Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly

“Tôi nhớ rằng mọi chuyện bắt đầu với một loạt thăng trầm trong cảm xúc, một chút bấp bênh của hồi hộp lo sợ” Một cô gái trẻ nhận được công việc đầu tiên trong đời là làm gia sư cho hai đứa trẻ xinh đẹp, trong sáng và lặng lẽ đến dị thường tại toà dinh thự Bly cô độc, bị bủa vây trong cái ác rình rập. Những bóng người ẩn hiện từ toà tháp tối tăm và ô cửa sổ bụi bặm, các bóng ma xấu xa lặng lẽ tiến đến ngày một gần. Với nỗi kinh hoàng lớn dần, cô gia sư bất lực nhận ra những sinh vật tàn ác đó nhắm đến bọn trẻ, rắp tâm xâm chiếm cơ thể, tâm trí và cả linh hồn các em… Nhưng không ai ngoài cô nhìn thấy những bóng ma ấy. Phải chăng những ám ảnh kia được gợi lên từ chính trí tưởng tượng của cô gia sư, hay sự thật còn chứa đựng nhiều hơn thế? HENRY JAME (1843 - 1916) Là nhà văn người Mỹ, một trong những người sáng lập và dẫn đầu trường phái hiện thực trong văn hư cấu. Ông sống phần lớn cuộc đời tại Anh và trở thành công dân Anh không lâu trước khi qua đời. Ông được biết tới chủ yếu nhờ một loạt tiểu thuyết đồ sộ miêu tả sự giao thoa giữa Mỹ và châu Âu. Truyện của ông xoay quanh mối quan hệ cá nhân, cách sử dụng quyền lực đúng mực trong các mối quan hệ đó, và nhiều vấn đề đạo đức khác. Phương pháp viết của ông lấy góc nhìn của một nhân vật trong truyện, cho phép ông khám phá các hiện tượng ý thức và nhận thức, phong cách viết trong các tác phẩm về sau của ông từng được so sánh với tranh trường phái ấn tượng. Henry James kiên định tin rằng các nhà văn ở Anh và Mỹ nên được tự do tối đa trong việc thể hiện thế giới quan của mình, giống như các nhà văn Pháp. Chất sáng tạo trong thủ pháp sử dụng góc nhìn, độc thoại nội tâm và người trần thuật không đáng tin cậy trong các câu chuyện và tiểu thuyết của ông mang lại chiều sâu và sự hấp dẫn mới cho thể loại hư cấu hiện thực, và báo hiệu sự đổi mới trong văn học của thế kỉ hai mươi. Là một nhà văn có bút lực phi phàm, bên cạnh số lượng tác phẩm hư cấu đồ sộ, ông còn xuất bản báo, sách du lịch, tiểu sử, tự truyện, phê bình văn học, và kịch. Một số vở kịch của ông được biểu diễn lúc sinh thời và đạt được thành công nhất định. Tác phẩm kịch của ông được cho là có ảnh hưởng sâu rộng tới truyện và tiểu thuyết của ông sau này. Henry James từng được đề cử giải Nobel Văn học vào các năm 1911, 1912, và 1916. Từ khi xuất hiện lần đầu vào năm 1898 đến nay, CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY đã được mệnh danh là một trong những truyện ma nổi tiếng nhất thế giới, là nguyên tác và nguồn cảm hứng cho hàng loạt các tác phẩm chuyển thể cũng như sản phẩm làm lại thuộc nhiều loại hình khác nhau: phim điện ảnh, phim truyền hình, opera, kịch, balê “Một câu chuyện nhỏ độc hại đến sửng sốt, và cũng tuyệt diệu nhất.” – OSCAR WILDE - “CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY là một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất từ trước đến nay, phần lớn là vì nó khó nắm bắt theo cách quá hấp dẫn.” – GILLIAN FLYNN - *** Chúng tôi quây quần quanh lò sưởi, nín thở lắng nghe câu chuyện, nhưng ngoài lời nhận xét hiển nhiên rằng nó rất ghê rợn, mà chuyện kinh dị vào đêm giáng sinh trong một ngôi nhà cũ thì tất phải ghê rợn, tôi nhớ rằng không ai lên tiếng bình luận gì cho đến khi có người tình cờ nói rằng anh ta từng gặp duy nhất một trường hợp tương tự, xảy đến với một đứa trẻ. Tôi xin nói thêm rằng trường hợp đó là về hồn ma trong một ngôi nhà cũ giống như ngôi nhà chúng tôi đang tụ tập vào dịp này - một vụ hiện hồn kinh khủng, xảy đến với một cậu bé đang ngủ trong phòng với mẹ. Cậu bé đã đánh thức người mẹ trong cơn khiếp hãi; nhưng trước khi người mẹ kịp xua tan cơn sợ và dỗ dành cậu ngủ tiếp, bản thân bà cũng chứng kiến cảnh tượng khiến cậu run rẩy. Nhận xét này đã khơi gợi lời hồi đáp từ Douglas - không phải ngay lúc đó, mà vào tối muộn - dẫn đến một kết quả thú vị khiến tôi chú ý. Câu chuyện người khác đang kể chẳng hấp dẫn lắm, và tôi nhận thấy anh không chú ý lắng nghe. Tôi cho đó là dấu hiệu thể hiện rằng bản thân anh có chuyện muốn kể và chúng tôi chỉ cần chờ đợi. Quả thực chúng tôi đã