp bạn tiến bộ 1% mỗi ngày. Mọi người cho rằng nếu bạn muốn thay đổi cuộc đời mình, bạn cần phải có những suy nghĩ lớn lao. Nhưng James Clear đã khám phá ra một cách thức khác. Tác giả đã phát hiện ra rằng sự thay đổi thực sự đến từ ảnh hưởng sâu sắc của hàng trăm những quyết định nhỏ bé - thực hiện hai cú chống đẩy mỗi ngày, mỗi sáng dậy sớm hơn năm phút, hoặc đọc thêm chỉ một trang sách. Tác giả gọi đó là những thói quen nguyên tử. Trong cuốn sách đột phá này, tác giả Clear đã làm rõ cách mà những thay đổi nhỏ bé này có thể đem lại những kết quả bất ngờ khi áp dụng trong cuộc sống. Tác giả đã tiết lộ những mẹo đơn giản mà rất hữu ích (nghệ thuật xếp chồng thói quen đã bị quên lãng, sức mạnh không ngờ của Qui luật Hai phút,...) và đào sâu nghiên cứu các khía cạnh giải thích tại sao chúng lại có tác dụng như vậy theo tâm lý học và thần kinh học. Xuyên suốt quyển sách, tác giả kể những câu truyện truyền cảm hứng về những vận động viên dành huy chương vàng Olympic, những nhà lãnh đạo hàng đầu, và những nhà khoa học lỗi lạc, những người đã sử dụng bộ môn khoa học thói quen nhỏ bé để có được cuộc sống hạnh phúc, lạc quan và làm việc hiệu quả. Những thay đổi nhỏ bé này sẽ đem lại những ảnh hưởng làm thay đổi sự nghiệp, mối quan hệ và cuộc đời bạn. PHẦN GIỚI THIỆU Câu chuyện của chính tôi.   Vào đúng ngày cuối cùng của năm thứ hai cao trung, tôi bị một cây gậy bóng chày nện trúng mặt. Khi đó cậu bạn cùng lớp đang vung gậy thực hiện một cú đánh bóng, cây gậy trượt khỏi tay cậu ấy và hướng thẳng về phía tôi trước khi đập thẳng vào vùng giữa hai mắt tôi. Tôi không nhớ bất kì điều gì về cái khoảnh khắc va đập đó. Cây gậy đập vào mặt tôi với một lực mạnh tới nỗi làm mũi tôi biến dạng thành hình chữ U. Vụ va đập khiến cho phần mô mềm của não xoắn tụt vào sâu xương sọ. Ngay lập tức một cơn chấn động chạy xuyên đầu tôi. Chỉ trong tíc tắc tôi bị gãy mũi, rạn xương sọ, và hoa cả mắt. Khi tôi mở mắt, tôi thấy mọi con mắt đổ dồn vào tôi và mọi người đang chạy về phía tôi để giúp đỡ. Tôi cúi xuống và thấy những đốm đỏ nổi bật trên quần áo mình. Một trong những cậu bạn cùng lớp cởi chiếc áo của cậu ấy và đưa cho tôi để cầm máu đang chảy như suối từ cái mũi gẫy của tôi. Sốc và hỗn loạn, tôi đã không nhận thức được tình trạng chấn thương nghiêm trọng của mình khi đó. Thầy giáo khoác vai tôi và chúng tôi bắt đầu đi bộ dài lê thê tới phòng y tế: băng qua cánh đồng, đi xuống đồi, và quay trở lại trường. Một vài cánh tay đỡ hai bên người tôi, giữ cho tôi đứng vững. Chúng tôi di chuyển rất chậm. Cũng không ai để ý tới thời gian nhanh hay chậm nữa. Khi chúng tôi tới phòng y tế, cô y tá trường hỏi tôi một loạt các câu hỏi. "Bây giờ là năm nào?""1998," tôi trả lời. Mà thật ra lúc đó là năm 2002. "Tổng thống Mỹ đương nhiệm là ai?" "Bill Clinton," tôi đáp. Câu trả lời đúng phải là George W. Bush. "Mẹ em tên là gì?" "Ừ. Uhm." Tôi ngắc ngứ. Mười giây trôi qua. "Patti," tôi đáp một cách thản nhiên, cố lờ đi sự thật rằng tôi mất đến mười giây để nhớ ra tên của chính mẹ mình. Đấy cũng là câu hỏi cuối cùng mà tôi nhớ được. Cơ thể tôi không thể nào chịu đựng được những cơn choáng dồn dập trong đầu và tôi đã bất tỉnh trước khi xe cứu thương đến nơi. Vài phút sau, tôi được cáng rời khỏi trường tới thẳng bệnh viện địa phương. Tới bệnh viện được một lúc thì cơ thể tôi có dấu hiệu ngừng trệ. Tôi gặp khó khăn ngay cả trong những việc thực hiện các chức năng cơ bản như nuốt và thở. Tôi lên cơn co giật đầu tiên. Sau đó thì tôi ngừng thở hoàn toàn. Các bác sĩ khẩn trương cho tôi thở oxy, họ cũng đưa ra quyết định rằng bệnh viện địa phương không đủ trang thiết bị để điều trị ca bệnh của tôi và gọi một chiếc trực thăng chuyển tôi tới một bệnh viện lớn hơn tại Cincinnati. Tôi được đẩy ra khỏi cánh cửa phòng cấp cứu và băng qua phố để tới chiếc trực thăng. Một y tá đẩy tôi trên chiếc xe cáng cứu thương, nó rung từng nhịp trên lối đi mấp mô, trong khi một người khác đang bơm khí giúp tôi thở bằng tay từng nhịp một. Mẹ tôi vừa mới tới bệnh viện kịp lúc cũng leo lên trực thăng với tôi. Mẹ nắm tay tôi trong suốt chuyến bay, lúc đó tôi vẫn hôn mê và không tự thở được. Trong khi mẹ tôi đi cùng với tôi trên chuyến bay, bố tôi về nhà xem tình hình các em tôi và báo tin cho chúng biết. Ông rưng rưng khi giãi bày với em gái tôi rằng ông sẽ không thể tham dự buổi bế giảng lớp 8 của con bé vào tối hôm đó được. Sau khi gửi hai đứa cho họ hàng, ông đã lái xe tới Cincinnati để gặp mẹ tôi. Khi trực thăng đáp xuống sân bay trên nóc bệnh viện, một đội ngũ gần hai mươi bác sĩ và y tá lao tới và nhanh chóng đưa tôi tới phòng điều trị. Đến lúc này sự phù nề trong não tôi trở nên rất nghiêm trọng và tôi bắt đầu các cơn co giật. Cần phải xử lý các chỗ xương gãy nhưng tình trạng tôi không cho phép thực hiện phẫu thuật. Sau cơn động kinh lần thứ ba trong ngày, tôi được gây mê và đặt trên một cái quạt thông gió. Bố mẹ tôi không lạ lẫm gì với bệnh viện này. Mười năm trước, cũng toà nhà này nhưng ở tầng trệt bố mẹ tôi đã mang em gái tôi đến khám, con bé khi đó 3 tuổi và được chuẩn đoán bệnh bạch cầu. Tôi lúc đó 5 tuổi. Em trai tôi được sáu tháng tuổi. Sau hai năm rưỡi hoá trị, ghép tế bào tuỷ tạo máu và sinh thiết, em gái tôi cuối cùng đã được xuất viện, hạnh phúc, khoẻ mạnh và hoàn toàn khỏi ung thư. Và giờ thì sau mười năm yên bình, bố mẹ tôi lại một lần nữa quay trở lại bệnh viện này cùng một đứa con khác. Bệnh viện đã gửi đến một mục sư và một nhà hoạt động xã hội để giúp bố mẹ tôi khuây khoả trong khi tôi đang được gây mê sâu. Đây cũng chính là mục sư người đã gặp bố mẹ tôi mười năm trước vào cái buổi tối em gái tôi được chuẩn đoán mắc ung thư. Trời dần tối và hàng tá các máy móc đã cứu sống tôi. Bố mẹ tôi nằm tạm trên một tấm thảm của bệnh viện. Lúc thì họ thiếp đi vì mệt mỏi, lúc sau họ lại choàng tỉnh dậy đầy lo lắng. Sau này mẹ tôi kể lại với tôi, "Đó là một trong những đêm kinh khủng nhất trong đời mẹ."   Phục hồi May mắn thay sáng ngày hôm sau cơ chế thở của tôi đã hồi phục về ngưỡng mà bác sĩ đánh giá là an toàn và cho tôi tỉnh lại. Rốt cuộc khi tôi có ý thức trở lại, tôi phát hiện ra rằng mình mất khả năng ngửi. Để kiểm tra thì cô y tá yêu cầu tôi thở hắt ra bằng mũi và ngửi một hộp nước táo. Khả năng ngửi của tôi đã phục hồi, nhưng mọi người ai cũng bất ngờ bởi khi tôi thở bằng mũi đã tạo ra một luồng khí xuyên qua vết nứt ở hốc mắt và đẩy mắt trái của tôi lồi ra ngoài. Con ngươi của tôi lồi ra khỏi hốc mắt và như được giữ cố định một cách lỏng lẻo bởi mí mắt và lủng lẳng móc nối với não bộ nhờ các dây thần kinh thị giác. Bác sĩ nhãn khoa cho biết mắt tôi sẽ dần dần về lại đúng vị trí khi không khí thoát hết ra ngoài, nhưng thật khó để chuẩn đoán thời gian bao lâu. Tôi được xếp lịch phẫu thuật một tuần sau đó, từ giờ cho tới đó tôi có thời gian để hồi phục. Trông tôi như thể vừa thua thảm hại sau một trận thi đấu đấm bốc vậy, nhưng tôi đã được phép xuất viện. Tôi trở về nhà với cái mũi gãy, gần một nửa khuôn mặt dập nát, và một bên mắt trái lồi ra. Những tháng sau đó là những tháng ngày khó khăn. Tôi có cảm giác mọi thứ trong đời tôi đều tạm dừng lại. Trong nhiều tuần tôi còn bị nhìn hai phía; tôi không thể nhìn thẳng. Phải mất hơn một tháng mắt tôi mới dần trở về như bình thường. Sau 8 tháng vật lộn với những cơn đau và những vấn đề về thị lực, tôi đã có thể lái xe trở lại. Khi tiến hành vật lý trị liệu, tôi đã thực hành những mô hình lái xe cơ bản như đi thẳng theo vạch thẳng. Tôi quyết tâm không để cho thương tật đánh gục mình nhưng nhiều lúc tôi cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Một năm sau đó tôi đau đớn nhận ra rằng tôi sẽ phải nỗ lực nhiều đến như nào để có thể quay trở lại sân bóng. Bóng bầu dục đã từng là một phần quan trọng trong cuộc đời tôi. Bố tôi đã từng chơi cho đội bóng chày St. Louis Cardinals và tôi đã từng có mơ ước được thi đấu giải chuyên nghiệp giống như bố vậy. Sau nhiều tháng dưỡng thương, điều tôi mong muốn nhất là được quay trở lại chơi bóng. Nhưng con đường quay trở lại môn bóng chày của tôi không hề dễ dàng chút nào. Khi mùa giải bắt đầu, tôi là thành viên duy nhất bị loại khỏi đội bóng chính thức của trường. Tôi bị xếp xuống chơi cùng đội hình hai. Tôi đã theo đuổi bộ môn này từ năm lên 4, và đối với bất kì ai người đã dành rất nhiều thời gian và nỗ lực cho một bộ môn thể thao thì đó là một điều sỉ nhục. Tôi vẫn còn nhớ như in cái ngày chuyện đó xảy ra. Tôi ngồi trong xe và khóc oà, rồi tôi chụp lấy radio, điên cuồng tìm kiếm một bài hát sẽ giúp tôi thấy khá hơn. Sau một năm với những suy nghĩ tự ti, nghi ngờ khả năng của bản thân, tôi đã thành công trong vai trò chơi ở đội hạng hai, nhưng hiếm khi tôi ra sân. Tính ra tôi chỉ chơi tổng 11 hiệp trong suốt thời gian chơi bóng chày còn lại ở trường trung học, tương đương với một trận thi đấu. Bất chấp tình trạng thi đấu dở tệ tại trường trung học, tôi vẫn tin rằng mình có thể trở thành một cầu thủ cừ khôi. Và tôi biết rằng nếu muốn mọi thứ tốt lên thì tôi chính là người có trách nhiệm biến điều đó thành sự thật. Sau hai năm kể từ ngày tôi gặp tai nạn, bước ngoặt đã đến khi tôi bắt đầu theo học tại đại học Denison. Đó là một khởi đầu mới, và cũng chính tại ngôi trường này lần đầu tiên tôi đã khám phá ra sức mạnh đáng kinh ngạc của những thói quen nhỏ bé.   