Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Thú Nhận Của Tay Lừa Đảo Felix Krull

Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Thomas Mann, nhà văn Đức đoạt giải Nobel năm 1929. Dù chưa hoàn thành, Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là bức tranh chi tiết về châu Âu cuối thế kỷ 19, một câu chuyện hài hước với văn phong mượt mà uyển chuyển, mang nhiều suy tư triết lý đậm chất Thomas Mann. *** Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Thomas Mann, nhà văn Đức đoạt giải Nobel năm 1929.  Câu chuyện dẫn dắt người đọc đi cùng Felix Krull, một cậu bé sinh ra trong một gia đình trung lưu sung túc miền Rhine nước Đức. Sau khi người cha tán gia bại sản và tự sát, cậu sống trong cảnh nghèo khó với mẹ, những vẫn luôn nuôi mộng về một cuộc sống xa hoa. Felix đã lừa các bác sĩ quân y để trốn đi nghĩa vụ quân sự. Rồi, với công việc chạy buồng thang máy và bồi bàn ở một khách sạn sang trọng ở Paris, nhờ vẻ bề ngoài đẹp như nam thần Hy Lạp, cậu kiếm được bộn tiền từ những quý bà khát tình. Sau đó, Felix có bước ngoặc cuộc đời, cú lừa đảo lớn nhất, khi cậu giả danh một hầu tước trẻ Luxembourg làm chuyến du lịch vòng quanh thế giới, trong khi vị hầu tước ở lại Paris với người tình. Felix tới Lisbon trong lộ trình đi tới Nam Mỹ, và ở đây, cậu có những khám phá kiến thức và lạc thú xa hoa. Nhân vật Felix Krull được giới thiệu lần đầu trong một truyện ngắn của Thomas Mann năm 1901 nhưng mãi đến năm 1936 mới được xuất bản trong tập "Truyện ba thập kỷ", tập hợp các truyện ông viết từ năm 1896 đến 1929. Sau này Thomas Mann viết tiếp và mở rộng câu chuyện, nhưng ông mất năm 1955 khi bản thảo còn dang dở. Dù chưa hoàn thành, Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là bức tranh chi tiết về châu Âu cuối thế kỷ 19, một câu chuyện hài hước với văn phong mượt mà uyển chuyển, mang nhiều suy tư triết lý đậm chất Thomas Mann. *** Khi đặt bút viết những dòng này trong cảnh ẩn dật an nhàn - trí óc vẫn hoàn toàn minh mẫn, mặc dù thể chất mệt mỏi, rất mệt mỏi (vậy nên tôi chắc chỉ có thể tiến hành việc viết lách theo từng chặng nhỏ, xen lẫn nhiều khoảng nghỉ ngơi), tóm lại, khi quyết định trao gửi lời thú nhận này vào trang giấy nhẫn nại, bằng nét chữ viết tay gọn gàng đẹp mắt của chính mình, trong lòng tôi đã gợn lên một thoáng lo ngại, sợ mình không đủ kiến thức hàn lâm để đương đầu với thử thách trí tuệ này. Song, bởi tất cả những điều tôi muốn kể đều tập hợp từ kinh nghiệm sống của bản thân tôi, từ những sai lầm cũng như đam mê tôi đã trực tiếp trải qua, nên tôi có thể đoan chắc rằng mình nắm vững cốt truyện một cách tuyệt đối, và như thế nỗi lo của tôi chỉ tập trung vào chỗ chọn lựa hình thức diễn đạt để có được sự tế nhị và lịch lãm cần thiết, mà về mặt này thâm tâm tôi vẫn tin rằng học hành bằng cấp đầy mình cũng không bằng năng khiếu tự nhiên và được giáo dục tốt trong gia đình. Khoản ấy thì tôi không thiếu, bởi tôi xuất thân từ một gia đình khá giả với nếp sống phong lưu, mặc dù có hơi phóng túng. Chị Olympia của tôi và tôi trong nhiều tháng trời đã được hưởng sự kèm cặp của một cô gia sư người Vevey*, cô này tuy nhiên về sau phải cuốn gói vì một sự cạnh tranh mang đặc thù nữ giới với mẹ tôi - mà đối tượng là cha tôi. Thêm vào đó, cha đỡ đầu của tôi, ông Schimmelpreester, một người rất thân thiết, gần gũi đối với tôi, là một nghệ sĩ được đánh giá cao trên nhiều phương diện, tất cả cư dân của cái thị trấn tỉnh lẻ quê hương tôi đều gọi ông là “giáo sư”, mặc dù có lẽ chưa bao giờ ông được chính thức trao tặng cái danh hiệu cao quý rất được ham chuộng ấy. Còn cha tôi, mặc dù thân thể to béo kềnh càng nhưng