đợi đến hai đêm sau; nhưng vào tối hôm đó, trước khi chúng tôi giải tán, anh đã nói ra ý nghĩ trong đầu mình. “Tôi đồng ý - về hồn ma của Griffin, hay dù nó là gì đi nữa - rằng việc nó xuất hiện cho cậu bé nhìn thấy trước, ở cái tuổi dễ tổn thương như vậy, đã thêm điểm nhấn cho câu chuyện. Nhưng đây không phải lần đầu tôi nghe về kiểu chuyện hấp dẫn này liên quan đến trẻ con. Nếu một đứa trẻ đã thêm nhát búa chát chúa cho hiệu quả câu chuyện, thì các vị nói sao với haiđứa trẻ…?” “Tất nhiên chúng tôi sẽ bảo rằng chúng mang đến hai nhát búa! Và rằng chúng tôi muốn nghe chuyện về chúng,” có người thốt lên. Tôi vẫn còn có thể hình dung ra Douglas đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai tay đút túi, nhìn xuống những người đang trò chuyện với mình. “Cho đến giờ, chưa có ai ngoài tôi từng nghe chuyện này. Câu chuyện có phần quá kinh khủng.” Câu này đương nhiên là đã được vài người nói ra để tạo hiệu quả tối đa cho câu chuyện của mình, và người bạn của chúng tôi, với nghệ thuật kể chuyện tinh tế, chuẩn bị cho chiến thắng của mình bằng cách đưa mắt nhìn chúng tôi rồi nói tiếp: “Vượt ra ngoài tất cả. Tôi chưa từng biết đến thứ gì có thể chạm tới câu chuyện này.” “Về mặt đáng sợ ư?” Tôi nhớ mình đã hỏi như vậy. Dường như anh muốn đáp rằng không chỉ đơn giản như vậy; như thể anh thực sự không tìm được từ thích hợp để miêu tả. Anh đưa tay xoa mắt, khẽ nhăn mặt. “Về độ kinh hoàng!” “Ôi, hấp dẫn quá đi mất!” Một người trong cánh phụ nữ kêu lên. Anh không hề chú ý đến cô ta; anh nhìn tôi, nhưng như thể thay vì tôi, anh đang nhìn thấy thứ mình nói đến. “Về sự xấu xa dị hợm nói chung, về nỗi khiếp sợ và đau đớn.” “Chà,” tôi bảo, “thế thì hãy ngồi xuống và bắt đầu kể ngay đi.” Anh quay về phía ngọn lửa, đưa chân gẩy một khúc gỗ, ngắm nhìn chốc lát. Rồi anh quay lại đối mặt với chúng tôi: “Tôi chưa bắt đầu kể được. Tôi phải gửi thư vào thành phố đã.” Một loạt tiếng ca thán vang lên, kèm theo trách móc; sau đó anh liền giải thích, vẫn với vẻ lơ đãng: “Câu chuyện đã được ghi lại và cất giữ trong ngăn kéo suốt nhiều năm. Tôi có thể viết thư và gửi kèm chìa khóa cho người của mình; anh ta sẽ gửi bưu kiện tới đây khi tìm thấy nó.” Cá nhân tôi cảm thấy dường như anh chủ động đề xuất việc này - có vẻ anh gần như kêu gọi mọi người giúp anh thôi do dự. Anh đã phá vỡ một lớp băng dày tích tụ qua nhiều mùa đông; anh có những lí do riêng để giữ im lặng lâu như vậy. Những người khác bất mãn với sự trì hoãn, nhưng chính những trăn trở của anh đã hấp dẫn tôi. Tôi yêu cầu anh viết thư để gửi ngay chuyến bưu chính đầu tiên và anh đồng ý cho chúng tôi nghe chuyện sớm; rồi tôi hỏi anh trải nghiệm mà anh nói đến có phải của chính bản thân anh hay không. Với câu hỏi này, anh trả lời ngay tức khắc. “Ôi, ơn Chúa, không!” “Vậy còn bản ghi chép là của anh? Anh đã ghi lại câu chuyện đó?” “Tôi không ghi lại gì ngoài ấn tượng về nó. Tôi ghi khắc vào đây,” anh vỗ lên tim mình. “Tôi chưa từng quên.” “Vậy bản ghi chép…?” “Là một bản thảo cũ kĩ, đã phai màu mực, bằng bút tích đẹp nhất trên đời.” Anh lại quay về phía ngọn lửa. “Bút tích của một phụ nữ. Cô đã qua đời hai mươi năm rồi. Cô gửi cho tôi những trang giấy ấy trước khi chết.” Lúc này tất cả bọn họ đều đang lắng nghe, và tất nhiên có người tỏ ý trêu chọc, hay ít nhất là rút ra suy diễn. Nhưng anh bác bỏ suy diễn một cách nghiêm túc, dù cũng không tỏ vẻ bực bội. “Cô là một người hết sức duyên dáng, nhưng cô lớn hơn tôi mười tuổi. Cô là gia sư của em gái tôi,” anh lặng lẽ nói thêm. “Cô là người phụ nữ đáng mến nhất tôi từng biết ở địa vị đó; dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, cô cũng sẽ là một người đáng kính, chuyện đã lâu lắm rồi, và câu chuyện kia còn lâu hơn nữa. Khi ấy tôi đang học ở trường Trinity, tôi gặp cô khi về nhà vào mùa hè năm thứ hai. Năm ấy tôi ở nhà khá nhiều - một mùa hè đẹp. Chúng tôi đã đi dạo và nói chuyện vài lần trong vườn vào giờ nghỉ của cô - những cuộc trò chuyện khiến tôi phát hiện cô cực kỳ thông minh và dễ mến. Ô đúng vậy; đừng cười: tôi yêu quý cô rất nhiều và đến tận hôm nay vẫn lấy làm vui mừng khi nghĩ cô cũng quý mến tôi. Nếu