Cách tôi học về các thói quen Đăng ký theo học tại đại học Denison là quyết định đúng đắn nhất của tôi. Tôi có được một vị trí trong đội tuyển bóng chày và mặc dù tôi xếp hạng chót trong danh sách như một kẻ mới toanh, tôi vẫn thấy xúc động. Bất chấp mớ hỗn loạn những năm tháng trung học, tôi vẫn luôn nỗ lực để trở thành một vận động viên ở trường đại học. Tôi đã không bắt đầu tham gia đội bóng chày luôn mà tôi tập trung vào việc sắp xếp cuộc sống của mình. Trong khi mấy đứa bạn học của tôi ngủ dậy muộn, chơi điện tử thì tôi đã xây dựng những thói quen đem lại một giấc ngủ chất lượng và đi ngủ sớm mỗi tối. Trong cái thế giới lộn xộn của ký túc xá trường, tôi đề ra nguyên tắc là giữ cho phòng mình ngăn nắp và sạch sẽ. Những điều cải thiện này không to tát gì nhưng chúng đem lại cho tôi cái cảm giác mình đang kiểm soát được cuộc sống của mình. Tôi bắt đầu lấy lại được sự tự tin. Và niềm tin đang lớn dần lên trong tôi này đã lan toả tới lớp học giúp tôi cải thiện được những thói quen học tập và đạt được điểm A trong suốt năm học thứ nhất. Một thói quen là một lịch trình hay một hành vi được thực hiện thường xuyên - và trong hầu hết mọi trường hợp, được thực hiện một cách tự giác. Mỗi một học kỳ trôi qua là tôi lại tăng dần những thói quen nhỏ nhưng nhất quán, chính điều này đã giúp đem lại những kết quả không thể tưởng tượng được lúc mới bắt đầu. Ví dụ lần đầu tiên trong đời tôi quyết định tạo thói quen nâng tạ nhiều lần mỗi tuần, và trong nhiều năm sau đó, cái thân hình cao 1,93 cm này của tôi đã thành công nâng mức tạ từ nhẹ như lông hồng 170 lên mức 200 pounds. Khi mùa giải năm thứ hai đại học bắt đầu, vai trò đầu tiên của tôi là một chân giao bóng. Đến năm thứ ba tôi được bầu là đội trưởng và vào cuối mùa giải, tôi được lựa chọn vào đội chính thức. Nhưng phải đợi đến năm thứ tư mới thấy rõ thành quả từ những thói quen của tôi trong các lĩnh vực học tập, giấc ngủ và luyện tập thể lực. 6 năm sau sự kiện tôi bị cây gậy đánh bóng bay vào mặt, được đưa tới bệnh viện bằng trực thăng, và bị gây mê sâu, giờ tôi đã được bầu chọn là nam vận động viên hàng đầu của đại học Denison và có tên trong danh sách đội tuyển cấp đại học toàn nước Mỹ của ESPN, một vinh dự chỉ dành cho 33 cầu thủ trên toàn quốc. Đến khi tốt nghiệp, tôi đã có tên trong sách kỷ lục của trường trong 8 lĩnh vực khác nhau. Cũng trong năm đó, tôi được trao huy chương của Tổng thống cho thành tích học tập cao nhất tại trường đại học. Hi vọng bạn bỏ qua cho tôi nếu bạn thấy những điều ở trên nghe có vẻ khoe khoang. Nói thật chẳng có huyền thoại hay ghi danh sử sách nào trong sự nghiệp thể thao của tôi hết. Tôi chưa bao giờ ngừng chơi một cách chuyên nghiệp. Tuy nhiên, khi nhìn lại những năm tháng đó tôi tin là mình đã đạt được một điều rất quý giá: tôi đã tạo ra cơ hội tiềm năng cho chính mình. Và tôi tin những cách thức trong cuốn sách này cũng sẽ giúp bạn tạo ra cơ hội tiềm năng cho chính bạn. Tất cả chúng ta ai cũng gặp những thách thức trong cuộc sống. Tổn thương sau tai nạn là một trong những thách thức của tôi và trải nghiệm đó đã dạy tôi một bài học quan trọng: những thay đổi tưởng chừng bé nhỏ, ít quan trọng lúc ban đầu sẽ đem lại kết quả đáng kinh ngạc nếu ta kiên trì thực hiện nó trong nhiều năm. Tất cả chúng ta đều phải đối diện với những khoảng lùi nhưng trong một cuộc chạy dài, chất lượng cuộc sống của chúng ta thường phụ thuộc vào chất lượng của những thói quen chính chúng ta. Với cùng thói quen, bạn sẽ đạt được cùng kết quả. Nhưng với những thói quen tốt hơn, mọi việc đều khả thi. Có thể có những người sau một đem có thể đạt được những thành công vượt bậc. Nhưng tôi không quen ai như vậy cả, tôi thì chắc chắn không phải là một người trong số họ. Không thể chỉ trong một khoảnh khắc mà tôi từ một bệnh nhân bị gây mê sâu trở thành một người được trao huân chương xuất sắc cấp đại học toàn quốc. Đó là một hành trình. Đó là sự cải thiện dần từng chút một, một chuỗi dài của các chiến thắng và bứt phá nhỏ bé. Cách thức duy nhất mà tôi đã thực hiện - lựa chọn duy nhất mà tôi đưa ra - là bắt đầu từ những điều nhỏ bé. Và tôi đã áp dụng cùng cách thức này trong vài năm sau đó khi tôi bắt đầu tự kinh doanh và viết cuốn sách này. Lý do và cách tôi đã viết nên cuốn sách. Tôi bắt đầu đăng các bài viết trên trang jamesclear.com từ Tháng 11 năm 2012. Tôi đã ghi chép lại những kinh nghiệm cá nhân về thói quen, cuối cùng tôi đã sẵn sàng chia sẻ một vài điều trong đấy tới các bạn. Lúc bắt đầu tôi đăng bài mới vào mỗi thứ hai và thứ năm hàng tuần. Chỉ trong vài tháng, những bài viết đơn giản về thói quen đó đã đem lại cho tôi 1000 người theo dõi nhận tin qua email, và đến cuối năm 2013 con số người theo dõi đã tăng lên đến con số 30,000. Năm 2014 danh sách người theo dõi đã tăng lên hơn 100,000 người, đây là một con số tăng trưởng ấn tượng trên mạng internet. Tôi đã từng có cảm giác mình như kẻ lừa đảo khi bắt tay vào viết lách vào hai năm về trước, nhưng giờ tôi đã trở nên nổi tiếng là một chuyên gia về thói quen - cái chức danh vừa khiến tôi phấn khích vừa khiến tôi không thoải mái. Tôi chưa từng bao giờ nghĩ mình là một chuyên gia trong lĩnh vực này, và chắc chắn trong số những độc giả còn có người còn siêu hơn. Năm 2015 số lượng người theo dõi qua email đã lên đến con số 200.000 và tôi cũng ký được một hợp đồng với nhà xuất bản Penguin Random House để viết cuốn sách mà các bạn đang đọc. Số lượng độc giả tăng đem lại cho tôi những cơ hội kinh doanh. Ngày càng nhiều các công ty lớn mời tôi đến nói chuyện về việc tạo lập thói quen, thay đổi hành vi, cải thiện liên tục một cách khoa học. Tôi nhận thấy chủ yếu những lời mời nói chuyện tới từ Mỹ và Châu Âu. Năm 2016, các bài viết của tôi bắt đầu thường xuyên xuất hiện trên những tạp chí lớn như Times, Entrepreneur, và Forbes. Không thể ngờ được rằng hơn 8 triệu độc giả đã đọc những bài viết của tôi trong năm đó. Các huấn luyện viên tại các giải NFL, NBA và MLB bắt đầu đọc các bài viết của tôi và chia sẻ với các thành viên trong đội. Đầu năm 2017, tôi thành lập Habit Academy, nơi cung cấp các chương trình đào tạo nền tảng chất lượng cao dành cho những tổ chức, cá nhân có mong muốn xây dựng các thói quen tốt hơn trong cuộc sống và công việc [* Nếu muốn biết thêm thông tin xin mời truy cập website habitsacademy.com]. Các công ty trong top 500 của Fortune và các công ty start-up đang ăn nên làm ra bắt đầu cử các lãnh đạo đến học và đào tạo nhân viên của họ. Tổng đã có hơn 10,000 nhà lãnh đạo, quản lý, huấn luyện viên và giáo viên đã tốt nghiệp Habits Academy, và khi làm việc với những con người đó tôi cũng đã học được một khối lượng kiến thức đáng kinh ngạc các cách tạo lập thói quen áp dụng trong thực tiễn. Năm 2018 khi tôi hoàn thành cuốn sách này, trang web jamesclear.com đang nhận được hàng triệu lượt truy cập mỗi tháng và gần 500.000 người theo dõi qua email hàng tuần - một con số vượt xa ngoài mong đợi lúc mới bắt đầu của tôi, thậm chí tôi còn không chắc là đã nghĩ tới con số này. Cách mà quyển sách này giúp ích cho bạn Naval Ravikant, một nhà đầu tư cho biết: "Để viết ra một cuốn sách tuyệt vời, trước tiên chúng ta phải là chính cuốn sách." Lúc bắt đầu tôi học về những ý tưởng được đề cập trong cuốn sách này bởi vì tôi phải sống với chúng. Tôi đã phải nhờ vào những thói quen nhỏ để phục hồi sau chấn thương, để trở nên khoẻ mạnh hơn khi tập gym, để có phong độ cao trên sân đấu, để trở thành một nhà văn, để trở thành một nhà kinh doanh giỏi, và đơn giản là để trở thành một thanh niên sống có trách nhiệm. Những thói quen nhỏ giúp tôi tự mình tạo ra được những tiềm năng cho mình, và bởi vì bạn đã lựa chọn cuốn sách này, tôi đoán là bạn cũng muốn tự tạo ra những tiềm năng cho mình. Những trang tiếp theo tôi sẽ chia sẻ từng bước theo thứ tự để tạo dựng thói quen tốt hơn - không chỉ trong một vài ngày hay vài tuần, mà là cho cả một đời người. Dù mọi điều tôi viết trong cuốn sách đều được khoa học ủng hộ nhưng cuốn sách này lại ko phải là một bản nghiên cứu khoa học, nó là một bản hướng dẫn thao tác. Mời bạn đón đọc Atomic Habits - Thay Đổi Tí Hon, Hiệu Quả Bất Ngờ của tác giả James Clear & Lý Ngọc Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phép Màu Của Chúa
