Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Làm Lẽ

Tiểu thuyết ngắn đầu tay của Mạnh Phú Tư, đoạt giải Tự lực văn đoàn năm 1939. Mạnh Phú Tư (1913-1959), tên thật là Phạm Văn Thứ, cùng chi với chi của tuyển thủ bóng đá nam quốc gia Phạm Như Thuần, quê ở xã Thanh Lang, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông là một tác giả văn xuôi nổi tiếng trước năm 1945, trong đó tác phẩm tiêu biểu là tiểu thuyết "Làm lẽ" được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Thanh Hà. Ông tiếp tục viết văn, làm báo. Năm 1959, ông mất ở Hà Nội khi đang làm biên tập viên báo "Văn học". Tác phẩm chính: Làm lẽ (1939), Gây dựng (1941), Nhạt tình (1942), Sống nhờ (1942), Một thiếu niên (1942), Người vợ già (1942), ... *** Giải thưởng Tự Lực Văn Ðoàn năm 1939   PHẦN THỨ NHẤT Một buổi trưa nắng gắt, cuối hè. Hình như có bao nhiêu sức nóng, ngày giờ cố hút hết, để sắp sửa sang thu. Trong làng không một tiếng động; mọi vật bị nắng đốt, im lìm trong không khí khó thở. Không một hơi gió. Trên chiếc sân đất nẻ, gồ ghề và rắn cứng, Trác đội chiếc nón chóp rách, khom lưng quét thóc. Nàng phải dển hai bàn chân để tránh bớt sức nóng của sân đất nện. Thỉnh thoảng, nàng đứng ngay người cho đỡ mỏi lưng, rồi đưa tay áo lên lau mồ hôi ròng ròng chảy trên mặt. Chiếc áo cánh nhuộm nâu đã bạc màu và vá nhiều chỗ bị ướt đẫm, dán chặt vào lưng nàng. Cái yếm trắng bé nhỏ quá, thẳng căng trên hai vú đến thì và để hở hai sườn trắng mịn. Mỗi lần Trác cúi hẳn xuống để miết chiếc chổi cùn nạy những hạt thóc trong các khe, cái váy cộc, hớt lên quá đầu gối, để lộ một phần đùi trắng trẻo, trái hẳn với chân nàng đen đủi vì dầm bùn phơi nắng suốt ngày. Dưới mái hiên, ngay gần chái nhà bếp, bà Thân, mẹ nàng, ngồi trên mảnh chiếu rách, chăm chú nhặt rau muống. Bà cầm trong tay từng nắm rau con, vảy mạnh cho sạch những cánh bèo tấm, rồi cẩn thận ngắt lá sâu, lá úa; vạch từng khe, từng cuống tìm sâu. Bà cẩn thận như thế là vì đã hai bữa cơm liền, bữa nào trong bát rau luộc cũng có sâu, và Khải, con giai bà, đã phải phàn nàn làm bà đến khó chịu. Chốc chốc, bà với chiếc khăn mặt đỏ rách vắt trên vai, lau mắt như để nhìn cho rõ thêm. Hết mớ rau, bà mệt nhọc, ngồi ngay hẳn lên, thở hắt ra một hơi dài, đưa mắt nhìn ra sân. Thấy Trác làm lụng có vẻ mệt nhọc, bà động lòng thương, dịu dàng, âu yếm bảo: - Nắng quá thì để đến chiều mát hãy quét con ạ. Tội gì mà phơi người ra thế. Rồi bằng một giọng buồn buồn như nói một mình: - Khốn nạn! Con tôi! Nắng thế này! Trác thấy mẹ ngọt ngào, tỏ vẻ thương mình, trong lòng lâng lâng vui sướng. Nàng cũng dịu dàng đáp lại: - Chả còn mấy, mẹ để con quét nốt. Nói xong nàng lại cúi xuống thong thả quét. Nàng vui vẻ thấy đống thóc gần gọn gàng: nhưng nàng vẫn không quên rằng hót xong thóc lại còn bao nhiêu việc khác nữa: tưới một vườn rau mới gieo, gánh đầy hai chum nước, thổi cơm chiều, rồi đến lúc gà lên chuồng, lại còn phải xay thóc để lấy gạo ăn ngày hôm sau. Song nàng không hề phàn nàn, vì phải vất vả suốt ngày. Những việc ấy, không ai bắt buộc nàng phải làm, nhưng nàng hiểu rằng không có thể nhường cho ai được, và nếu nàng không dúng tay vào tất trong nhà sẽ không được êm thấm, vui vẻ. Quét vòng quanh mấy lần, từng thóc đã dần dần dày thêm, và nhát chổi đã thấy nặng, Trác lấy cào vuôn thóc vào đống. Bà Thân đã nhặt xong ba mớ rau. Bà biết