không thì cô đã không kể với tôi rồi. Cô chưa từng kể với bất cứ ai. Không chỉ vì cô nói vậy, mà tôi biết là thực sự cô chưa từng kể. Tôi không chỉ biết chắc; tôi thấy rõ như vậy. Các vị sẽ dễ dàng rút ra kết luận ngay khi nghe chuyện.” “Bởi vì câu chuyện ấy quá đáng sợ?” Anh tiếp tục nhìn chăm chú về phía tôi. “Các vị sẽ tự rút ra kết luận,” anh nhắc lại. “Anh sẽ tự rút ra kết luận.” Tôi cũng nhìn anh không chớp. “Tôi hiểu rồi. Cô ấy đang yêu.” Anh bật cười lần đầu tiên. “Anh nói đúng đấy. Phải, cô đang yêu. Đúng hơn là đã từng yêu. Điều đó thể hiện rõ ràng - cô không thể kể câu chuyện của mình mà không biểu lộ điều đó. Tôi đã thấy, và cô thấy rằng tôi đã thấy; nhưng không ai trong chúng tôi nhắc đến. Tôi nhớ như in thời gian và địa điểm - nơi góc thảm cỏ, dưới bóng râm của hàng sồi lớn và buổi chiều mùa hè dài nóng bức. Đó không phải khung cảnh thích hợp để nghe chuyện kinh dị; nhưng ối chao…!” Anh rời bỏ lò sưởi và thả mình lại ghế ngồi. “Anh sẽ nhận được bưu kiện vào sáng thứ Năm?” Tôi hỏi. “Chắc phải đến chuyến bưu chính thứ hai.” “Vậy thì, sau bữa tối…” “Các vị đều sẽ gặp tôi ở đây?” Anh lại nhìn khắp lượt chúng tôi. “Sẽ không có ai rời đi chứ?” Giọng điệu anh gần như mong đợi. “Tất cả mọi người đều sẽ ở lại!” “Tôi sẽ ở lại” và “Tôi sẽ ở lại!” là tiếng kêu của những quý cô đã định sẵn ngày rời đi. Tuy nhiên bà Griffin tỏ ý muốn biết thêm. “Cô ấy đang yêu ai?” “Câu chuyện sẽ nói rõ,” tôi tranh lời đáp. “Ôi, tôi nóng lòng nghe chuyện quá!” “Câu chuyện sẽ không nói rõ đâu,” Douglas nói; “không nói theo một cách lộ liễu, sỗ sàng.” “Thế thì thật đáng tiếc. Tôi chỉ hiểu được theo mỗi cách ấy.” “Anh cũng không nói ư, Douglas?” Một người khác hỏi. Anh lại đứng bật dậy. “Có - ngày mai. Giờ thì tôi phải đi ngủ thôi. Chúc ngủ ngon.” Rồi anh nhanh chóng vớ lấy một ngọn nến, và bỏ lại chúng tôi trong ngỡ ngàng. Từ đầu bên này của hành lang màu nâu rộng lớn chúng tôi nghe thấy tiếng chân anh bước lên cầu thang; khi đó bà Griffin nói: “Chà, nếu tôi không biết cô ấy đang yêu ai, thì tôi cũng biết anh ấy yêu ai.” “Cô ấy già hơn mười tuổi,” chồng bà đáp lại. “Càng thêm lí do… ở cái tuổi ấy! Nhưng anh ấy giữ kín lâu như vậy cũng khá là đáng quý.” “Bốn mươi năm!” Griffin nói thêm. “Rốt cuộc bảy giờ cũng vỡ oà ra.” “Sự vỡ oà này,” tôi đáp lại, “sẽ biến tối thứ Năm thành một dịp đặc biệt.” Và mọi người đều đồng ý với tôi rằng, trước tình huống này, chúng tôi đều đã mất hứng thú với mọi câu chuyện khác. Câu chuyện cuối cùng, dù không hoàn chỉnh và chỉ như mở đầu của một loạt truyện dài kì, đã được kể ra; chúng tôi bắt tay và “bắt nến”, như một người nói, rồi đi ngủ. Ngày hôm sau, tôi biết rằng một lá thư kèm theo chìa khoá đã được gửi đến căn hộ của Douglas ở London vào chuyến bưu chính đầu tiên. Nhưng dù tin đó đã bị lan truyền cho mọi người, hay phải chăng chính vì lẽ đó, chúng tôi để anh yên cho đến sau bữa tối, thực tế là tới tận khi đã khuya đến mức thích hợp với bầu không khí mà kỳ vọng của chúng tôi tạo lập nên. Khi đó anh trở nên cởi mở đúng như chúng tôi mong muốn và cho chúng tôi lí do chính đáng nhất về thái độ cởi mở đó. Một lần nữa chúng tôi tụ tập trước lò sưởi trong đại sảnh để nghe anh kể, giống như tối hôm trước, khi chúng tôi bị anh khơi gợi tâm trí. Có vẻ như bản tường thuật mà anh hứa sẽ đọc cho chúng tôi nghe thực sự cần một lời mở đầu thích đáng. Tôi xin được nói rõ rằng bản tường thuật mà tôi trình bày dưới đây được lấy từ bản chép nguyên văn do chính tôi ghi lại nhiều năm sau đó. Douglas tội nghiệp đã gửi bản thảo cho tôi trước khi chết - khi anh thấy rõ cái chết sắp đến gần. Bản thảo đến tay anh vào ngày thứ ba của cuộc tụ tập và vào đêm thứ tư, tại đúng chỗ hôm trước, với sự truyền cảm mạnh mẽ, anh bắt đầu đọc trước đám đông quây quần. May thay, các quý cô hôm trước hứa sẽ ở lại cuối cùng lại thất hứa: họ đã rời đi theo lịch trình định sẵn, mang theo lòng hiếu kì sôi sục mà anh đã gợi lên trong tất cả chúng tôi, theo như lời họ thừa nhận. Nhưng điều đó chỉ khiến đám đông thính giả cuối cùng của anh thêm thu gọn và có chọn lọc, chia sẻ một đam mê chung, vây quanh ngọn lửa. Những dòng đầu