Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Pháo Hiệu Đỏ

Tác phẩm Pháo Hiệu Đỏ khắc họa tinh thần chiến đấu của những người lính Liên Xô trong cuộc chiến tranh Vệ quốc, thông qua một trận đánh chiếm trường học với quân Đức. Cuốn Pháo Hiệu Đỏ này gồm hai truyện vừa: Pháo hiệu đỏ Gia đình đại úy Đôrôkhin *** Lời tác giả Các bạn thân mến! Cuốn truyện vừa nhỏ bé này đã được viết vào lúc nghỉ ngơi giữa các trận đánh hồi cuối năm 1942: thời kỳ gian khổ của cuộc chiến tranh mà đất nước chúng tôi đã tiến hành để chống chủ nghĩa phát-xít Đức. Tôi đã phục vụ trong một sư đoàn đã tham gia phòng thủ Moskva, về sau sư đoàn ấy đã tham gia cuộc phản công của quân đội chúng tôi đánh đuổi bọn xâm lược Hitler. Trong truyện vừa này, tôi cố kể lại về chủ nghĩa anh hùng của những người lính Xô-viết đã chiến đấu trên những phòng tuyến ngoại thành Moskva. So với hồi bấy giờ thì trong truyện vừa này không có điều gì đặc biệt và khác thường cả, truyện này chỉ nêu lên việc xảy ra bình thường ngoài mặt trận. Trong những ngày ác liệt này, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Xô-viết ở ngoài tiền tuyến cũng như ở hậu phương là một biểu hiện chung của mọi người và ở khắp nơi; hồi đó, chiến công là tiêu chuẩn trong tư cách con người. Nhân dân Xô-viết thuộc mọi lứa tuổi, mọi nghề nghiệp đều đứng lên chiến đấu chống quân thù. Đảng cộng sản đã đoàn kết toàn dân – và chúng tôi đã chiến thắng! Tôi vô cùng sung sướng là cuốn sách này của tôi sẽ được các bạn đọc, tôi hy vọng như thế. Chúng tôi, những người Xô-viết, hiểu rất rõ thế nào là chiến tranh, chúng tôi nhớ lại mọi điều: những trận ném bom thường xảy ra, những đám cháy của thành thị, tình trạng tâm thần căng thẳng tột độ, những hy sinh, những mất mát họ hàng thân thích… Và vì thế, hỡi các bạn thân mến, chúng tôi rất khâm phục tinh thần dũng cảm của các bạn! Nhân loại sẽ không bao giờ quên chiến công huy hoàng của các bạn, những người Việt Nam gan dạ, tự hào và tha thiết yêu tự do. Còn kẻ thù của các bạn, kẻ thù độc ác trong nhiều năm ngập ngụa trong những tội ác đẫm máu, thì nhất định sẽ bị đánh bại. Cũng như chủ nghĩa phát-xít Đức đã bị đánh bại – điều đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Cuối cùng thì thắng lợi bao giờ cũng thuộc về chính nghĩa, tự do và dũng cảm. Hỡi các chiến sĩ Việt Nam, chúng tôi hết lòng ủng hộ các bạn! Georgy Beryozko *** Đúng 17 giờ 30, trung úy Gorbunov dẫn quân mở đợt tấn công, và để chấp hành mệnh lệnh, trung úy vừa chiến đấu, vừa lao vút đến rìa phía đông của làng. Một bộ phận những xạ thủ của anh đã nằm trong những chiến hào phủ băng mà bọn Đức bỏ lại. Gorbunov vừa bắn tiểu liên vừa chạy đến ngôi trường đen sẫm. Ngọn lửa chập chờn chiếu sáng gian phòng trống, ngổn ngang những gạch vỡ. Gorbunov dừng lại và ngừng bắn. Anh nghe ở phía sau lưng có tiếng chân nện thình thịch và hơi thở hồng hộc của những người đang chiến thắng. Các chiến sĩ dùng báng súng mở toang những cánh cửa và lần lượt chiếm lớp này đến lớp khác. Tiếng hô “xung phong” đã ngừng bặt, và trung úy cất cao giọng khản đặc ra lệnh bắn ba phát pháo hiệu trắng. Theo mệnh lệnh đã quy định thì đó là dấu hiệu chiến thắng của anh. Những chiếc pháo hiệu bay vút lên bầu trời, và bây giờ thì chính Gorbunov phải chờ tín hiệu. Pháo hiệu đỏ ở hướng tây-nam sẽ phải báo cho anh biết về cuộc tấn công chung đã bắt đầu. Gorbunov nhận được lệnh yểm hộ cuộc tấn công của nhóm quân chủ lực có nhiệm vụ đánh chiếm, còn sau đó thì sẽ hợp nhất với nhóm đó để tiêu diệt quân thù. Mệnh lệnh rõ ràng và ngắn gọn, như mọi mệnh lệnh xuất sắc khác. Các chiến sĩ bố trí trong trường học. Họ nạp lại đạn, làm huyên náo, ăn tuyết – một sự khích động lớn đang nung nấu trong lòng họ. Sức mạnh đáng sợ của lòng căm thù dữ dội đã làm cho họ vùng lên, và chỉ vừa mới đây thôi, họ đã chạy trên lũy đất băng giá được những ánh lửa chói lòa bùng lên soi sáng. Nảy sinh từ ý chí muốn sống, sức mạnh đó đã làm tiêu biến nỗi lo sợ chết, và giờ đây sức mạnh đó vẫn đang tìm lối thoát. Tròng trắng của những cặp mắt dữ tợn ánh ngời lên trên những khuôn mặt đen sạm và tím lại vì băng giá. Hơi tỏa ra từ những cái mồm mở rộng, bay lơ lửng trên đầu. Gorbunov đứng giữa lớp vừa thét vừa ra lệnh. Qua lỗ thủng to tướng trên tường do đạn đại bác đã xuyên qua, nom thấy rõ mảnh trời trăng dày đặc sương mù. Những viên đạn sáng rực vút bay trong không trung màu lam nhạt. Gorbunov đi đến gần lỗ thủng, áp mình vào tường và nhìn ra ngoài. Ở phía trước, khoảng chừng một trăm rưởi thước, bọn Đức đang ở trên bờ cao của dòng mương xói phân cách làng với trường học. Chúng ẩn nấp trong những ngôi nhà gỗ đen ngòm, phủ đầy tuyết; ở hầm nhà thì chúng đặt những khẩu đại liên. Những nòng súng không nom thấy từ đó chĩa thẳng đến trường học và các chiến hào… Đằng sau ngôi nhà đó, mờ mờ hiện lên một dải rừng xanh phủ tuyết, giống như một đám mây đen sa xuống. Ở phía ấy, trong lòng sâu của đám mây đen kia, đáng lẽ phải lóe sáng lên ánh chớp của mũi tấn công chủ lực, nhưng dải rừng lúc đó thật là yên tĩnh và bí ẩn. Thỉnh thoảng những chiếc pháo sáng treo lơ lửng trên hàng tiền duyên tuyến phòng ngự của địch. Ánh sáng không sinh khí tỏa xuống mương xói, và Gorbunov nom thấy rõ rệt ở đáy mương xói một thành giếng phủ đầy băng, những lối mòn in hằn trên tuyết, những xác chết đã biến dạng tựa hồ như những vết mực nhòe. Ở đằng xa trên chân trời, một cái ấp đang cháy. Ngọn lửa vàng khè, hầu như bất động, le lói sáng trong màn đêm sâu thẳm và giá lạnh của tiết tháng giêng. Gorbunov vuốt mặt, sờ thấy trên má một thỏi băng con. Anh rứt nó đi và cảm thấy ran rát đau. Té ra là khi tấn công, anh bị xây xát mặt mà không biết. Anh lấy lòng bàn tay thu nhặt tuyết có lẫn cả gạch và áp vào má. Tuyết nhanh chóng tan ra. Trung úy nhìn bàn tay vấy bẩn nước đen đen, nghĩ rằng cần phải băng má lại, nhưng ngay lập tức, anh đã quên bẵng điều đó. - Trung úy đâu? – một giọng khản đặc thét lên trong bóng tối. Gorbunov nhận ra Medvedovsky, tiểu đội trưởng. - Có chuyện gì thế hở? – trung úy thét lên và chỉ đến bây giờ anh mới nhận thấy là mình luôn mồm thét to, mặc dù chẳng cần phải thét nữa. - Báo cáo đồng chí trung úy, các chiến sĩ hỏi, cớ sao bọn ác ôn kia được ngồi trong nhà sưởi ấm, còn chúng ta thì giẫm chân trong băng giá. - Củng cố vị trí rồi chứ? – cố kìm mình, trung úy hỏi khẽ. - Báo cáo có! – tiểu đội trưởng gào to. - Việc gì anh phải thét lên thế? – Gorbunov nói. - Tôi không thét ạ! – tiểu đội trưởng gào to. - Củng cố rồi, thế là được! – Gorbunov đáp. Anh cảm thấy nóng và dựng những vành tai của chiếc mũ lông lên. Khí phách hiên ngang vừa vui vẻ vừa dữ dội lạ lùng vẫn còn sôi nổi trong tâm hồn anh. Trong giây lát, một ý nghĩ điên rồ thoáng hiện trong óc trung úy: không chờ tín hiệu, cứ dẫn quân tấn công đánh chiếm làng mà không cần sự chi viện của ai cả. Một cảm giác tinh nghịch đã thôi thúc anh, giống như cảm giác của con bạc gặp vận đỏ đang đặt món tiền cái tăng gấp đôi. