Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giải Mã Tâm Linh -Sự Sống Sau Cái Chết Linh Hồn - Có Hay Không? - Jeffrey Long, M.D. & Paul Perry

Bằng chứng khoa học thuyết phục nhất về đời sống sau cái chết : "Có đời sống sau cái chết không?"... Bác sĩ chuyên khoa xạ trị ung thư Jeffrey Long lý luận: "Nếu bạn tìm hiểu các bằng chứng khoa học thì câu trả lời ở đây chắc chắn là có. "Nghiên cứu nội dung các trải nghiệm cận tử suốt hàng chục năm qua... ông rút ra kết luận gây nhiều tranh cãi đó." "Cuốn sách giá trị tìm hiểu về trải nghiệm cận tử này trình bày những bằng chứng thuyết phục cho thấy rằng ý thức con người không bị ràng buộc bởi những hoạt động của não bộ." *** Paul Perry là một nhà báo và nhà sản xuất phim tài liệu nổi tiếng. Ông là thành viên của Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Gannett tại Đại học Oregon ở Eugene, Oregon, Mỹ và là Tổng biên tập của tạp chí American Health. Paul Perry từng được Hoàng gia Bồ Đào Nha phong tặng *** Năm 1984, tôi tình cờ đọc được khái niệm về Trải nghiệm Cận tử (TNCT) trong một tạp chí y học nọ. Vài năm sau, tôi lại nghe vợ của một người bạn kể về TNCT khi cô ấy sắp qua đời do phản ứng sốc thuốc trong lúc được gây mê. Hơn mười năm sau, năm 1998, tôi bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này và thành lập Tổ chức Nghiên cứu về Trải nghiệm Cận tử (NDERF: Near Death Experience Research Foundation) và trang web NDERF.org ra đời từ đó. Một trong những mục tiêu của tôi khi thành lập trang web này là thu thập nhiều TNCT rồi tổng hợp lại bằng 1 bảng câu hỏi để dễ phân loại và nghiên cứu từng yếu tố liên quan đến TNCT. Với bảng câu hỏi này, tôi có thể nghiên cứu các yếu tố độc lập trong TNCT hoặc toàn bộ TNCT. Tôi nghĩ rằng mình phải rất nỗ lực mới có thể mong thành công phần nào, cuối cùng hóa ra tôi lại thành công trên mức mong đợi. Trong 10 năm đầu tiên, hơn 1.300 người trải nghiệm TNCT đã dành nhiều thời gian quý báu để tham gia trả lời hơn 100 câu hỏi chi tiết trên trang web NDEFR. Họ là những người đến từ nhiều chủng tộc, tín ngưỡng, và hầu như khắp mọi nơi trên trái đất. Việc có nhiều người sẵn lòng chia sẻ TNCT của mình cùng người khác cho thấy rằng các trải nghiệm này thực sự ảnh hưởng lớn đến từng cá nhân. Họ mô tả trải nghiệm của mình bằng nhiều cách khác nhau, có người cho rằng “không thể nói được” không thể tả được “không bao giờ quên được”, “trên cả tuyệt vời”,... Hơn 95% cảm thấy TNCT của mình là “rất thật”, trong khi những người còn lại thì cho rằng “có thể thật”. Không một ai cho rằng “hoàn toàn không thật”. Một số người cho rằng không những họ đã trải qua những sự kiện rất thật mà còn xem đó là một sự trải nghiệm kỳ diệu trong đời mình. Dưới đây là chia sẻ của một người suýt chết trong một lần tự sát: Tôi cảm thấy bình yên. Không chút đau đớn. Tôi thấy cuộc đời mình tràn ngập tình yêu của Chúa. Tôi không còn chút bận tâm nào với những gì tôi đã làm thậm chí với cả hành động tự sát vừa rồi. Sức mạnh của tình yêu thật sự đã thay đổi hành vi của tôi. Chính hồng ân của Chúa, chấp nhận hoàn toàn, và tình yêu trọn vẹn đem lại niềm vui trong tôi. Tôi tìm được tình yêu trong tôi không chỉ từ ánh sáng của Chúa rọi vào tim tôi, mà tình yêu đó chính là một phần gắn liền con người tôi. Trong tôi tràn ngập tình yêu. Tôi cảm nhận được sự hân hoan trong khoảnh khắc ấy. Tôi không thể diễn tả hết cảm xúc kỳ diệu này. Tôi đã nghe sự mô tả như thế này từ nhiều người có TNCT. Bạn hãy hình dung xem - một trải nghiệm