bù lại ông có nhiều nét duyên dáng và đặc biệt là rất sính nói chữ. Cha tôi được thừa hưởng dòng máu Pháp của một người bà, bản thân ông đã sống ở Pháp trong thời gian học nghề, từ đó ông luôn quả quyết rằng mình rành Paris như lòng bàn tay. Trong lúc trò chuyện, ông rất thích xen vào những từ như c‘est ça, épatant hay parfaitement* - mà với một lối phát âm cực chuẩn - hoặc giả ông thường hay nói: “Về phần moi... ”* Đến tận cuối đời ông vẫn được hưởng rất nhiều ưu ái của phái nữ. Nhưng tôi nói trước ra ngoài lề mất rồi. Trở lại năng khiếu trời cho của tôi trong cách diễn đạt, tài ăn nói là cái xưa nay tôi vẫn vận dụng không chút khó khăn, điều này đã được chứng tỏ trong suốt cuộc đời ba chìm bảy nổi của tôi, và tôi tin rằng mình có thể phát huy năng khiếu ấy cả trong việc viết lách. Hơn nữa tôi cũng đã quyết tâm khi chấp bút sẽ tôn trọng sự thật một cách tuyệt đối, dẫu có vì thế mà bị mang tiếng là huênh hoang hay tự đắc. Lời thú tội còn có ý nghĩa và giá trị đạo đức gì nữa, nếu được viết ra một cách không chân thực! Thành phố Thụy Sĩ thuộc vùng Pháp thoại, hồi thế kỷ XIX nổi tiếng là nơi cung cấp các cô bảo mẫu và gia sư cho toàn châu Âu. (Các chú thích đều là của người dịch, tham khảo thêm lời bình của Thomas Sprecher và Monica Bussmann in trong tập 12.2 bộ Thomas Mann, Khảo luận ấn bản Frankfurt bao gồm tác phẩm - thư từ - nhật ký do S. Fischer Verlag GmbH xuất bản năm 2012.) Vậy đó, tuyệt vời hay hoàn hảo (tiếng Pháp). “Về phần tôi...” (dịch lấy ý). Tôi là một đứa con của Rheingau*, dải đất được thiên nhiên ưu đãi khí hậu ôn hòa và đất đai trù phú, thành phố làng mạc đông đúc, dân cư vui nhộn, một trong những vùng tươi đẹp nhất trên quả địa cầu. Nơi đây được dãy núi Rheingau che chắn gió bấc và được mặt trời hào phóng ban nắng ấm, nhờ thế các đô thị mọc lên như nấm với những địa danh nổi tiếng chỉ cần nghe tên các tay đệ tử Lưu Linh đã mở cờ trong bụng, nào Rauenthal, nào Johannisberg, nào Rüdesheim, và cả cái thị trấn nhỏ bé cổ kính nơi tôi mở mắt chào đời vài năm sau ngày thành lập Đế chế Đức vinh quang*. Thị trấn quê hương tôi nằm hơi xế về phía Tây khúc gấp nơi con sông Rhein lượn quanh thành phố Mainz, là bến chính của các chuyến tàu thủy xuôi ngược dọc dòng sông, dân số chỉ khoảng bốn ngàn nhưng nổi tiếng nhờ các hãng rượu vang đóng đô ở đó. Kế bên chúng tôi là thành phố Mainz phồn hoa và các khu suối nước nóng dưỡng bệnh lừng danh của vùng Taunus như: Wiesbaden, Homburg, Langenschwalbach và Schlangenbad, địa điểm sau cùng này đi từ chỗ chúng tôi chỉ mất độ nửa giờ đồng hồ ngồi xe lửa đường ray hẹp lên núi. Vào mùa đẹp trời, gia đình chúng tôi gồm cha mẹ tôi, chị Olympia và tôi đã bao lần du ngoạn khắp bốn phương bằng tàu thủy, xe ngựa hay xe lửa, vì xung quanh đâu đâu cũng có những danh lam thắng cảnh được tạo dựng bởi thiên nhiên và bàn tay con người. Tôi vẫn như thấy trước mắt hình ảnh cha tôi mặc bộ đồ vét mùa hè rộng rãi bằng vải kẻ ca-rô, ngồi cùng chúng tôi ở một tiệm ăn ngoài trời nào đó - cái bụng bự không cho phép ông ngồi sát vào bàn - và với sự khoan khoái vô cùng tận, ung dung thưởng thức món cua bể với chất nước vàng óng của cây nho. Cha đỡ đầu của tôi, ông Schimmelpreester cũng thường hay có mặt trong những chuyến dã ngoại của gia đình, ông ngồi lặng lẽ chĩa cái nhìn soi mói qua cặp kính gọng nhựa trong mắt tròn to tướng, quan sát phong cảnh và người qua kẻ lại, hấp thụ tất cả mọi ấn tượng lớn nhỏ vào tầm hồn nghệ sĩ của mình. Vùng trồng nho làm rượu nổi tiếng của Đức nằm ở hữu ngạn sông Rhein. Đế chế Đức được thành lập năm 1871. Người cha tội nghiệp của tôi sinh thời là chủ hãng Engelbert Krull, cơ sở sản