Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell

Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bậc Thầy
“Cuốn tiểu thuyết được nhắc đến nhiều nhất năm 2016.” — Washington Post Luôn bị đối xử tệ tại một nhà đấu giá tranh nghệ thuật nổi tiếng London, thoạt tiên, Judith chỉ là một trợ lý làm công ăn lương nhiều tham vọng, gắng vượt khỏi gốc gác hạng xoàng của mình để leo lên địa vị cao hơn trong thế giới nghệ thuật, một thế giới khó chạm tới nhưng cô biết mình thuộc về nó. Nhưng một vụ lừa đảo tại nhà đấu giá khiến cuộc đời cô tan tành đảo lộn. Thay vì suy sụp hay mất phương hướng, cô trở thành một con người khác. Vũ khí hộ thân không gì hơn trí thông minh sắc sảo và tài ngụy tạo, cô đưa đường dẫn lối bản thân từ French Riviera tới Genève, tới Rome, biến hình như tắc kè hoa, tính toán những con đường để giành lấy cuộc sống nhung lụa. Được bình chọn là cuốn sách xuất sắc nhất hệ thống Amazon tháng Tư năm 2016, cuốn tiểu thuyết ly kỳ này đã mở đầu cho bộ ba tác phẩm hấp dẫn, dõi theo tiến trình cuộc đời của Judith, một người đàn bà vừa mong manh vừa lạnh lùng. Trong lúc Judith hành động càng lúc càng xảo trá, nhập vai càng ngày càng dễ như thay giày, Hilton cũng khéo léo dệt nên một thế giới hào nhoáng, mang đầy cảm giác sắc bén về cuộc sống phù hoa đương đại.  Rốt cuộc, ta sẽ đi đâu khi ta đã đi quá xa? *** Review ''Bậc Thầy'' - L.S Hilton người review Nguyễn Ngọc Nam 388 trang với một câu truyện kỳ lạ. Một câu truyện phiêu lưu thời hiện đại, giống như một bộ phim hành động tua chậm trước mắt người đọc khiến cho khi gập sách lại ta vẫn không thể tin được kết thúc đã được phơi bày của nó. Judith là một cô gái thông minh và quỷ quyệt. Ban đầu cô ta chỉ là trợ lý quèn cho một nhà đấu giá có tham vọng trở thành một người quyền lực trong giới nghệ thuật nhưng hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống đã cản bước cô. Mãi cho đến tận sau này cô mới nhận ra rằng tất cả những cố gắng của mình thực sự là vô ích. Đỉnh điểm là một vụ lừa đảo tại nhà đấu giá khiến cuộc đời cô tan tành đảo lộn. Và từ đây, câu truyện về Bậc thầy chính thức khai màn! Bạn nên đọc cuốn sách trong môi trường yên tĩnh tuyệt đối bởi bản gốc có lẽ tác giả hành văn nghe chừng thấy phức tạp khó hiểu quá, câu văn kiểu hack não người đọc nên về Việt Nam khi dịch lại dịch giả có lẽ cũng gặp nhiều khó khăn, chính vì vậy mà bạn sẽ phải mất kha khá thời gian để làm quen với sách bởi vì nó khá khó đọc. Truyện miêu tả rất đúng xã hội thời hiện đại, con người thời hiện tại và có lẽ là cả trong tương lai nữa. Một xã hội ưa vật chất, lừa đảo, giẫm đạp lên nhau để sống. Những con người lạnh lùng vô cảm và vô cùng xảo quyệt. Trong truyện không có một giai đoạn nào tươi sáng. Dường như thế lực bóng tối đã bao trùm lên toàn bộ cuốn sách này, bạn sẽ phải căng não và tư duy liên tục, như