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, không lôi thôi gì cả; và hơn nữa với lực lượng nhỏ bé mà anh hiện có trong tay thì cuộc tấn công vào một vị trí đã được củng cố chắc chắn sẽ thất bại thảm hại. - Hãy quan sát, – trung úy nói. – Có lẽ là chúng ta sẽ sưởi ấm cho đến tảng sáng. Các chiến sĩ túm tụm lại. Trong góc, những chiếc áo dài ngụy trang của họ ánh lên màu trăng trắng. Sau giờ phút căng thẳng đến kiệt lực của trận tấn công, giờ đây mọi người đều muốn ăn và hút. Họ gặm lương khô, và những ánh lửa thuốc lá lập lòe trong bóng tối. - Nó xông vào tớ, – Lugovykh thét to, anh ta là một nông dân mặt chữ điền, râu ria xồm xoàm, quê ở Ngoại Ural, – nhưng chính cu cậu thì lại sợ quá nên khẩu súng trường run rẩy trong tay. Tất nhiên là tớ chẳng bỏ lỡ cơ hội… - Tớ lễ phép bảo nó: “Đồ chó đẻ, đầu hàng đi!” còn nó thì đưa tay lấy lựu đạn. Tớ liền nói: “Tùy ngài thôi…” Dvoeglazov không nói hết câu và nhún vai. - Cậu bắn chứ? – Lugovykh thét to. - Nếu kẻ thù không hàng thì người ta diệt nó, – Dvoeglazov nói. - Đúng thế! – Kochesov gào lên. – Tớ cũng làm như thế. Kochesov quê ở Baku, anh là một người xà ích có đôi vai rộng, vạm vỡ như ông hộ pháp, anh thở hồng hộc và chậm rãi đảo qua đảo lại cặp mắt tròn, tựa hồ như cặp mắt người say rượu. Vừa ngắt lời nhau vừa tranh nhau nói, các chiến sĩ kể lại trận đánh mà họ đã chiến đấu rất giỏi. Họ cảm thấy sung sướng vì họ còn sống và được thấy quân thù tháo chạy khỏi họ. Sự gần gũi của đồng đội giờ đây đã đem lại cho họ nỗi lòng khoan khoái rõ rệt. Việc cùng nhau chịu đựng nguy nan và cùng nhau vui hưởng thắng lợi đã xóa bỏ mọi điều không thích nhau giữa người này với người khác mà trong những hoàn cảnh khác thì có thể xảy ra. Vì bị kích động nhiều nên họ chửi rủa và đùa cợt lẫn nhau. Gorbunov gọi trung sĩ Rumyantsev đến chỗ mình. Một vệt xám rời khỏi tường và bò trên sàn. Trung sĩ đứng sau lưng Gorbunov. Ngoái lại, trung úy thấy khuôn mặt sạm đen với cái mũi hếch và đôi mắt ti hí tươi cười. - Cảm ơn, trung sĩ, – Gorbunov nói. – Anh không bị thương chứ? - Còn sống! – với một vẻ ngạc nhiên vui vẻ, Rumyantsev trả lời. Gorbunov mỉm cười nhìn trung sĩ. Chính anh ta, Rumyantsev, người đầu tiên len lén bò đến hầm súng máy, liệng vào đấy một quả lựu đạn, và khi bọn Đức sống sót chạy thục mạng, thì anh đã hét to đến nỗi mọi người đều nghe được: “Nào, các cậu ơi! Bọn phát-xít trong tay chúng ta rồi!” - Còn sống, – Gorbunov lặp lại, tỏ vẻ tán đồng, dường như chính điều đó là công lao chủ yếu của cá nhân trung sĩ. – Cừ lắm! Rumyantsev thích người chỉ huy của mình. Giờ đây anh đặc biệt khoái trá thấy nét mặt trông nghiêng của trung úy với gò má cao, cái mũi to và đôi môi mỏng. Trong sự nghiệp đầy nguy hiểm lớn lao ấy mà họ cùng nhau thực hiện, đời sống của mỗi người tùy thuộc không những vào sự khéo léo hay may mắn của cá nhân, mà còn vào điều những người khác đã xử sự và hành động như thế nào. Sau trận đánh thắng lợi, Rumyantsev cảm thấy một niềm tin vô hạn đối với trung úy. Anh cho là cái may mắn riêng của mình trong một chừng mực nào đó cũng là nhờ những hành động khéo léo của người chỉ huy. Anh lúng túng lặng thinh, không tìm được lời diễn đạt lòng biết ơn và khâm phục của anh. - Còn sống! – anh nhắc lại một lần nữa với giọng biết ơn. Trung úy giao cho một người chỉ huy cấp dưới của anh theo dõi xem ở hướng tây-nam pháo hiệu đỏ có xuất hiện không. Anh bảo Rumyantsev đi theo và ra đi xem xét trường học. Bước ra cửa thì hai người gặp Masha Ryzhova. - Chào đồng chí trung úy! – Masha nói khẽ, giọng hầu như là trẻ con. – Có gì mới không ạ? - Không, – Gorbunov nói. - Khó khăn lắm mới lần đến chỗ đồng chí được, – Masha nói. - Cô ta thì dù khó khăn đến mấy đi nữa, bao giờ cũng vẫn lần đến được cả! – Rumyantsev nói to. Cô gái thở dài, cất mũ và lắc đầu giũ làn tóc rối. Dưới ánh trăng lờ mờ, Gorbunov thấy khuôn mặt tròn trĩnh của cô với đôi mắt sâu trong bóng màu lam đẹp một cách lạ lùng. Cũng như mọi người trong đơn vị, anh tự hào về người nữ y tá của mình. Nhưng Masha là một cô gái trẻ măng, nên Gorbunov cho rằng anh có thể hỏi cô những điều mà không bao giờ anh hỏi người đàn ông. - Thế nào, chị đi đến đây có sợ không? – anh niềm nở nói. - Mọi người đều hỏi tôi như thế, – Masha nói. – Khoảng không quanh tôi thì rộng và nhiều, tôi chỉ chiếm một chỗ không lớn lắm ở trong đó. Thế thì vì sao đạn lại cứ phải nhất thiết trúng vào tôi? - Viên đạn là đồ ngốc, – trung úy âu yếm nói. - Đúng thế, – Rumyantsev bật cười. - Tôi chỉ phải băng cho ba người, – Masha nói. – Thiệt hại chỉ có thế thôi. - Ivanovsky thế nào? – trung úy hỏi. - Sẽ khỏi thôi, – Masha đáp. - Tội nghiệp, anh chàng thật không may, – Gorbunov nói. Chính trị viên Ivanovsky bị thương lúc mới bắt đầu tấn công. - Mệt kinh khủng, – Masha phàn nàn. - Thế thì chị hãy nghỉ đi, – trung úy nói. Gorbunov và Rumyantsev lần theo cầu thang bằng đá có tay vịn bị sập xuống, leo lên tầng hai. Trong gian phòng mà họ bước vào, có lẽ trước đây là thư viện của nhà trường. Sách nằm hàng đống trong góc, phủ đầy tuyết từ ngoài trời bay vào, Những tờ giấy bị xé ra nổi lên lờ mờ màu lam nhạt trên nền nhà đen thẫm. Gorbunov cúi xuống nhặt một quyển sách, Anh đọc trên trang bìa: – “Gogol. Taras Bulba”. Trung úy nhặt một quyển sách khác: “Jules Verne. Tám vạn dặm dưới nước”. - Sách hay đấy, – anh nói với Rumyantsev, rồi lấy tay áo phủi lớp sương muối trên bìa và để sách lại chỗ cũ. Trong khung cửa sổ hình chữ nhật tràn ngập ánh trăng, hai chiến sĩ đã đặt khẩu súng liên thanh. Chiếc bàn dài trắng xóa lạ thường vì bị phủ lớp sương muối. Gorbunov nói chuyện với các chiến sĩ, rồi đi tiếp. Trong một lớp học bên cạnh còn giữ được hai tấm các tông treo trên tường, trên đó có dán những tranh vẽ của học sinh. Trên một mẩu giấy con, có những chiếc phi cơ kỳ lạ đang bay; những bông hoa với tràng cân đối hướng về phía người xem. Những con người với những cặp chân quẹo đứng bên cạnh những ngôi nhà bé tí, đẹp đẽ, và mặt trời tua tủa những gai, hệt như một con nhím, chiếu sáng họ từ trên bầu trời quang mây. Sương muối bám trên những nếp cong của tờ giấy, trên những góc gãy của tấm các tông. - Thật giống hệt như cháu Lena nhà tôi đấy, – Rumyantsev thốt lên. – Con gái của tôi, cũng là nữ họa sĩ cơ đấy. - Chúng nó vẽ tuyệt thật! – Gorbunov nói tin tưởng. Anh đã hai mươi bốn tuổi, chưa vợ. Nhưng đứng trước những tranh vẽ mà trên đó có ghi tên họ của các tác giả theo đủ mọi hướng “Vitya Pogorelov, lớp II”, “Zoya Surovtseva, lớp I”, “Dusya Pyatakova, lớp I”, “S. G. Lukashin, lớp II”, “Nina Volkova, lớp II”, trung úy cảm thấy nếu anh không phải là bố của những đứa bé ấy, thì cũng là người anh cả của chúng. Anh khâm phục chúng, với tư cách một người bà con gần gũi nhất. Và với tư cách là một người bà con, anh cảm thấy rất hài lòng với ý nghĩ là chính anh cùng với các chiến sĩ của mình đã trả lại trường học cho bé Nina Volkova. Bọn Đức đã đuổi các em đi khỏi nơi này, đã phá phách thư viện và làm bẩn các lớp học, – còn trung úy, trong khi đánh đuổi bọn Đức đi, anh đã làm một công việc thật là thiêng liêng. Anh đã làm cho chính nghĩa được thắng lợi. Ý nghĩ đó nảy ra sau trận đánh, dường như là một phần thưởng vì đã trải qua những trận thử thách đầy gian khổ. Chính ngay trong trận chiến đấu, trong tiếng nổ ầm ầm của kim loại, trong đám khói thuốc súng thơm thơm, trong hoạt động căng thẳng đến tột độ, anh cảm thấy hình như chỉ có những cái gì đang diễn ra chung quanh mới có ý nghĩa mà thôi. Khi tiếng súng tiếng đạn đã ắng lặng thì tất cả những điều gì đã bị lãng quên giờ đây lại lơ mơ hiện ra trong trí nhớ, lần lượt điều nọ nối đuôi điều kia, dường như trở lại với cuộc sống, cuộc sống một lần nữa đã giữ gìn được. Gorbunov nhớ lại rằng anh làm nghề khí tượng và tốt nghiệp trường đại học một thời gian không lâu trước chiến tranh, rằng mẹ anh, Natalia Sergeevna Gorbunova, đang ở Saratov, rằng chị anh đã lấy chồng và em anh đi bộ đội. Anh buồn nhớ những đồng chí đã hy sinh trong chiến đấu và hỏi xem