xuất loại rượu vang “Loreley extra cuvée”*, một nhãn hiệu nay đã biến mất tăm khỏi thị trường. Hãng chúng tôi có các hầm rượu nằm dọc bờ sông Rhein, không xa bến tàu thủy là mấy, và khi còn là một cậu bé, tôi đã không ít lần lẻn xuống dưới các mái vòm mát rượi, rón rén dạo bước trong các hành lang lót đá chạy ngang dọc giữa những hàng giá cao ngất, ngắm nhìn không biết chán đội quân bằng chai xếp nghiêng tầng tầng lớp lớp trên giá, lòng miên man suy nghĩ. Các ngươi nằm đây, tôi nghĩ thầm trong bụng (tất nhiên khi ấy tôi chưa biết diễn tả ý nghĩ của mình bằng những từ ngữ chính xác như thế này), các ngươi nằm đây trong bóng tối nhá nhem dưới lòng đất, và trong bụng các ngươi diễn ra quá trình lên men thầm lặng của thứ chất lỏng màu vàng sủi bọt kia, thứ chất lỏng thần thánh làm những trái tim rộn ràng tăng nhịp đập, làm những cặp mắt rực sáng long lanh! Giờ đây các ngươi còn trần trụi xấu xí, nhưng sẽ đến một ngày các ngươi trang điểm lộng lẫy ngoi lên thế giới bên trên, xuất hiện trong hội hè, đám cưới, lễ lạt, tự hào bật nút văng lên trần nhà với tiếng nổ giòn tan, đem đến cơn say, sự bốc đồng và hứng thú cho con người. Cậu bé con hồi đó đã có những ý nghĩ đại loại như thế, và trong đó chí ít cũng có một điều đúng, đó là hãng Engelbert Krull rất chú trọng việc trang hoàng hình thức bề ngoài của các chai rượu, công đoạn hoàn thiện sau cùng mà từ chuyên môn gọi là coiffure. Chiếc nút bấc được ép chặt vào miệng chai, chụp lên trên một lưới thép nhỏ mạ bạc và chằng buộc bằng một sợi dây đay mạ vàng gắn sáp niêm phong đỏ thẫm, một con dấu tròn trang trọng như dấu sắc lệnh của Giáo hoàng hay chiếu chỉ của Hoàng đế treo toòng teng bằng sợi chỉ vàng nơi cổ chai quấn giấy thiếc sáng choang, và quanh bụng chai nổi bật một nhãn hiệu cầu kỳ do cha đỡ đầu Schimmelpreester của tôi thiết kế riêng cho hãng, trên đó ngoài một mớ huy hiệu, ngôi sao, tên ba tôi và dòng chữ “Loreley extra cuvée” mạ vàng, còn có hình một người đàn bà ngoài vòng tay vòng cổ tịnh không mang thêm một thứ trang phục nào khác trên mình, ngồi vắt tréo chân trên một mỏm đá, vươn tay đưa chiếc lược chải vào mái tóc dài bồng bềnh. Cũng phải nói thêm rằng phẩm chất rượu trong chai không hoàn toàn tương xứng với cái vỏ ngoài hào nhoáng. “Này Krull”, cha đỡ đầu Schimmelpreester của tôi có lần bảo cha tôi, “ông là người đáng kính, nhưng rượu champagne của ông lẽ ra phải bị cảnh sát cấm mới đúng. Tám ngày trước tôi dại dột uống nửa chai, và cho đến tận hôm nay vẫn còn dở sống dở chết. Ông pha cái chết tiệt gì vào đấy thế? Hay ông trộn xăng dầu vào làm chất phụ gia? Tóm lại, rượu của ông đúng là thuốc độc. Ông nên dè chừng luật pháp!” Nghe vậy, người cha tội nghiệp của tôi tỏ ra rất bối rối, vì ông là người nhu mì và không quen với những lời chỉ trích nặng nề. “Ông chê thì dễ lắm, Schimmelpreester”, cha tôi chống chế, vừa nói vừa theo thói quen đưa mấy đầu ngón tay nhẹ nhàng vuốt bụng, “nhưng tôi buộc phải bán rẻ, vì thiên hạ có thành kiến với rượu nội. Tóm lại, tôi chỉ cung cấp cho công chúng cái mà họ muốn. Đã thế các hãng cạnh tranh còn ngồi trên cổ tôi đây này, ông bạn thân mến, không hạ giá thành thì cầm cự làm sao nổi.” Đó là về cha tôi. “Rượu vang thượng hạng Loreley” (tiếng Pháp). Biệt thự của chúng tôi thuộc vào hàng những dinh cơ xinh xắn nằm dựa lưng trên sườn núi thoai thoải, mặt hướng xuống thung lũng sông Rhein. Mảnh vườn dốc thoai thoải được trang điểm một cách hào phóng nào là các chú lùn, cây nấm và đủ loại thú vật bằng sành giống như thật; một quả cầu thủy tinh bóng loáng nằm chễm chệ trên một cái bệ, soi gương vào đó sẽ thấy mặt mũi méo xệch đi rất tức cười; ngoài