Kendra Bryant và anh chồng Moe vốn là những người vô thần, họ không tin vào Chúa, chứ đừng nói là phép màu của Ngài. Thế nhưng giá trị niềm tin của Kendra bắt đầu lung lay sau khi cô mắc chứng viêm màng tim cấp tính và được phẫu thuật, nhận trái tim mới từ Erin. Erin cùng chồng và ba người không may qua đời trong một tai nạn giao thông, để lại cô bé Amy khi đó mới chỉ tám tuổi, tới sống cùng gia đình dì Ashley. Sau hai năm Erin qua đời, ông John Baxter quyết định Giáng sinh này sẽ mời vợ chồng Kendra tới tham dự bữa ăn tối truyền thống cùng với đại gia đình ông. Không ngờ, ý tưởng này của người cha vấp phải sự phản đối quyết liệt của những thành viên khác. Họ lo lắng sự hiện diện của Kendra sẽ ảnh hưởng xấu đến Amy, người duy nhất sống sót sau tai nạn kinh hoàng. Bản thân Kendra cũng đang gặp khó khăn trong việc tìm ý nghĩa của cơ hội sống thứ hai mà cô được trao cho. Cô hy vọng lời mời của ông John sẽ cho cô lời giải đáp và giúp cứu vãn cuộc hôn nhân đang bế tắc của mình. Cùng lúc đó, Maddie, cháu gái của John Baxter đang cầu xin một phép màu Giáng sinh cho cô em gái. Liệu điều kì diệu có đến với Maddie, Kendra cũng như các thành viên đại gia đình nhà John? Giữa những người tin tưởng vào Chúa, Kendra và Moe liệu có thể dễ dàng hòa đồng cùng mọi người? *** Độc giả nói gì về sách của Karen Kingsbury? “Những câu chuyện là hư cấu nhưng tác động là thực tế.” Debbie L.R “Karen Kingsbury đang thay đổi thế giới và người đọc cùng một lúc.” Lauren W. “Tôi đã đọc nhiều sách của Karen và mỗi lần đọc, tôi đều bật khóc. Tôi cảm giác như mình thật sự quen biết những nhân vật trong câu chuyện. Tim tôi như muốn nhảy ra ngoài với tất cả bọn họ khi có chuyện gì đó xảy ra.” Kathy N. “Mỗi khi cầm lên một quyển sách mới của Karen Kingsbury, có hai điều không bao giờ thay đổi: khăn giấy và đọc xong toàn bộ tác phẩm chỉ trong một ngày.” Nel L. “Tác giả xuất sắc nhất nước Mỹ.” Mary H. “Sách của Karen nhắc nhở tôi rằng: Chúa có thật trên đời. Tôi rất cần lời nhắc ấy!” Carrie F. “Mỗi lần đọc một quyển sách của Karen, tôi đều nghĩ ‘đây là cuốn sách hay nhất.’ Rồi khi tác phẩm tiếp theo ra mắt, tôi lại nghĩ ‘không, đây mới là hay nhất.’” April B.M. “Tiểu thuyết là những kỳ nghỉ ngắn và sách của Karen là điểm đến yêu thích của tôi.” Rachel S. *** Gia đình Baxter - Hôm qua và hôm nay Đối với một số độc giả, đây là lần đầu tiên bạn tiếp xúc với gia đình Baxter. Vâng, bạn có thể quay lại và đọc 23 cuốn sách về những nhân vật được yêu thích nhất này. Nhưng bạn không nhất thiết phải đọc chúng mới đọc được cuốn sách này. Thật ra sẽ còn những tác phẩm khác xuất bản trong vài năm tới. Nếu muốn, bạn có thể bắt đầu ngay từ đây. Vào mùa Giáng sinh. Cho dù bạn đã quen biết gia đình Baxter nhiều năm hay bây giờ mới gặp, dưới đây là phần tóm tắt nhanh về các thành viên, con cái và tuổi tác của họ. Đồng thời, vì các nhân vật đều là hư cấu nên tôi tự do định ra số tuổi của họ. Hãy giả định rằng đó là tuổi tác ở hiện tại. Bây giờ, hãy để tôi giới thiệu hay nhắc cho bạn nhớ về gia đình Baxter: Câu chuyện nhà Baxter bắt đầu ở Bloomington, bang Indiana và hiện nay, hầu hết thành viên vẫn còn sống ở đó. Ngôi nhà của họ nằm trên khoảng đất rộng bốn nghìn mét vuông ở vùng ngoại ô, có một con lạch uốn lượn chảy qua sân sau. Nhà có mái hiên rộng, khung cảnh khá đẹp và lưu giữ ký ức của cả đời người. Ông bà John và Elizabeth Baxter đã xây nên nơi này và cùng nhau nuôi dạy con cái ở đây. Hiện nay, nó thuộc sở hữu của một trong số các cô con gái – Ashley và chồng, Landon Blake. Đây vẫn là nơi đại gia đình Baxter sum họp trong những ngày lễ đặc biệt như Giáng sinh. John Baxter: John là người chủ gia đình đáng kính. Ông là một bác sĩ nổi tiếng ở Bloomington, đồng thời giảng dạy về y khoa ở trường Đại học Indiana. Người vợ đầu tiên của John là Elizabeth đã mất cách đây mười năm vì bệnh ung thư tái phát. Nhiều năm sau, ông lấy vợ khác là bà Elaine và hai người sống ở Bloomington. Dayne Matthews, 41 tuổi: Dayne là con trai cả của ông John và bà Elizabeth. Dayne sinh ra ngoài giá thú và được gia đình khác nhận nuôi ngay sau khi sinh. Bố mẹ nuôi của anh mất trong một tai nạn máy bay khi anh được 18 tuổi. Nhiều năm sau, Dayne trở thành một ngôi sao điện ảnh vô cùng nổi tiếng. Năm 30 tuổi, anh thuê luật sư tìm kiếm bố mẹ ruột của mình – ông bà John và Elizabeth Baxter. Dayne sống với mẹ một khoảng thời gian ngắn trước khi bà mất và vài năm sau, anh hòa nhập với những người thân ruột thịt khác trong gia đình. Dayne kết hôn với Katy – 39 tuổi. Đôi vợ chồng có ba đứa con: Sophie, 6 tuổi; Egan, 4 tuổi và Blaise, 2 tuổi. Họ là một phần rất quan trọng trong đại gia đình Baxter và thường chia thời gian sinh sống giữa Los Angeles và Bloomington. Brooke Baxter West, 39 tuổi: Brooke là bác sĩ nhi ở Bloomington, kết hôn với Peter West, 39 tuổi, cũng là bác sĩ. Hai người có hai cô con gái: Maddie, 18 tuổi và Hayley, 15 tuổi. Gia đình họ đã trải qua một bi kịch khi Hayley bị đuối nước năm lên 3 tuổi. Cô bé hồi phục một cách kỳ diệu nhưng vẫn còn khuyết tật do tai nạn. Kari Baxter Taylor, 37 tuổi: Kari là nhà thiết kế. Cô kết hôn với Ryan Taylor, 39 tuổi, là huấn luyện viên bóng đá ở trường Trung học Clear Creek. Kari cùng với chị Brooke quản lý Trung tâm Hỗ trợ phòng chống Khủng hoảng thai sản Bloomington.2* Kari và Ryan có ba đứa con: Jessie, 16 tuổi; RJ, 9 tuổi và Annie, 6 tuổi. Kari yêu Ryan từ khi cả hai học trung học. Họ hẹn hò với nhau suốt thời đại học nhưng rồi chia tay vì một hiểu lầm. Cô kết hôn với Tim Jacobs – một người đàn ông cũng quen biết trong trường đại học nhưng sau vài năm chung sống, anh ta ngoại tình. Sự không chung thủy dẫn đến việc Tim bị ám sát trong tay kẻ mật thám. Thảm kịch ấy hủy hoại cuộc đời Kari khi cô đang mang thai đứa con đầu lòng (Jessie). Cũng trong lúc đó, Ryan trở lại bên cô và mấy năm sau, họ nên vợ nên chồng. Cả gia đình sống ở Bloomington. * Bloomington Crisis Pregnancy Center. Ashley Baxter Blake, 35 tuổi: trước đây, Ashley từng là chú cừu đen3* nổi loạn của gia đình Baxter. Cô kết hôn với Landon Blake – 35 tuổi, làm việc ở Sở Cứu hỏa Bloomington. Đôi vợ chồng này có bốn người con: Cole, 15 tuổi; Amy, 10 tuổi; Devin, 8 tuổi và Janessa, 4 tuổi. Khi còn là một người mẹ đơn thân trẻ tuổi, Ashley đã phát chán với Đức Chúa Trời và cả gia đình mình. Rồi cô liên lạc lại với anh bạn lính cứu hỏa Landon – người luôn thầm thương trộm nhớ cô. Cuối cùng, Ashley và Landon kết hôn. Anh nhận Cole làm con. Hai vợ chồng có với nhau hai người con – Devin và Janessa nhưng giữa chúng, họ từng mất một bé gái – Sarah Marie ngay khi chào đời vì không có não. Amy – cháu gái của Ashley đã đến sống với họ vài năm trước khi bố mẹ cô bé – Erin Baxter Hogan và Sam Hogan, cùng với ba người chị, Clarissa, Chloe và Heidi Jo qua đời trong vụ tai nạn xe hơi thảm khốc. Amy là người duy nhất sống sót. Vợ chồng Ashley và gia đình sống ở Bloomington trong ngôi nhà cổ kính của gia đình Baxter – nơi cô cùng các anh chị em đã được nuôi lớn. Ashley vẫn vẽ tranh và bán những tác phẩm của mình ở cửa hàng địa phương rất thành công. * Trong tiếng Anh, thuật ngữ “cừu đen” (Black sheep) dùng để mô tả một thành viên tai tiếng nằm trong một nhóm hoặc là những đứa trẻ khác biệt trong một gia đình hoặc những nhân tố nổi loạn trong một tập thể. Luke Baxter, 33 tuổi: Luke là luật sư, kết hôn với Reagan Baxter, 33 tuổi, là một blogger. Hai vợ chồng họ có ba đứa con: Tommy, 13 tuổi; Malin, 8 tuổi và Johnny, 4 tuổi. Luke gặp Reagan ở trường đại học. Ban đầu, họ trải qua cuộc chia tay khá lâu sau khi Tommy ra đời ngoài hôn thú. Cuối cùng, cặp đôi kết hôn mặc dù không thể có thêm đứa con nào. Malin và Johnny đều được nhận nuôi. Bên cạnh gia đình Baxter, cuốn sách này còn về thăm lại gia đình Flanigan. Nhà Flanigan đã làm bạn với nhà Baxter nhiều năm. Trước đây, tôi đã viết năm cuốn sách về cô con gái lớn của họ - Bailey Flanigan. Để cho người đọc tác phẩm này và những tác phẩm sau có thể theo dõi, dưới đây là tên tuổi của các thành viên trong gia đình này: Jim và Jenny Flanigan, đều 45 tuổi. Jim là huấn luyện viên bóng đá cho đội Indianapolis Cotls và Jenny là nhà văn tự do làm việc tại nhà. Bailey, 22 tuổi kết hôn với Brandon Paul, 25 tuổi. Cả hai vợ chồng từng là diễn viên ở Hollywood và người chồng cực kỳ nổi tiếng. Hiện nay họ đang quản lý rạp hát Trẻ em Công giáo ở trung tâm Bloomington. Các em trai của Bailey là Connor, 19 tuổi, sinh viên Đại học Liberty; Shawn và Justin đều 17 tuổi, học lớp 11 ở trường Trung học Clear Creek; BJ, 16 tuổi, học lớp 10 và Ricky, 13 tuổi lên lớp 8. Mời các bạn đón đọc Phép Màu Của Chúa của tác giả Karen Kingsbury & Phương Hạ (dịch).