khởi đầu bằng nỗi khiếp sợ khi sự sống bị đe dọa và hóa thành một sự kiện kỳ diệu và bí ẩn? Tôi là một nhà khoa học, và vì thế NDERF của tôi cũng làm việc rất khoa học. Tại NDERF, chúng tôi nghiên cứu tất cả các yếu tố của TNCT nơi hơn một nghìn người khác nhau. Để có được kết luận chính xác chúng tôi luôn tuân thủ nguyên tắc cơ bản của khoa học là: những gì có thật sẽ không thay đổi trong mọi tình huống khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu từ NDERF, có một điều rất đáng lưu ý nơi nội dung TNCT. Những nghiên cứu ở đây cho thấy rằng những gì người ta khám phá qua TNCT về Thượng đế, tình yêu, kiếp sau, những khó khăn trần tục, sự tha thứ, và nhiều khái niệm khác không hề chịu sự tác động của sự thay đổi về nền văn hóa, chủng loài, và tín ngưỡng của từng cá nhân. Đồng thời, những khám phá này không phải là những niềm tin đã tồn tại trước đó, không phải là các giáo điều xưa cũ, hay bất kỳ sự hiểu biết trần tục nào. Trong một thế giới hiện đang tồn tại quá nhiều thứ gây tổn hại đến tâm hồn con người như thế này, khám phá trên quả là một tin tốt lành. Những vấn đề của cá nhân và xã hội mà nhân loại hiện đang phải đối mặt - ma túy, nghiện rượu, trầm cảm, bạo lực, lo lắng, xung đột tôn giáo, phân biệt chủng tộc v.v... - có thể bị ảnh hưởng sâu sắc bởi một trải nghiệm phổ biến và có tác động mạnh như thế. Vì TNCT xảy ra với mọi người trên thế gian, TNCT sẽ là yếu tố tâm linh đưa chúng ta xích lại gần nhau, trải nghiệm này nhắc nhở chúng ta về tính tương tác tâm linh giữa người và người. Ít ra thì tổ chức nghiên cứu NDERF cũng góp phần nâng cao kiến thức của chúng ta về mối quan hệ tâm linh này. Những nghiên cứu của NDEKF cũng rất đáng giá khi nó giúp chúng ta có được sự hiểu biết sâu sắc về những gì sẽ xảy ra khi chúng ta qua đời. Đã từ lâu tôi không còn tin rằng chết là chấm dứt sự tồn tại. Tôi đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu vấn đề này. Tôi được sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa học. Cha tôi là trưởng khoa Dược lý tại Đại học Iowa và đã từng được đề cử giải Nobel. Chính cha tôi và những thành viên khác trong gia đình đã giúp tôi phát huy tối đa niềm đam mê khoa học của mình. Tôi đã vận dụng khoa học để nghiên cứu hơn 1300 trường hợp chia sẻ cùng NDERF, tôi tin rằng với 9 loại bằng chứng được trình bày trong quyển sách này sẽ chứng minh một điểm chung là: có sự sống sau cái chết. Bảng câu hỏi và những tài liệu khác trong sách này đều có trên website NDERF (http://www.nderf.org/afterlife). Bảng câu hỏi này tập trung vào các khái niệm được trình bày trong suốt quyển sách này. Do vậy tôi khuyến khích bạn đọc hết quyển sách này trước khi bạn điền vào bảng câu hỏi. ĐIỀU GÌ XẢY RA TRONG TRẢI NGHIỆM CẬN TỬ Trước khi tiếp tục, tôi cần phải giải thích Trải nghiệm Cận tử là gì. Trải nghiệm Cận tử (TNCT) là những sự kiện xảy ra với một người sắp chết, hoặc chết lâm sàng. Người có Trải nghiệm Cận tử được gọi là các(cận tử nhân". Năm 1975, tiến sĩ Raymond Moddy là người đầu tiên nghiên cứu và mô tả lại một cách khoa học về Trải nghiệm Cận tử trong quyển sách tiên phong trong lĩnh vực này, cuốn Life after Life, sau đó các bác sĩ và các nhà nghiên cứu khác cũng tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hiện tượng này. Không có một định nghĩa nào về Trải nghiệm Cận tử được chấp nhận hoàn toàn. Nghiên cứu của NDERF định nghĩa rõ hai từ “cận tử” và “trải nghiệm”. Tôi cho rằng một người được xem là “cận tử” khi họ có nguy cơ chết nếu sự