rằng bà đã xem xét cẩn thận lắm, nên bà vừa bới những ngọn rau trong rổ, vừa thì thầm: "Lần này thì đào cũng chẳng có lấy nửa con!" Bà đứng lên mang rổ rau đi rửa. Vì ngồi lâu, nên hai chân tê hẳn, mấy bước đầu bà phải khập khiễng, như đứa bé mới tập đi. Bà cầm chiếc nón rách cạp, đội lên đầu, rồi bước xuống sân. Thấy Trác đặt chiếc cào mạnh quá, bà khẽ nói: - Đưa cào nhẹ chứ con ạ, kẻo nó trật gạo ra. Trác im lặng, không trả lời; nhưng từ nhát cào sau nàng làm theo lời ngay. Tính nàng vẫn thế. Không bao giờ nàng muốn trái ý mẹ, ngay những lúc mẹ bắt làm những việc mà riêng nàng, nàng không ưng thuận. Trác còn nhớ một lần, mây kéo đen nghịt trời, trận mưa to như sắp tới. Rơm rạ, phơi khắp mọi nơi, ngoài sân sau nhà, và cả ở những góc vườn không trồng rau. Nàng vội lấy nạng để đánh đống, mẹ nàng cứ nhất định bắt làm tua để hứng nước ở các gốc cau. Nàng bảo dọn rơm, rạ vào trước, rồi làm tua sau, nhỡ có mưa ngay thì rơm, rạ cũng không bị ướt. Nàng lại nói thêm: "Thưa mẹ, nước thì không cần cho lắm, không hứng cũng được, con đi gánh. Chứ ngần này rơm, rạ ướt thì phơi phóng đến bao giờ cho nỏ". Nhưng mẹ nàng nhất định không thuận: - Cứ nghe mẹ làm tua hứng nước đi đã rồi hãy dọn cũng vừa. Trời này có mưa cũng còn lâu. Kiếm ngụm nước mưa mà uống cho mát ruột. Tội gì ngày nào cũng đi gánh cho u vai lên ấy! Thế rồi bà bắt nàng lấy hai cái thùng sắt tây, hai cái nồi đất và cả chiếc nồi mười để hứng nước. Trác không cưỡng được ý mẹ, cặm cụi làm năm cái tua buộc vào năm gốc cau mang nồi ra đặt. Công việc ấy vừa xong, trận mưa đổ xuống. Bao nhiêu rơm, rạ ướt hết. Trận mưa chỉ độ một lúc, rồi tạnh hẳn. Mẹ nàng đội nón giời râm ra thăm nước mưa. Nhưng mỗi tua chỉ được chừng một bát nước. Bà thở dài: "Rõ chán! Nước mưa chẳng thông tráng nồi, lại ướt mất mẻ rơm". Nghe mẹ nói, Trác chỉ buồn cười, không dám nói gì, e mẹ phật ý. Nàng mang chuyện ấy kể cho mấy bạn gái hàng xóm. Họ ngặt nghẹo cười, nàng như muốn chữa thẹn: "ấy, bây giờ bà cụ già nên đâm ra lẩm cẩm thế đấy! Chúng mình ngày sau biết đâu rồi lại không quá!". Bà Thân đã rửa rau ở cầu ao về. Bà tì cạp rổ vào cạnh sườn, một tay dang ra giữ lấy. Rổ rau chưa ráo nước, hãy còn luôn luôn rỏ xuống gần chân bà, và làm thành một vệt ướt trên bờ hè. Thấy Trác đang khệ nệ bưng thóc đổ vào cót, bà mỉm cười bảo, tựa như nàng hãy còn bé bỏng lắm: - Con tôi! Rõ tham lam quá. Xúc ít một chứ mà bưng cho dễ. Người bé lại cứ mang những thùng nặng như cùm. Nàng thong thả đáp lại: - Không nặng đâu mẹ ạ. Cái thùng bé tý ấy mà. Nàng như quên cả nắng, bức; hốt một lúc đã hết đống thóc. Nàng sung sướng ngồi nghỉ ở đầu hè, cầm chiếc nón lá phe phẩy. áo nàng ướt, lại thêm gió quạt, nên nàng thấy một thứ mát dịu dàng thấm thía cả thân thể, làm da thịt nàng đê mê, như khi ta lẹ làng đưa tay trên tấm nhung. Mấy chiếc tóc mai cứ theo chiều gió quạt bay đi bay lại. Hai má nàng vì có hơi nóng, nổi bật màu hồng, và nét mặt nàng càng thêm xinh tươi. Trác thấy bớt nóng, đứng dậy lồng hai chiếc nồi đất vào quang gánh nước. Chẳng bao giờ nàng phải suy nghĩ mới nhớ ra việc; nàng đã quen rồi. Việc gì phải làm trước, việc gì phải làm sau, nàng biết ngay từ sáng sớm. Và ngày nào cũng hình như chỉ có ngần ấy việc, nên buổi tối, khi nàng đặt mình vào giường, là bao nhiêu công việc đã gọn gàng cả, không một việc gì bỏ sót. Tới sáng hôm sau, lúc