Từ Nước Mắt Đến Nụ Cười - Tận Cùng Khổ Đau Đến Ngời Sáng Tâm Hồn
Tận cùng khổ đau đến ngời sáng tâm hồn • “Phương thuốc tự nhiên” đến từ tình yêu thương và sự tha thứ sẽ giúp xoa dịu những nỗi đau và chữa lành chứng trầm cảm. • Chứng trầm cảm có thể là một sự khởi đầu thiêng liêng dẫn vào hành trình giác ngộ Những tổn thương, mất mát, nỗi thống khổ, hay sự trầm cảm là những điều mà không ai trong chúng ta muốn đón nhận, nhưng lại không thể tránh khỏi trong cuộc đời. Tuy nhiên, Marianne Williamson - tác giả của cuốn sách - khẳng định “Trầm cảm có thể là một sự khởi đầu thiêng liêng dẫn vào hành trình giác ngộ”. Cuốn sách được xem là sự suy tư về nỗi đau của con người, căn nguyên của chứng trầm cảm, và đặc biệt là sự siêu việt mà nó mang lại cho chính chúng ta. “Từ nước mắt đến nụ cười là cuốn sách đào sâu vào gốc rễ của chứng trầm cảm. Sau đó, sẽ giúp bạn nắm bắt được những giải pháp để vượt qua chúng và tiếp tục tiến về phía trước. Đây là một cuốn sách lý tưởng dành cho tất cả chúng ta” - nhà sáng lập Spirituality & Health bình luận về cuốn sách. Cuốn sách mở đầu bằng câu chuyện về cuộc đời của Jonathan - người từng đứng ở đỉnh cao của cuộc đời, đã rơi xuống vực thẳm sâu hoắm và đen tối khi đánh mất gia đình, nhà cửa, tiền bạc, và cả sự nghiệp. Những bất trắc ấy đã khiến Jonathan rơi vào chứng trầm cảm, và buộc phải tham gia những buổi trị liệu của bác sĩ tâm lý để tìm thấy sự chữa lành. Từng là một người cao ngạo và tự mãn, giờ đây, Jonathan đã phải rơi lệ, chịu cúi đầu và khiêm nhường trước người khác để mong cầu sự giúp đỡ. Nếu Jonathan đã phải rất khổ sở mới có thể thốt lên rằng “Tôi mất hết tất cả rồi”, thì tác giả - cũng chính là bác sĩ tâm lý của anh - lại nhẹ nhàng xoa dịu bằng câu nói của một nhà sư: “Cốc phải cạn thì mới có thể rót đầy”. Đôi khi mọi chuyện phải trở nên tồi tệ rồi mới bắt đầu tốt lên. Thế nên, nhiều lúc cuộc sống của chúng ta trở nên trống rỗng lại là một điều tốt đẹp, Marianne Williamson chia sẻ. “Từ nước mắt đến nụ cười” được chia thành 12 phần chính: 1. Phó thác nỗi buồn 2. Xuyên qua bóng tối, vào ánh sáng 3. Chống lại sự tê dại 4. Vũ trụ diệu kỳ 5. Văn hóa muộn phiền 6. Tha thứ 7. Thiên đường quan hệ, địa ngục quan hệ 8. Thay đổi chính mình, thay đổi thế giới 9. Ánh sáng của Đức Phật 10. Ánh sáng của Moses 11. Ánh sáng của Chúa Jesus 12. Nước mắt tới hân hoan Xuyên suốt cuốn sách, Marianne Williamson hướng mọi người đón nhận và trưởng thành từ những nỗi đau thay vì né tránh như cách mà chúng ta hay làm. Nữ tác giả tin rằng: càng phủ nhận những tổn thương, chúng ta càng kéo dài nỗi đau do chúng gây nên. “Chừng nào còn chưa được chữa lành, những vết thương ấy còn tiếp tục đưa cuộc sống của chúng ta đi theo những hướng bất lợi”. Những “phương thuốc tự nhiên” giúp bạn đọc đối diện và vực dậy khỏi những tổn thương mà Marianne Williamson đã nói đến trong cuốn sách bao gồm: Cho phép được buồn, Thoát khỏi quá khứ, Tha thứ cho chính mình, Nhân từ Đặc biệt, với cương vị là một nữ chính trị gia và nhà lãnh đạo tâm linh, thông qua tác phẩm của mình, Marianne Williamson còn đem đến cho độc giả kiến thức về hành trình giác ngộ. Cuốn sách chứa đựng những đoạn kinh ngắn, được sử dụng trong đạo Phật, Công giáo, và đạo Chúa để chữa lành những tổn thương và tìm thấy sự thanh tịnh trong tâm hồn. Với lối văn súc tích, dễ hiểu cùng những câu chuyện đời thường xen kẽ, “Từ nước mắt đến nụ cười” đã chạm đến trái tim của nhiều bạn đọc, đặc biệt là những ai đang phải đương đầu với những mất mát, tổn thương, và sự trầm cảm. Cuốn sách đã nhanh chóng có mặt trong danh mục những tựa sách bán chạy nhất tại Mỹ ngay khi vừa mới phát hành. Về tác giả Marianne Williamson là một tác giả, diễn giả, nhà hoạt động chính trị và lãnh đạo tâm linh nổi tiếng trên toàn thế giới. Đặc biệt, cô là một trong những ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ thuộc đảng Dân chủ năm 2020. Tính đến nay, Marianne Williamson là tác giả của 14 cuốn sách, với hơn 3 triệu bản được bán ra trên thị trường, trong đó có 4 cuốn lọt vào danh mục sách bán chạy nhất theo The New York Times. Sách của Marianne Williamson chủ yếu bàn về những giá trị tinh thần và tình yêu thương con người, giúp độc giả khám phá bản thân và vượt lên trên những nghịch cảnh để tìm thấy niềm vui và sự an yên trong cuộc sống. *** Trong một thế giới vồn vã, quay cuồng và đầy ngổn ngang này, bạn và tôi, có lẽ chúng ta đều có nhiều hơn một lần bị những nỗi khổ đau ăn mòn tâm trí. Có phải bạn đã từng có những suy nghĩ như “Tại sao mình phải chịu đựng những thứ này?”, “Vì cớ gì mà mình lại đau khổ đến như vậy?”, “Giá trị thực sự của mình nằm ở đâu?”, “Mình là ai?”,... cứ quanh quẩn và giày vò trí óc bạn mỗi ngày? Tôi muốn nói với bạn rằng, bạn không chỉ có một mình thôi đâu. Ai trong mỗi người chúng ta trên trái đất này, cũng đều có những lúc mà nỗi đau của sự tồn tại dường như vượt quá sức chịu đựng. Và vì lẽ đó, ai cũng đều có một niềm khao khát, có thể là một niềm khao khát cháy bỏng, đối với tình yêu và cả hạnh phúc. Nếu bạn là một người đang mang trên mình nhiều vết thương tinh thần, một trái tim không lành lặn chứa đầy vết xước đến rỉ máu, hay bạn đang khao khát vươn tay chạm tới thứ ánh sáng phía cuối đường hầm tăm tối, khao khát tìm một hướng đi giải thoát cho thực tại khốn khổ của mình, tôi nghĩ bạn nên tìm đọc cuốn sách Từ nước mắt tới nụ cười - Tận cùng khổ đau đến ngời sáng tâm hồn của tác giả Marianne Williamson. Bạn có thể tìm thấy ở đây một số mảnh ghép mà bạn chưa từng biết. Một bí ẩn. Và, có thể, là một phép màu. Con người ta dường như luôn bị những nỗi lo sợ chi phối trong cuộc sống hàng ngày. Trong khi một sự thật hiện hữu rằng, không ai có thể thật sự chi phối được chúng ta ngoài chính linh hồn sâu thẳm bên trong mỗi người. Khi thứ dịch bệnh Covid ám ảnh cả thế giới bùng phát trở lại ở Việt Nam một lần nữa, nỗi lo sợ mới lại được hình thành, quẩn quanh những âu lo trong cuộc sống thường nhật của mỗi người. Chúng ta có hàng tá lý do cho phép nỗi sợ hãi, muộn phiền hiện diện: lo không thể về được quê của mình, sợ công việc đang làm sẽ có sự thay đổi, lo thu nhập bị ảnh hưởng, sợ mình có thể bị mắc bệnh,... Nỗi sợ càng lớn bao nhiêu, thứ tâm bệnh tà ác ta rước thêm vào người càng nhiều bấy nhiêu. Bạn muốn thoát ra khỏi mớ cảm xúc và suy nghĩ hỗn độn ấy chứ? Cuốn sách Từ nước mắt đến nụ cười - Tận cùng khổ đau đến ngời sáng tâm hồn của tác giả Marianne Williamson có thể sẽ trở thành một sự động viên tinh thần, giúp bạn không còn cảm thấy một mình trên cuộc hành trình vượt qua những khổ đau và nỗi lo hãi trong cuộc sống chìm nổi này. Và tôi nghĩ, cuốn sách này đặc biệt dành tặng cho những người đang cố gắng đấu tranh hằng ngày với căn bệnh trầm cảm ẩn sâu bên trong mình. Về tác giả và cuốn sách Marianne Williamson là một người phụ nữ tài giỏi. Bà vừa là một nhà hoạt động chính trị và là một nhà lãnh đạo tâm linh. Đồng thời, bà cũng chính là tác giả của 14 cuốn sách nổi tiếng, trong đó có bốn cuốn đã được lọt vào danh mục sách bán chạy nhất của The New York Times. Bà là người sáng lập ra Project Angel Food, một tổ chức phi lợi nhuận cung cấp hơn 12 triệu bữa ăn tình nguyện phục vụ cho những người bị AIDS ở nhà và cả các bệnh nhân đang hàng ngày đấu tranh với căn bệnh hiểm nghèo đe dọa đến tính mạng khác. Bên cạnh đó, bà cũng là người đồng sáng lập của Liên minh Hòa bình, một tổ chức giáo dục và vận động cơ sở phi lợi nhuận hỗ trợ các dự án xây dựng hòa bình. Bạn thấy đấy, Marianne quả là một người phụ nữ đa tài. Nhưng tôi hiểu bà đã phải cố gắng đến mức nào để có thể tiếp tục đi con đường của bản thân. Suy cho cùng, trên đường đi của mỗi người, chí ít thì ai cũng có đôi lần phải nếm trái đắng nhỉ? … Có một số người bị nỗi đau đớn tận cùng đè nặng, khó thể nào nguôi ngoai, dù chỉ một chút nhỏ nhoi. Ta chìm mỗi lúc một sâu hơn trong giếng nước mắt của chính mình, chìm vào bóng tối thăm thẳm dường như không đáy. Ta tự hỏi tất cả những đau đớn này đến từ đâu. Và ta tự hỏi nó có bao giờ kết thúc? Nếu bạn, hoặc một người nào đó mà bạn yêu thương, đang phải trải qua khoảng thời gian như thế - khi việc thở thêm một hơi nữa, sống thêm một ngày nữa, dường như cũng là quá sức - Thì tôi rất vui vì bạn đọc cuốn sách này. Tôi biết khổ sở là gì, vì tôi đã hai lần bị chẩn đoán trầm cảm. Tôi đã trải qua bi kịch cá nhân và cái chết của những người thân yêu. Tôi đã phải chịu đựng sự phản bội và thất vọng. Hơn một lần, tôi cảm thấy mất hết mọi cơ hội hạnh phúc từng có. Tôi đã ở quá gần với đau khổ, không chỉ trong cuộc sống của chính tôi, mà còn cuộc sống của nhiều người khác mà tôi đã gặp trong sự nghiệp của mình. Không gì giúp bạn nhìn rõ được nỗi khổ của người khác hơn khi chính bạn cũng phải chịu khổ. Tôi biết khuôn mặt của trầm cảm mà, tôi biết rõ! Nhiêu đó thôi cũng đủ khiến tôi nghĩ rằng bạn nên đọc cuốn sách này. Một người đã từng trải qua trầm cảm, đã chiến đấu và đánh bại được nó, hẳn cũng có thể dẫn dắt và giúp đỡ bạn tự đánh bại được tâm bệnh trong chính mình. Bạn không hề chiến đấu đơn độc một chút nào. Cuốn sách trọn vẹn 293 trang được chia thành 12 chương nhỏ: Phó thác nỗi buồn Xuyên qua bóng tối, vào ánh sáng Chống lại sự tê dại Vũ trụ diệu kỳ Văn hóa muộn phiền Tha thứ Thiên đàng quan hệ, địa ngục quan hệ Thay đổi chính mình Ánh sáng của Đức Phật Ánh sáng của Moses Ánh sáng của Jesus Nước mắt tới hân hoan Cuốn sách Từ nước mắt đến nụ cười là một sự suy tư tinh thần về nỗi đau khổ của con người, cả về căn nguyên và sự siêu việt của nó. Bên cạnh đó, cuốn sách còn chạm đến bề mặt chiều sâu tinh thần của sự sáng suốt trong các giáo lý tôn giáo và tâm linh vĩ đại với hy vọng đến được nơi đang bị che khuất đằng sau