tiên cho biết rằng bản ghi chép này được thực hiện tại thời điểm sau khi câu chuyện đã bắt đầu. Theo đó, người bạn cũ của Douglas - cô con gái út của một mục sư nông thôn nghèo - ở tuổi hai mươi, đã đến London để nhận công việc dạy học đầu tiên. Lòng đầy hồi hộp, cô tới gặp mặt trực tiếp người đăng quảng cáo tuyển dụng mà trước đó cô đã trao đổi qua thư. Khi cô trình diện tại ngôi nhà đồ sộ và bề thế trên phố Harley, ông chủ tương lai thể hiện mình là một quý ông độc thân lịch thiệp đang tuổi tráng niên; hình tượng như vậy chưa từng xuất hiện, trừ trong mơ hay tiểu thuyết, trước một cô gái đầy xúc động, hồi hộp, đến từ một ngôi nhà của mục sư vùng Hampshire. Mẫu người như anh không bao giờ lỗi thời. Điển trai, bạo dạn và nhã nhặn, tự nhiên, vui vẻ và nhân từ. Tất nhiên anh gây cho cô ấn tượng lịch thiệp và phong nhã, nhưng điều chinh phục cô hơn cả và cho cô lòng dũng cảm mà cô thể hiện về sau là việc anh đã coi toàn bộ công việc của cô như một ân huệ, một trách nhiệm mà đáng lẽ anh phải vui lòng đảm đương. Cô nhận thấy anh giàu có, nhưng cũng xa hoa đến khiếp đảm - cô đã thấy anh trong trang phục đắt tiền hào nhoáng, trong diện mạo đẹp đẽ, trong những thói quen đắt đỏ, trong vẻ phong lưu trước mặt phụ nữ. Nơi ở tại thành phố của anh là một ngôi nhà rộng lớn chứa đầy chiến lợi phẩm và đồ lưu niệm từ du lịch và săn bắn; nhưng nơi anh muốn cô đến ngay lập tức là ngôi nhà ở quê, một biệt thự cổ của gia đình tại Essex. Anh bị trao quyền giám hộ hai đứa cháu một trai một gái, con của người anh trai trong quân ngũ, sau cái chết của cha mẹ chúng tại Ấn Độ vào hai năm trước. Với một người đàn ông ở địa vị của anh - độc thân, không có cả kinh nghiệm lẫn chút ít kiên nhẫn nào - bọn trẻ là gánh nặng rất lớn. Điều này gây ra nỗi lo lớn cùng một loạt sai lầm, hẳn nhiên là từ phía anh, nhưng anh vô cùng xót thương bọn trẻ tội nghiệp và đã làm tất cả những gì có thể. Cụ thể thì anh đã gửi chúng về ngôi nhà khác của mình ở nông thôn, là môi trường thích hợp dành cho chúng, và để chúng ở đó với những người tốt nhất mà anh tìm được để chăm nom chúng, anh thậm chí đã cử chính những người hầu của mình đi phục vụ chúng, và về thăm chúng mỗi khi có thể. Điều khó xử là chúng không còn người thân nào khác, mà việc riêng của anh đã chiếm dụng toàn bộ thời gian. Anh đã cho chúng sở hữu Bly, một nơi an toàn và lành mạnh, đồng thời cử bà Grose, một người phụ nữ xuất sắc, làm người đứng đầu tại dinh cơ nho nhỏ của chúng. Bà Grose từng là hầu gái cho mẹ của anh và anh tin chắc vị khách của mình sẽ quý mến bà. Hiện giờ bà là quản gia và cũng tạm thời đóng vai trò chăm nom bé gái; may mắn thay, bà cực kỳ yêu quý cô bé, vì bản thân bà không có con cái. Còn có nhiều người giúp việc khác, nhưng tất nhiên cô gái trẻ chuẩn bị đến đó làm gia sư sẽ nắm quyền hành tối cao. Vào các kỳ nghỉ, cô cũng sẽ phải trông nom bé trai, cậu bé đã đi học được một kì - dù tuổi hơi nhỏ, nhưng còn cách nào khác đâu? - và chuẩn bị về vì kỳ nghỉ sắp bắt đầu. Trước đó từng có một cô gái khác trông nom hai đứa trẻ nhưng cô ta không may đã mất. Cô ta làm việc khá xuất sắc - là một người hết sức đáng kính - cho đến khi qua đời, dẫn đến tình huống khó xử khiến cho Miles bé nhỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài trường học. Kể từ đó, bà Grose đã phụ trách dạy dỗ Flora trong khả năng của mình, về mặt phép tắc và lễ nghi. Ngoài ra còn có một đầu bếp, hầu gái, người phụ nữ phụ trách việc bơ sữa, một con ngựa lùn già, cùng người giữ ngựa, và một người làm vườn già, tất cả đều vô cùng đáng kính. Sau khi Douglas trình bày bối cảnh đến đây, có người đặt câu hỏi. “Thế cô gia sư trước chết vì cái gì? Chết ngộp trong đáng kính chắc?” Bạn tôi trả lời ngay tức khắc. “Sau này sẽ nói. Tôi không báo trước.” “Xin lỗi, tôi nghĩ báo trước chính là việc anh đang làm.” “Đứng từ vị trí của người kế nhiệm cô ta,” tôi gợi ý, “tôi sẽ muốn được biết nếu công việc đi kèm với…” “Nguy hiểm đến tính mạng?” Douglas nói tiếp suy nghĩ của tôi. “Cô ấy quả thực muốn biết, và cô ấy đã biết. Ngày mai anh sẽ được nghe chuyện gì cô ấy đã biết. Còn trước mắt, tất nhiên, viễn cảnh đối