tổn hại về thể xác của họ không được khắc phục kịp thời. Các cận tử nhân thường rơi vào trạng thái hôn mê và chết lâm sàng, có nghĩa là không còn nhịp tim và hơi thở. Còn “trải nghiệm” phải diễn ra ngay thời điểm họ sắp chết. Ngoài ra, trải nghiệm này cũng phải thật rõ ràng, không phải là những mảnh ký ức được chắp vá rời rạc. Quyển sách này sẽ trình bày kết quả nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu Trải nghiệm Cận tử NDERF. Nghiên cứu này là kết quả của cuộc khảo sát 613 cận tử nhân mới nhất đã điền đầy đủ vào bảng câu hỏi mới nhất của NDERF. Phiên bản này bao gồm rất nhiều câu hỏi được sắp xếp theo cấp độ trải nghiệm TNCT khác nhau. Bảng câu hỏi gồm có 16 câu hỏi về nội dung của sự trải nghiệm và là phương pháp nghiên cứu hợp lý nhất để phân biệt đâu không phải là TNCT và đâu chính là TNCT. Tất cả 613 các cận tử nhân mà tôi sẽ trình bày dưới đây đều có điểm từ 7 trở lên, là số điểm được cho là phù hợp với Trải nghiệm Cận tử. Khảo sát đầu tiên của NDERF nghiên cứu phản ứng của 413 cận tử nhân. Bảng câu hỏi điều tra theo cấp độ này đã không được sử dụng trong lần khảo sát đầu tiên. Không có 2 Trải nghiệm Cận tử nào giống hệt nhau. Tuy nhiên, khi nghiên cứu nhiều Trải nghiệm Cận tử, chúng ta nhận thấy các yếu tố chung thường xảy ra ở TNCT. Những yếu tố này thường xảy ra theo trật tự cố định. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng TNCT có thể có một số hoặc tất cả 12 yếu tố sau: 1. Trải nghiệm thoát xác (OBE): linh hồn thoát ra khỏi cơ thể. 2. Dâng trào cảm xúc. 3. Xuất hiện các tình cảm tích cực mãnh liệt. 4. Đi vào hoặc xuyên qua một đường hầm. 5. Đi vào vùng ánh sáng rực rỡ huyền bí. 6. Gặp các linh hồn khác, các nhân vật huyền bí hoặc người thân và bạn bè quá cố. 7. Cảm giác không gian hoặc thời gian bị biến đổi. 8. Hồi tưởng lại cuộc đời. 9. Bước vào một thế giới thoát tục (“giống thiên đàng”). 10. Có được những hiểu biết đặc biệt. 11. Tiếp cận một ranh giới hay một rào cản. 12. Trở về thể xác dù tự nguyện hoặc không tự nguyện.   Mỗi yếu tố trên đều được mô tả một cách tỉ mỉ qua từng trường hợp cụ thể cũng như tỷ lệ sẽ các cận tử nhân đã từng trải qua yếu tố trên mà tôi đã thu thập qua hơn mười năm nghiên cứu. Mời các bạn đón đọc Giải Mã Tâm Linh -Sự Sống Sau Cái Chết Linh Hồn - Có Hay Không? của tác giả Jeffrey Long, M.D. & Paul Perry.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mộng Kinh Sư - Phan Du
"Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân." - Chỉ một lời điểm chỉ của Trạng Trình đã biến Nguyễn Hoàng đang hoang mang như “chó nhà có tang” thành Chân chủ một phương, vạch đôi sơn hà. Ngôi cổ tự linh thiêng mang tên Linh Mụ đã gắn liền với chín chúa mười ba vua nhà Nguyễn như thế nào? Truyền thuyết về Trích tiên của xứ này không phải ai cũng biết! "Bắc Tuyên phi, Nam Tống thị" - Đặng Thị Huệ dùng nhan sắc khuynh đảo Phủ chúa Đàng Ngoài như thế nào, thì nàng Tống thị Đàng Trong với tuyệt chiêu "vòng kết trăm hoa" hút hồn nam nhân từ nam chí bắc. Hai bên kẻ hô người ứng, nhất tiếu khuynh thành, tái tiếu khuynh quốc, gây nên bao nỗi đoạn trường ra sao? Quyền thần Trương Phúc Loan để sổng một Giáo Hiến, mà di lại cái họa Tây Sơn; Quận công Hoàng Ngũ Phúc bỏ sót Hoàng tôn Dương, nên Gia Long có cơ quật khởi. Bánh xe lịch sử xoay vòng lặp lại thế nào? Mộng Kinh Sư sẽ đem lại cho độc giả câu trả lời đầy đủ! Gói gọn trong hơn 200 trang sách, Mộng Kinh Sư tái hiện những bước hưng vong thăng trầm của dòng họ Nguyễn ở Đàng Trong qua các