những tấm màn phủ giáo điều cùng những hiểu lầm từ xa xưa. Xuyên suốt cuốn sách, các bạn sẽ thường xuyên được nhìn thấy “Chúa Trời”. Chúa Trời mà tác giả nhắc đến trong cuốn sách này không phải chỉ là Chúa Trời trong thiên chúa giáo nói riêng, mà đó còn là từ dùng để chỉ các Đấng Thiêng Liêng của mọi tôn giáo nói chung. Xã hội này đã rước trầm cảm đến bằng cách coi thường tình yêu. Chúng ta đã bán linh hồn của mình cho một mớ hầm bà lằng. Sự tồn tại của con người không chỉ là một tình tiết ngẫu nhiên, chẳng vì mục đích nào ngoài việc tất cả chúng ta đều nên có được những gì mình muốn. Nhìn nhận theo cách đó, không có lớp phủ tinh thần, cuộc sống của chúng ta dường như không còn ý nghĩa tối thượng, trong khi linh hồn khao khát ý nghĩa chẳng khác nào cơ thể thèm khát oxy. Khi không có một khung sườn tinh thần, chúng ta biết các cơ chế của cuộc sống nhưng lại hầu như không hiểu được. Và bởi không hiểu cuộc sống, chúng ta sống sai. Và bởi sống sai, chúng ta gây đau khổ - cho bản thân và cho người khác. Hành trình thiêng liêng của Đức Phật bắt đầu khi Ngài thấy đau khổ lần đầu tiên; Moses xúc động trước những thống khổ của người dân Israel; và Chúa Jesus chịu khổ trên cây thập giá. Nhưng vấn đề không chỉ đơn giản là Đức Phật thấy nỗi khổ, mà là Ngài đã vượt qua nó bằng sự giác ngộ của mình. Vấn đề không chỉ đơn giản là người Do Thái bị bắt làm nô lệ, mà là họ đã được giải cứu và dẫn đến miền Đất Hứa. Vấn đề không chỉ đơn giản là chúa Jesus bị đóng đinh, mà là ngài đã được hồi sinh. Sự đau khổ của con người chỉ là vế đầu của phương trình, điều quan trọng hơn là những gì xảy ra sau khi Chúa Trời cho ta thấy bàn tay của Người. Tận cùng khổ đau Xã hội càng hiện đại, áp lực cuộc sống càng đè nặng lên đôi vai của mỗi người. Gánh nặng ấy không chỉ đến từ những lo toan cuộc sống hàng ngày, mà nó còn đến từ những áp lực của đời sống tinh thần, nặng nề hơn, và đáng sợ hơn. Bạn có thể dễ dàng thấy được những con số thống kê về tỷ lệ người tự tử vì trầm cảm hàng năm trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đa phần trong số đó đều là những người còn rất trẻ. Phải chăng người trẻ của hiện đại đang thiếu đi sự đề kháng với áp lực? Nhiều người nghĩ rằng đó là những hành động nông nổi và bồng bột của giới trẻ. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp được câu nói của những người lớn tuổi như “ngày xưa còn khổ hơn gấp nhiều lần mà còn chịu được đó thôi”. Nhưng sự thật thì có thật sự là như vậy hay không? Khi người trẻ chọn tử tự là cách để giải thoát nỗi buồn, theo bạn, đó là điều đáng lên án hay là điều đáng được cảm thông?  Cơ hội lớn nhất cho sự sống còn của loài người trong thế kỷ 21 không nằm ở việc mở rộng tầm hiểu biết về thế giới bên ngoài mà là đào sâu thêm thế giới bên trong chúng ta. Điều đó áp dụng cho mỗi cá nhân, và cũng áp dụng cho toàn thể. Chừng nào còn chưa làm được điều đó, thì ta còn buồn bã. Cơ thể của chúng ta, các mối quan hệ của chúng ta, sự nghiệp của chúng ta, chính kiến của chúng ta sẽ tiếp tục là ngọn nguồn đau khổ trong khi đáng ra nên là nguồn vui. Ẩn trong tất cả các giáo lý tâm linh vĩ đại là chìa khóa để xoay chuyển cục diện. Khi tìm thấy và xoay chìa, chúng ta sẽ ngạc nhiên bởi những gì ẩn giấu đằng sau cánh cửa đã bị khóa trái với Chúa Trời. Không phải là không có hy vọng, chỉ là chúng ta chưa nhìn thấy nó mà thôi. Không phải là không có sức mạnh, chỉ là chúng ta chưa thỉnh cầu. Không phải là không có tình yêu, chỉ là chúng ta chưa sống với tình yêu. Nhìn thấy được những điều này, cuộc sống của chúng ta bắt đầu thay đổi. Tâm trí của chúng ta được đánh thức. Phép màu xảy ra. Và cuối cùng trái tim ta vui sướng. Các bạn có tin vào phép màu không nhỉ? Tôi thì tin vào phép màu lắm. Đôi khi chúng ta hay bỏ quên một điều diệu kỳ của tuổi thơ, đó là chúng ta tin vào phép màu, tin vào những câu chuyện thần tiên cổ tích đầy màu sắc và âm thanh của hạnh phúc. Hẳn là bạn đã từng xem bộ phim hoạt hình Disney nổi tiếng có tên “Lọ Lem” rồi nhỉ? Bạn có còn nhớ lời bài hát trong bộ phim đó không? Tôi xin được tạm dịch một câu trong lời bài hát đó mà tôi nhớ mãi: “Dù bạn có phải chịu đau khổ tới mức nào, nếu bạn tiếp tục giữ niềm tin, giấc mơ sẽ trở thành sự thực”.  Khả năng ta phải đau lòng luôn tồn tại; nó là một phần trải nghiệm của con người. Ở đâu có tình yêu, ở đó có hạnh phúc. Nhưng nơi nào mối ràng buộc của tình yêu tan vỡ, nơi đó có nỗi đau. Nếu thế giới bị chi phối bởi nỗi sợ, và vì vậy chống lại tình yêu theo nhiều cách khác nhau, thì làm sao trái tim chúng ta lại không thể bị xé toạc ra bởi nỗi đau của việc chỉ đơn giản là ta đang sống? Khi đã sống đủ lâu, bạn sẽ hiểu. Nó đến với bạn, và bạn sống với nó một cách yêu kiều. Bạn học cách nhận đòn và biết rằng đó chỉ đơn giản là một phần của cuộc sống. “Chào ông bạn cũ bóng tối, tôi lại đến nói chuyện với ông nữa đây” không chỉ là lời bài hát của Simon và Garfunkel, nó mô tả một thái độ chấp nhận rằng tuần này, tháng này, hoặc thậm chí năm này có thể khó khăn đấy, nhưng bạn biết bạn sẽ vượt qua. Và theo một cách nào đó, con người mà chúng ta sẽ trở thành bởi vì đã sống qua khoảng thời gian đó là một người còn sống động hơn - và có lẽ đẹp hơn - con người lúc trước. Theo lời của Elisabeth Kubler-Rose: “ Nếu che chắn hẻm núi khỏi những cơn bão, bạn sẽ không bao giờ nhìn ra được vẻ đẹp thực sự của những dấu phong hóa.” Cuốn sách này cho tôi nhận thấy được rằng tâm bệnh đến với mỗi người bởi lẽ tâm hồn chúng ta thiếu thốn sự yêu thương, đặc biệt là thiếu thốn sự yêu thương đối với chính bản thân mình. Có nhiều người nghĩ rằng mình đang yêu thương mình, nhưng thực ra, đó có thể lại là sự ích kỷ. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta yêu thương những người thân xung quanh, nhưng cách yêu thương của ta liệu có phải là đúng? Điều đó giống như trong cuốn Yêu của Osho đã chỉ ra, rằng cái cách mà cha mẹ yêu thương con đã không đúng như nhiều cha mẹ đang nghĩ rồi. Nếu bạn đã trót rơi vào vũng bùn lầy lội và tăm tối của tâm bệnh, bạn có muốn thoát ra khỏi nó không? Mời các bạn đón đọc Từ Nước Mắt Đến Nụ Cười - Tận Cùng Khổ Đau Đến Ngời Sáng Tâm Hồn của tác giả Marianne Williamson.
Tìm Bình Yên Giữa Vạn Biến: Oola
Có bao giờ bạn cảm thấy chán nản, mệt mỏi vì mất cân bằng giữa công việc và niềm hạnh phúc riêng cho bản thân? Có bao giờ bạn tự hỏi mỗi giờ hằng ngày mình dành ra thực sự mang lại giá trị hay ý nghĩa nào cho cuộc sống? Cuốn sách “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” đã định nghĩa lại thế nào là một cuộc sống tuyệt vời mà bất cứ ai trong chúng ta cũng khao khát và tìm cách đạt được nó. Đó là cuộc sống cân bằng, mãn nguyện về sức khỏe (fitness), tài chính (finance), gia đình (family), công việc (field), đức tin (faith), bạn bè (friends) và niềm vui (fun). Không phải là những lời khuyên sáo rỗng, “Oola Tìm bình yên giữa vạn biến” chứa đựng những mẩu truyện nhỏ khiến bạn có thể ngạc nhiên “à ra thế” và cùng một loạt những lời khuyên thực tế mà bạn có thể chuyển hóa ngay thành hành động hoặc thói quen. Trong cuốn sách này, bạn sẽ học được ba bước đơn giản để cân bằng và phát triển cuộc sống, khám khá những gì ngăn cản bạn đến “cuộc sống trong mơ” và cách đến được đó nhanh hơn cũng như tại sao, dù bạn thành công hay thất bại bạn luôn xứng đáng với một cuộc sống tốt hơn… và rất nhiều điều thú vị, hữu ích khác. Cuốn sách “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” đã nhận được một loạt khen ngợi từ các giả giả hàng đầu, vận động viên chuyên nghiệp, những nhà lãnh đạo uy tín. 100,000 bản in lần đầu của cuốn sách “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” đã được hai tác giả Troy Amdahl và Dave Braun tự xuất bản và bán hết mà không cần đến bất kỳ NXB nào; 25,000 bản in tái bản cũng được bán hết trong vòng 1 tháng ngay sau đó. Nếu bạn muốn có được một cuộc sống hạnh phúc, ý nghĩa và vẫn đạt được những thành công trong sự nghiệp, “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” là lựa chọn không thể bỏ qua. *** [Review Sách] "Tìm Bình Yên Giữa Vạn Biến": Hành Trình Đi Tìm Hạnh Phúc Dù bạn là tỷ phú trong lâu đài lộng lẫy hay một người bình phàm với trời đất tự nhiên thì phải chăng, mục đích cuối cùng của chúng ta trên cõi đời này chỉ là tìm kiếm một cuộc đời bình yên và hạnh phúc? Chúng ta luôn mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, để khi nhắm mắt yên nghỉ có thể mãn nguyện với mấy chục năm sống không uổng phí. Tuy nhiên, hạnh phúc là gì, khổ đau là gì chúng ta không thể phân biệt rạch ròi. Bình yên vì thế cũng lạc lối giữa những hình sắc trần ai mà ta không thể nắm giữ. Mỗi chúng ta sẽ có những cách khác nhau, những ngọn hải đăng riêng biệt để soi tỏ mây mù tìm đường đến ánh sáng của an vui. Và tôi tin cuộc sống Oola chính là thứ bạn đang kiếm tìm, phương pháp Oola chính là một ngọn hải đăng dành cho những ai vẫn còn mơ hồ. Cuốn sách “Tìm bình yên giữa vạn biến” sẽ giúp bạn nắm rõ trong lòng bàn tay mọi thứ về Oola. Ai cũng muốn tạo dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, và Oola chính là phương pháp. Oola là một nguồn cảm hứng đầy thú vị! -Mark Victor Hansen, đồng tác giả của loạt sách Chicken Soup for the Soul Bằng những câu chuyện hấp dẫn và trải nghiệm cá nhân của mình, hai tác giả Dave Braun và Troy Amdahl sẽ hướng dẫn bạn cách đạt được cuộc sống mà bạn hằng mong muốn – cuộc sống Oola của riêng bạn. Tất nhiên đây không phải một cuốn sách kĩ năng với những lời chỉ dẫn vô cảm mà thực sự khá lôi cuốn khi có nhận định cho rằng: Quyển sách này có giá trị giải trí đến 70%, giá trị giáo dục 30%, và giá trị làm thay đổi cuộc sống là 100%. Nếu bạn muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, một