một cuộc chạy marathon với nó. Trinh thám, kinh dị, phiêu lưu, hài hước, sex thậm chí là cả viễn tưởng đều được tác giả thể hiện trong truyện. Đặc biệt là sex. Có lẽ phải đến 1/3 truyện yếu tố sex được đề cập đến với những mô tả cực chi tiết. Nó làm tôi nhớ tác phẩm "Thế giới mới tươi đẹp" nơi mà con người sex với nhau mọi lúc mọi nơi để xả stress liên tục. Xuyên suốt truyện người đọc sẽ thấy được một Judith mạnh mẽ. Và như tôi đã nói, cô mạnh mẽ theo cái cách tàn nhẫn. Đúng, tàn nhẫn bởi cô nhận ra rằng chỉ mạnh mẽ theo cách đó mới có thể tồn tại được trong xã hội này. Tất nhiên không một người tốt đẹp, trong sáng nào ủng hộ điều này nhưng xét theo một khía cạnh nào đó, những việc làm của Judith ít nhiều cũng là cần thiết và đúng đắn. Bởi hiện thực là khốc liệt, sự thật là tàn nhẫn. Dẫm đạt lên nó là điều tất yếu của cuộc sống. Bởi vậy mới nói, sự tha hóa của con người trong xã hội ngày nay đang "phát triển" vượt bậc. Tôi đánh giá cao về quyển sách này. Nó hoàn toàn thực tế, đúng đắn tới từng phân cảnh. Cũng giống "Bắt trẻ đồng xanh" đây hoàn toàn không phải là cuốn sách những đứa trẻ ngoan hay những người tin vào đạo lý nên đọc. Thật sự là khi các bạn đọc review này rồi thì hãy cân nhắc việc đọc nó nếu không muốn bị ức chế hoặc chửi thề sau khi đọc được vài chương. Tôi không muốn ai phải có một trải nghiệm tồi tệ không đáng có với điều đã được cảnh báo trước. *** Gấu váy nặng nề và gót giày nhọn hoắt lướt vun vút và gõ lạch cạch trên mặt sàn lát gỗ. Chúng tôi đi ngang hành lang đến một cửa đôi, tiếng rì rầm khe khẽ sau cửa cho biết cánh đàn ông đã ở trong phòng. Căn phòng được thắp nến, giữa các sofa và ghế ăn thấp có kê bàn nhỏ. Cánh đàn ông đang chờ, họ mặc quần lụa xa tanh đen dày cùng áo khoác có khuyết thùa ngang kiểu nhà binh, sợi ngang của vải óng ánh lộng lẫy bù khuyết cho lần áo trong hồ cứng ngắc. Thi thoảng, một chiếc khuy măng séc nặng nề hay một chiếc đồng hồ thanh mảnh lại nhoáng vàng trong ánh nến, một hình thêu chữ lồng thấp thoáng bên dưới một chiếc khăn tay lụa hoa mỹ. Cảnh tượng này hẳn sẽ có vẻ sến súa và giả tạo nếu mọi chi tiết không hoàn hảo đến vậy, nhưng tôi lại thấy như bị thôi miên, mạch đập của tôi chậm và sâu. Yvette đang được một người đàn ông có cổ tay áo gắn lông công dẫn đi - tôi nhìn lên và thấy một người khác tiến về phía mình, một cây dành dành giống của tôi gắn trên ve áo ông ta. “Vậy cách thức là thế này sao?” “Khi chúng ta ăn, đúng vậy. Sau đó cô được chọn. Bonsoir*.” “Bonsoir.” Dáng ông ta cao và mảnh khảnh, dù cơ thể có vẻ trẻ hơn khuôn mặt đã có phần nhăn nheo và đanh cứng, với mái tóc muối tiêu chải ngược trên vầng trán cao và cặp mắt lớn hơi sụp mí, như một vị thánh Byzantine. Ông ta dẫn tôi đến sofa, đợi tôi ngồi xuống rồi đưa cho tôi một ly vang trắng, chiếc ly bằng pha lê đơn giản, trong veo và cứng