đời chúa, mỗi chúa với những đặc điểm và công trạng riêng; song song với quá trình hình thành và phát triển của ngôi chùa Thiên Mụ (Linh Mụ) được cho xây cất bởi Nguyễn Hoàng. Tác phẩm ngoài giá trị khảo cứu còn có giá trị lớn về mặt văn học. Một tác phẩm mà những người đam mê lịch sử, những bạn yêu thích tiểu thuyết, những tín đồ của tò mò chủ nghĩa sẽ không thể bỏ qua! *** LINH MỤ TỰ VÀ DÒNG HỌ CHÂN CHỦ PHƯƠNG NAM Khắp cả một vùng Hương Ngự non thanh, nước đẹp, thắng cảnh thực chẳng hiếm gì và chùa chiền không phải là ít ỏi. Trong số trên tám mươi đền chùa có tên tuổi tọa lạc đó đây trong toàn tỉnh, vẫn còn có nhiều danh lam có thể chinh phục được lòng ái mộ và tình lưu luyến của du khách hoặc bằng cảnh trí đặc sắc, hoặc với lối kiến trúc quy mô hay với những kỳ tích về nguồn gốc, chứ không riêng gì Linh Mụ tự. Nhưng dù sao, Linh Mụ tự vẫn chiếm được cái ưu thế trội vượt hơn hết, không những vì cái cảnh trí thơ mộng nơi này, nhưng còn vì một đặc điểm mà các danh lam khác không làm sao có được. Đó là những yếu tố phong thủy của cuộc đất nó chiếm cứ, yếu tố đã tạo nên một liên hệ thiêng liêng, mật thiết và bền bỉ, giữa ngôi chùa với dòng họ chân chủ phương Nam. Số là xưa kia, Tiên Chúa Nguyễn Hoàng, tức Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế (1558 -1613)[1] sau khi vào trấn đất Thuận Hóa - bắt đầu từ tháng Mười năm Mậu Ngọ, tức năm Chính Trị nguyên niên thời Lê (1558), với niềm tin tưởng vững chắc ở sức bảo trợ huyền nhiệm của một dãy Hoành Sơn hùng tráng theo lời truyền bảo của Bạch Vân cư sĩ - tuy lập Dinh ở làng Ái Tử, thuộc huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong (nay thuộc tỉnh Quảng Trị), nhưng cặp mắt yêu chuộng phong thủy của Tiên Chúa lại thường soi rọi địa hình, địa vật khắp cả một vùng Thuận Hóa[2]. Chẳng có núi nào, sông nào, chẳng có những cuộc đất lạ nào mà Tiên Chúa không tìm đến, không thăm dò, vì mục đích chiêm ngoạn cái khí tượng vạn thiên của các nơi danh thắng cũng có, mà phần chính là vì cái chủ đích khám phá những địa thế có khí mạch của núi non ngưng kết, cần cho công cuộc khai cơ, hưng nghiệp. Gót phiếm du của vị chúa phương Nam, một hôm, đã dừng lại trước một ngọn đồi đột khởi giữa một cánh đồng ở thôn Hà Khê, xã An Ninh, huyện Hương Trà[3]. Đồi có hình rất lạ. Giữa khoảng bình địa, nó hiện ra như một con rồng quay đầu nhìn lại dãy núi chính, nơi nó phát xuất. Phía trước, ngay dưới chân đồi, là một dòng sông uốn khúc uyển chuyển, xinh mềm như vòng tay ngọc nữ, và, phía sau, đồi tiếp giáp với một cái hồ, mặt nước phẳng lặng như tờ. Dưới cái nhìn sành sỏi của các nhà địa lý, cảnh trí có cái đặc tính giai thắng này nhất định phải là nơi từng có linh khí ngưng tụ. Tiên Chúa lại tiến lên đỉnh đồi, nhìn ngắm quanh vùng. Trước mắt là cả một bức tranh sơn thủy vô cùng ngoạn mục, huyền ảo chẳng kém gì cảnh sắc trong tranh thủy mặc trên quạt của Mã Viễn đời Tống hay trên lụa của Ngô Đạo Tử đời Đường. Trông về phương nam, một vòng sông thanh tú, và bên kia sông, một ngọn gò thuộc xã Nguyệt Biều, gò Thọ Khang - về sau này được mang tên là gò Thọ Xương hay Long Thọ Cang[4] - nơi mà những canh gà từng được coi như là một trong những yếu tố đã tạo thành cái nguồn thi vị bàng bạc khắp cả một bầu trời Hương Ngự: Gió đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông Linh Mụ, canh gà Thọ Xương[5]. Cùng với gò, một bãi hoang phù sa phô trương cái sức sinh sôi rất mực sung thiệm[6] của loài thảo mộc. Xa hơn là cánh đồng Nguyệt Biều phì