cuộc sống Oola, hãy đọc quyển sách này. -Brant Boyer, cầu thủ kiêm huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp Điều tôi thấy khá thú vị ở cuốn sách này chính là việc tác giả đề cao vị thế của người đọc khi lấy họ làm trung tâm và có sự tương tác. Hai tác giả đã đề cao giấc mơ của mỗi người, biến mình thành người bạn đồng hành trên mỗi chặng đường. Chúng tôi rất biết ơn khi được đồng hành cùng bạn trong chuyến phiêu lưu này. Bạn giỏi giang hơn bạn nghĩ, và phía trước là những ước mơ đang đợi bạn biến thành hiện thực. Bất kể ước mơ của bạn là gì, chúng tôi rất vinh dự được mang ước mơ đó theo cùng trên chiếc xe buýt của chúng tôi. Bây giờ hãy lật sang trang và bắt đầu hành trình Oola! Cuốn sách gồm 5 phần chính với những đề mục rõ ràng giúp người đọc dễ hiểu nhất về hành trình đang đi. Phần 1. Giới thiệu về Oola. Chắc chắn bạn sẽ thắc mắc rất nhiều về từ “Oola” vì nó hoàn toàn lạ tai. Tuy nhiên, chúng ta dễ dàng liên tưởng nó giống một từ cảm thán đầy thích thú giống “Bingo” chẳng hạn. Tuy nhiên, đây là một cụm từ có rất nhiều ý nghĩa. o’la /danh từ, tính từ/ 1 a: bắt nguồn từ cách diễn đạt oh-la-la! trong tiếng Pháp b: một trạng thái tuyệt vời c: một cuộc sống cân bằng và phát triển ở các mặt then chốt như sức khỏe, tài chính, sự nghiệp, các mối quan hệ và hạnh phúc về tinh thần cũng như thể chất d: một đích đến (ví dụ, tìm đến Oola) 2 a: mô tả những hành động, hiểu biết và mục tiêu dẫn đến cuộc sống cân bằng (ví dụ: Điều đó thật Oola) 3 a: kế hoạch nền tảng để đạt được sự cân bằng trong một thế giới chông chênh. Định nghĩa của Oola có vẻ khá dài nhưng nếu để ý, chúng ta thấy trọng tâm dồn lại vào “sự cân bằng”. Không thừa không thiếu, vuông vắn trọn vẹn mới chính là cuộc sống Oola, chính là hạnh phúc. Nhiều người trong số chúng ta đã nghĩ rằng một cuộc sống xa hoa vương giả mới thực sự là chân ái. Tuy nhiên, hạnh phúc đôi khi thực giản đơn nằm trong sự “muốn ít biết đủ” trong thâm tâm mỗi người. Lẽ tất nhiên, khi cuộc sống thiếu thốn quá mức về vật chất thì tâm hồn cũng khó được thanh thản. Tựu chung lại, chúng ta nhất định phải tìm được sự cân bằng trong thế giới hỗn loạn. Tôi hình dung ra cảnh tượng những viên đá xếp chồng lên nhau một cách an nhiên giữa nước chảy gió thổi khi nhắc về Oola. Phải chăng cuộc sống của chúng ta chính là học nghệ thuật xếp đá? Tài chính, sức khỏe, tình yêu là những viên đá nhỏ to khác nhau, và công việc của chúng ta là sắp xếp cho chúng cân bằng giữa những chông chênh cuộc đời. Bởi vậy mới nói, sống cũng chính là một loại nghệ thuật. Với cuộc sống Oola, có lẽ sống là nghệ thuật của sự cân bằng. Khi bắt đầu đọc cuốn sách, tôi đã tò mò xem chừng ý tưởng thú vị này đến từ đâu. Thật kì lạ vì nó không phải từ những nhà tâm lí học, những nhà nhân học hay bất cứ ngành nghề nào có nhiệm vụ nghiên cứu về cuộc sống con người cả. Dave Braun và Troy Amdahl là hai gã trai trẻ với sứ mệnh và đam mê của riêng họ. Đâu đó trên bìa quyển sách này, bạn sẽ thấy chiếc xe buýt Volkswagen đời 1970 của chúng tôi. Có thể bạn sẽ nghĩ, “Ừ, hay đấy, nhưng sao lại là xe buýt, và hình vẽ trên xe có ý nghĩa gì?”. Mặc dù trông như vết sơn văng tung tóe, nhưng bạn hãy nhìn những hình vẽ đó kỹ hơn. Đó chính là những tấm nhãn dán viết tay đại diện cho những ước mơ và cảm hứng cá nhân của hàng chục nghìn người chúng tôi đã gặp khi du lịch khắp nước Mỹ. Mục tiêu của chúng tôi là thay đổi thế giới bằng một từ (Oola), qua từng chiếc nhãn dán. Họ đã nỗ lực thay đổi thế giới tốt đẹp hơn, giúp con người bớt căng thẳng hơn và giải phóng những tiềm năng cũng như ước mơ nguyên sơ nhất của họ. Cuốn sách này đã ghi lại dấu mốc của hành trình cải tạo thế giới, san sẻ hạnh phúc tới hàng triệu người. Phần 2. 7 chữ F của Oola. Mỗi chữ F sẽ đại diện cho một lĩnh vực then chốt trong cuộc sống: Fitness (sức khỏe), Finance (tài chính), Family (gia đình), Field (sự nghiệp), Faith (niềm tin), Friends (bạn bè) và Fun (niềm vui). Mỗi chương đều bắt đầu với một câu danh ngôn truyền cảm hứng và những khái niệm cơ bản nhất. Tác giả chỉ đơn giản như đang kể chuyện và kiếm tìm những dẫn chứng trong cuộc sống thường nhật để chỉ ra cuộc sống Oola là như thế nào. Ví dụ với hai từ “sức khỏe”: Ngày nay, từ này có vẻ được dùng theo hai cách. Định nghĩa thứ nhất xoay quanh việc sức khỏe có ảnh hưởng như thế nào đến mọi việc bạn làm. Định nghĩa này tập trung vào cảm giác tốt đẹp, dáng vẻ ưa nhìn, khỏe mạnh và hiệu suất làm việc cao. Nó cũng hướng vào cách bạn vận động và những gì bạn đưa vào cơ thể. Đây là vóc dáng vừa đẹp để mặc chiếc quần jean bó sát, tôi cảm thấy mình gợi cảm… Đây chính là Sức khỏe Oola! Tiếp sau định nghĩa là phần “Người tìm Oola” nói về duyên cớ khiến tác giả tìm đến lĩnh vực này và “Người thầy Oola” chỉ việc tác giả tìm được phương pháp tháo bỏ mọi khúc mắc. Cuối cùng là những bí quyết tác giả tập hợp lại cho bạn đọc. Điều đặc biệt là những câu chuyện truyền cảm hứng có thật của họ, những câu chuyện mà tác giả gặp trong cuộc sống, trong hành trình của chuyến xe buýt Volkswagen đời 1970 huyền thoại. Không giống với những lý thuyết khó hiểu, hành trình Oola hoàn toàn được xây dựng bởi trải nghiệm và câu chuyện của chính bản thân tác giả. Dường như điều đó đã làm cuốn sách trở nên có sức sống. Phần 3. Chướng ngại Oola. Qua những gì chúng ta đã thấy và cảm nhận thì trên cuộc đời này không có con đường nào trải đầy hoa hồng cả. Với con đường đến cuộc sống Oola cũng vậy. Những chướng ngại vẫn luôn tiềm ẩn: nỗi sợ, cảm giác tội lỗi, cơn giận tự hủy hoại bản thân, sự lười biếng, lòng đố kỵ, sự tập trung. Bạn có thể nhận thấy rằng những chướng ngại của cuộc sống Oola không đến từ thế giới ngoại cảnh mà bên trong chính con người chúng ta. Như bạn đã biết, trong mỗi chúng ta đều có sự tranh đấu của thiện và ác, trắng và đen. Những vật cản của cuộc sống đôi khi không đáng sợ bằng cuộc chiến chính tà trong con người. Cuốn sách sẽ phân tách phần này một cách rõ ràng để người đọc có thể thẳng thắn đối diện với chướng ngại của tâm hồn. Cơn giận có thể là một “ổ gà” trên đường, hoặc nó có thể là một vật cản. Hãy cẩn thận đừng để hệ lụy của cơn giận mà bạn đeo mang trở thành bức tường bê tông ngăn bạn đến với Cuộc sống Oola của mình. Tôi nghĩ rằng một khi chúng ta có thể thấu hiểu bản thân, đương nhiên bao gồm cả những phần xấu xa lẫn tốt đẹp thì dễ dàng có được thành công hơn. Người tài giỏi trước khi hiểu biết về thế giới thì chắc chắn phải hiểu được mình. Phần 4. Chất xúc tác Oola. Chất xúc tác chính là động lực giúp bạn đi nhanh hơn trên con đường Oola. Nó đối lập với chướng ngại Oola, là những phần tốt đẹp chúng ta cần phát huy: lòng biết ơn, tình yêu thương, kỷ luật, sự chính trực, sự khiêm nhường và sự khôn ngoan. Chúng ta có thể lấy ví dụ khi tác giả nói về lòng yêu thương. Con người chúng ta rất thích nói về tình yêu. Trên thực tế, tình yêu đã trở thành tiêu đề của hàng trăm ca khúc được yêu thích nhất. Tình yêu cũng là yếu tố then chốt trong số tất cả các Chất xúc tác Oola. Chúng ta thích nói, viết và hát về tình yêu vì nó quá mạnh mẽ. Việc cho đi và nhận lại tình yêu, sẽ mang đến đam mê, và đam mê chính là nhiên liệu thích hợp nhất cho chuyến xe buýt đến với Oola. Như vậy, chất xúc tác Oola còn là nhân tố có thể đẩy lùi những chướng ngại. Khi yêu thương đủ lớn, những sợ hãi có thể biến mất. Chúng ta không cách nào diệt hết cỏ dại chỉ bằng nhổ cỏ mà không trồng thay vào đó một thứ khác như những cây hoa chẳng hạn. Con người cũng vậy, khi nuôi dưỡng những điều thiện lương thì ắt những điều tăm tối sẽ bị đẩy lùi. Phần 5. Ba bước đến với cuộc sống Oola. Bước đầu tiên được tác giả đặt tên là Bánh xe Oola. Thực chất đây chỉ là một hình ảnh biểu tượng được chia nhỏ hơn thành các phần là trục bánh xe, căm xe và van bánh xe. Ví dụ như phần trục bánh xe là một phần trọng yếu đại diện cho cuộc sống của mỗi người, là mỏ neo của chúng ta. Cuối phần này tác giả có những bài tập cụ thể để chúng ta có thể xác định được vị trí của bản thân. Phần thứ hai mang tên Kế hoạch Oola. Giống như bất kỳ con đường nào khác, sau khi có mục tiêu thì cần một bản kế hoạch cụ thể để thực hiện nó. Nếu phần một để định vị bạn đang ở đâu thì phần hai chính là xác định rõ nơi bạn muốn đến. Mục tiêu là những cột mốc, những bước nhỏ mà bạn cần thực hiện trên con đường đạt được ước mơ. Mục tiêu là những bước hành động, được lên kế hoạch rồi đạt được. Chúng là những bước nhỏ mà bạn phải đi theo, ngày này qua ngày khác, để đến với cuộc sống ước mơ của mình. Và bước cuối cùng được tác giả gọi là Con đường Oola. Nếu như chỉ có kế hoạch mà không hành động thì ước mơ của bạn cũng chỉ nằm mãi trên những trang giấy mà không bao giờ trở thành hiện thực. Một danh sách việc cần làm đơn giản cho phép bạn được quyết định một ngày của mình diễn ra như thế nào, thay vì để mọi việc xảy đến một cách thiếu chủ động. Những bước đi có mục đích rõ ràng, dù là những bước rất nhỏ, cũng rất cần thiết đối với Cuộc sống Oola. Tờ giấy viết thư hay một trang web dễ thương đối với tôi không quan trọng. Tất cả những gì tôi hy vọng đó là bạn hãy thực hiện bước đầu tiên trên Con đường Oola của mình. Khi khép lại cuốn sách thì cũng chính là lúc hành trình Oola của bạn được mở ra. Tôi không nghĩ tác giả muốn chúng ta đọc cuốn sách này chỉ để giải trí bâng quơ. Họ khát khao ở người đọc sự thay đổi, mong muốn được chuyển biến những điều tốt đẹp đến cuộc sống của mỗi cá nhân. Bởi vì điều đó thực sự là đam mê, là mục tiêu của họ. Hy vọng cuốn sách ít nhiều giúp được mỗi người đến gần hơn với hạnh phúc và an vui của cuộc đời. Review chi tiết bởi: Mai Trang – Bookademy Mời các bạn đón đọc Tìm Bình Yên Giữa Vạn Biến: Oola của tác giả Troy Amdahl & Dave Braun.