gà bắt đầu gáy, nàng thức dậy, những công việc phải làm đã như xếp sẵn trong óc. Trác vừa gánh đôi nồi ra khỏi nhà được một lúc, có tiếng chó sủa. Bà Thân vội chạy ra. Bà Tuân tay cầm một cành rào để xua chó, vừa thấy bà Thân đã cười cười nói nói: - Nào, hôm nay lại ăn rình một bữa đây! Cụ có cho không hay là lại lấy nạng nạng ra. Bà Thân cũng cười một tràng dài: - Chỉ sợ lại chê cơm khê rồi làm khách thôi. Rồi bà vừa mắng con chó cứ dai dẳng sủa mãi, vừa lấy giọng đứng đắn. - Sao lâu nay không thấy cụ lại chơi? Bà Thân đưa tay cầm cái bã trầu đã lia ra tới mép, vứt đi; lấy mùi soa lau mồm cẩn thận, rồi ghé vào tai bà bạn như sắp nói một câu chuyện kín đáo can hệ: - Úi chà! Bận lắm cụ ạ. Cụ cứ xét nhà cụ thì đủ rõ. Công việc là cứ ngập lên tận mắt. Bà vừa nói vừa hoa tay, như để nhời nói thêm dễ hiểu. Bà Thân chưa kịp trả lời, bà ta đã sang sảng: - Hôm nay là đánh liều, sống chết mặc bay, nên mới lại hầu cụ được đấy. Thôi chỗ bạn già cả, mình còn gần gụi nhau lúc nào được lúc ấy. Đến lúc trời bắt tội, nhắm mắt buông xuôi xuống âm ty liệu có gặp nhau nữa không? Bà Thân cảm động vì những câu nói thân mật đó, thỉnh thoảng điểm một câu cười giòn và len thêm những tiếng: "Vâng!... vâng!..." như để chấm đoạn chấm câu cho bà bạn. Bà rủ khách vào nhà. Nhưng khách không nhận lời, nói giải chiếu ngồi ngoài hè cho mát. Bà đi tìm cơi trầu, chìa vôi, rồi ngồi đối diện với khách têm trầu. Bà Tuân hình như có câu nào đã nói ra hết; bà Thân khơi chuyện bằng câu hỏi: - Cụ đã ngả được mấy mẫu rồi? - Chưa được lấy một góc. Năm nay mượn phải anh lực điền làm vụng mà chậm quá. Làm với ăn chán như cơm nếp nát. Mời các bạn đón đọc Làm Lẽ của tác giả Mạnh Phú Tư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bảy Bước Tới Mùa Hè - Nguyễn Nhật Ánh
Bảy Bước Tới Mùa Hè là một mùa hè ngọt ngào, những trò chơi nghịch ngợm và bâng khuâng tình cảm tuổi mới lớn. Chỉ vậy thôi nhưng chứng tỏ tác giả đúng là nhà kể chuyện hóm hỉnh, khiến người đọc cuốn hút từ tựa đến trang cuối cùng, có lẽ chính vì giọng văn giản dị và trong trẻo của Nguyễn Nhật Ánh, và kết thúc thì có hậu đầy thuyết phục. Câu chuyện cho tuổi học trò, đọc xong là thấy ngập lên khao khát quay về một thời thơ bé, với tình thầy trò, bè bạn, tình xóm giềng, họ hàng, qua cách nhìn đời nhẹ nhõm, rộng lượng. Bảy bước tới mùa hè sẽ là món quà mà nhà văn Nguyễn Nhật Ánh dành tặng bạn đọc thân thiết, một lần nữa ông đánh thức “Những năm tháng ấu thơ”, trở lại tuổi học trò đầy nghịch ngợm, trong veo với những bâng khuâng tình cảm “treo ngược cành cây” … Nguyễn Nhật Ánh vẫn dùng cây đũa thần là giọng kể chuyện hóm hỉnh của mình, khiến ai đọc qua cũng thấy xao xuyến với một thưở hồn nhiên cắp sách đến trường. Mời các bạn đón đọc Bảy Bước Tới Mùa Hè của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Cánh Đồng Bất Tận - Nguyễn Ngọc Tư
Cánh đồng bất tận là tên một tập truyện ngắn phát hành năm 2005 của  Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời cũng là tên một truyện trong tập truyện ngắn đó được đăng báo lần đầu cùng năm. Tính đến nay, tập truyện đã được phát hành dưới dạng sách in và sách nói. Một vài truyện ngắn trong tuyển tập đã được chuyển thể thành phim và kịch. Gồm có: Cải ơi Thương quá rau răm Huệ lấy chồng Cái nhìn khắc khoải Nhà cổ Mối tình năm cũ Cuối mùa nhan sắc Biển người mênh mông Nhớ sông Dòng nhớ Duyên phân so le Một trái tim khô... Cánh đồng bất tận Mời các bạn đón đọc ​Cánh Đồng Bất Tận của tác giả Nguyễn Ngọc Tư.