rắn. Nghi thức thì sáo rỗng, nhưng tôi thích từng bước thực hiện của nó. Julien rõ ràng có vẻ thích sự mong đợi. Các cô hầu bàn gần như khỏa thân trở lại với những đĩa nhỏ đựng bánh tôm hùm nhỏ xíu, rồi đến ức vịt xé nhỏ trong một hỗn hợp mật ong và gừng, mâm xôi và dâu tây đựng trong bánh ngói hình khay. Những món ăn mang tính lịch sự, không hề nhằm đến việc đáp ứng nhu cầu của chúng tôi. “Trái cây màu đỏ làm cái ấy của đàn bà thành mỹ vị,” bạn cùng bàn của tôi nhận xét. “Tôi biết.” Đôi chỗ có tiếng nói chuyện khe khẽ, nhưng hầu hết chỉ nhìn ngắm và uống rượu, ánh mắt chuyển từ đối phương sang những động tác nhanh nhẹn của các nữ hầu bàn có vóc dáng như vũ nữ, mảnh dẻ nhưng săn chắc cơ bắp, đùi căng đầy trên ống ủng bó chặt. Làm thêm sau giờ múa ba lê chăng? Tôi loáng thoáng thấy Yvette ở bên kia phòng, đang được bón sung nhồi hạnh nhân bằng một cây dĩa bạc nhọn đầu, cơ thể cô ườn ra như một con rắn, một bên đùi sẫm màu lấp ló giữa lớp lụa đỏ. Một cách trang nghiêm, các hầu bàn cầm cây dập nến đi quanh phòng, chỉnh mờ ánh sáng trong một làn mây hình sáp ong, và cùng lúc đó tôi cảm thấy tay người đàn ông trên đùi mình, vừa xoa vừa ve vuốt, không chút vội vã, và đáp lại là sự căng cứng giữa hai chân tôi. Các cô gái đưa ra những khay sơn mài đựng bao cao su, chai pha lê nhỏ chứa dầu thơm Tahiti, dầu bôi trơn được chắt vào khay đĩa. Vài cặp đang hôn nhau, có vẻ hài lòng với đối tượng được ghép đôi của mình; số khác lịch sự đứng dậy và băng qua phòng để tìm con mồi họ đã chọn từ trước. Váy của Yvette rơi xuống cạnh đôi chân mở rộng của cô, một người đàn ông vục đầu vào cô. Tôi bắt gặp ánh mắt cô, và cô mỉm cười, vẻ kiêu sa, trước khi ngả đầu giữa đống gối theo kiểu ngây ngất của một con nghiện chìm vào cơn phê. Mời các bạn đón đọc Bậc Thầy của tác giả L. S. Hilton.
Kẻ Khủng Bố
Kẻ khủng bố có phải là một quái vật, một tên điên? Người bình thường chúng ta liệu có thể nào hiểu và thông cảm được với một kẻ khủng bố? Cuốn tiểu thuyết đặc sắc của John Updike là cuộc hành trình tìm lời đáp cho câu hỏi ấy. Bằng giọng văn điềm tĩnh, óc quan sát sắc sảo, khả năng phân tích tinh tế, cùng một quyết tâm quả cảm hầu vượt qua mọi định kiến có sẵn về thiện và ác, nhà văn hàng đầu nước Mỹ - tác giả Rabbit ơi, chạy đi - khiến cho ta thấy, đằng sau bức chân dung quen thuộc về kẻ khủng bố đáng sợ, đáng căm ghét kia là một con người, với một trí óc và tâm hồn giống chúng ta hơn là khác chúng ta ra sao. *** Trong số các cuốn mới ra của NN mình thấy cuốn này có vẻ thú vị nhất. Tác giả chính là người viết cuốn ''Rabbit ơi, chạy đi''. ”Kẻ khủng bố có phải là một quái vật, một tên điên? Người bình thường chúng ta liệu có thể nào hiểu và thông cảm được với một kẻ khủng bố? Cuốn tiểu thuyết đặc sắc của John Updike là cuộc hành trình tìm lời đáp cho câu hỏi ấy. Truyện kể về Ahmad Ashmawy