quân bưu đã đưa thư đến chưa. Anh thấy đói và phái người đi hỏi xem bao giờ thì người ta sẽ đưa cơm nước đến. Ý thức về ý nghĩa cao cả và tính chất chính nghĩa của cuộc chiến đấu mà anh đang tham gia, đã đem lại cho lòng anh một niềm kiêu hãnh tràn đầy. Cũng như mọi quân nhân khác, trung úy không đánh giá cao những người đàn ông ở lại hậu phương, nhưng thỉnh thoảng anh cũng thương hại nghĩ đến họ. Những người đó thì không bao giờ được biết nỗi hân hoan mà hiện giờ Gorbunov đang cảm thấy khi nhìn vào những tấm các tông của học sinh. Gorbunov đứng ngắm tranh vẽ trong vài giây, rồi nhanh nhẹn bước đi, dường như có một sức mạnh kỳ diệu nâng anh lên. Anh đi qua những chốn quê hương thân mến mới giành giật lại được trong tay quân cướp nước bằng một trận chiến đấu ác liệt. Anh cảm thấy mình là người bảo vệ cho những người yếu đuối – cho Gogol, Jules Verne, Nina Volkova, những người sẽ trở lại đây, theo sau các chiến sĩ của anh. Anh là một người đem lại hạnh phúc. Đi qua dãy hành lang ngổn ngang những bàn học, Gorbunov bước vào gian phòng có treo những giá trống không trên tường. Anh là người giải phóng, và ngọn gió chiến thắng đã thổi xốc anh tiến lên. Trung úy lấy chân đá mạnh vào cái ống của chiếc mặt nạ Đức đề phòng hơi độc, cái ống ấy chạm vào tường kêu loảng xoảng. Trong lớp rơm trải trên sàn, thấy lấp lánh sáng những vỏ đồ hộp. Cửa phòng bên cạnh đã đóng chặt, và trung úy mở toang cửa ra. Gian phòng ở góc tràn ngập ánh sáng xanh lam. Ngay đối diện cửa, một người cao, có râu, mặc áo vét-tông đen, đứng áp sát tường. Đầu của người đó ngoẹo ra sau, mặt ngửa lên, và hai mắt sợ hãi sáng lên nhìn chằm chằm những người đang đi vào. Gorbunov suýt nữa thì kêu lên: “Anh làm gì ở đây thế?”, nhưng nghẹn lời và nghiến chặt quai hàm. Hai chân không giày của người đó lơ lửng trên sàn. Một cái khung ảnh bằng gỗ dán có đường chạm trổ, nằm gọn trong bàn tay duỗi nắm chặt, chắc là nó bị giật ra trong giây phút giãy giụa cuối cùng của người đó để tìm chỗ bấu víu. Một sợi dây điện mảnh choàng qua cổ, chạy thẳng lên trần nhà. Các cửa sổ đều không có kính, và tuyết phủ lên tấm vải trải giường nhàu nát, lên bàn, lên áo của người bị xử giảo. Gorbunov và Rumyantsev tháo dây thòng lọng cho cái thi hài nặng nề, cứng đờ như một tấm gỗ, rồi khiêng đặt lên giường. - Chắc là thầy giáo… – Rumyantsev thốt lên. - Vâng, – trung úy nói. Trời bỗng sáng bật hẳn lên. Ngọn lửa xanh nhạt của chiếc đèn dù Đức chiếu sáng gian phòng. Tròng trắng lồi ra của cặp mắt đùng đục như thủy tinh trên mặt cụ già, lấp lánh lên, dường như trong giây lát sức sống đã sáng lên. Trong chiếc khung gỗ dán mà cụ giáo viên không muốn rời ra, có tấm ảnh một cô bé đeo hai chiếc nơ trên mái tóc. - Đồ quỷ sứ! – trung sĩ cau có lầu bầu. Hai người đi ra và lặng thinh bước xuống bậc cầu thang. - Chắc là cháu gái của cụ, – trung sĩ phỏng đoán. Gorbunov hình dung thấy cụ giáo viên già vùng vẫy đôi tay, quào bấu trên tường cố giữ cho thân hình không rơi vào cõi chết. - Có thể là thế, – trung úy nói lạnh lùng. Anh cảm thấy nghẹn lời, khó nói về cụ già bị hành hạ. Trong trận đánh gần đây, Gorbunov đã tự tay mình bắn chết một tên lính phát-xít. Nhớ lại điều đó, anh thấy nhẹ nhõm hơn trong lòng. Anh đi đến gần người quan sát đang đứng cạnh lỗ thủng ở tường. Chẳng hiểu vì sao Gorbunov cảm thấy là hình như ngay bây giờ anh sẽ ra lệnh tấn công. Anh khát khao được trả thù ngay lập tức, trả thù một cách đầy đủ. - Báo cáo đồng chí trung úy, không có pháo hiệu đỏ, – người quan sát báo cáo. - Anh xem kỹ rồi chứ? – Gorbunov hỏi. Và cả hai người nhìn về hướng tây-nam, về phía dải rừng xa xăm, phủ đầy tuyết, dải rừng bí ẩn và đen sẫm, giống như một đám mây dông. Mời các bạn đón đọc Pháo Hiệu Đỏ của tác giả Georgy Beryozko.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bước Chân Thiên Thần
Nhà văn Karen Kingsbury sinh năm 1963. Bà là một tiểu thuyết gia người Mỹ, sinh ra ở Fairfax, Virginia. Hiện tại bà đang sống ở Tennessee cùng chồng và các con. Là tác giả của nhiều câu chuyện truyền cảm hứng rất được yêu thích của Mỹ. Hơn 25 triệu bản các cuốn sách đạt giải thưởng của bà đã được in. Thông tin tác phẩm: Tyler Ames là một cầu thủ ném bóng chày đầy tài năng, người đã lựa chọn từ bỏ tất cả - từ việc học đại học cho đến cô bạn gái Sami để theo đuổi sự nghiệp bóng chày chuyên nghiệp. Tuy nhiên chấn thương nghiêm trọng trong trận đấu quyết định sự nghiệp của Tyler đã khiến anh mất gần như mọi thứ. Anh bị sa thải khỏi đội bóng của mình – điều đồng nghĩa với việc mất đi lý tưởng sống bấy lâu, không có tiền phẫu thuật, không thể trả tiền nhà, không còn đồng đội hay bất kì người bạn nào để có thể xin sự giúp đỡ, Tyler như rơi vào tận cùng của sự tuyệt vọng. Một thời gian sau, Tyler làm lao công ở nhà hưu trí Merrill Place. Tại đây, anh làm bạn với một bà cụ tên là Virginia, người đã nhầm tưởng anh thành con trai của bà. Tyler quyết định đóng vai và trò chuyện cùng bà cụ, giúp cho sức khoẻ của bà cụ được cải thiện, khiến mọi người xung quanh rất ngạc nhiên và vui mừng, đặc biệt là người chủ của nhà hưu trí cũng như con gái bà. Tyler cũng liên lạc với Sami trên Facebook. Hai người gặp nhau, tại đây cô mới biết sự thật là Tyler đã bị loại khỏi đội ngay sau chấn thương. Gặp nhau, trò chuyện và rồi tạm biệt nhau trong đắng cay, khi những hiểu lầm đã được sáng tỏ thế nhưng những bức tường ngăn cách họ vẫn còn tồn tại. Khi thế giới xung quanh quay lưng với bạn, khi chỉ còn một mình, tâm hồn bạn không có một phút giây yên ổn. Chúa, Thượng đế, thiên thần, bất cứ ai…họ có nghe lời cầu xin của bạn để giúp bạn vượt qua thử thách này? Xen lẫn giữa các sự kiện là sự can thiện tế nhị và bí mật của hai thiên thần Beck và Ember. Một nhóm các thiên thần trên thiên đường được lập ra để giúp đỡ những người con của Chúa. Mỗi nhân vật trong cuốn Bước chân Thiên Thần đều mang theo thông điệp về sự cố gắng, nỗ lực không từ bỏ dù hoàn cảnh có tồi tệ thế nào. Một cuốn sách không dễ quên bởi vì thông điệp của nó có thể an ủi tâm hồn bạn! *** Yêu gửi Donald Anh có nhận thấy cách mà thời gian đang trôi nhanh dần? Kelsey đã kết hôn được hai năm và Tyler đang ở giai đoạn nước rút đến kỳ tốt nghiệp đại học. Chẳng phải Chúa của chúng ta rất thành tín? Không chỉ những đứa con của chúng mình, mà cả gia đình mình còn được Ngài dẫn dắt đến nơi mà Ngài muốn. Em yêu cái bảng hiệu treo trong bếp nhà mình: “Tôi không được sinh ra ở miền nam, nhưng tôi đã đến đây nhanh nhất có thể”. Không có gì chân thực hơn ngôi nhà mới, và cuộc sống mới của chúng mình ở Nashville. Vẫn rất rõ ràng là Chúa muốn chúng mình ở đây. Nó không chỉ giúp cho nghiệp viết của em và việc được ở gần những bộ phim và âm nhạc Thiên Chúa giáo - mà còn cho các con của chúng mình, và cả chúng mình nữa. Em yêu cách anh bắt đầu trở nên tích cực hơn trong đoàn mục sư của em trong thời gian này và giúp đỡ các con thu hẹp khoảng cách giữa tuổi thiếu niên và tuổi vị thành niên. Giờ anh đã đi dạy và huấn luyện trở lại, chúng ta đều đang ở đúng nơi Chúa muốn. Cảm ơn anh vì đã kiên định, mạnh mẽ, tốt bụng và tử tế. Hãy nắm tay em và đi cùng em qua những khoảng thời gian sắp tới - những buổi tốt nghiệp, trưởng thành và già đi. Mọi thứ đều có thể nếu anh bên cạnh em. Hãy cùng nhau vui đùa, cười vui, hò hát và nhảy múa. Và chúng ta sẽ cùng nhìn các con tung cánh bay xa. Chuyến đi đó sẽ thật là ngoạn mục đến tuyệt vời. Em cầu mong điều đó tồn tại lâu dài cho đến những năm đầu bạc răng long. Đến khi