ra còn có cả một cái chuông gió hình cầy đàn lia, nhiều hòn giả sơn với hang động và một cái giếng phun nước: từ một bức tượng rất mỹ thuật, những tia nước không ngừng được ném lên không trung, dưới bể đàn cá bạc bơi lội tung tăng. Nội thất nhà chúng tôi được trang hoàng đúng theo sở thích của ba tôi, vừa ấm cúng vừa tươi tắn. Các bao lơn kín đặt sẵn ghế như mời mọc người ta ngồi nghỉ, và trong một góc còn dựng cả một cái xa quay sợi thật. Vô số vật trang trí nhỏ: các bức tượng bằng sứ, vỏ sò, vỏ ốc, hộp gương và chai dầu thơm nằm la liệt trên giá kệ và bàn bọc nỉ; gối lông bọc lụa thêu thùa rực rỡ nhiều không đếm xuể, rải đầy trên ghế xô pha và ghế nằm, vì ba tôi thích chỗ ngả lưng phải thật êm ái; rèm cửa sổ treo trên những ngọn kích dài, cửa thông giữa các phòng che bởi những tấm mành mành kết bằng ống trúc và hạt cườm sặc sỡ, nhìn thì kín đáo, nhưng có thể bước qua mà không cần phải nhấc một ngón tay, vì nó tự rẽ ra với tiếng lách cách vui tai rồi tự khép lại. Bên trên cửa trong khoang chắn gió có gắn một thiết bị tinh xảo, mỗi khi cánh cửa từ từ sập vào nó lại tấu lên những âm thanh thánh thót mở đầu bài hát “Hãy yêu đời đi”. Mời các bạn đón đọc Lời Thú Nhận Của Tay Lừa Đảo Felix Krull của tác giả Thomas Mann & Nguyễn Hồng Vân (dịch) & Trần Đàm Thành (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vì Nghĩa, Vì Tình
“Vì nghĩa vì tình” như chính tên gọi của nó cho chúng ta thấy được nhân nghĩa và tình cảm ở đời. Vì một chữ tình nên sanh ghen rồi vô tình khiến mẹ phải lìa con, chồng lìa vợ, gia đình ly tán. Mẹ khóc hết nước mắt vì mất con nên lúc tỉnh lúc dại. Chồng vì nỗi vợ không tha thứ nên u uất, thối chí. Con vì cha nên sống cảnh cơ hàn, sống đời lang bạt, đói cơm rách áo… Và vì một chữ nghĩa để rồi cuối cùng mẹ lại được gặp con, chồng lại được gần vợ, trẻ con hết sống cảnh côi cút, bơ vơ, nhà cửa coi hực hỡ mà mặt ai nấy đều vui vẻ, hớn hở lắm. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Mất con lìa vợ gần sáu năm trường rồi, thình lình trong một buổi mà cha con tương phùng, vợ chồng hội hiệp; làm người ai gặp cái cảnh như vậy, dầu tánh tình trầm tịnh đến thế nào đi nữa cũng khó mà giấu cái mừng, cái vui trong lòng được. Chánh Tâm được sum hiệp với vợ con, tuy chàng không lộ cái vẻ vui mừng của chàng cho ai thấy, nhưng mà chàng ngồi cứ ngó vợ rồi ngó con mà cười hoài. Lâu lâu chàng ngoắc con lại gần rồi ôm mặt nó mà hun, hoặc chàng lại đứng một bên vợ mà coi vợ may áo cho con bận. Chàng hưởng thú hòa hiệp một cách êm ái như vậy đó, người ngoài dòm vô ai cũng tưởng chàng không vui mừng cho lắm duy Cẩm Vân biết tánh ý chồng, nên nàng hiểu cái cử chỉ ấy là cử chỉ khoái lạc của chồng thuở nay. Trọn buổi sớm mơi, Chánh Tâm xẩn bẩn ở nhà mà chơi với vợ con. Buổi chiều, chàng đi ra Sài Gòn, mướn Trưởng tòa ra giấy ký cho người mướn nhà lầu của chàng trong vòng 15 ngày phải dọn đồ đi và trả lại cho chàng ở. Việc đó xong rồi chàng mới lại hãng xe hơi chồng bạc mà lấy xe. Đến 5 giờ chiều, chàng đem xe về. Chánh Hội nghe thấy xe thì mừng quýnh, chạy vô trong nó kéo má nó ra coi. Chánh Tâm mời Cẩm Vân với cô Ba Hài đi thử. Cẩm Vân từ rằng: - Để tôi may đồ sắp nhỏ riết cho rồi đặng mai có đi, chớ đi chơi rồi mai đi sao được. Chánh Tâm nghe nói như vậy thì không dám ép nên đi một vòng với cô Ba Hài và hai đứa nhỏ, còn để vợ ở nhà may đồ. Áo quần của sắp nhỏ may xong rồi, Chánh Tâm bèn thưa với cô Ba Hài đặng rước vợ về Láng Thê thăm nhà ít bữa. Cô Ba Hài nói rằng : - Nó phải đi chớ. Nó có nói với tao rằng, hồi chị Tổng mất, nó có bịnh nó không hay. Mấy năm nay nó phiền mầy nên nó không tới nhà được mà lạy chị Tổng. Bây