Mulloy 18 tuổi và sự tôn sùng của cậu đối với thánh Allah và những lời của kinh Koran được dạy từ một nhà thờ Hồi giáo tại địa phương. Con trai của một bà mẹ người Ireland và một người cha Ai Cập đã biến mất khi cậu lên ba, Ahmad đã chuyển sang Hồi giáo ở tuổi mười một. Cậu cảm thấy đức tin của mình bị đe doạ bởi xã hội chủ nghĩa vật chất, nơi mà cậu bé nhìn thấy mọi nơi ngay trong thị trấn nhà máy ở New Prospect, miền bắc New Jersey. Không có người cố vấn hướng dẫn, chán nản tại rrường Trung học cậu làm quen với 2 người bạn: Jack Levy, và Joryleen Grant, những người bạn học tinh nghịch của Ahmad, đã thành công trong việc chuyển hướng cậu bé từ những gì mà tôn giáo gọi là Con đường đúng đắn. Khi cậu tìm được việc làm trong một cửa hàng đồ nội thất thuộc sở hữu của một gia đình người Lebanon nhập cư mới, các chủ đề của một âm mưu thu thập xung quanh cậu, với những tiếng reo hò cổ vũ làm cho Bộ An ninh Quốc gia đang thôi thúc... Bằng giọng văn điềm tĩnh, óc quan sát sắc sảo, khả năng phân tích tinh tế, cùng một quyết tâm quả cảm hầu vượt qua mọi định kiến có sẵn về thiện và ác, nhà văn khiến cho ta thấy, đằng sau bức chân dung quen thuộc về kẻ khủng bố đáng sợ, đáng căm ghét kia là một con người, với một trí óc và tâm hồn giống chúng ta hơn là khác chúng ta ra sao. Cuốn tiểu thuyết thứ hai mươi hai của John Updike là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc rực rỡ, chắc chắn sẽ được đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất của ông. Người review: Bookaholic *** John Hoyer Updike (18 tháng 3 năm 1932 - 27 tháng 1 năm 2009) là một tiểu thuyết gia, nhà thơ, người viết truyện ngắn, nhà phê bình nghệ thuật và phê bình văn học người Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Updike là chuỗi tiểu thuyết "Rabbit" (các tiểu thuyết Rabbit, Run; Rabbit Redux; Rabbit Is Rich; Rabbit at Rest; và Rabbit Remembered),  mô tả tổng thể cuộc sống của người đàn ông tầng lớp trung lưu Harry "Rabbit" Angstrom trong suốt nhiều thập kỷ, từ khi trưởng thành trẻ tuổi cho đến khi chết. Cả hai tiểu thuyết Rabbit Is Rich (1982) và Rabbit at Rest (1990) của ông đều đoạt giải Pulitzer.  Updike là một trong ba tác giả đoạt giải Pulitzer dành cho tiểu thuyết nhiều hơn một lần (những người khác là Booth Tarkington và William Faulkner). Ông đã xuất bản hơn hai mươi tiểu thuyết và hơn một chục tập truyện ngắn, cũng như thơ, phê bình nghệ thuật, phê bình văn học và sách trẻ em. Hàng trăm câu chuyện, đánh giá, và những bài thơ của ông xuất hiện trên tờ The New Yorker kể từ năm 1954. Ông cũng viết thường xuyên cho The New York Review of Books. Tác phẩm Tiểu thuyết The Poorhouse Fair (Hội chợ trong nhà tế bần, 1959) The Centaur (Nhân mã, 1963) Of the Farm (Ở nông trại, 1965) Couples (Các cặp vợ chồng, 1968) Marry Me (1977) The Coup (1978) Brazil (1994) In the Beauty of the Lilies (Nhan sắc của hoa huệ, 1996) Toward the End of Time (1997) Gertrude and Claudius (2000) Seek My Face (2002) Villages (2004 Terrorist (Kẻ khủng bố, 2006)   Tập thơ The Carpentered Hen (Con gà gỗ, 1958) Telephone Poles (1963) Midpoint (1969) Dance of the Solids (1969) Cunts: Upon Receiving The Swingers Life Club Membership Solicitation (1974) Tossing and Turning (1977) Facing Nature (1985) Collected Poems 1953–1993 (Tuyển tập thơ 1953 - 19993, 1993) Americana and Other Poems (2001) Endpoint and Other Poems (2009) Tuyển tập truyện ngắn The Same Door (Cũng cánh cửa ấy, 1959) Pigeon Feathers (Những cái lông bồ câu, 1962) Olinger Stories (1964) The Music School (1966) Museums And Women (Bảo tàng và phụ nữ, 1972) Problems and Other Stories (Những vấn đề và những câu chuyện khác, 1979) Too Far to Go(Quá xa để đi, 1979) Your Lover Just Called (1980) Trust Me (1987) The Afterlife (Cuộc sống ở thế giới bên kia, 1994) Licks of Love (Tình yêu bằng từng liều nhỏ, 2001) The Early Stories: 1953–1975 (Những truyện gần đây 1953 - 1975, 2003) Three Trips (2003) My Father's Tears and Other Stories (Nước mắt bố tôi và những truyện khác, 2009) The Maples Stories (2009) The Collected Stories, Volume 1: Collected Early Stories (Tuyển tập truyện ngắn - tập 1, 2013) The Collected Stories, Volume 2: Collected Later Stories (Tuyển tập truyện ngắn - tập 2, 2013)   Mời các bạn đón đọc Kẻ Khủng Bố của tác giả John Updike.
Giải Thoát
Câu chuyện bắt đầu bằng một vụ tai nạn thảm khốc, cậu bé Jacob 5 tuổi bị một chiếc ô tô đâm trúng khi đang trên đường trở về nhà sau buổi học cùng với mẹ. Jacob chết, kẻ gây tai nạn bỏ trốn, để lại vụ án mạng chấn động cả Bristol.  Thanh tra thám tử Ray Stevens cùng cộng sự là thanh tra thám tử tập sự Kate Evans nhập cuộc để điều tra vụ án. Mọi thứ ngày càng trở nên bế tắc khi thời gian cứ trôi đi mà manh mối kẻ thủ ác vẫn không lộ diện. Song song với cuộc điều tra, câu chuyện về cuộc đời và công việc của những thanh tra cảnh sát cũng được hé lộ một cách tự nhiên: Những áp lực công việc, sự giằng co giữa đạo đức nghề nghiệp và sự thăng tiến cá nhân, giữa công việc và gia đình, và đặc biệt là nguy cơ tiềm ẩn những mối quan hệ ngoài luồng nơi công sở, qua sự diễn biến cảm xúc của nhân vật Ray và Kate. Trong lúc cảnh sát đang lùng sục tìm kiếm một cách vô vọng vụ án của Jacob, ở một vịnh biển xa xôi nước Anh – vịnh Penfach, có một cô gái kỳ lạ xuất hiện, cô độc, kỳ lạ và khép kín. Cô là Jenna, một nghệ sĩ điêu khắc, do một tai nạn mà phải từ bỏ công việc và đến vịnh Penfach ở ẩn... Liệu có sợi dây liên kết nào giữa vụ tai nạn của cậu bé Jacob và Jenna không? Thám tử Ray Stevens có vén được lớp màn bí mật khủng khiếp về gia đình Jenna? Một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay đó là âm mưu? Vậy ai là người đứng sau mọi tội