đó, em sẽ tận hưởng việc không phải lúc nào cũng biết nơi mình kết thúc và anh bắt đầu. Em luôn luôn và mãi mãi yêu anh. --- Mến gửi Kyle Kyle, con đã trở thành một phần vô cùng quan trọng trong gia đình chúng ta. Con bây giờ và mãi mãi là con của bố mẹ, chàng trai mà Chúa đã dành cho con gái chúng ta, người đến mức chúng ta đã cầu nguyện và hi vọng và đã nói chuyện với Chúa. Con có trái tim đẹp đẽ ở nhiều mặt: cách con trân trọng những khoảnh khắc giản đơn và cách con là người tốt bụng mà không từ ngữ nào diễn tả được. Con thấy điều tốt trong con người ta và trong những tình huống và con tìm được cách để luôn dâng vinh quang đến Chúa. Mẹ thích nhìn con dẫn dắt Kelsey, trưởng thành cùng con bé trong niềm tin và cuộc sống và theo đuổi những giấc mơ của mình. Mẹ luôn kính nể sự thông thái mà con đã biểu lộ, vượt xa tuổi của con. Con là một tấm gương cho các con trai của chúng ta và là một hiện thân về cách một người chồng yêu thương vợ mình. Cảm ơn con vì điều đó. Dù vậy thì, mẹ vẫn ấn tượng về cách con ngắm Kelsey yêu quý - như thể là không có gì và không có ai trên thế giới này tồn tại ngoài con bé. Trong mắt con khi đó là hình ảnh của tình yêu. Đó là một khoảng thời gian đẹp, con và Kelsey cùng tham gia trong các sự kiện của mẹ, rồi dự án nhạc Thiên Chúa đơn ca đầu tiên của con thành hiện thực. Kyle à, khi Chúa đưa con từ sân khấu này qua sân khấu khác - sử dụng chất giọng tuyệt vời của con để làm vinh quang Ngài và dẫn dắt những người khác yêu quý Chúa - mẹ cầu nguyện rằng con sẽ luôn nhìn Kelsey theo cách con nhìn con bé ngày hôm nay. Chúng ta cảm ơn Chúa vì con, và chúng ta mong đợi những khoảng thời gian tươi đẹp sắp tới. Luôn yêu con! --- Thương gửi Kelsey Con gái quý báu của mẹ, mẹ cảm thấy rất hạnh phúc cho con và Kyle. Những giấc mơ của con về diễn xuất và ca hát cho Chúa Jesus trở nên rõ ràng, nhưng dù vậy thì chính là trái tim đẹp đẽ của con đã định nghĩa con người con một cách tốt nhất. Mẹ chưa từng thấy con hạnh phúc đến vậy, và mẹ luôn hướng về con và Kyle như là minh chứng cho sự thành tín của Chúa. Giờ đây, khi hai con đang hướng đến tương lai mà Chúa đã sắp đặt, khi hai con đang theo đuổi những giấc mơ và tỏa sáng rực rỡ cho Ngài trong tất cả những gì mà các con thực hiện, thì chúng ta sẽ ở đó vì cả hai con. Chúng ta sẽ cầu nguyện cho các con, tin tưởng ở các con và ủng hộ các con hết mình. Chúng ta cũng chúc mừng cho cuốn sách đầu tiên của con và Kyle, Sự theo đuổi: Khi Chúa viết nên câu chuyện cổ tích của bạn! Mẹ cầu mong cuốn sách đó sẽ đến được với thế hệ tương lai vì Chúa. Giờ đây, với cuốn sách đó và cùng với dàn âm nhạc của Kyle và sự diễn xuất của con, không còn giới hạn nào khi Chúa sử dụng hai con nữa. Trong khoảng thời gian đó, con vẫn sẽ luôn ở trong trái tim mẹ. Mẹ yêu con, con yêu. --- Thương gửi Tyler Thật khó mà tin được rằng con đã học đến năm thứ ba đại học, và sẵn sàng cho khoảng thời gian tới của những thử thách và những chuyến thám hiểm. Ngắm nhìn con trên sân khấu trong khoảng thời gian gần đây luôn là một trong những điểm sáng trong cuộc đời mẹ. Mẹ có thể tưởng tượng được hình ảnh ông của con đang dõi theo từ một nơi đặc biệt trên thiên đường. Ông sẽ ngồi ở hàng ghế trước nếu có thể, ngay cạnh bố con và mẹ. Nhưng có lẽ thời điểm mẹ yêu thích nhất là khi đọc bức thư điện tử từ một cô bạn của con. Cô bé nói mình đã đi du học nước ngoài một thời gian. Khi cô ấy trở lại, thì khoa đã khác trước. Tốt hơn. Tinh thần mạnh mẽ hơn. Cô ấy nói rằng không mất quá lâu để cô ấy nhận ra sự biến đổi là nhờ con. Chúa đã dùng con theo một cách thật tuyệt, Ty. Có nhiều khoảng thời gian thú vị trước mắt, mẹ khó mà đưa hết chúng vào được. Nhưng khi những giấc mơ của con được bộc lộ ra, chúng ta sẽ ngồi ở hàng ghế đầu và cổ vũ nhiệt tình trong khi ngắm nhìn chúng xảy ra. Hãy tin vào Chúa, con trai. Hãy tỏa sáng vì Ngài! Mẹ yêu con. --- Thương gửi Sean Mùa thu năm nay con hướng tới Đại học Liberty với giấc mơ được tham gia đội bóng bầu dục. Trong chuyến đi hướng đến thời khắc này, con vẫn đặt Chúa lên hàng đầu. Chúng ta rất tự hào về con vì điều đó. Chúa sẽ ban phúc cho con bởi cách mà con đã thành tín với những điều nhỏ nhặt. Chúa có một kế hoạch tuyệt vời cho con. Sean, con luôn luôn có thái độ tốt nhất, và giờ đây - kể cả khi thời điểm này khá khó khăn - con vẫn giữ được thái độ tốt đó. Hãy mừng vui, Chúa nói với chúng ta như vậy. Hãy thành thật. Hãy là người có chí khí. Tiếp tục làm việc, tiếp tục thúc đẩy, tiếp tục tin tưởng. Hãy lên giường mỗi tối và biết rằng con đã làm tất cả những gì có thể để chuẩn bị cho mình vì cánh cửa của Chúa sẽ mở ra trong những ngày sắp tới. Con là một món quà quý giá, con trai à. Mẹ yêu con. Hãy tiếp tục cười vui và tìm kiếm điều tốt đẹp nhất của Chúa. --- Thương gửi Josh Bóng đá là điểm khởi đầu khi con từ Haiti đến nhà mình, và bóng đá đã tạo nên một phần lớn cuộc sống của con. Mẹ chưa từng có giây phút nào nghi ngờ rằng con sẽ chơi bóng đá ở đội I NCAA[1], nhưng được nhìn thấy điều đó xảy ra là một trong những niềm vui lớn nhất của mẹ. Giờ đây mẹ cầu nguyện rằng con sẽ tiếp tục đi theo Chúa tại Đại học Liberty trong môn bóng đá và bóng bầu dục, Ngài sẽ tiếp tục dẫn dắt con để những bước đi của con luôn bám sát những bước chân của Ngài. Có điều này chúng ta biết: luôn có khả năng là con sẽ chơi thể thao đối kháng ở mức độ cao hơn. Chúa sẽ sử dụng con cho những điều lớn lao, và mẹ tin rằng Ngài sẽ đặt con lên bục cao để làm điều đó. Hãy tin tưởng mạnh mẽ vào Ngài, và lắng nghe lời thì thầm của Ngài để con có thể nhận ra hướng đi nào phù hợp với chính mình. Mẹ rất tự hào vì con, con trai. Mẹ sẽ luôn luôn cổ vũ cho con ở khu vực biên. Hãy đặt Chúa lên hàng đầu trong cuộc sống của con. Mẹ luôn yêu con. --- Thương gửi EJ EJ, thật khó tin là con đã bắt đầu học đại học! Bố mẹ rất vui vì con đỗ trường Đại học Liberty khi Sean quyết định chuyển qua học tại đây. Đó là trường đại học tốt nhất thế gian! Khi con bắt đầu khoảng thời gian này, mẹ rất vui vì con biết bố mẹ yêu con đến nhường nào, và bố mẹ tuyệt đối tin tưởng vào những kế hoạch mà Chúa dành cho con. Với những cơ hội mới mở ra trước mắt con, hãy dõi theo Chúa và con sẽ luôn luôn có đầy khả năng như bây giờ đây. Mẹ trông chờ vào những điều lớn lao từ con, và mẹ biết rằng Chúa cũng mong chờ như vậy. Mẹ rất vui vì con là một phần của gia đình ta - luôn luôn và mãi mãi. Cảm ơn vì trái tim san sẻ của con, EJ. Mẹ yêu con nhiều hơn con biết. --- Thương gửi Austin Austin, mẹ chỉ có thể nói rằng mẹ rất đỗi ngạc nhiên về sự nỗ lực của con trong năm học vừa qua. Con là một nhà lãnh đạo đấy, Austin. Mọi người đều đi theo tấm gương của con và đúng thế, mọi người sẽ muốn có con. Các ngôi trường sẽ muốn có con. Nhưng sau cùng mẹ cầu mong con ghi nhớ rằng con chỉ mạnh mẽ như sự tin cậy của con vào Chúa. Chỉ dũng cảm như sự kiên trì của con vào đức tin của Ngài. Câu chuyện của con là chuỗi những phép màu và chương tiếp theo cũng sẽ như vậy - mẹ tin là thế. Trong khoảng thời gian đó, bố và mẹ sẽ ở hàng ghế đầu tiên để cổ vũ cho con. Mẹ cầu mong Chúa sẽ cho con bục cao tuyệt vời nhất khi con phục vụ Ngài. Bầu trời là giới hạn, Aus. Giấc mơ của con là do con chọn lấy. Mẹ cảm ơn Chúa vì con, vì phép màu của cuộc sống của con. Mẹ yêu con, Austin. --- Và kính gửi Thượng Đế toàn năng, tác giả của sự sống Ngài đã và đang ban những phước lành này cho con. Mời các bạn đón đọc Bước Chân Thiên Thần của tác giả Karen Kingsbury & Nguyễn Thế Hiền (dịch).