với cô có vẻ ảm đạm. Cô còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, đầy lo lắng: một viễn cảnh với nhiều trách nhiệm và ít bầu bạn, cùng nỗi cô đơn to lớn. Cô do dự - mất vài ngày đắn đo cân nhắc. Nhưng mức lương được trả cao hơn hẳn mức sống đạm bạc của cô. Cô đã nhận lời vào buổi phỏng vấn thứ hai.” Và đến đây, Douglas tạm dừng, khiến tôi góp lời thay mặt cho mọi người… “Mà cốt lõi của việc này tất nhiên là sức quyến rũ của chàng thanh niên phong nhã. Cô ấy đã bị chinh phục.” Anh đứng dậy và, như đã làm vào đêm hôm trước, bước về phía lò sưởi, dùng chân gẩy một thanh củi, rồi đứng quay lưng về phía chúng tôi trong chốc lát. “Cô chỉ gặp anh ta hai lần.” “Đúng vậy, nhưng điều đó càng nói lên tình cảm của cô ấy.” Tôi hơi ngạc nhiên khi Douglas nghe vậy và quay về phía tôi. “Chính là như thế. Có những người khác,” anh nói tiếp, “không bị chinh phục. Anh ta đã nói thành thật với cô mọi khó khăn của mình - rằng một số ứng viên khác cho rằng điều kiện công việc quá khắt khe. Vì lẽ nào đó họ thực sự e ngại. Công việc này nghe có vẻ tẻ nhạt - có vẻ kỳ quặc; và hơn hết là do điều kiện chính anh ta đặt ra.” “Đó là…?” “Là cô không bao giờ được làm phiền anh ta - tuyệt đối không bao giờ: dù là để yêu cầu, than phiền, hay vì bất kể lý do gì; cô chỉ có thể tự mình giải quyết mọi vấn để, nhận mọi khoản tiền từ luật sư của anh ta, đảm nhận toàn bộ trách nhiệm và để anh ta yên. Cô hứa sẽ làm như vậy, và cô kể với tôi rằng cô đã cảm thấy được đền đáp khi anh ta nắm lấy tay cô trong giây lát, vui mừng vì thoát khỏi gánh nặng, cảm ơn cô vì sự hi sinh.” “Nhưng cô ấy chỉ được đền đáp có như vậy thôi ư?” Một người trong cánh phụ nữ hỏi. “Cô ấy không bao giờ gặp anh ta nữa.” “Ôi!” Người phụ nữ nọ đáp. Và đó là từ duy nhất góp thêm vào chủ đề này, khi bạn chúng tôi lại một lần nữa lập tức bỏ chúng tôi mà đi, cho đến đêm hôm sau, bên góc lò sưởi, trong chiếc ghế thoải mái nhất, anh mở tấm bìa đỏ phai màu của một cuốn sổ mỏng viền vàng cũ kĩ. Cả câu chuyện mất hơn một đêm để kể, nhưng ngay khi có cơ hội, vẫn người phụ nữ hôm trước đặt một câu hỏi nữa. “Đầu đề anh đặt cho câu chuyện là gì?” “Tôi chưa đặt.” “Ôi, tôi thì có!” Tôi thốt lên. Nhưng Douglas không để ý đến tôi và bắt đầu đọc bằng giọng rành rọt như thể biểu đạt với tai người nghe vẻ đẹp của bút tích tác giả. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly của tác giả Henry James & Nguyên Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nó - Stephen King
Tại thị trấn Derry - nơi một con quái vật độc ác đang ẩn mình trong những cống rãnh dơ bẩn. Được gọi tắt là " Nó" , không có một hình dạng nhất định và đặc biết rất thích ăn thịt trẻ em, dùng nỗi sợ hãi của những đứa trẻ làm chất dinh dưỡng để tồn tại và phát triển. Nhóm Loser -những đứa trẻ có hoàn cảnh đáng thương và luôn mang trong mình một nỗi sợ - đều gặp phải những cuộc chạm trán khủng khiếp với sinh vật có hình dạng giống với nỗi sợ hãi của họ. "Có đôi mắt màu vàng trong đó: đôi mắt mà cậu luôn tưởng tượng ra nhưng chưa bao giờ thực sự nhìn thấy." "Chúng có lơ lửng không?" "Lơ lửng?",  Nụ cười của thằng hề nở rộng hơn. " Ồ, có. Họ thực sự làm vậy. Họ lơ lửng!" *** Stephen King (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1947) là nhà văn người Mỹ thiên về thể loại kinh dị hoặc giả tưởng rất được tán thưởng khắp thế giới, đặc biệt với mô-típ biến đổi những tình huống căng thẳng bình thường thành hiện tượng khiếp đảm. Những cốt truyện kinh dị và lối viết đa dạng của King đã giúp giới phê bình chấp nhận thể loại kinh dị giả tưởng là một thành phần của nền văn học trong thế kỷ 20. Cuối năm 2006, tổng số sách ông đã bán có khoảng 350 triệu cuốn. Stephen King là người đi tiên phong trong việc xuất bản "sách điện tử" (e-book) trên mạng internet. Ông đã đoạt nhiều giải thưởng văn học, kể cả giải Hugo cho tác phẩm Danse Macabre (1980) và Giải thưởng Tưởng niệm O. Henry cho truyện ngắn The Man in the Black Suit (1994). Tác phẩm mới nhất của ông là Lisey's Story, đã đạt mức bán chạy nhất nhiều tuần liền. Hầu hết tất cả các tác phẩm của ông khi tung ra đều đạt mức bán chạy nhất, nhưng có