nhiêu, êm ả. Trông về phương tây, dòng sông, sau khi vừa rẽ qua một khúc quanh, dàn rộng cõi lòng hầu như mênh mông với mặt nước phẳng lì, bóng bẩy như một bức định kính tráng bằng chất ngọc lưu ly vừa đông lại. Xa xa, án ngữ chân trời, một dãy núi xanh huyền ảo, chạy dài phía sau màn sương thoang thoáng, điểm chuyết, cùng với sông kia, gò nọ, cho cảnh trí nơi này cái vẻ lồng lộng, bao la, sáng lạn và thanh khiết của một cõi trời đã lau sạch bụi trần. Nhưng có thể cặp mắt của vị chân chủ phương Nam đã phải để ý đến một điểm đặc biệt hơn các thức đẹp kết hợp thành cái toàn bộ cảnh trí thơ mộng này. Đó là một đường hào - đào khá sâu - cắt đứt chân đồi tàn nhẫn như dấu vết lưỡi gươm sắc bén của tên đao phủ thiện nghệ còn lưu lại trên cổ tử tù. Bàn tay thô bạo, ngu xuẩn nào đã vô tình làm cái chuyện rất đáng kiêng kỵ về mặt phong thủy đó? Xén ngang chân đồi thì có khác gì là cắt đứt long mạch, làm phân tán cái khí thế của núi non ngưng tụ! Hoặc giả đã có tay tổ nào trong giới phong thủy bày ra cái trò yểm trừ này chăng? Chúa phương Nam liền mở cuộc dò la, thăm hỏi đám bô lão, để tìm hiểu và khám phá cho ra nguyên do. Và quả đúng như điều nghi hoặc của Tiên Chúa, hào đào là nhằm mục đích yểm trừ, và tác giả của cái công trình phá hoại này lại không ai khác hơn là tướng Cao Biền, một tay địa lý đại danh từng có chủ trương triệt tiêu tất cả mọi yếu tố phong thủy có thể giúp cho chân mạng đế vương xuất hiện ở phương Nam.[7] Các vị bô lão hiểu chuyện đã tường trình cùng Tiên Chúa rằng: vì biết được tại đồi này có một nữ thần thường hiện ra, lại xem xét kỹ, thì lòng gò có linh khí đáng ngại, nên Cao Biền đã dùng phép thuật yểm trừ và cho đào hào để dứt tuyệt long mạch. Từ đấy, ngọn đồi vắng bóng nữ thần. Dân làng qua lại đồi này, dù vào lúc giữa trưa đứng bóng hay trong đêm vắng canh khuya, cũng chẳng bao giờ còn được mục kích sự hiển hiện của thần linh như trước. Lạ hơn là cái hồ ở phía sau đồi - về sau được mang tên là Bình Hồ - nước cứ ngày càng đỏ ra như máu[8]. Một hồ máu rõ ràng! Phải chăng là máu của Rồng thiêng? Và như thế rất nhiều năm qua, không ai còn nhắc đến chuyện nữ thần, nhưng rồi, một đêm kia, có đám hành giả, nhân đi ngang qua đồi vào khoảng quá giờ Tý, đã tình cờ trông thấy, dưới bóng trăng khuya mới mọc, một bà lão, tóc và chân mày bạc phơ, ngồi ở chân đồi. Áo dài của bà cụ đỏ chói màu ráng pha, nổi bật trên chiếc quần màu lục rất tươi. Ánh trăng tuy còn lơ mơ, nhưng dường như đã được pha lẫn một nguồn ánh sáng huyền diệu nào đó, để soi tỏ được không những y phục, mà cả cái dáng mạo phúc hậu, trang nghiêm của bà cụ, cùng những đường nét thêu trổ tuyệt mỹ trên đôi hài gấm đế trắng và chiếc nón thúng - cũng cùng một màu trắng - có quai lụa hồng. Bà cụ nhìn vào đường hào, nhìn lên đỉnh đồi, rồi nói lớn, như có ý để những lời tiên tri của mình được lọt trọn vẹn vào tai đám hành giả đã tán loạn cả hồn phách vì cuộc gặp gỡ bất thần và đáng hãi hùng này: “Cao Biền vì ác ý muốn dứt tuyệt long mạch ở phương Nam, nhưng làm sao có thể nghịch lại sự định phận của Thiên Thư. Sơn hà nào có chân chủ nấy. Long mạch tuy bị dứt, nhưng chưa tuyệt. Máu Rồng còn tươi. Một ngày kia chuyện buồn rồi cũng chấm dứt. Bàn tay của chân chủ phương Nam sẽ lấp hào đi để cho linh khí tụ lại, long mạch nối liền. Một con Linh Quy, để được thoát kiếp, sẽ hút sạch máu trong lòng hồ. Nước hồ trong ra, cõi trời Nam càng thêm hưng thịnh, trăm họ vui khúc âu ca.” ... Mời các bạn đón đọc Mộng Kinh Sư của tác giả Phan Du.