Bộ Tột Cùng Hạnh Phúc
BỘ TỘT CÙNG HẠNH PHÚC là thiên sử thi về xã hội Ấn Độ phi lý tân thời: hỗn loạn, mâu thuẫn, bạo lực, bất công, điên rồ và vô lý, nó vừa là một chuyện tình bi thương vừa là lời phản kháng quyết liệt. Giọng văn của Roy khi tỉ tê, khi lớn tiếng, khi nghẹn ngào, và có khi với cả tiếng cười, cùng với thủ pháp khéo léo Roy đã dệt nên những câu chuyện đan xen về đẳng cấp và tôn giáo, về bản sắc giới tính và xung đột chính trị - Nhân vật chính là những thân phận bị hủy hoại, thế giới quan tan vỡ, những con người bên lề xã hội đang cố tìm cho một chỗ đứng. Cuốn tiểu thuyết tuy viết về hiện thực bất ổn, nhưng lại đem cho người ta những hy vọng về tình yêu, và những ngày đen tối nhất rồi cũng sẽ qua đi, ngày mai bao giờ cũng tới, tình yêu sẽ đến với những ai vẫn hy vọng dù đã từng thất vọng, vẫn tin tưởng dù từng bị phản bội, vẫn yêu thương dù từng bị tổn thương.  *** 'Bộ tột cùng hạnh phúc' và mặt tối của Ấn Độ "Bộ tột cùng hạnh phúc" là thiên sử thi về những mặt trái của xã hội Ấn Độ thời hiện đại: hỗn loạn, mâu thuẫn, bạo lực, bất công và vô lý. Tác giả Arundhati Roy (sinh năm 1961) là nhà văn, nhà hoạt động chính trị, xã hội tích cực người Ấn Độ. Tiểu thuyết đầu tay của bà The God of Small Things ra mắt năm 1997, giành giải Booker, đưa tên tuổi Roy nổi tiếng trên toàn thế giới. 20 năm sau, bà cho ra mắt cuốn tiểu thuyết thứ hai Bộ tột cùng hạnh phúc. Tiểu thuyết mới được NXB Hội Nhà văn và Tao Đàn phát hành tại Việt Nam, qua bản dịch của Thiên Nga.  Bộ tột cùng hạnh phúc là câu chuyện trải dài trong nhiều thập kỷ, với bối cảnh chính diễn ra ở Delhi và Kashmir (Ấn Độ). Tác phẩm thể hiện một giai đoạn đen tối và bạo lực của lịch sử Ấn Độ hiện đại, từ cải cách ruộng đất, vụ việc đốt cháy tàu Godhra năm 2002, cuộc nổi loạn Kashmir. Truyện chứa đựng những câu chuyện lớp lang, đan xen về tôn giáo, đẳng cấp, bản sắc giới tính, xung đột chính trị - cõi trần thế trần trụi và đầy khổ đau. Tác phẩm xây dựng hệ thống nhân vật phức tạp, hầu hết đều là những người bị hủy hoại, tổn thương, những con người bên lề xã hội đang cố tìm bình yên cho mình.  Anjum là một người phụ nữ chuyển giới, sợ hãi cuộc sống, vì thế cô tìm sự an bình bên những người chết - trong nghĩa trang. Ban đầu cô trải thảm nằm cạnh những ngôi mộ, dần dà dựng lên một nếp nhà che nắng che mưa, rồi lại nối thêm vào những căn phòng và đặc biệt căn phòng nào cũng có một hoặc hai ngôi mộ. Căn nhà chắp vá của Anjum trở thành Nhà trọ Jannat - Thiên đường. Lâu dần Nhà trọ Jannat trở thành tụ điểm cho dân hijra (người đã qua phẫu thuật để chuyển giới tính từ nam thành nữ) và những người lạc lối. Nơi ở tồi tàn ở chốn không ai muốn tới đã trở thành mái ấm không những cho Anjum mà còn cho vô số những con người khác cũng chịu số phận bất hạnh không kém cô, trong đó có Tilo. Tilo là một sinh viên ngành kiến trúc, cô có mẹ nhưng không được nhận mẹ, cô yêu Musa, một chiến binh giải phóng Kashmir, nhưng không được bên anh. Tilo nhặt được (hay đúng hơn là bắt cóc) một em bé bị bỏ rơi và đó cũng chính là mảnh ghép gắn cô vào cuộc đời của Anjum, một người “phụ nữ” luôn mong mỏi có một đứa con cho riêng mình. Những mảnh đời bị xã hội xô đẩy, giày xéo níu lại với nhau, nương tựa vào nhau. Những người lạ trở thành bạn bè, bạn bè trở thành gia đình. Họ tạo nên một chốn “thiên đường” cho riêng mình - nơi tột cùng hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên mà tiểu thuyết được đánh giá là thiên sử thi về Ấn Độ tân thời. Tác phẩm soi tỏ những mặt tối của đất nước đông dân thứ hai thế giới: những vụ bạo động, bạo loạn do xung đột sắc tộc, tôn giáo với chủ nghĩa dân tộc cực đoan; sự bất bình đẳng giới qua các vụ giết chóc, tra tấn, cưỡng hiếp phụ nữ; chênh lệch đẳng cấp; nghèo đói, thất nghiệp khắp nơi... Giọng văn của Roy khi tỉ tê, khi lớn tiếng, khi nghẹn ngào, và có khi ngập tràn tiếng cười. Với thủ pháp khéo léo, bà đã nhặt những mảnh vụn, ghép thành một bức tranh lớn lao với những gam màu đối chọi của hiện thực bất ổn, xã hội rối ren nhưng vẫn đem tới những hy vọng về tình yêu và hạnh phúc. Ra mắt năm 2017, Bộ tột cùng hạnh phúc đã đạt một số thành tựu nhất định. Tác phẩm lọt vào danh sách rút gọn giải thưởng Hindu 2017, đề cử giải Manbooker 2017, vòng chung kết Giải thưởng Sách Quốc gia 2018. *** “Bộ tột cùng hạnh phúc”: Thiên sử thi về Ấn Độ tân thời Phải đến hai mươi năm sau khi ra mắt tiểu thuyết đầu tiên, nhà văn Arundhati Roy mới dồn toàn lực cho ra cuốn tiểu thuyết thứ hai - Bộ tột cùng hạnh phúc (Tao Đàn và NXB Hội Nhà văn ấn hành). Tác phẩm được giới phê bình hết mực ca ngợi. Có thể xem Bộ tột cùng hạnh phúc là thiên sử thi về Ấn Độ tân thời: hỗn loạn, mâu thuẫn, bạo lực, bất công, điên rồ và vô lý. Chuốt những sợi tơ vò số phận của những con người bên lề xã hội, Arundhati Roy đã khéo léo dệt nên những câu chuyện lớp lang đan xen về đẳng cấp, tôn giáo, bản sắc giới tính, xung đột chính trị - cõi trần thế trần trụi và đầy khổ đau. Ấn Độ dưới ngòi bút của Roy không chỉ là một quốc gia với vốn văn hóa lâu đời, đặc sắc; một vùng đất hoang sơ với cảnh quan ngoạn mục, những công trình nguy nga tráng lệ; chốn hoa lệ với những cô gái, chàng trai xinh đẹp khoác tấm áo sặc sỡ mà đó còn là đất nước của chênh lệch đẳng cấp, xung đột tôn giáo, bạo động chính trị, kỳ thị giới tính... Những mặt tối của đất nước lớn thứ 7 về diện tích, đứng thứ 2 về dân số được Roy không ngần ngại soi tỏ trong tác phẩm của mình: Đó còn là nơi những người thuộc tầng lớp tiện dân sẽ chỉ được làm những công việc tay chân rẻ mạt, bẩn thỉu, các tầng lớp trên chạm vào họ sẽ bị ô uế. Những con người "lệch lạc" giới tính bị khinh rẻ đến cùng cực. Bạn có thể bị buộc tội giết bò đầy oan trái và bị hành hạ không thương tiếc. Bạn cũng có thể bị đối xử tệ bạc hay thậm chí mất mạng vì thứ tôn giáo bạn tôn thờ khác những người còn lại... Bộ tột cùng hạnh phúc có lượng nhân vật đồ sộ. Hết thảy đều là những thân phận bị hủy hoại với thế giới quan tan vỡ, những con người bên lề xã hội đang cố tìm một chốn “thiên đường” cho bản thân mình. Họ là những hijra (bán nam bán nữ), người nghiện, gái mại dâm, người Hồi giáo, trẻ mồ côi, chiến binh, quân phiến loạn... Nổi bật lên nhất là cuộc đời của hai “nữ” chính. Anjum, một người phụ nữ chuyển giới, sợ hãi cuộc sống, vì thế chị tìm sự an bình bên những người chết - trong nghĩa trang. Ban đầu chị trải thảm nằm cạnh những ngôi mộ, dần dà chị dựng lên một nếp nhà che nắng che mưa, rồi lại nối thêm vào những căn phòng và đặc biệt căn phòng nào cũng có một ngôi mộ (hoặc hai). Căn nhà chắp vá của Anjum trở thành Nhà trọ Jannat - Thiên đường. Lâu dần Nhà trọ Jannat trở thành tụ điểm cho dân hijra và những người lạc lối. Nơi ở tồi tàn ở chốn không ai muốn tới đã trở thành mái ấm không những cho Anjum mà còn cho vô số những con người khác - cũng chịu số phận bất hạnh không kém chị, trong đó có Tilo - nữ chính thứ hai. Tilo là một kiến trúc sư, cô có mẹ nhưng không được nhận mẹ. Tilo nhặt được (hay đúng hơn là bắt cóc) một em bé bị bỏ rơi và đó cũng chính là mảnh ghép gắn cô vào cuộc đời của Anjum, một người “phụ nữ” luôn mong mỏi có một đứa con cho riêng mình. Những mảnh đời bị xã hội xô đẩy, giày xéo níu lại với nhau, nương tựa vào nhau. Những người lạ trở thành bạn bè, bạn bè trở thành gia đình. Họ tạo nên một chốn “thiên đường” cho riêng mình - nơi tột cùng hạnh phúc. Giọng văn của Roy khi tỉ tê, khi lớn tiếng, khi nghẹn ngào, và có khi ngập tràn tiếng cười, cùng với thủ pháp khéo léo, bà đã nhặt những mảnh vụn tản mác, ghép thành một bức tranh lớn lao với những gam màu đối chọi của hiện thực bất ổn, xã hội rối ren nhưng vẫn lại đem cho người ta những hy vọng về tình yêu và hạnh phúc. Những ngày đen tối nhất rồi cũng sẽ qua đi, ngày mai xán lạn bao giờ cũng tới, tình yêu sẽ đến với những ai vẫn hy vọng dù đã từng thất vọng, vẫn tin tưởng dù từng bị phản bội, vẫn yêu thương dù từng bị tổn thương. Arundhati Roy (sinh năm 1961) là nhà văn, nhà hoạt động chính trị, xã hội tích cực người Ấn Độ. Bà nằm trong top 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2014. Cuốn tiểu thuyết đầu tay The God of Small Things xuất bản năm 1997 đã giành giải Booker và giúp Arundhati Roy trở nên nổi tiếng toàn thế giới. Sau đó, bà dành toàn bộ thời gian cho các hoạt động chính trị, xã hội cùng các tác phẩm phi hư cấu. QUỲNH YÊN *** Đến giờ huyền diệu, mặt trời đã lặn nhưng ánh sáng chưa tắt, từng đàn dơi gỡ mình khỏi đám cây đa trong khu nghĩa địa lâu đời rồi dạt qua thành phố tựa khói. Khi bầy dơi đi, đàn quạ trở về. Tiếng chúng huyên náo về nhà cũng không sao khỏa lấp được cảnh im ắng còn lại khi đàn chim sẻ biến đi, cùng lũ kền kền lưng bạc lâu đời, kẻ canh giữ người chết hơn trăm triệu năm nay đã bị xóa sổ. Kền kền chết vì nhiễm độc diclofenac. Thứ aspirin dành cho bò, cho gia súc uống để giãn cơ, dịu đau và tăng sản lượng sữa, phát tác - phát tác rồi - thành chất độc thần kinh ở loài kền kền lưng bạc. Mỗi con bò hay trâu cho sữa được ngơi sức nhờ hóa chất chết đi đều thành mồi độc cho kền kền. Khi gia súc biến thành những cỗ máy chế biến bơ sữa tốt hơn, khi thành phố ăn nhiều kem, bánh quy bơ, bánh xốp, kẹo sô cô la hơn, khi họ uống nhiều sữa lắc vị xoài hơn, thì cổ kền kền bắt đầu gục xuống như thể chúng đã mệt và đơn giản là không còn tỉnh táo được nữa. Dãi nhễu xuống từ mỏ thành chòm râu bạc, rồi từng con một trên cành rơi rụng xuống đất, chết. Không mấy ai nhận thấy lũ chim già thân thiện ra đi. Còn quá nhiều thứ khác để trông chờ. Mời các bạn đón đọc Bộ Tột Cùng Hạnh Phúc của tác giả Arundhati Roy & Thiên Nga (dịch).
Bãi Hoang
JEAN-RENÉ HUGUENIN VÀ BÃI HOANG Một con ong chết. Nắng xế qua triền cửa sổ. Mùa hè đổi hướng. Cummings chết: tôi không buồn. Hemingway, Blaise Cendrars, Hermann Hesse, Faulkner chết: tôi không buồn. Một con ong chết: tôi buồn lắm. Jean-René Huguenin chết: tôi buồn lắm. Anh mới hai mươi sáu tuổi và chỉ mới xuất bản một tác phẩm: La Côte Sauvage (Bãi hoang) là quyển tiểu thuyết duy nhất của anh. Anh viết tiểu thuyết quá buồn. Nắng chiều. Đêm. Đêm tối. - Tôi không biết. Anh đã tìm thấy gì? - Một con ong chết. Je ne sais pas. Qu’est - ce que vous avez trouvé? Une abeille morte. Jean-Rene Huguenin đã viết hai câu trên trong quyển La Côte Sauvage (tr. 57). Pierre, nhân vật trong quyển ấy, là một chàng trai trẻ rất buồn, một người cô độc, một kẻ ích kỷ không tự thương mình: L’egoiste qui ne s’aime pas (tr. 70). Pierre yêu người em gái của một người bạn thân chàng… Một hôm, Pierre bỗng tìm thấy một con ong chết trên triền cửa sổ. Et ce fut l’autre versant de l’été, le jour où Pierre découvrit, sur le rebord de sa fenêtre, une abeille morte (tr. 65). Lòng người luân lưu thay đổi như những cây dương xỉ vàng sẫm, như hoa bát tiên chóng tàn, như những ngày xế bóng thoi đưa, như những con ong khô chết. Alors l’évidence éclatait: les fougères brunissaient, les hortensias se fanaient, les jours déclinaient plus vite, les abeilles mouraient - c’était l’autre versantde l’été (tr. 65). Ừ, hỏi làm gì? Đời là ngộ nhận triền miên. Người làm gì biết được. Mỗi người là một vạn lý trường thành, chắn lại hết giao thông. Người làm gì hiểu được ta. Ngộ nhận chân lý: chắc người không hiểu tôi đã tìm thấy gì trên triền cửa sổ vào buổi sáng nay? Vous ne savez pas ce que j’ai trouvé ce matin sur le rebord de ma fenêtre?(tr. 66). * * * Năm 1962, báo Pháp đăng tin rằng Jean-René Huguenin đụng xe chết. Như James Dean, Albert Camus. Tôi giở lại quyển La Côte Sauvage và tình cờ gặp lại một đoạn văn như sau: - Người ta không chết vì buồn chán. - Không, không phải vì buồn chán. Mà không vì một căn cớ nào. Tôi sẽ chết như vậy, không một căn cớ nào. On ne meurt pas d’ennui. Non, pas d’ennui. De rien… Je mourais comme çà, de rien. (tr. 86). Jean-René Huguenin sinh ngày 1 tháng 3 năm 1936 tại Paris, bắt đầu viết văn hồi còn rất nhỏ, viết báo vào năm 18 tuổi, xuất bản quyển La Côte Sauvage vào năm 24 tuổi và chết ở tuổi 26. * * * Nhân vật chính của La Côte Sauvage là Olivier. Chàng đi quân dịch vài năm rồi được giải ngũ trở về sống lại với gia đình. Gia đình chàng chỉ gồm có mẹ, chị và em gái. Quê hương chàng buồn lắm. Biển. Gió. Đá cuội. Sương mù. Olivier rất yêu em gái, nhưng không thích chị. Sau hai năm nhập ngũ, lúc trở về lại đời sống