Cho Tôi Xin Một Vé Đi Tuổi Thơ - Nguyễn Nhật Ánh
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm là một trong những sáng tác thành công nhất của ông và nhận được Giải thưởng Văn học ASEAN của năm 2010. Nguyễn Nhật Ánh viết ở mặt sau cuốn sách: "Tôi viết cuốn sách này không dành cho trẻ em. Tôi viết cho những ai đã từng là trẻ em". Trả lời phỏng vấn của báo Người lao động, ông nói "đối tượng cảm thụ mà tôi muốn nhắm tới là người lớn", với Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ ông "cho phép mình mở rộng biên độ đề tài và hình ảnh đến tối đa vì tôi viết về trẻ em nhưng là cho những ai từng là trẻ em đọc". Ông chia sẻ, "tôi muốn người lớn thông cảm với trẻ em hơn". Tác phẩm gồm những câu chuyện nhỏ xoay xung quanh 4 đứa trẻ trong cùng một khu xóm là con Tủn, con Tí sún, thằng Hải cò và thằng cu Mùi. Trong đó, người kể chuyện là cu Mùi dưới hình thức kể song song của "thằng cu Mùi" lúc bé và nhận xét, đánh giá của "ông Mùi" khi đã gần 50 tuổi. Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một  nhà văn  Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày  7 tháng 5 năm  1955 tại huyện  Thăng Bình,  Quảng Nam. Truyện dài, truyện ngắn, thơ và các tác phẩm khác: Thành phố tháng tư (thơ, in chung với Lê Thị Kim, 1984) Trước vòng chung kết (truyện dài, 1984) Cú phạt đền (truyện ngắn, 1985) Đầu xuân ra sông giặt áo (thơ, 1986) Trò chơi lãng mạn của tình yêu (tập truyện, 1987) Chuyện cổ tích dành cho người lớn (tập truyện, 1987) Bàn có năm chỗ ngồi (truyện dài, 1987) Còn chút gì để nhớ (truyện dài, 1988) Bí mật của một võ sĩ (tập truyện, 1989) Cô gái đến từ hôm qua (truyện dài, 1989) Chú bé rắc rối (truyện dài, 1989) Nữ sinh (truyện dài, 1989) Thiên thần nhỏ của tôi (truyện dài, 1990) Phòng trọ ba người (truyện dài, 1990) Mắt biếc (truyện dài, 1990) Thằng quỷ nhỏ (truyện dài, 1990) Hoa hồng xứ khác (truyện dài, 1991) Hạ đỏ (truyện dài, 1991) Bong bóng lên trời (truyện dài, 1991) Bồ câu không đưa thư (truyện dài, 1993) Những chàng trai xấu tính (truyện dài, 1993) Tứ tuyệt cho nàng (thơ, 1994) Lễ hội của đêm đen (thơ, 1994) Trại hoa Vàng (truyện dài, 1994) Út Quyên và tôi (tập truyện ngắn, 1995) Đi qua hoa cúc (truyện dài, 1995) Buổi chiều Windows (truyện dài, 1995) Quán Gò đi lên (truyện dài, 4/12/1999) Những cô em gái (truyện dài, 7/5/2000) Ngôi trường mọi khi Kính vạn hoa (bộ truyện 54 tập, 1995-2002: 45 tập, 9 tập viết thêm sau) Chuyện xứ Lang Biang (bộ truyện 4 phần, 2004-2006) Tôi là Bêtô (truyện, 4/4/2007) Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (truyện, 1/2008) Đảo mộng mơ (truyện, 21/10/2009) Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (truyện dài, 24/10/2010) Lá nằm trong lá (truyện dài, 24/9/2011) Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ (truyện dài, 6/2012) Sương khói quê nhà (tạp văn, 2012) Người Quảng đi ăn mì Quảng (tạp văn, 2012) Ngồi khóc trên cây (truyện dài, 27/6/2013) Thương nhớ Trà Long (tạp văn 2014) Chúc một ngày tốt lành (truyện dài, 6/3/2014) Bảy bước tới mùa hè (truyện dài, 1/3/2015) Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (truyện dài, 28/2/2016) Mời các bạn đón đọc  Cho Tôi Xin Một Vé Đi Tuổi Thơ của tác giả  Nguyễn Nhật Ánh.