giờ vợ chồng con cái hiệp với nhau rồi, thì nó đi mới phải chớ. Cẩm Vân lo thâu xếp áo quần bỏ vào hoa ly. Chánh Tâm lấy đồ tây mà bận cho Chánh Hội với thằng Qui, sửa soạn xong rồi mới từ cô Ba Hài mà lên xe. Hai đứa nhỏ rủ nhau ngồi phía trước với sốp phơ, bỏ Chánh Tâm với Cẩm Vân ngồi sau chen ngoẻn. Xe mới, máy còn êm nên chạy nghe tiếng vù vù xuống tới nhà ga An Lạc, Chánh Hội ngoái đầu lại mà nói rằng: - Tôi với thằng Quì có ngủ lại đây một đêm má a. Chánh Tâm ngó vợ mà cười. Xuống tới chợ Đệm, Chánh Hội lại chỉ quán bà già cho ăn cơm hồi trước, rồi xuống tới Gò Đen nó chỉ luôn trường học nó học ngày xưa nữa. Hai đứa ngồi trước, nói chuyện cãi lẽ om sòm. Vợ chồng Chánh Tâm ngồi sau cứ ngó rồi cười cùng nhau. Có một lúc xe đương chạy mau, Chánh Tâm nắm tay vợ mà nói rằng: - Em ốm lung quá ! Để dọn nhà ở yên rồi qua đem em cho quan thầy thuốc coi, để cho thuốc em mập lại như xưa mới được. Cẩm Vân lắc đầu đáp rằng : - Em có đau đâu mà uống thuốc. Bây giờ em gặp con rồi, em hết buồn rầu nữa, thì trong ít ngày đây em mập lại chớ gì. Mời các bạn đón đọc Vì Nghĩa, Vì Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Nhơn Tình Ấm Lạnh
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Huỳnh Tú Phan mới cất một nhà lầu, gần châu thành Bạc Liêu cửa ngó ra lộ đi Sóc Trăng. Nhà cất kinh dinh kiểu vẻ xinh đẹp, nền cao cửa rộng tường chắc, thang lài, tứ hướng đều có làm cửa sổ đặng ánh sáng lọt vào nhà. Hai từng đều lót gạch bông đặng lau chùi cho sạch, nóc lợp ngói móc đỏ lòm, cửa sổ sơn dầu xám láng bóng. Trước có dọn một cái sân rộng lớn, chánh giữa đã xây hòn non trên hồ nước, trên đỉnh ông tiều lum khum gánh củi, dưới khe ngư ông thong thả ngồi câu, bên kia thằng mục cỡi trâu ãn, bên nọ chú cày đi ra ruộng. Ở ngoài đi vô khỏi cửa ngỏ rồi tẻ ra hai đường vô nhà. Dọc theo hai đường ấy đã trồng bông đủ thứ, bông vàng xen bông trắng, lá đỏ lộn lá xanh, hai bên lại đương dọn hai cái bồn, tính để trồng cây coi cho đẹp. Phía sau có cất một cái nhà dài tám căn, rồi chia ra chỗ xây bếp, chỗ chứa đồ, chỗ để xe hơi, chỗ để xe ngựa, còn dư mấy căn dành để cho gia đinh ở. Khoảng đất cất nhà nầy thật là rộng lớn, không còn bỏ trống, nhiều chỗ chưa thấy trồng cây gì. Tuy vậy mà mặt đất đã ban bằng phẳng, có lẽ chừng chủ nhà dọn nền nhà mới sẽ trồng mận, ương cam, hoặc trồng cau, đặt chuối chi đây chớ chẳng không. Phía trước dọc theo mé lộ, đã xây tường rồi rào song sắt, còn ba phía kia xây trụ bạch cấm rào cây. Người đi đường, hễ đi ngang qua thấy nhà mới nguy nga thường hay nghị luận, kẻ khen nhà cất đúng kiểu, người tiếc xung quanh nhà chưa trồng cây, kẻ chê nhà cất xa châu thành, người lại nói muốn khoe của nên cất nhà tốt hơn thiên hạ. Tú Phan cất nhà vừa xong đương lo đóng tủ, mua bàn, đặt giường, sắm ghế đặng ăn lễ tân gia, thình lình hay tin quan trên xét công làm hội đồng địa hạt gần hai khóa và mỗi kỳ nhà nước phóng trái đều sẵn lòng đem bạc cho vay nhiều, nên thưởng chức Huyện Hàm, đặng rở ràng trong hương xã. Chữ phú đã được nay thêm chữ quý nữa, người đời phần nhiều hễ được như vậy thì toại chí phỉ nguyền. Tú Phan là người ở trong bậc thường dân xuất thân, nhờ vận hội may mắn được giàu, nay cũng nhờ vận hội may mắn được sang nữa, thầm nghĩ có tiền mà không có chức thì cũng không oai, từ rày mình có tiền mà lại có chức, giàu sang gồm đủ, sự mơ ước đã được rồi chẳng lo chi nữa. Tú Phan lật đật sắm sửa dọn dẹp nhà mới cho xong, Ðịnh chiều chúa nhựt 20 janvier (1) sẽ thiết tiệc lớn làm lễ tân gia với tân quan luôn một bữa. Hồng thiệp gởi đi rồi, từ bà con cho đến người quen biết, ai ai cũng đều nao nức lo sắm lễ vật đặng đi khánh