bình thường, Olivier thay đổi. Chàng cảm thấy cô đơn dị thường. Đứa em gái chàng tên là Anne, chàng thương Anne ngay từ thuở bé thơ. Bây giờ chàng được tin em sắp lấy chồng; chồng Anne là bạn thân của chàng, tên Pierre. Pierre và Anne đầm ấm xoắn xuýt nhau. Olivier cô đơn. Olivier định ngăn cản đám cưới. Những thoáng nhìn, những câu hỏi xa xôi, những cử chỉ thông thường của Olivier đã khiến Pierre buồn nhiều. Pierre chán nản. Một dạo, Olivier cũng khiến Anne chán Pierre. Olivier vẫn muốn Anne sống mãi bên cạnh chàng. Tại sao thế? Thực khó trả lời. Sau cùng, Pierre và Anne vẫn lấy nhau. Họ dẫn nhau đi Paris và Tây Ban Nha. Chỉ còn Olivier ở lại sống cô đơn. Quyển La Côte Sauvage đưa tôi vào nỗi cô đơn mênh mông của Olivier, của Pierre. Lối văn của Huguenin rất ngắn và giản dị. Tôi đã đọc quyển La Côte Sauvage đến hai lần. Thế mà tôi không thể nào viết nhiều về quyển này vì La Côte Sauvage là một quyển sách để đọc, cảm và im lặng. Chúng ta đã tìm được sao mai rồi? PHẠM CÔNG THIỆN *** Bãi hoang là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Jean – Rene. Xoay quanh câu chuyện của Oliver, Pirre, và Anna, những tâm tình sâu kín của tuổi trẻ mênh mang được biểu hiện sâu sắc. Jean – Rene Huguenin viết Bãi hoang khi anh 24 tuổi. Hai năm sau, anh mất vì tai nạn giao thông. Anh lưu dấu lại cuộc đời ở tuổi 26, mãi mãi tuổi hoa niên. Ở Pháp. Mùa hè. Trên những bãi biển. Hoàng hôn. Bình minh. Những bữa tiệc trà. Những buổi đi dạo. Những nhân vật của Bãi hoang loanh quanh trong cái khoảng không gian mùa hè bao trùm ấy. Không khí mùa hè ấy từng khiến Meursault vô thức giết người (Người xa lạ, Albert Camus); Aschenbach chết trong trạng thái mê man đẹp đẽ (Chết ở Venice, Thomas Mann)... Trong mùa hè, Elio Perlman và Oliver đã sống rực rỡ bên nhau trong tình yêu (Gọi em bằng tên anh, đạo diễn Luca Guadagnino); François và Maïté đã trải qua những xúc cảm nổi loạn trước ngưỡng cửa trưởng thành (Những cành lau dại, đạo diễn André Téchiné)… Ở Bãi hoang của Jean - Rene, Oliver là người lính giải ngũ từ Paris trở về quê nhà sống với gia đình, có mẹ, em gái và chị gái. Oliver sống mùa hè trẻ tuổi cuối cùng bên cạnh người yêu dấu của riêng mình. Anne là người yêu dấu của Oliver. Tình cảm giữa họ không giống như những tình cảm anh trai em gái thông thường. Jean – Rene bằng ngòi bút văn chương tinh tế, dịu dàng của mình đã gợi ra nhiều khoảnh khắc tuyệt đẹp của Anne và Oliver. Họ sát gần nhau, thì thầm với nhau, họ an ủi nhau, trách hờn nhau, nhưng ở đó, dưới ánh hoàng hôn của bãi biển, khi mặt trời dần xuống, họ lặng lẽ đi bên cạnh nhau, như đan cài trong nhau. Khi hay tin Anne sắp kết hôn với Pierre, người bạn thân nhất của chàng, Oliver hoang mang, chàng đóng mình trong tình cảm của chính bản thân. Hai người thương mến ấy bỏ chàng lại quê nhà buồn bã, bên bờ biển vắng lặng, để đi Paris, đi Tây Ban Nha. Họ kết hôn. Chỉ còn lại Oliver, buồn bã, cô đơn, và đợi chờ. Cho đến những trang cuối cùng của cuốn sách, biển vẫn mênh mang ngoài kia, cùng Oliver mỏi mệt. Cốt truyện giản đơn, nhưng đượm không khí hư ảo của mùa hè, với những gặp gỡ và tan rã, Jean - Rene đã tạo nên tiểu thuyết đẹp đẽ vô cùng. Khung cảnh ba người trẻ tuổi ở bên cạnh nhau, trên bãi biển, cảm giác “luôn tránh làm tổn thương nhau, làm mất đi sự đồng tình tế nhị”, cũng đã diễn tả được một vòng tròn ba người vừa gắn bó, vừa thân tình, vừa sợ sệt. Khung cảnh mờ nhòe bởi lớp mù sương của thời gian, của kỷ niệm càng dễ tạo được sự cảm động đối với độc giả. Theo dõi bóng dáng Anne, Pierre và Oliver bên nhau, tưởng như họ vừa có mặt ở đây (hiện tại), vừa có mặt ở đó (quá khứ). Thế giới của họ, thật mơ hồ như những ảnh hình trong nắng chói mùa hè. Khi mùa hè gần tàn, chỉ còn Oliver ở lại quê nhà. Khi ấy, chàng nghĩ gì chăng? Chàng có còn buồn vì “một con ong mới chết”, hay chàng vẫn buồn vì “mùi hương” Anne đã rời bỏ chàng hẳn rồi. Dẫu mùa hè đã đi qua, người yêu đã xa lìa nhưng trong mộng tưởng của Oliver, Anne ngự trị ở đó, hệt như lời William Shakespeare đã viết trong bài thơ Sonnet số 18 của mình: “But thy eternal summer shall not fade” (Chỉ mùa hạ của nàng không chút hư phai). Anne trong tâm hồn Oliver, sẽ mãi lấp lánh ở đó, mặc mùa hè trôi đi. Bãi hoang của Jean - Rene không phải nhấn ý vào tình cảm loạn luân. Tình cảm giữa Oliver và em gái Anne, là thứ tình cảm thuần khiết, như sự gắn kết tự nhiên của đất trời. Jean –-- Rene chết trẻ quá. 26 tuổi, trẻ như mãi mãi tuổi 20. Anh chỉ có một tác phẩm để lại. Jean - Rene cũng giống như Alain Fournier, tử trận khi 27 tuổi, với cuốn tiểu thuyết duy nhất, Kẻ lãng du. Bãi hoang và Kẻ lãng du đều là những mộng mơ tuyệt đẹp của tuổi trẻ, với những tình cảm thênh thang về tình bạn, tình yêu, về mộng ước. Nhưng nếu Kẻ lãng du, Meaulnes chìm đắm trong cuộc phiêu lưu quyến rũ, với nhiều thi vị, thì Oliver của Bãi hoang tự ấp ủ mình trong nỗi cô đơn buồn bã. Một nỗi buồn thật thanh tân của Kẻ lãng du, hay một nỗi buồn ngập tràn cô độc của Bãi hoang, đều khiến tuổi trẻ trở thành dấu vết rực rỡ. Hai nhà văn trẻ tuổi tạo nên hai nhân vật trẻ tuổi, dẫu họ đã từ biệt cõi tạm này rồi, nhưng tuổi trẻ của họ, Oliver và Meaulnes, độc giả không thể nào quên. Bãi hoang được viết bằng ngôn ngữ văn chương giản dị, ngắn gọn, nhưng đẫm chất tình thơ. Chàng tác giả trẻ tuổi đã thực sự dụng công trong việc trau chuốt ngôn từ, dùng ngôn từ để bộc bạch, nâng niu những rung động của tâm tư Oliver, Anne hay Pierre. Bản tiếng Việt của Bãi hoang do dịch giả Huỳnh Phan Anh chuyển ngữ. Một tác phẩm dịch xuất sắc. Bản dịch cô đọng, súc tích, với tiếng Việt tinh hoa được chắt lọc tinh tế, cẩn trọng. Huỳnh Phan Anh đã dịch nhiều tác phẩm kinh điển nổi tiếng như Tình cuồng (Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật), Tình yêu và lý tưởng (Thomas Mann), Tình yêu và tuổi trẻ (Valery Larbaud), Thời gian của một tiếng thở dài (Anne Philipe), Lạc lối về (Heinrich Boll)… Ngoài dịch thuật, ông còn viết phê bình, nghiên cứu, làm báo, viết văn, và mảng nào cũng để lại dấu ấn quan trọng. Thủy Nguyệt   Mời các bạn đón đọc Bãi Hoang của tác giả Jean-René Huguenin & Huỳnh Phan Anh (dịch).