Nếu Còn Có Ngày Mai
Được đông đảo fans trinh thám đánh giá là một trong những tác phẩm cuốn hút nhất của Sidney Sheldon, tiểu thuyết Nếu còn có ngày mai không chỉ lôi cuốn trong cách Sidney tạo dựng cốt truyện gay cấn mà hơn cả là cách ông xây dựng hết sức thành công sự phát triển cá tính, tâm lý của hàng loạt nhân vật. Lòng tin và sự công bằng vốn có tồn tại trong cuộc đời? Có thể nói, thế giới trong tiểu thuyết Nếu còn có ngày mai của Sidney Sheldon là một thế giới của lừa lọc. Một thế giới nghiệt ngã bóp nghẹt tâm hồn con người, khiến sự tin tưởng và tình yêu như chẳng còn vị trí tồn tại. Tưởng chừng nơi đấy con người sống với nhau bằng những điều dối trá, vì thế mà lòng tin hoặc sự công bằng bỗng trở thành những thứ xa xỉ, một giấc mơ xa vời hay một thứ ảo vọng của những ai chưa trải qua khắc nghiệt cuộc đời. Một thế giới như thế, một cuộc đời như vậy, thực sẵn sàng để nhấn chìm mọi điều tốt đẹp nguyên bản, ban sơ nhất. Mà Tracy Whitney chính là minh chứng rõ nét nhất cho việc số phận đã xoay vần và biến đổi con người ra sao. Tracy Whitney, một cô gái trẻ, tuổi ngoài 20, xinh đẹp, thông minh. Nhưng bởi cuộc sống cô dường như quá êm đềm, tương lai cô đã quá rộng mở với một gia đình hạnh phúc, một tình yêu trọn vẹn, cùng viễn cảnh về một đám cưới sẽ diễn ra trong tương lai nên Tracy ngây thơ, đơn thuần vô cùng trong cách cô đánh giá, nhìn nhận cuộc sống và con người. Chính vì thế, khi biến cố liên tiếp xảy đến cuộc đời cô gái: Công ty gia đình phá sản, mẹ cô tự vẫn vì bị lừa đảo, Tracy đã đánh giá mọi chuyện hết sức đơn giản cũng như quá đỗi tin vào chính mình cùng “tính thiện” nơi con người. Cô tự đưa bản thân vào hang cọp, cũng không có bất cứ một sự phòng vệ nào trước bất cứ ai tỏ ra thông cảm với hoàn cảnh của cô, đồng thời Tracy còn vô cùng chậm chạp trong việc thích ứng với hoàn cảnh. Do vậy, không thể phủ nhận một điều, khoảng 100 trang đầu tiên của Nếu còn có ngày mai, tình tiết truyện trôi qua không chỉ chậm mà còn tạo một sự ức chế không nhỏ với độc giả. Ngoài vì Tracy cứ mãi ngây thơ, dẫu đã trưởng thành hơn qua sóng gió thì vẫn mang ám ảnh của một thời ngây dại còn bởi tác giả như gieo vào lòng độc giả một nỗi hồ nghi, về tính thiện của con người, về hai chữ công lý giữa cuộc đời. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, dẫu thế nào thì sự phát triển tâm lý của Tracy Whitney vẫn cực kỳ hợp lý và cũng thể hiện bút lực khá cao tay của Sidney Sheldon trong cách ông xây dựng cá tính con người. Vì là người ngoài cuộc nên độc giả dễ dàng dùng lăng kính của người thứ ba để phán xét nhân vật trên trang sách. Song hãy thử đặt bản thân vào vị trí của Tracy và tự hỏi, nếu ở hoàn cảnh như thế, ta có đù bình tĩnh, sáng suốt để suy xét mọi trường hợp không? Việc Tracy cứ mãi thơ dại, bám víu vào hết sợi dây này đến sợi dây cứu mạng khác, hết hi vọng này tới hi vọng kia là tâm lý bình thường của con người khi đi vào bước đường cùng; cho tới lúc, cô gái bé nhỏ đầy kiêu hãnh đủ chín chắn nhận ra, để sinh tồn giữa cuộc đời khắc nghiệt thì không thể dựa vào ai khác, cũng chẳng thể tin tưởng ai hoàn toàn ngoài tin vào chính bản thân mình. Và trong thế giới của Nếu còn có ngày mai, đâu chỉ Tracy là con người duy nhất sự tin tưởng bị chà đạp. Chính mẹ cô, vì lòng tin đặt sai vị trí mà dẫn đến cái chết bi thương. Hay một kẻ lừa đảo thuần thục như Jeff Stevens mà rồi cũng từng đặt tình yêu vào nhầm người. Thậm chí sau này, khi Tracy chính thức trưởng thành và trở thành một chuyên gia lừa đảo, thì cái cô đánh vào chính là nhục dục, lòng tham, sự thiếu tin tưởng con người dành cho nhau,… Ngỡ rằng cả thế giới ở Nếu còn có ngày mai, ai cũng là Joe Romano, ai cũng là tên luật sự Perry Pope, ai cũng giống tên bội bạc Charles… Sidney Sheldon như đã bóc trần cách người ta sống với nhau bằng lừa lọc và tồn tại bằng sự dối trá. Cuộc đời là chuyến phiêu lưu và dạng Robinhood thời hiện đại. Nếu đủ kiên nhẫn trải qua khoảng 100 trang đầu để thấy được sự trưởng thành của Tracy cả về nhận thức lẫn hành động thì càng về sau, Nếu còn có ngày mai lại càng thêm cuốn hút trong cách Sidney Sheldon tạo dựng lên cuộc đời Tracy như một cuộc phiêu lưu lớn; để ta thực sự nhận ra, cô gái nhỏ đó đã trưởng thành thật rồi. Đó là cách Tracy phiêu lưu trong nhà ngục để sinh tồn trước những mánh khỏe của những nữ phạm nhân sẵn sàng xâu xé cô khi có cơ hội; cách cô tìm hướng đi cho bản thân để thoát khỏi ngục tù. Đó là cách cô gái ngây thơ ngày nào, trả thù từng kẻ đã hãm hại cô bằng cách cho chúng tự xâu xé lẫn nhau. Và đó là cách Tracy, từ vẫy vùng tìm lối đi để tái hòa nhập cộng đồng khi là một người đã có tiền án đến là một chuyên gia lừa đảo khiến cho cả Interpool cũng phải vào cuộc. Một Tracy sợ hãi, rụt rè, nhút nhát, yếu đuối đã hoàn toàn được thay thế bằng một cô gái tự tin, thông minh và đầy sáng tạo. Cuộc sống ngày xưa đã thực sự lùi xa, để giờ đây, Tracy chỉ sống trong thực tại, sống với cuộc phiêu lưu đầy kích thích của riêng cô. “Nếu còn có ngày mai”, mong ước từng là của Tracy quá khứ, có lẽ cũng là lời thầm nhủ của cô hiện tại. Nhưng tâm thế của hai con người ấy đã khác nhau. Trước kia, Tracy sống hôm nay mà không biết tới ngày mai bởi cuộc đời cô không do cô quyết định. Nhưng hôm nay, vận mệnh cô là do cô định đoạt, nên nếu còn có ngày mai, cô vẫn sẽ tiếp tục sống và tiếp tục sống với niềm nhiệt huyết của bàn thân. Nếu coi cả cuốn tiểu thuyết là một màn kịch lừa đảo lớn thì cuộc phiêu lưu của Tracy chính là các lớp, hồi của vở kịch đó. Có trưởng thành, có vấp ngã, có căng thằng, mệt mỏi, nhưng đến cuối cùng, chiến thắng vẫn mìm cười với ai nỗ lực và hiểu rõ quy tắc, luật chơi như Tracy. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn giản là trần thuật lại mánh khóe lừa đảo dựa trên những chuyến phiêu lưu gay cấn nghẹt thở thì Nếu còn có ngày mai đã không cuốn hút độc giả và được đánh giá là tác phẩm thành công nhất của Sidney Sheldon. Mà vượt qua tất cả, Sidney đã tạo dựng thành công hình tượng một Robinhood thời hiện đại, đặc biệt hình tượng đấy lại gắn với một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh, tự cường. Tracy khiến cả Interpol vào cuộc, biến toàn bộ cảnh sát hình sự tại các nước thành trò hề. Nhưng cô có nguyên tắc hoạt động của cô: Chỉ cướp của người giàu, chỉ cướp của những kẻ làm giàu phi pháp, chỉ lấy của những kẻ giàu có coi rẻ nhân phẩm của những người xung quanh… Vì thế mà các phi vụ của Tracy không chỉ kích thích hơn mà còn gây dựng lên trong lòng độc giả một Tracy, như nữ anh hùng dân gian tồn tại thời hiện đại. Tracy và Jeff, hai con người ở cùng một thế giới, đã từng là đối thủ nhưng chính họ cũng lại là những con người có trái tim thấu hiểu và đồng cảm với nhau hơn bất cứ ai. Trải qua đủ đau thương, nếm trải đủ lọc lừa của xã hội, không ai hiểu sự thối nát của lòng người nhiều hơn hai người đó; cũng không ai hiểu mặt trái của sự giàu sang, bóng tối trong trái tim con người hơn hai người họ; đồng thời cũng chẳng ai rõ, kẻ giàu đã làm giàu trên xương máu người nghèo như thế nào hơn chàng trai, cô gái ấy. Vì thế chăng, xét về lý, hành động lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của cả hai là hành động đáng bị lên án, đáng phải nhận hình phạt thích đáng của tòa án thế giới. Song xét về tình, thì hành động ấy lại cũng là chính nghĩa: một dạng chính nghĩa dân gian nhằm trừng phạt những kẻ mà hệ thống luật pháp, kẽ hở pháp luật đã chẳng thể trừng trị được. Cho nên, để nhận định rạch ròi hình tượng như những Robinhood thời hiện đại của Tracy hay Jeff là đúng hay sai, là bất nhân hay chính đạo thì có lẽ, thật khó để phân định rạch ròi. Chỉ biết rằng, hai con người đó đã sống trọn từng phút, từng giây của thì hiện tại với cùng suy nghĩ “nếu còn có ngày mai”. Nếu còn có ngày mai – Tiểu thuyết cuốn hút nhưng ngập tràn lỗ hổng. Không thể phủ nhận với Nếu còn có ngày mai, Sidney Sheldon đã thực sự cao tay trong việc khắc họa lên một Tracy Whitney dần dần trưởng thành qua từng giai đoạn hay tái hiện từng bước tiến nhỏ trong mối quan hệ giữa Tracy với Jeff. Khác hoàn toàn với nhiều tiểu thuyết khác của ông: nhân vật có thể yêu nhau ở đoạn văn thứ nhất, tới đoạn văn thứ ba cả hai đã làm đám cưới? Vì thế chuyện tình giữa Tracy với Jeff dễ tạo cho độc giả sự đồng điệu cũng như thấy rằng đó là một câu chuyện tình yêu chân thật. Cũng không thể phủ nhận, Nếu còn có ngày mai là một tác phẩm hấp dẫn trong cách Sidney Sheldon xây dựng cốt truyện, tạo dựng thắt mở tình tiết đầy gay cấn. Sự đan xen giữa quá khứ với hiện tại trong câu chuyện của từng cá nhân hay mỗi phi vụ nhân vật lại có một cách thức khác nhau để đạt được mục đích cuối cùng; tất cả tạo lên sự phức hợp nhằm duy trì độ căng cho toàn bộ cuốn sách. Tuy nhiên, dẫu là sáng tác được đông đảo độc giả yêu thích thì Nếu còn có ngày mai vẫn là một tác phẩm với ngập tràn lỗ hổng. Cách Tracy được trả tự do quá dễ dàng, cách cô quá đỗi thuận