hạ. Ngày vui đã đến, sắp đặt cũng vừa xong. Sớm mai chúa nhựt, sắp tá điền, độ gần vài mươi người, chia nhau tốp bắc thang trèo lên mấy cửa treo cờ, tốp đóng nọc giăng dây cùng ngoài sân đặng treo đèn. Huỳnh Tú Phan, vừa tròn năm mươi hai, mặt dài trán rộng, râu vuốt ngoẳng lên hai bên mép, tóc ít lại điểm bạc hoa râm, chân đi giày thêu cườm, mình mặc áo quần lụa trắng, mắt mang kiếng gọng vàng, miệng ngậm đót mã não (2), ra đứng trước sân coi tá điền treo đèn buộc cờ. Cửa ngỏ sắt sơn màu đỏ lòm, mà lại còn biểu cậm tàu dừa vòng nguyệt, rồi kết bông coi cho rực rỡ thêm. Trong nhà bàn cẩm ghế mây, cái nào cũng mới tinh, mà còn biểu lau chùi, đặng nhìn cho thấy mặt. Trên mỗi bàn đều để một bình bông, bông thiệt cắm xen bông giả nên mới thoáng ngó qua không biết bông nào là bông làm, bông nào là bông trồng. Dựa mấy gốc cột đều có một chậu kiểng, chỗ nầy để bùm sụm (3), chỗ kia để càng thăng (4), bên nầy để cau lá vàng, bên kia để đinh lăng (5) trắng. Mấy cửa sổ đều treo màn thêu bông giấy ngang dọc. Trong buồng, vợ Tú Phan là Ðoàn Thị Xuân, tuổi vừa 45, nước da trắng; gương mặt tròn, đầu tóc bới thả đều, móng tay chuốc mũi viết, tay đeo cà rá; cổ vấn dây chuyền, đương ngồi trên ván ăn trầu mà nói chuyện với mấy người đàn bà dưới Cái Cùng lên cung hạ. Con gái Tú Phan là Huỳnh Phi Phụng, tay ôm hai tấm màn thêu, ở trên lầu lần từng nấc thang đi xuống. Cô tuổi mới 17, nước da trắng đỏ, đầu tóc đen huyền, hàm rãng trắng đều như hột bầu, ngón tay dài trông như da giấy, mình mặc áo lãnh màu bông phấn, quần lụa Bom Bay6 mới tinh, chân đi giày thêu cườm, bông tay cà rá dây chuyền đều nhận hột xoàn lóng lánh. Cô xuống hết thang rồi mới nói với mẹ: - Con đã kết hai tấm màn rồi đây má. Ðể đưa cho ba đặng biểu họ treo hé. Thị Xuân ngó hai tấm màn rồi gật đầu. Mấy người đàn bà đương nói chuyện, ai cũng day lại ngó Phi Phụng rồi nói với Thị Xuân: "Cô hai nay lớn dữ! Bà cũng gần làm sui rồi". Phi Phụng nghe nói mắc cở nên ôm hai tấm màn lật đật đi ra ngoài trước, Thị Xuân tay xỉa thuốc, mắt ngó ra cửa sổ mà đáp: "Ôi! Họ muốn làm sui thiếu gì! Có hai ba chỗ gắm ghé, mà ba nó nói còn nhỏ nên chưa chịu gả. Tôi có một mình nó nên cưng lắm. Ba nó nói cực chẳng đã tôi phải để cho nó đi học trên Sài Gòn mấy nãm nay. Xưa rày tôi nói lắm mới chịu lên mà đem nó về đó đa". Ở dưới bếp sắp (7) Triều Châu lãnh dọn tiệc, tốp xe đồ, tốp nhóm lửa. Nói chuyện xí xô xí xào, còn sắp gia đinh nấu cỗ Việt Nam đãi khách đàn bà, đứa xắt thịt, đứa lặt rau chộn rộn chàng ràng như nhóm chợ. Phi Phụng đưa hai tấm màn cho cha rồi cha con đứng coi tá điền treo hai bên cửa buồng. Màn treo vừa rồi thì có một thầy, trạc chừng 19, 20 tuổi gương mặt sáng rỡ, tướng đi khoan thai, mình mặc quần trắng, áo nỉ đen, cổ thắt cà vạt màu tím; đầu đội nón trắng, chân mang giày vàng, ở ngoài cửa ngõ thủng thẳng đi vô nhà. Phi Phụng dòm thấy, miệng chúm chím cười rồi nói với cha: - Anh ký Linh đến kìa ba. Cha chả bữa nay ảnh diện áo quần coi đẹp dữ. Tú Phan dòm ra thấy Phan Duy Linh, con của người bạn thân thiết với mình hồi trước, đương làm ký lục trong Hương Sở Bạc Liêu, rồi cũng cười, chờ Duy Linh bước vô nhà mà hỏi: - Bữa nay chúa nhựt cháu nghỉ hả? - Dạ, bữa nay cháu nghỉ, nên lật đật đến cung hạ bác và ở giúp đãi khách hầu bác. - Ô! Được đa! Sấp nhỏ ở nhà đây nó khờ lắm, vậy cháu ở chơi đặng coi sắp đặt dùm cho bác. - Cô hai về hôm nào? Phi Phụng nghe hỏi tới mình thì tay vịn ghế, mắt liếc Duy Linh đáp: - Em về hôm thứ ba. - Hổm rày tôi không hay, chớ tôi dè có cô về thì tôi ra thăm cô. - Em muốn sai bầy trẻ cho anh hay, song em nghe ba em nói có mời anh đến nên không dám làm rộn anh. Duy Linh đem nón móc trên đầu nai gần cửa sổ, Phi Phụng đi lần lại bàn cẩn để ở giữa nhà, thấy trong bình cắm ba bông huệ lộn xộn với bông vải, bèn thò tay kéo nhánh bông huệ để vô lổ mũi mà hửi, mắt ngó theo Duy Linh. Mời các bạn đón đọc Nhơn Tình Ấm Lạnh của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Nam Cực Tinh Huy