Hồng Nhan Thượng Hải - Thời Thanh Xuân - Trương Hiền Lượng & Trần Đan Yến
Hồng Nhan Thượng Hải – Thời Thanh xuân là 2 truyện dài của 2 nhà văn nổi tiếng Trung Quốc – Trần Đan Yến và Trương Hiền Lượng.​ Truyện dài Hồng nhan Thượng Hải (Trần Đan Yến) là một câu chuyện lấy bối cảnh Thượng Hải từ năm 1944 qua lời kể của nhiều người về cuộc đời của Diêu Diêu - ra đời vào mùa hè năm 1944. Diêu Diêu là con gái thứ hai của một ngôi sao điện ảnh nhưng sống hòa đồng với bạn bè và chịu sự giáo dục nghiêm khắc và nóng nảy của mẹ. Cô giống mẹ ở tính muốn có danh tiếng nhưng lại lựa chọn chính trị. Song tiền đồ chính trị của cô luôn gặp khó khăn, trắc trở vì mẹ cô là ngôi sao của giai cấp tư sản vì vậy Diêu Diêu đã phải chịu những hy sinh, mất mát ngay cả những người mà cô yêu thương nhất... Truyện dài Thời Thanh Xuân của nhà văn Trương Hiền Lượng viết về những khoảnh khắc, ký ức và những câu chuyện được định nghĩa là “thời thanh xuân” mà tác giả cũng chính là nhân vật “tôi” đã trải qua, đã cảm nhận được trong thời gian đi cải tạo ở thời kỳ bài trừ phái hữu, cải cách văn hóa của Trung Quốc.​ *** Thưa cụ, cụ có thể kể cho cháu về mùa hè Thượng Hải năm 1944, về những câu chuyện bình thường mà ngày ngày đã xảy ra ở đây. - Tôi tìm đến Ngụy Thiệu Xương, được sinh hạ, lớn lên và gần như cả một đời người đã gắn bó với cái thành phố đông dân nhất này của Trung Quốc. Giờ là mùa xuân, cách năm 1944 phải đến 56 năm rồi, trời mưa và cả Thượng Hải đượm màu xám nhạt, các góc phố có phần tối hơn, giống như tàn thuốc điểm vài chấm đen, bóng những khuông cửa in lên tường mờ nhòa, loang lổ. Những ai chưa quen với Thượng Hải dầm dề mưa xuân thì khó có thể cảm thụ cùng vẻ đẹp mềm mại, mây khói của màu trời mùa này, và tương tự khó lòng thể hội một cái gì đó thương cảm nhè nhẹ ẩn chứa trong hơi mưa ẩm ướt. Mưa rả rích, liên miên, chẳng biết đến lúc nào mới tạnh, và đến lúc nào mới nghe được tiếng sấm đầu xuân. Cụ già Ngụy nhớ như in, thời tiết năm 1944 cũng giống thế này, cụ còn kể chuyện năm 1932, khi người Nhật ném bom Thượng Hải với cảnh tượng ở “Thương vụ ấn thư quán” trên đường Bảo Sơn, thiêu trụi một nhà in và một thư viện lớn nhất Đông Á. Bốn mươi vạn cuốn sách, trong đó có sáu vạn cuốn đặc biệt và toàn bộ số giấy chuẩn bị in sách đều trở thành tro bụi. Trời Thượng Hải ngập trong mưa tuyết, những cánh tuyết màu đen từ Bảo Sơn theo gió mùa đông bắc bay khắp thành phố, rơi xuống, phủ lên áo quần phơi ngoài ban công mọi con đường, nhất là Nam Kinh đông lộ. Ngụy Thiệu Xương có vẻ mỉm cười, thần sắc đổi thay khi kể chuyện cháy sách ở “Thương vụ ấn thư quán”, nhưng khi cụ ngẩng lên, hất mái đầu bạc trắng thì bạn sẽ nhìn thấy một gương mặt gắng gượng, chịu đựng và vô cùng nhẫn nại với dĩ vãng, cụ chẳng cười chút nào, cụ hơi ngạc nhiên vì sao tôi lại muốn biết những gì về năm 1944 ở Thượng Hải. - Dạ thưa, cháu đang viết sách, kể chuyện một người mà năm đó đã sinh ra ở đây, cháu muốn biết những tình tiết chân thực khó có thể tìm thấy trong sử sách, tân văn báo chí, thậm chí cả các truyện ký hay hồi ức của các bậc vĩ nhân, bởi vì nhân vật của cháu là cô gái rất bình thường. - Tôi trả lời và cảm thấy, cô ta như hạt bụi dính trên pho sách sử, nhưng tôi muốn hạt bụi đó vĩnh viễn không bị quét đi, rơi mất. ... Mời các bạn đón đọc Hồng Nhan Thượng Hải - Thời Thanh Xuân của tác giả Trương Hiền Lượng & Trần Đan Yến.