người gọi ông chỉ là một kẻ "viết truyện rùng rợn", như một cách chê bai thể loại văn học bình dân. *** Nỗi kinh hoàng, thứ mà sẽ không bao giờ chấm dứt trong hai mươi tám năm tới-mà cho dù nếu nó có chấm dứt-thì nó sẽ cũng bắt đầu lại, theo những gì tôi biết hay có thể nói, với một con thuyền được làm từ một tờ giấy báo trôi lênh đênh trên rãnh nước mưa. Con thuyền trôi lảo đảo, dũng cảm bước qua một vòng xoáy nước vô cùng nguy hiểm rồi tiếp tục trôi tới đường Witcham hướng về phía cột đèn giao thông nằm ở ngay ngã tư của đường Jackson và Witcham. Cây đèn tín hiệu giao thông không hề phát sáng vào buổi chiều ngày hôm đó của mùa thu năm 1957, cũng như những ngôi nhà gần đây. Ta nói suốt cả một tuần liền, trời mưa rất lớn và không những vậy, hai ngày trước đó, gió thổi ở đây vô cùng mạnh. Và hầu như cả khu vực Derry đều đã bị mất điện, và cho đến tận bây giờ, điện vẫn chưa hề lên. Một cậu bé mặc một chiếc áo mưa màu vàng và mang một đôi boot cao su chống nước màu đỏ, vui vẻ mon men chạy theo con thuyền bằng giấy của mình. Cơn mưa tầm tã vẫn chưa hề dứt nhưng cuối cùng cũng đã bớt đi được một chút. Những giọt mưa rơi tí tách trên chiếc mũ trùm đầu của chiếc áo mưa, nghe như tiếng mưa rơi trên mái hiên vậy... một âm thanh nghe thật ấm áp và dễ chịu. Đứa trẻ trong chiếc áo mưa màu vàng đó tên là George Denbrough. Cậu sáu tuổi. Anh trai của George, tên là William, được rất nhiều học sinh của trường tiểu học Derry biết tới (và kể cả những giáo viên, những người không dám dùng biệt danh để gọi cậu ta) với cái tên là Bill Cà Lăm. Trong lúc George đang mải mê đùa vui với con thuyền của mình thì Bill phải nằm ở nhà vì bệnh cảm cúm. Vào mùa thu năm 1957, tám tháng trước khi những điều khủng khiếp bắt đầu và hai mươi tám năm trước khi cuộc chiến cuối cùng xảy ra, Bill Cà Lăm chỉ mới có mười tuổi thôi. Bill đã làm ra một con thuyền bằng giấy, cái mà George hiện đang chơi cùng dưới mưa. Cậu ta ngồi trên giường, tựa lưng vào chiếc gối êm ái và tập trung xếp thành chiếc thuyền cho George trong lúc mẹ cậu đang chơi bản nhạc Für Elise của Beethoven trên cây đàn piano trong phòng khách. Còn ngoài trời thì cứ mưa liên tục, những giọt mưa đó cứ thế rơi lã chã trên cửa sổ phòng Bill không ngừng nghỉ. .... Mời các bạn đón đọc IT - Nó của tác giả Stephen King.
Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya - Higashino Keigo
Một đêm vội vã lẩn trốn sau phi vụ khoắng đồ nhà người, Atsuya, Shota và Kouhei đã rẽ vào lánh tạm trong một căn nhà hoang bên con dốc vắng người qua lại. Căn nhà có vẻ khi xưa là một tiệm tạp hóa với biển hiệu cũ kỹ bám đầy bồ hóng, khiến người ta khó lòng đọc được trên đó viết gì. Định bụng nghỉ tạm một đêm rồi sáng hôm sau chuồn sớm, cả ba không ngờ chờ đợi cả bọn sẽ là một đêm không ngủ, với bao điều kỳ bí bắt đầu từ một phong thư bất ngờ gửi đến…  Tài kể chuyện hơn người đã giúp Keigo khéo léo thay đổi các mốc dấu thời gian và không gian, chắp nối những câu chuyện tưởng chừng hoàn toàn riêng rẽ thành một kết cấu chặt chẽ, gây bất ngờ từ đầu tới cuối.  *** Tác phẩm của nhà văn trinh thám hàng đầu Nhật Bản hiện nay, Higashino Keigo, hứa hẹn lấy đi nhiều nước mắt của độc giả. Higashino Keigo sinh năm 1958 tại Osaka, là nhà văn trinh thám hàng đầu hiện nay tại Nhật Bản. Năm 1985, Higashino Keigo giành được giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Giờ tan học.   Các năm sau đó, Higashino Keigo liên tục được đề cử vô số giải thưởng văn học lớn. Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan Inc với tiểu thuyết Bí mật của Naoko, và năm 2006, là giải Naoki lần thứ 134 cho Phía sau nghi can X. Năm 2012 tiểu thuyết Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya giành giải  thưởng Chuokoron lần thứ 7.   Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya đã bán được hơn 1 triệu bản ở Nhật, hơn 1,6 triệu bản tại Trung Quốc, được chuyển thể hai lần vào năm 2013 và 2016. Khác với những tác phẩm nổi tiếng trước đây của Higashino Keigo như Phía sau nghi can X, Bí mật của Naoko, Bạch dạ hành, Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya là một cuốn tiểu thuyết ấm áp, chan chứa tình yêu thương từ những điều nhỏ bé, bình dị nhất. Trong tác phẩm này, Highashino vẫn thể hiện được tài kể chuyện hơn người, ưu điểm đặc trưng từ các tiểu thuyết  trước đó của ông. Keigo khéo léo thay đổi các mốc thời gian và không gian, chắp nối những câu chuyện tưởng chừng hoàn toàn độc lập, không liên quan, thành một kết cấu chặt chẽ và gây bất ngờ cho người đọc từ đầu tới cuối.   Trong cái đêm vội vã lẩn trốn sau phi vụ khoắng đồ nhà người, Atsuya, Shota và Kouhei đã rẽ vào lánh tạm trong một căn nhà hoang bên con dốc vắng người qua lại. Khi xưa, căn nhà này có vẻ như là một tiệm tạp hóa. Chiếc biển hiệu cũ kỹ bám đầy bồ hóng khiến người ta khó mà đọc được trên đó viết gì càng khiến các cậu tò mò. Cả nhóm vốn chỉ định nghỉ tạm một đêm rồi sáng hôm sau chuồn sớm, nhưng chúng không thể ngờ ba đứa sẽ có một đêm không ngủ. Tất cả những sự kiện liên tiếp diễn ra với bao điều kỳ bí diễn ra, bắt đầu từ một phong thư bất ngờ được gửi đến…   Hóa ra, căn nhà bỏ hoang này vốn là tiệm tạp hóa Namiya ngày trước. Ngoài bán tạp hóa, chủ tiệm còn nhận tư vấn miễn phí cho tất cả phiền não của mọi người. 33 năm sau khi chủ tiệm qua đời, điều kỳ diệu xảy ra khi ba người nhận được những lá thư xin tư vấn đến từ quá khứ.   Câu chuyện trong Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya  tuy không phức tạp, nhưng qua cách kể chuyện của bậc thầy Higashino Keigo, nó bỗng trở nên sống động lạ kỳ. Sự đan xen hài hòa giữa thời gian và không gian, quá khứ và hiện tại, đã biến một câu chuyện tưởng chừng bình thường trở thành điều kỳ diệu. Các nhân vật xa lạ, không liên quan đến nhau được kết nối một cách bất ngờ.  Những mẩu nội dung rời rạc hóa ra lại là chất keo dính kết tuyệt vời, khiến độc giả đi từ ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác. Tất cả đã chứng minh tài năng thiên bẩm của nhà văn đại tài Higashino Keigo.  *** Higashino Keigo, sinh năm 1958 tại Osaka, là nhà văn trinh thám hàng đầu hiện nay tại Nhật Bản. Năm 1985, Higashino Keigo giành được giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Giờ tan học. Các năm sau đó, Higashino Keigo liên tục được đề cử vô số giải thưởng văn học lớn. Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan Inói chuyện với tiểu thuyết Bí mật của Naoko, và năm 2006, là giải Naoki lần 134 cho Phía sau nghi can X. Năm 2012 tiểu thuyết Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya giành giải thưởng Chuokoron lần thứ 7. Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya đã bán được hơn một triệu bản ở Nhật, hơn một,sáu triệu bản tại Trung Quốc, được dựng thành kịch hai lần vào năm 2013 và 2016. Một số tác phẩm của Higashino Keigo đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam:  Phía Sau Nghi Can X - Higashino Keigo Bạch Dạ Hành - Higashino Keigo Bí mật của Naoko - Higashino Keigo Thánh Giá Rỗng - Higashino Keigo Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya ... *** Thư hồi âm để trong hộp nhận sữa. Người đề xuất đến căn nhà hoang là Shota. Nó bảo có một căn nhà hoang cũng tàm tạm. "Cái gì cơ? Nhà hoang tàm tạm là sao?" Atsuya quay lại nhìn Shota, cái thằng người đã bé loắt choắt mà mặt còn như trẻ con. "Tao bảo tàm tạm thì nghĩa là tàm tạm chứ sao. Nghĩa là vừa đủ để náu thân. Lúc đi tiền trạm, tao tình cờ tìm được. Ai ngờ sẽ có lúc dùng đến thật." "Xin lỗi hai đứa mày nhé." Kouhei co rúm tấm thân kềnh càng. Nó nhìn chiếc Crown đời cũ đỗ bên cạnh với ánh mắt tiếc nuối. "Có nằm mơ tao cũng không tưởng tượng được chiếc xe lại hết ắc quy ở một nơi thế này." Atsuya thở dài. "Giờ nói thế cũng giải quyết được gì đâu." "Nhưng thế nghĩa là sao nhỉ? Trước lúc đến đây hoàn toàn không có vấn đề gì mà. Đèn cũng đâu có bật suốt." "Là tuổi thọ." Shota thủng thẳng nói. "Mày cứ nhìn đồng hồ cây số xem. Trên một trăm nghìn cây rồi. Giống như lão suy ấy. Nó có tuổi rồi, chạy được đến đây thì gục luôn. Vì thế tao mới bảo có ăn trộm thì nên chọn xe mới." Kouhei khoanh tay, lầm bầm nói: "Ừm. Xe mới thì lại có thiết bị chống trộm." Mời các bạn đón đọc Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya của tác giả Higashino Keigo.