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** ...Trong dinh quan Thứ-sử, cửa tư bề đóng chặt, người cũng vắng bóng lại qua; duy trước hiên chị nguyệt dỡn hoa đào và bên chái ngọn đèn chờ bạn ngọc. Trống vừa trở canh tư thì thấy quan Thứ-sử Ngô-Quyền ở trong phòng bước ra, bưng đèn đem để trên án, rồi sẻ lén mở cửa đi ra ngoài. Bóng trăng tỏ rạng, soi sáng cả mình, mới thấy người tuổi vừa mới quá bốn mươi, vóc to, sức mạnh, trán rộng, mặt ngang, mày rậm, râu dài, cặp mắt lớn mà lại sáng, trông hình dạng thì đủ biết là một người chí khí cao, độ lượng lớn. Quan Thứ-sử xem trăng rồi lần bước đi lại gần mấy hàng hoa đào, thấy bụi hoa nào tốt rờ rẩm sâm soi, còn dòm bụi hoa đèo thì châu mày ủ mặt. Xem hoa xong rồi mới chậm chậm đi thẳng ra hồ sau, thấy dưới cội lý có mấy cái ghế bèn lại đó mà ngồi. Bóng trăng soi mặt nước như vàng gieo bạc chảy, tiếng dế kêu dưới cội như câu hát giọng đờn; quan Thứ-sử ngồi một mình nhắm cảnh thanh vật tịnh rồi lòng bắt nhớ chuyện sẽ tới, nhớ người ở xa, nhớ tổ quán cố hương, nhớ ơn cha nghĩa bạn....    HỒI THỨ NHỨT Trong màng loan Dương phu nhơn mộng quái,  Dưới cột lý Ngô Thứ-sử trần tình Năm mậu tuất (năm 938) đêm rằm tháng giêng, lúc gần hết canh ba, mảnh nguyệt treo giữa trời soi sơn-thủy, giọt nước sương chan mặt đất rưới cỏ cây; nẻo lợi danh vắng-vẻ bước con người, mùi cam khổ tạm bay xa trần thế.  Ái-châu thành 1 là chỗ địa-đầu thị-tứ, dân cư trù mật, quan quân nhộn nhàng; chánh là một trường cạnh tranh lợi danh, mà cũng là chánh một chốn nực nồng cam khổ. Đêm nay canh khuya, trời lạnh người người đều ngơi-nghỉ, nhà nhà đều im-lìm, tưởng là bóng âm che khuất lòng trần, nào dè cách một hồi nghe tiếng chuông trên chùa cúng Phật, mới hay đêm tuy khuya, tiết tuy lạnh, chim trong rừng tuy ngủ, cây trên núi tuy yên, nhưng mà người đời chưa rảnh được nợ trần, hoặc còn mưu kế sanh tồn, hoặc đương tính về phương siêu độ.  Trong dinh quan Thứ-sử, cửa tư bề đóng chặt, người cũng vắng bóng lại qua; duy trước hiên chị nguyệt dỡn hoa đào và bên chái ngọn đèn chờ bạn ngọc. Trống vừa trở canh tư thì thấy quan Thứ-sử Ngô-Quyền ở trong phòng bước ra, bưng đèn đem để trên án, rồi sẻ lén mở cửa đi ra ngoài. Bóng trăng tỏ rạng, soi sáng cả mình, mới thấy người tuổi vừa mới quá bốn mươi, vóc to, sức mạnh, trán rộng, mặt ngang, mày rậm, râu dài, cặp mắt lớn mà lại sáng, trông hình dạng thì đủ biết là một người chí khí cao, độ lượng lớn. Quan Thứ-sử xem trăng rồi lần bước đi lại gần mấy hàng hoa đào, thấy bụi hoa nào tốt rờ rẩm sâm soi, còn dòm bụi hoa đèo thì châu mày ủ mặt. Xem hoa xong rồi mới chậm chậm đi thẳng ra hồ sau, thấy dưới cội lý có mấy cái ghế bèn lại đó mà ngồi. Bóng trăng soi mặt nước như vàng gieo bạc chảy, tiếng dế kêu dưới cội như câu hát giọng đờn; quan Thứ-sử ngồi một mình nhắm cảnh thanh vật tịnh rồi lòng bắt nhớ chuyện sẽ tới, nhớ người ở xa, nhớ tổ quán cố hương, nhớ ơn cha nghĩa bạn.  Mắt đương lim dim, trí đương nghĩ nghị, bỗng nghe phía sau lưng có tiếng tằn-hắn. Quan Thứ-sử day lại thì thấy phu-nhơn, là Dương-thị, biệt hiệu là Nguyệt-Cô, nhẹ bước vạch nhành lần lần đi tới, Phu nhơn đã gần bốn chục mà sắc hãy còn thanh tươi, nước da trắng, gương mặt tròn, mặc áo sô đen, dạng đi yểu điệu. Khi phu nhơn bước tới thấy quan Thứ-sử liền đứng lại mà hỏi rằng:  - Đêm khuya tiết lạnh, sao tướng công không ngủ mà lại ra ngồi ngoài nầy?  - Chẳng biết vì cớ nào đêm nay trong lòng tôi bức-rức ngủ không được, nên tôi thức dậy mở cửa ra ngoài. Đứng trước hiên thấy trăng tỏ, trời thanh tôi mới lần bước đến đây ngồi ngoạn cảnh. Sao phu-nhơn không nghỉ, mà sao lại biết tôi ở đây mà kiếm?  - Thưa tướng-công số là tôi đang ngủ, bỗng chiêm bao thấy phụ thân tôi đầu xã tóc, mà mặt mày tái xanh chạy vô cửa kêu tôi rồi đứng ngó tôi mà khóc. Tôi la lên một tiếng rồi giựt mình thức dậy, cả mình hạn xuất ướt dầm. Tuy tôi biết là chuyện chiêm bao, song không hiểu lành dữ lẽ nào, nên chạy qua phòng tướng-công đặng tỏ lại cho tướng-công nghe. Chẳng dè qua đến đó thấy phòng không vắng vẻ, tôi bước ra tiền đường thấy đèn còn chong trên án mà cửa lại mở bét, tôi liệu chắc tướng-công ra ngoài, nên mới nhẹ gót đến đây mà bày tỏ chuyện chiêm bao cho tướng-công bàn thử.  - Phu-nhơn đừng có sợ. Người ta nói mộng là mị biết sao là lành, sao là dữ mà bàn. Phu-nhơn ngồi ghế đó mà nghỉ chơn, rồi trở vào mà ngủ.  Quan Thứ-sử kéo một cái ghế còn bỏ trống dưới cội cây đem ra mời phu-nhơn ngồi. Lúc đó có một vừng mây bay áng mặt trăng làm cho tư bề cỏ cây lờ mờ, cảnh vật trông ra hết đẹp. Chẳng biết hai người ngồi dưới cội, thấy trăng lu mà buồn bực, hay là nhớ giấc mộng là não nề, song cả hai đều ngồi im-lìm không ai nói tiếng chi hết. Cách một hồi lâu vừng mây qua khỏi, nguyệt sáng lòa, hoa cỏ khoe màu, nước non rạng vẻ; phu-nhơn liếc thì thấy quan Thứ-sử nét mặt ưu sầu, bèn cất tiếng hỏi rằng:  - Thưa tướng-công đá nói chiêm bao là mộng mị, mà sao nãy giờ coi bộ tướng-công không được vui? Nếu thiệt là điềm chẳng lành thì xin tướng-công cũng nói cho thiếp hay. Thiếp tuy là phận gái mặc dầu nhưng mà thiếp đã tuần quen nguy hiểm phong ba, bởi vậy dầu gặp dịp chẳng may thiếp cũng đủ trí đởm đương xin tướng-công chớ ngại.  - Phu-nhơn sợ quá nên nghi cho tôi dấu diếm phu-nhơn đó mà thôi, chớ nào có phải điềm chiêm bao đó làm cho tôi buồn đâu.  - Vậy chớ tướng-công buồn về việc chi?  - Tôi buồn cũng nhiều việc, buồn về việc nhà việc nước lo những nghĩa nặng ơn sâu, nghĩ thiệt khó mà tả hết cho phu-nhơn nghe được.  - Thưa tướng-công, thiếp tuy vụng về yếu đuối, nhưng mà thiếp hằng hết lòng lo sửa trắp nâng khăn. Đã vậy mà lại nhờ phật trời ủng hộ cho vợ chồng ta sanh được hai đứa con trai, thằng Xương-Cấp nay tuổi đã 12, và thằng Xương-Văn nay tuổi đà 11. Còn tướng-công thì đường công danh rực rỡ, làm quan đến chức Thứ-sử, oai quyền to lớn binh tướng dõng cường, cứ Ái-châu thành bố đức trăm nhà, dân Chiêm-thành quốc nghe danh khiếp sợ. Việc gia-đình như vậy, đường công danh như vậy, mà sao tướng-công lại buồn? Hay là thiếp ở có chỗ nào thiếu sót nên tướng-công phiền riêng thiếp chăng?  - Phu-nhơn không rõ, để tôi tỏ thiệt cho phu-nhơn nghe. Tôi vốn con nhà hàn vi lê thứ, chẳng may mẹ cha mất sớm nên tôi phải xứ Đường-Lâm 2 mà rảo bước giang hồ, chủ ý của tôi là muốn kiếm bạn tri-âm mà kết nghĩa đồng-tâm, đặng lập chút thân danh cho rỡ ràng nam-tử. Thiệt cũng nhờ có phật trời giúp vận, nên đến Bình-Kiều 3 may gặp được nhạc phụ yêu thương. Tôi chẳng có tài gì mà nhạc-phụ lại gả phu-nhơn cho tôi, rồi trong lúc dấy nghĩa binh mà đánh Lý-Khắc-Chánh, đuổi Lý-Tấn về Tàu, tôi cũng chẳng có công lao bao nhiêu mà chừng nhạc-phụ cầm quyền Tiết-đạt-sứ rồi lại cho tôi lãnh chức Ái-châu Thứ-sử, lo giữ gìn nam-phương cường-giới.  Mời các bạn đón đọc Nam Cực Tinh Huy của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Mẹ Ghẻ Con Ghẻ
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Mời các bạn đón đọc Mẹ Ghẻ, Con Ghẻ của tác giả Hồ Biểu Chánh.