Thiên Thần Nổi Loạn - Anatole France
“Thiên thần nổi loạn” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của A. France, thời kỳ sau này. Arcade một thiên thần hộ mệnh giáng phàm, trên con đường  tìm kiếm tri thức khoa học và chân lý đã đảo tung một trong những thư viện tư lớn nhất Châu Âu. Anh cùng các đồng bạn thiên thần xây dựng một đạo quân “ô hợp bát nháo” cùng hướng đến một mục tiêu chống lại thiên giới và hệ thống tín điều Ki tô thủ cựu; chống lại sự giam hãm, áp đặt tư tưởng của Thiên Chúa; phá vỡ xiềng xích niềm tin để nhận thức được thăng hoa.  “Thiên thần nổi loạn” như muốn đưa một thông điệp với loài người bé nhỏ: đức tin là cần thiết, nhưng đấy phải là một đức tin được thanh lọc bằng những hoài nghi khoa học, bằng tinh thần thánh thiện, bằng chủ nghĩa nhân văn, bằng một thời đại với sự cải cách phục hưng mới. Với kiến thức uyên bác về lịch sử Pháp, lịch sử tôn giáo, đặc biệt am hiểu về văn chương, hội họa xuyên suốt từ cổ đại, trung cổ, phục hưng tới cận đại, với văn phong trác tuyệt, A.France đã khéo léo lồng ghép cái triết lý hoài nghi của mình vào tiểu thuyết, đưa học thức uyên bác kết hợp với nghệ thuật đả kích châm biếm đưa trí tưởng tượng kết hợp với hiện thực xã hội, đưa biên niên sử tôn giáo kết hợp với phóng tác văn chương, đưa Dionysus gặp gỡ các thánh Tông Đồ, đưa những linh vật giao du cùng ngoại đạo, tất cả những điều ấy đã đưa ông thành một nghệ sĩ bậc thầy về kể chuyện, đưa đến cho người đọc những áng văn tuyệt vời, làm người đọc đắm say. *** Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người.  Anatole France sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học). Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực".. A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. Một số tác phẩm của tác giả Anatole France: Sách Của Bạn Tôi Không Đời Nào! Bông Huệ Đỏ Thiên Thần Nổi Loạn Các Hung Thần Lên Cơn Khát ... Mời các bạn đón đọc Thiên Thần Nổi Loạn của tác giả Anatole France.
Vịnh Tokyo - Anthony Grey
Tiểu thuyết lịch sử về các biến động tháng Bảy năm 1853, tàu chiến Mỹ làm chấn động nước Nhât, và gần đưa hai nứơc mỹ nhật tới chiến tranh *** Anthony Gray OBE là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, bao gồm một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. *** Nửa đêm, 7 tháng Bảy năm 1853 MỒ HÔI TRẮNG XOÁ TÚA RA TỪ LƯNG CON ngựa trạm gần như đang hấp hối khi chàng kị sĩ đội chiếc mũ trụ samurai thúc mạnh cựa giày vào nó và phóng như tên bắn vọt qua chiếc cầu vồng vắt qua vòng thành thứ ba phía trước toà thành trì đồ sộ của Shogun ở Yedo. Tới trước hàng lính gác mặc áo giáp chống giáo chắn ngang cánh cổng sắt nặng nề chàng kị sĩ hô vang: - Chokurei - da! Kinkyu Chokurei - da! Chàng rút ra từ dưới vạt áo chiến bào một cuộn giấy nhỏ được buộc bằng những sợi dây mạ vàng và giơ cao lên quá đầu. Những người lính gác đội mũ sắt mặc áo giáp bằng da và tre đã dợm chĩa mũi dáo về phía chàng, nhưng tiếng hô của chàng trai trẻ có vẻ là một samurai đã khiến họ dừng tay. Những lời chàng vừa hô là mật hiệu báo rằng chàng mang theo một "tin khẩn" do Hoàng đế gửi tới từ cung điện ẩn dật của Người ở Kyoto, cách Yedo ba trăm dặm về phía Tây nam. Và nữa, khi chàng đến gần hơn thì họ nhìn rõ ngôi sao sáu cánh, phù hiệu của thị tộc chàng được thêu bằng chỉ vàng trên vạt áo chiến bào jimbaory chỉ rõ rằng chàng là một nhà quý tộc ở đẳng cấp cao nhất. - Hayaku! Hayaku! Mau