Tu Viện Thành Parme - Stendhal
Có những cuốn sách đi vào trong con người chúng ta như một ông khách lầm nhà, vào rồi ra không dấu vết. Lại có những cuốn ta đọc lần đầu không thấy hay mấy, nhưng vẫn cảm thấy có một cái gì khiến chúng ta không đành dứt bỏ, rồi đến một lúc nào đó tìm đọc lại mới thấy sâu sắc, nhất là khi mình đã hiểu biết việc đời chút ít thì càng đọc càng khám phá ra những khía cạnh mới, tuyệt vời… và mình ân hận như đã mất bao nhiêu năm chậm hiểu một người bạn khó tìm thấy trên đời. Tu Viện Thành Parme thuộc loại này. Nói về Tu Viện Thành Parme, nhà văn Paul Morand (1888 - 1976) viết: “Những tác phẩm lớn ngao du trong con người chúng ta, có khi chúng lần lượt biến thành nhiều sách khác nhau, trong lúc chúng ta cũng hóa nên nhiều người, chúng ta đọc Stendhal lúc cuối đời không như đọc ông trong tuổi đầu xuân. Tôi đã phát hiện nhiều “Tu viện” như thế đó, những “Tu viện” ấy đã đi vô định năm mươi năm trong tôi và có lẽ cũng chưa làm trọn cuộc chu du của nó!” Không những đối với một đời người, mà đối với nhiều thế hệ. Tu Viện Thành Parme cũng làm một cuộc hành trình tương tự. Cũng như mấy tiểu thuyết khác của Stendhal, buổi mới ra đời, Tu Viện Thành Parme không được hưởng một số phận tốt đẹp lắm, nó không làm chấn động dư luận, nhưng rồi thời gian và cuộc sống đã công bằng đem lại cho tác giả ánh hào quang thích đáng. Một phần vì Stendhal không viết theo thời thượng, phần khác vì sự phân tích con người rất sâu dưới vỏ ngôn ngữ mộc mạc, hầu như khô khan ở trên cái tầm tiếp thu thông thường của độc giả, ai dù thông minh, tinh tế và chịu khó đi vào chất nội dung mới thấy lý thú. Stendhal thường nghĩ rằng tác phẩm của mình phải mấy chục năm sau người ta mới đánh giá đúng và ham đọc. Thật ra, không phải đợi lâu đến thế. Đối với những ai ý chí lớn, những ai có dụng ý khác đời thì tri kỷ quả có hiếm, nhưng không phải là không có, Tu Viện Thành Parme phát hành đầu tháng từ năm 1839, thì tháng 9, ngày 25, đã có một bài bình luận của Balzac, dài 72 trang, Balzac tuy sinh sau 16 năm nhưng lúc bấy giờ đã lẫy lừng danh tiếng với ba bốn chục tác phẩm và những kiệt tác như Eugénie Grandet (1833), Le Père Goriot (1834) … Balzac nức nở khen Tu Viện Thành Parme và viết một cách kiêu hãnh: “Tu viện chỉ có thể tìm độc giả trong số một nghìn hay nghìn rưỡi người đứng đầu châu Âu. Bởi vậy tất cả những điều tôi sắp nói ra đây là để gửi đến những người trong sạch và cao quý ở nước nào cũng có, như những thiểu số không ai biết đến…”. Mời các bạn đón đọc Tu Viện Thành Parme của tác giả Stendhal.