Agatha (Tiểu Thuyết)
Agatha (tên gốc: Agathe) là tiểu thuyết tâm lý hư cấu đầu tay của Anne Cathrine Bomann – một chuyên gia tâm lý học kiêm nhà văn sống tại Copenhagen, Đan Mạch. Ngay khi ra mắt năm 2017, tác phẩm đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ bởi đề tài và cách viết hết sức mới lạ. Chỉ trong hai năm, tác phẩm đã được mua bản quyền và xuất bản tại 23 nước trên toàn thế giới. Agatha là một tác phẩm thú vị kể về hành trình nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống của một con người đã ở dốc bên kia cuộc đời. Vị bác sĩ điều trị tâm thần 72 tuổi Bernard đang đếm ngược từng ngày để chờ nghỉ hưu. Ông sống cô độc, không bạn bè, không người thân. Thú vui duy nhất của ông là đếm ngược thời gian và phác thảo những bức biếm họa chim trong khi nghe những người bệnh mà ông chẳng hề quan tâm than vãn. Cho tới một ngày, nữ bệnh nhân tên Agatha xuất hiện. Cô gái trẻ đặc biệt ấy đã thức tỉnh tình yêu thương con người tưởng đã chai sạn nơi vị bác sĩ già và giúp ông nhận ra ý nghĩa cuộc sống mà ông không hề biết trước đó… *** Bác sĩ tâm lý cũng cần được trị liệu tinh thần. Với nhân vật chính là một bác sĩ tâm lý, tiểu thuyết "Agatha" gửi thông điệp về vai trò của kết nối thực sự trong cuộc sống của con người. Tiểu thuyết tâm lý Agatha của tác giả kiêm nhà tâm lý học Anna Cathrine Bomann là tác phẩm được ưa thích và được dịch ra 23 ngôn ngữ trên toàn thế giới. Lấy bối cảnh ở Paris những năm 1940, nhưng câu chuyện của vị bác sĩ trị liệu tâm lý và những bệnh nhân của ông, đặc biệt là người phụ nữ trẻ gốc Đức Agatha Zimmermann hầu như không có khoảng cách với hiện tại.  Ở tuổi 72, vị bác sĩ trị liệu tâm lý giấu tên sống một mình trong căn nhà được cha mẹ để lại. Ông không có người thân, bạn bè, đồng thời luôn cố gắng né tránh mọi kết nối và mối quan hệ bên ngoài phòng khám. Thứ quen thuộc duy nhất với ông là những tiếng động và âm nhạc phát ra từ ngôi nhà sát vách; nhưng ông cũng không hề có ý định tìm hiểu hay bắt quen với người hàng xóm đã sống cạnh mình hàng chục năm trời qua. Tại phòng khám, ông chỉ có những cuộc trò chuyện ngắn ngủi với người trợ lý tỉ mỉ Madame Surrugue, người đã làm việc cùng ông hơn 30 năm qua. Chỉ còn 5 tháng nữa vị bác sĩ sẽ được nghỉ hưu, thời gian này được ông quy đổi tương đương với 800 buổi điều trị và ông đang đếm ngược từng ngày cho đến thời điểm đó. Vị bác sĩ đã tưởng tượng: chờ đợi ông ở thời điểm đó hẳn sẽ là một cuộc sống thú vị, một phần thưởng to lớn cho những gì ông đã phấn đấu.  Tuy nhiên trong những tháng ngày cuối cùng trước khi nghỉ hưu, trải qua nhịp sống đơn điệu, cảm nhận rõ ràng những dấu hiệu tuổi già trên cơ thể, ông nhận ra “tôi không thể biết được sự tồn tại đó sẽ chứa đựng những gì đáng mong đợi. Nhưng điều duy nhất tôi có thể chắc chắn là nỗi sợ hãi và sự cô đơn". Công việc và cuộc sống của vị bác sĩ già bắt đầu có sự thay đổi khi người phụ nữ trẻ gốc Đức Agatha Zimmermann, có tiền sử bệnh tâm thần khá nặng, đang mất cảm hứng sống, khăng khăng muốn được ông điều trị, bất chấp thời gian ông làm việc còn lại khá ít ỏi, có thể không đủ để ông giúp đỡ cô. Agatha được các bác sĩ trước đó chẩn đoán “mắc chứng hưng cảm nặng sau một lần cố gắng tự tử cách đây vài năm". Hành trình trị liệu hóa ra lại là một quá trình soi chiếu và trị liệu cùng nhau của vị bác sĩ già và người phụ nữ có vẻ ngoài mong manh, nhưng ẩn sâu lại là một con người mạnh mẽ, hấp dẫn. Để rồi qua các phiên trị liệu cả hai người họ đều có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống của mình.  Agatha cuối cùng cũng có thể nói ra nỗi đau thuở thơ bé từng bị người cha ruột lạm dụng tinh vi, để bước qua tổn thương và tìm lại được khát vọng sống. Vị bác sĩ cuối cùng cũng có những kết nối xã hội đầu tiên khi ông quyết vượt qua ngại ngần thăm chồng bà thư ký bị bạo bệnh đang ở bên ranh giới mong manh của cái chết. Ông cũng quyết định đến cửa hàng bán đồ làm bánh, mua nguyên liệu, hỏi công thức làm một chiếc bánh táo để gửi tặng người hàng xóm câm điếc bao lâu nay vẫn chơi đàn cho ông nghe. Hơn thế, ông không còn đếm các phiên trị liệu để chờ tới ngày về hưu nữa. Câu nói kết thúc cuốn tiểu thuyết được bệnh nhân Agatha nói với vị bác sĩ khi ông đứng ngập ngừng sau cô trước cửa một quán café: “Thế cuối cùng ông có định vào không bác sĩ?” thể hiện vai trò thúc đẩy của cô trong quá trình trị liệu, đồng thời mang đến cho cuốn tiểu thuyết cái kết mở đầy hy vọng. Với 200 trang cỡ chữ vừa, được trình bày thoáng đãng với những chương sách ngắn, tiểu thuyết tâm lý Agatha là tác phẩm mỏng nhẹ mà độc giả có thể đọc nhanh trong thời gian ngắn. Đây cũng là cuốn sách nên đọc cho bất cứ ai quan tâm đến việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, cũng như vai trò của những kết nối thực sự trong cuộc sống của con người. *** ANNE CATHRINE BOMANN là nhà tâm lý học sống tại Copenhagen, Đan Mạch. Anne bắt đầu sáng tác từ năm 15 tuổi và đã xuất bản một số tập thơ, sách. Agatha (tên gốc Agathe) là tiểu thuyết tấm lý hư cấu đầu tay của Anne. Ngay khi ra mắt năm 2017, tác phẩm đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ bởi đề tài và cách viết hết sức mới lạ. Chỉ trong hai năm, tác phẩm đã được mua bản quyền và xuất bản tại 23 nước trên toàn thế giới. 2020 - Đề cử Giải thưởng Văn học Libr’à Nous. 2019 - Đạt giải thưởng The Scrivere per Amore. *** Những  ô  kính  cửa  sổ Chuyện đó xảy ra khi tôi đang ngồi trong phòng khách và nhìn ra ngoài cửa sổ. Ánh nắng mùa xuân chiếu lên tấm thảm của tôi tạo thành bốn hình vuông so le di chuyển một cách chậm rãi nhưng quả quyết trên chân tôi. Bên cạnh tôi là ấn bản đầu tiên còn chưa được mở của cuốn Buồn nôn*, cuốn tiểu thuyết mà tôi đã cố đọc suốt nhiều năm nay. Hai chân con bé gầy và xanh xao, và tôi ngạc nhiên khi con bé được phép ra đường trong khi chỉ mặc một chiếc váy vào lúc đầu năm thế này. Nó vẽ những ô nhảy lò cò trên đường và nhảy một cách hết sức tập trung, đầu tiên là trên một chân, rồi cả hai, sau đó đổi lại. Tóc của con bé được buộc thành hai bím, con bé khoảng tầm bảy tuổi, nó sống cùng mẹ và một người chị gái ở nhà số 4 trên con phố này. Tên tiếng Pháp là La Nausée, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nhà triết học hiện sinh Jean-Paul Sartre, được xuất bản năm 1938. Có lẽ bạn sẽ nghĩ rằng tôi là một nhà hiền triết, cả ngày ngồi bên cửa sổ và suy ngẫm về những điều lớn lao hơn trò nhảy lò cò và sự di chuyển của tia nắng trên sàn nhà. Nếu vậy thì bạn đã nhầm! Sự thật là tôi ngồi đó bởi vì tôi không có việc gì khác để làm, và cũng có thể là bởi có một điều gì đó tích cực truyền đến tôi mỗi lần con bé reo lên đắc thắng sau khi thực hiện thành công một chuỗi những động tác nhảy cực khó. Vào một thời điểm nào đó, tôi đứng lên đi pha một tách trà, và khi tôi trở lại vị trí của mình thì con bé đã biến mất. “Có lẽ nó đã tìm ra một trò chơi thú vị hơn ở chỗ khác”, tôi thầm nghĩ. Cả phấn và đá đều đã bị bỏ lại ở giữa đường. Và đó là lúc mà chuyện đó xảy ra. Tôi vừa đặt chiếc cốc lên bậu cửa sổ cho nguội và trải tấm khăn lên đùi thì bỗng một thứ gì đó lọt vào tầm nhìn của tôi. Một tiếng thét chói tai truyền đến, tôi lập tức để cơ thể cứng nhắc của mình đứng lên và bước tới gần cửa sổ. Phía bên phải của tôi, con bé đang nằm trên đường ở ngay ngã rẽ về phía hồ, dưới một gốc cây. Trên cành cây, một chú mèo đang ngoe nguẩy đuôi, ở dưới, con bé nhấc người ngồi dậy, lưng dựa vào thân cây, tay ôm mắt cá chân và khóc nức nở. Tôi thu đầu về. Tôi có nên đến chỗ con bé không? Tôi chưa từng nói chuyện với trẻ con trừ lúc nhỏ và lúc đó thì không nói làm gì. Liệu con bé có sợ hãi hơn nếu một người đàn ông lạ mặt đột nhiên xuất hiện và an ủi nó không? Tôi ngó ra ngoài một lần nữa, con bé vẫn ngồi trên bãi cỏ nó ngước khuôn mặt đẫm nước mắt của mình lên, ánh nhìn hướng về phía xa, vượt qua căn nhà của tôi. Tốt nhất là đừng để ai nhìn thấy tôi vào lúc này. Đó chẳng phải là ông bác sĩ sao, họ sẽ bàn tán với nhau. Tại sao ông ta lại chỉ trơ mắt nhìn như vậy? Thế là tôi liền cầm lấy tách trà đi vào bếp và ngồi yên vị xuống ghế. Và mặc dù tôi đã tự nhủ với bản thân rằng chẳng mấy chốc con bé sẽ tự đứng dậy được và đi tập tễnh về nhà, rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn, tôi vẫn ngồi đó như một kẻ hèn nhát trong căn bếp của mình suốt nhiều giờ. Cốc trà đã trở nên đục và lạnh ngắt mặt trời đã tắt bóng trước khi tôi rón rén trở về phòng khách và liếc xuống đường trong khi nửa người vẫn núp phía sau tấm rèm. Dĩ nhiên, lúc này con bé đã không còn ở đó. Mời các bạn đón đọc Agatha (Tiểu Thuyết) của tác giả Anne Cathrine Bomann & Phương Anh (dịch).