lên! Chàng khẩn thiết quát những tên lính gác đang lóng ngóng mở cổng và cố kìm con ngựa đang lảo đảo. Khe hở giữa hai cánh cổng vừa đủ rộng chàng đã thúc cho con ngựa chồm vọt qua hàng lính gác bên trong. Chàng dễ dàng vượt qua vài trạm gác nữa, mỗi lần lại hô vang và vung cao cuộn giấy, tận tới khi lên tới bậc thềm đá dẫn lên cửa chính của toà lâu đài. Đúng lúc chàng quăng người xuống khỏi yên thì con ngựa gục xuống, mép sùi bọt máu. Nhưng chàng samurai không hề liếc mắt nhìn lại, chàng nhảy vội lên bậc thềm đá, đôi song kiếm nhô ra khỏi tấm thắt lưng màu tro nhạt bó chặt lấy tấm kimono. Chàng giơ cuộn giấy có đóng triện của Hoàng đế cho viên chỉ huy đội vệ binh và ngay lập tức được đưa vào. Vừa đi vừa chạy, chàng vượt qua dãy hành lang lợp mái vòm cao, hai bên tường được dát toàn vàng lá. Nhảy ba bậc một, chàng đi sát vào bức tường trên có những hoạ tiết miêu tả cảnh những con chim huyền thoại đậu trên cành trúc và những rặng anh đào núi. Phía trên đầu, hàng xà gồ bằng gỗ được phủ lớp sơn mài hai màu đen và óng ánh vàng đỡ lấy mái vòm được trang trí tuyệt đẹp, nhưng chàng samurai trẻ tuổi chẳng hề liếc mắt đến tất cả những cái đó và chỉ dừng lại để hỏi những tên lính gác mặc đồng phục đứng dọc hành lang xem phải đi lối nào rồi lại hối hả bước đi. Khi đến trước cánh cửa của phòng Hội đồng Tướng quân, chàng tháo mũ trụ và rút cuộn giấy ra khỏi vạt áo chiến bào. Vẻ mặt khẩn cấp chàng trình bày với viên thị vệ trưởng của Hội đồng. Ngay sau đó chàng tháo zori và quỳ tiến vào trên đôi chân trần. Hàng trăm cặp mắt đổ dồn đầy dò hỏi khi chàng bước vào gian sảnh với vẻ mặt xanh tái. Tất cả bọn họ đều mặc những tấm áo daimyo rực rỡ, đó là những quận công đứng đầu các lãnh địa trên khắp đất nước Nhật Bản, tất cả bọn họ quỳ quanh một chiếc bệ cao đặt chính giữa. Shogun ngồi trên chiếc bệ đó. Các daimyo chỉnh tề trong bộ triều phục gồm áo choàng vai, quần lụa buông lá toạ, đầu đội mũ sơn mài sáng lấp lánh, họ kinh ngạc nhìn chàng quý tộc áo quần xộc xệch. Khi chàng phủ phục, đầu cúi xuống tận nền nhà họ mới nhìn thấy búi tóc trên đầu chàng cũng dính đầy bụi bặm và bê bết mồ hôi. Trước khi phủ phục chàng đã tháo hai thanh kiếm ra khỏi thắt lưng áo choàng và đặt chúng cùng chiếc mũ trụ xuống tâm tatami bên mình. Cũng giống như quần áo chàng, hai thanh kiếm cùng chiếc mũ trụ đều bê bết bùn đất. Shogun ngồi trên bục cao, im lặng nhìn và chờ đợi. Ông ngồi xếp bằng, tấm áo choàng bằng lụa xám khiến cho ông có dáng vẻ của Đức Phật. Mặc dù ông vẫn ngồi rất thẳng, nhưng gương mặt gầy của ông vẫn có một vẻ xanh xao khác thường và những giọt mồ hôi ướt đẫm trên trán cho thấy ông tựa như đang bị bệnh nặng. Sự xuất hiện đột ngột của chàng trai đang thở hổn hển kia đã gây nên một chớp nhoáng cảnh giác trong đôi mắt của Shogun, nhưng ông đã nhanh chóng lấy lại được vẻ bình thản và khẽ quay đầu lại. Tiếp nhận hiệu lệnh đó, một vị trong hàng các daimyo đang quỳ trước bệ bèn nhổm lên và cúi đầu xuống thật thấp hướng về phía Shogun. Rồi vẫn tiếp tục cúi đầu thật thấp ông ta lùi tiếp ra xa để người đưa tin trẻ tuổi có thể lách vào quỳ xuống và tự giới thiệu. - Tâu Đại Tướng quân, tôi là Tanaka Yoshio, hoàng tử thuộc thị tộc Kago, tỉnh Kumatore - Chàng samurai nói giọng sang sảng - Tôi được uỷ nhiệm mang tới trình Đại Tướng quân một tin thượng khẩn từ Đức Đại Hoàng đế ở Kyoto. Mời các bạn đón đọc Vịnh Tokyo của tác giả Anthony Grey.