Kẻ Trộm Mộ - Phù Sinh
Sách Nói Kẻ Trộm Mộ Những ngôi mộ cổ ở sâu dưới lòng đất luôn là nơi ẩn chứa nhiều bí mật, nhiều cổ vật và nhiều cạm bẫy. Những kẻ trộm mộ không những trên thông thiên văn dưới tường địa lý mà cần phải có kỹ năng sống vô cùng cao siêu và ảo diệu, đôi khi cũng cần phải dựa vào cả vận may của mình. Nếu thiếu một trong số những thứ đó, dù chỉ là chút sơ sảy, kết cục nhận lại sẽ thật thê thảm. Mỗi cánh cửa mở ra, sau nó lại có vô vàn cánh cửa khác khép kín. Càng vào sâu, càng kỳ quái. Càng kỳ quái, càng muốn khám phá. Thế nhưng, khi đối mặt với những thứ tưởng chừng không thể tồn tại trên cõi thực, liệu có mấy kẻ không giật mình thảng thốt, không sợ hãi bỏ chạy, không mục thây trong địa đạo khổng lồ? Không phải tự nhiên mà các bậc tiền bối điểm chỉ: Đi trộm bất cứ ngôi mộ nào cũng vậy, trên người nhất định phải mang theo một cây nến! Bởi ai biết được, dưới mồ sâu tối đen như mực kia, bất cứ lúc nào cũng có thể nhảy ra những thứ kinh dị chết người. Và có đôi khi, một trong số những kẻ trộm mộ buộc phải bỏ mạng để cứu sống đồng đội của mình? Liệu những kẻ đó có dám hy sinh bản thân, hay đành lòng… giết hại lẫn nhau? *** “Được rồi, bây giờ các ngươi đã biết hết mọi chuyện, cũng đến lúc phải lên đường rồi.” Nói xong, Trịnh Duy Tín đưa bàn tay phải cầm súng lên, chỉ vào Tôn Kim Nguyên cười lạnh, nói: “Đồ nhi ngoan, ngươi đã giúp vi sư không ít chuyện, ta sẽ để ngươi được chết một cách sảng khoái.” Thấy Trịnh Duy Tín định giết Tôn Kim Nguyên, tôi và Vương Tiên Dao không thể trơ mắt nhìn, nhưng hai chúng tôi còn chưa kịp có hành động gì thì Trịnh Duy Tín đã lại chĩa họng súng về phía chúng tôi, cười lạnh, nói: “Đừng có làm bừa, cũng đừng nôn nóng, cứ từng người từng người một, rồi cuối cùng các ngươi sẽ được đoàn tụ với nhau ở một nơi khác thôi.” Anh gầy chợt lại nói: “Anh không thể giết bọn họ được! Bọn họ đã đồng ý giao thần khí ra rồi mà, việc gì còn phải lạm sát người vô tội chứ?” Tôn Kim Nguyên và Vương Tiên Dao đều tỏ ra hết sức ngạc nhiên, không ngờ vào lúc này rồi mà anh gầy còn cất lời cầu xin giúp chúng tôi. Trịnh Duy Tín lạnh lùng nói: “Chú thì hiểu cái gì? Người làm đại sự cần biết dùng thủ đoạn tàn độc, mà bọn chúng lại biết quá nhiều rồi, nhất định phải diệt khẩu mới được.” Rồi lão ta lại nhìn qua Tôn Kim Nguyên, nói tiếp: “Đồ nhi ngoan, vi sư tiễn ngươi lên đường đây.” Dứt lời liền không chút do dự bóp cò khẩu súng lục trong tay. Đúng vào lúc tiếng súng vang lên, anh gầy đột nhiên nhào tới, đẩy ngã Tôn Kim Nguyên xuống đất, có điều anh ta cũng vì thế mà trúng đạn vào lưng. Trong khoảnh khắc đó, thời gian như ngừng trôi, tất cả mọi người đều không nói năng gì, trên mặt ngợp đầy vẻ kinh ngạc, cặp mắt lặng lẽ dõi nhìn tất thảy. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Trộm Mộ của tác giả Phù Sinh.
Lời Nguyền Lâu Lan - Sái Tuấn
Tác phẩm bắt đầu từ cái chết đột ngột Giang Hà - 3 tuần sau khi trở về từ chuyến khảo sát ở thành cổ Lâu Lan. Manh mối duy nhất để lại cho cô vợ chưa cưới Bạch Bích chính là một chùm chìa khóa thần bí. Bạch Bích hy vọng nhờ vào chùm chìa khóa đó để tìm ra được đáp án sự thật. Nhưng mọi việc diễn ra càng lúc càng ly kỳ khôn lường. Một tháng sau đó, trong Trung tâm nghiên cứu Khảo cổ xảy ra liên tiếp năm vụ án mạng hết sức lạ lùng. Cảnh sát Diệp Tiêu tiếp nhận vụ án, triển khai điều tra và vô tình vén được bí mật đã cất giấu hàng nghìn năm. Lời nguyền cổ xưa và vĩnh cửu không chỉ làm cho cả một thành phố bị tiêu vong, mà còn thay đổi vận mệnh của biết bao con người... Sái Tuấn được đánh giá là một nhà văn kỳ tài. Tiểu thuyết kinh dị của Sái Tuấn thường giải phẫu, phân tích sâu sắc sự giao thoa giữa lịch sử và thực tế, giữa tình yêu và sự kinh dị, giữa huyền hoặc và suy diễn, mà vẫn thấm đậm chất nhân văn. Anh viết văn đã 10 năm nay và nổi tiếng với ác tác phẩm như: Trở lại Hoang thôn - Sái Tuấn Thần đang nhìn ngươi đấy - Sái Tuấn Quán Trọ Hoang Thôn - Sái Tuấn Mắt Mèo - Sái Tuấn Địa ngục tầng thứ 19 - Sái Tuấn Hồ Sinh Tử - Sái Tuấn Mưu Sát Tuổi Xuân - Sái Tuấn 120 Ngày Nhìn Trộm - Sái Tuấn ... *** Nửa tiếng sau, tiếng bước chân vội vã của Diệp Tiêu đã vang lên trong phòng khám nghiệm tai nạn của cảnh sát giao thông. Trong hành lang dài, một khoảng tối mờ. Trong nhà xác cạnh hành lang còn để rất nhiều xác người mặt mũi biến dạng vì bị tai nạn giao thông. Phần lớn trông đều rất thê thảm. Có nhiều người đầu một nơi chân tay một nẻo. Có lúc Diệp Tiêu cảm giác bốn bánh xe lao vun vút cũng nguy hiểm không kém một kẻ sát nhân tàn nhẫn. Diệp Tiêu thay quần áo, bước vào phòng khám nghiệm, nhìn thấy xác một thanh niên đang nằm trên bàn phẫu thuật. Hứa An Đa. Hứa An Đa đã bị cởi bỏ hết quần áo, toàn thân ở trần. Anh ta lúc đó trắng như một cục tuyết, anh ta ca khoảng 1m70, trông rất cơ bắp, xem ra là người chịu khó luyện tập, hoặc do công việc thường phải đi dã ngoại. Gương mặt đã biến dạng hết, toàn máu và não. - Nguyên nhân xảy ra tai nạn là thế nào? - Diệp Tiêu hỏi nhỏ người cảnh sát giao thông được giao thụ lý vụ tai nạn này. ... Mời các bạn đón đọc Lời Nguyền Lâu Lan của tác giả Sái Tuấn.