lợi trong việc trả thù mà những kẻ thù của cô lại có thể dễ dàng mắc bẫy không mảy may nghi ngờ một bên thứ ba nhúng tay, cách cô biến toàn bộ hệ thống cảnh sát thành trò hề hay thành những kẻ lố bịch kiêu căng ngu ngốc… Toàn bộ yếu tố đó, nếu độc giả đủ sáng suốt, tình táo để không bị cuốn theo mạch truyện do Sidney Sheldon dẫn dắt thì đều không khó để nhận thấy. Nhưng dù thế nào, Nếu còn có ngày mai vẫn là một cuốn sách mang đậm chất Sidney Sheldon trong cách kể, cách tả, đặc biệt là cách ông tạo dựng cấu trúc cốt truyện như những miếng ghép hình lộn xộn rồi tới cuối cùng, tất cả đều quy về một mối để tạo lên bức tranh tổng thể hoàn chỉnh. Chẳng vậy mà United Press International đã nhận định về Nếu còn có ngày mai cùng tracy Whitney: “Một nhân vật hấp dẫn nhất và một cốt truyện giàu trí tưởng tượng nhất.” *** Tôi vừa mới kết thúc những dòng chữ cuối cùng của tác phẩm “Nếu còn có ngày mai”, một tiểu thuyết Mỹ của nhà văn Sidney Sheldon. Đọc xong, máu review trong tôi lại trỗi dậy. Một người anh – bạn của chị gái đã khuyên tôi nên đọc tác phẩm này. Và thú thực tôi bắt đầu với nó chỉ vì tò mò và tính hiếu thắng của mình. Nếu tóm gọn một câu nói về tác phẩm này, thì tôi nghĩ tôi sẽ chọn từ “Lôi cuốn”. Những câu chuyện của nữ nhân vật chính – Tracy trong tác phẩm khiến tôi không thể rời mắt. Hơn 1000 trang sách, thoạt đầu tiên tôi thấy hơi nản vì quá dài, đã có lúc đọc mờ cả mắt vậy mà tôi vẫn muốn đọc tiếp. Ở bài review lần này, tôi chỉ muốn nói về cảm xúc của mình đối với tác phẩm. Bạn muốn biết cụ thể diễn biến như thế nào, hãy tự mình trải nghiệm nhé. Có một sự thật là bắt đầu đọc những chương đầu tiên, tôi cảm giác tác phẩm không dành cho tôi. Nó có quá nhiều éo le, quá nhiều bi kịch trong xã hội mà đối với cuộc sống của một con người bình thường như tôi thì không thể nào tưởng tượng ra được. Xã hội mà Tracy trải qua được sắp đặt theo ý thích của một người, người đó chính là kẻ đổi trắng thay đen, đã gây ra cái chết cho mẹ cô. Cũng chính con người đó, đã khiến cô phải vào tù với mức án mười lăm năm tù giam về tội ăn cắp và mưu sát. Tuy câu truyện này không còn xa lạ gì trên màn ảnh, nhưng cách miêu tả của tác giả khiến tôi cảm thấy nó chân thực và đầy nghiệt ngã. Tôi nhớ đến câu nói mà người anh giới thiệu sách đã nói với tôi: Nghe tên những cuốn sách tôi thích biết chắc rằng tôi trẻ hơn anh rất nhiều. Tôi đoán bởi vì những cuốn sách tôi đọc hầu như đều có nội dung nhẹ nhàng, vui vẻ. Tôi tự hỏi có phải tôi quá non nớt trước những nghịch lý của cuộc đời? Có phải còn có những góc khác của xã hội mà tôi chưa bao giờ biết tới? Tôi theo con chữ, vừa sợ hãi, vừa tò mò khám phá. Phải nói rằng, bằng ngần tuổi này, cũng đã đọc qua rất nhiều truyện ngôn tình, nhưng chưa tác phẩm nào tôi cảm thấy ngượng ngùng và ái ngại trước những cảnh miêu tả về sự quyến rũ của cơ thể. Có lúc tôi không muốn tiếp tục đọc nữa. Nhưng tôi lại nghĩ, một người con trai giới thiệu với tôi về tác phẩm này, chắc hẳn nó không quá thô tục. Và hơn nữa, bản tính hiếu thắng trong tôi không muốn bỏ giở giữa chừng khi đã nhận lời sẽ đọc cuốn sách. Cảnh nhà tù nữ là một trong những cảnh ám ảnh tôi nhất trong toàn bộ câu truyện. Tôi có thể vừa đọc vừa tưởng tượng ra cảnh tượng tăm tối đấy. Tôi cảm thấy như mình đang đứng sau những trận ẩu đả của bọn tù nhân, chứng kiến những cuộc làm tình phi giới tính, những tiếng kêu thét trong đêm tối… Tất cả đều chân thực. Tác giả đã không giấu giếm mà phơi bày toàn bộ một mặt trái của xã hội. Chưa bao giờ tôi được biết đến cuộc sống mà để dành được địa vị trong thế giới không có đàn ông, những con sói cái đầu đàn phải mang trong mình trọng trách của một con đực, hành xử như những con đực thực thụ. Bọn quản tù cũng chẳng có gì tốt đẹp: đánh đập tù nhân, nhận hối lộ, bảo kê, ban đêm lẻn vào phòng giam làm tình với nữ tù. Một xã hội mà đâu đâu cũng bắt gặp người ta chửi thề đĩ loãn, chó đẻ, chó cái… Tôi thấy sợ hãi cái xã hội ấy. Như tôi đã nói, những cảnh này không thiếu trong các tác phẩm khác, hoặc trong phim ảnh. Nhưng chắc hẳn nó chưa đủ sâu sắc và chân thực như những gì tác giả miêu tả. Nó khiến tôi bị ám ảnh và không muốn đọc tiếp nữa. Càng tột cùng hơn khi Tracy được phóng thích ra ngoài, cái bản án từng ăn cắp và ám sát luôn khiến cô bị xua đuổi. Dù cô chỉ muốn làm một người bình thường, với công việc hết sức bình thường, nhưng tất cả đều là không thể. Xã hội ghẻ lạnh cô, người ta không tin tưởng một người có tiền án mười lăm năm tù như cô, đáng buồn hơn đó không phải là lỗi do cô gây ra. Không một lời văn nào của tôi đủ để tôi bày tỏ lòng mến mộ thành công của việc miêu tả đoạn văn đó. Tôi sẽ cảm ơn tác giả rất nhiều nếu như ông cho kết thúc câu truyện ở đấy. Ông để cho nhân vật của tôi dù chịu nhiều tủi hờn nhưng vẫn thanh thanh cao cao sống tiếp với đời. Khi đọc đoạn miêu tả nội tâm Tracy khi đứng trước vụ trộm đầu tiên, tôi đã thầm cầu mong Sidney Sheldon đừng để nhân vật của tôi trở thành một kẻ trộm, trở nên thay đổi trước đồng tiền. À không, phải là rất nhiều tiền. Tracy đã hy vọng trộm xong vụ đầu tiên ấy, cô sẽ được sống một cuộc sống thanh bình và lương thiện. Nhưng đời đâu dễ dàng như thế. Tôi trở nên ghét cô gái của tôi. Và lại có ý định dừng đọc tác phẩm. Tôi chỉ muốn giữ lại hình ảnh đẹp của một Tracy thông minh, kiên cường, phải chịu nhiều uất ức. Một Tracy dù bị cả xã hội quay lưng nhưng vẫn thanh cao và nghị lực sống tiếp. Nhưng cô ấy đã bị cám dỗ và trở thành một tên siêu trộm. Và chính diễn biến tâm lý ấy khiến tôi nghĩ đến thế giới thực. Con người có thể giữ được đạo đức của mình trước đồng tiền, nhưng rất nhiều tiền thì sao? Đứng trước rất nhiều tiền, liệu rằng người ta có bỏ qua cái nguyên tắc sống mà bấy lâu nay người ta “không bao giờ” vi phạm hay không? Nếu đặt bản thân mình vào tình huống đó, tôi cũng sợ bản thân không đủ bản lĩnh chiến thắng cám dỗ. Ý của tôi ở đây là rất nhiều tiền ( nhiều hơn những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng mình có thể có). Và vậy là tôi lại tiếp tục cuộc hành trình chứng kiến việc trở thành một siêu trộm đẳng cấp của Tracy. Tracy là một người phụ nữ không những xinh đẹp mà còn rất thông minh. Tuy nhiên, điều đó lại khiến tôi thấy đám cảnh sát quốc tế trở nên vô dụng và khờ khạo. Có một số vụ trộm, tôi đoán trước được cách thức mà Tracy vận dụng. Ví dụ như vụ chơi cờ với hai kỳ thủ, vụ đánh lừa tiền giả, và vụ trộm kim cương cuối cùng. Mặc dù vậy, tôi vẫn hồi hộp theo dõi diễn biến của từng câu chuyện. Quả thật là những kế hoạch hết sức táo bạo và thông minh, khiến cho người đọc cảm thấy bất ngờ và đầy phấn kích. Tracy không còn là một cô gái yếu ớt, mỏng manh như trước nữa. Tâm lý của tôi cũng không còn sợ hãi tác phẩm như xưa. Có một điều vớt vát cảm xúc của tôi, những vụ trộm xảy ra đều nhằm vào những kẻ giàu có, hống hách. Vụ trộm không khiến cuộc sống của ai trở nên khổ sở hay rơi vào vực thẳm. Và dường như, cô luôn muốn đặt mình vào trong những hoàn cảnh thử thách cao, càng khó khăn cô càng kích động. Tracy luôn muốn vượt quá giới hạn của bản thân. Tôi thích tính cách ấy. Mỗi một vụ trộm, Tracy lại biến hóa khôn lường, hóa thân thành những nhân vật khác nhau, khi là một nữ tước kiêu sa, khi thì trở thành một góa phụ trẻ, một phụ nữ mang bầu có chồng làm nghề đào vàng ở Châu Phi… Tôi biết việc này có thể xảy ra, nhưng tôi cảm thấy không thỏa mãn với ngờ vực của mình đối với cảnh sát quốc tế. Vì sao họ có thể khờ khạo đến vậy? Vì sao họ có trong tay tất cả hình ảnh của những nhân vật Tracy hóa thân vào mà vẫn có thể kết luận đó là một băng đảng gồm nhiều phụ nữ? Nực cười thật! Giọng nói có thể giả, khuôn mặt có thể trát những lớp phấn dày cộp, nhưng làn da, dáng người thì không thể nào mà thay đổi được. Bỏ qua những tiểu tiết nhỏ nhặt có thể làm hỏng mạch cảm xúc của tác phẩm. Tôi vẫn cảm thấy “Nếu còn có ngày mai” là một tiểu thuyết đáng để đọc trong đời. Và theo cảm nhận của tôi, tác phẩm phản ánh chính xác xã hội, nội tâm của con người. Một Tracy thông minh, giàu có vẫn không thể nào ngừng mơ ước về một bờ vai nương tựa. Đó là ước mơ của tất cả mọi cô gái. Cô khát khao được yêu thương, được sống như một người phụ nữ bình thường. Có nhiều người tiếc nuối với kết thúc mở của câu truyện. Riêng tôi, tôi cảm thấy may mắn. Tôi không muốn nhân vật của mình phải chịu thêm một thử thách nào nữa. Tôi không muốn Tracy vừa mới tìm được tình yêu, niềm tin vào cuộc sống lại phải đối mặt với nguy hiểm. Tôi không muốn cô ấy phải nghĩ đến cảnh nhà tù rùng rợn một lần nào nữa. Nếu có thể, hãy để cô ấy sống cuộc sống bình yên, tôn trọng luật pháp và bên người mà cô ấy thương yêu. Hãy để họ trở lại là những công dân chân chính. Mặc dù việc họ trộm cũng chỉ để thử thách bản thân và quyên góp cho những hoàn cảnh éo le, tôi vẫn không muốn có thêm bất kỳ nỗi đau nào nữa. Đánh giá điểm 8/10 Mời các bạn đón đọc Nếu Còn Có Ngày Mai của tác giả Sidney Sheldon.