ác đó? *** Người review: Thảo Trần Nguyễn. Nguồn: Hội thích truyện trinh thám Trước hết mình xin khen ngợi Phúc Minh vì sự tiến bộ vượt bậc trong khâu biên tập (câu văn gãy gọn, uyển chuyển, lỗi chính tả rất hiếm), bìa đẹp, chữ Giải thoát được in nhũ vàng. Mảng văn học phương Tây của PM dạo này rất khởi sắc. Một câu chuyện hay và ám ảnh về nạn bạo lực gia đình, đào sâu vào nỗi đau của người mẹ mất con (bạn nào đang yêu hay sắp lập gia đình cân nhắc trước khi đọc nhé . Vụ án trong tác phẩm chỉ là truy tìm kẻ gây tai nạn giao thông làm chết một đứa trẻ ngay trước mặt người mẹ rồi bỏ trốn, thế nhưng nhờ tình tiết nghẹt thở, miêu tả tâm lý xuất sắc, cộng thêm những cú lừa (chắc chắn 100% bạn sẽ bị lừa dù có đề phòng đến đâu), mình đánh giá cao cuốn này, tuy nhiên không khí mà nó mang lại sẽ khá ngột ngạt, không nên đọc khi chỉ muốn giải trí. Điểm trừ có lẽ chỉ là do vài chỗ chuyển ý của tác giả. Nhiều khi 2 đoạn kế nhau lại không liên kết với nhau, đúng ra nên ngắt chương khi muốn chuyển cảnh, làm mình đọc đi đọc lại mấy lần mới hiểu. *Đánh giá: 4.5/5 *** Khởi đầu vì muốn nổi danh, Ca nương dắt báo diễu hành phố xa. Bất ngờ một chuyện xảy ra, Báo đứt dây buộc, trốn xa tầm nhìn. Quân cảnh, đông đảo kiếm tìm, Thú hoang hung ác, im lìm ngoài kia. Báo đen ẩn hiện đêm khuya, Từng cô gái một, hồn lìa xác thân. Khởi nguồn là một chiến dịch truyền thông với mục đích lăng xê cô ca sĩ mới nổi, Kiki Walker. Ông bầu Jerry Maning nghĩ ra chiêu trò: sẽ rất thú vị nếu cô dắt theo một con báo đi dạo vòng quanh khu Almeda cho tất cả fan hâm mộ nhìn thấy, việc này sẽ đánh vào tâm lý ưa thích những điều mới lạ và khác biệt của cư dân thành phố Cidad Real lớn thứ ba của Nam Mỹ (Cidad Real – theo tiếng Tây Ban Nha là “thành phố có thực” nhưng thực chất không hề có thành phố này ở Nam Mỹ mà Cidad Real là một đô thị ở Tây Ban Nha, có thể một cách chơi chữ của tác giả). Cuộc diễu hành trở nên hỗn loạn khi con báo trở nên mất kiểm soát, sổng xích và trốn thoát giữa chốn đông người vào một con hẻm tối tăm. Con báo mất tích kéo theo cái chết của một loạt các cô gái trẻ với đặc điểm chung là trên tử thi xuất hiện nhiều vết cào xé từ nanh vuốt của con thú. Liệu hung thủ thực sự là con báo đốm hay “một thứ gì đó” còn kinh khủng và đáng sợ hơn”??? Nằm trong series “Trinh thám Đen” của tiểu thuyết gia người Mỹ Cornell Woolrich – người được mệnh danh là Poe của thế kỷ XX. Ám ảnh đen có kết cấu như một vở kịch nhiều chương hồi bao gồm chương mở màn mang tính giới thiệu nội dung truyện, sự xuất hiện kẻ sát nhân “bộ lông đen thẫm, cặp tai nhọn ép phẳng, mõm gì sát thảm, con vật bước đến rất nhanh, tấm thân thuôn dài gợn sóng một cách uyển chuyển”. Bốn chương tiếp theo đặt theo tên bốn người phụ nữ, mục tiêu của kẻ sát nhân vô hình giữa lòng thành phố. Bốn nạn nhân xuất thân đa dạng, từ con gái nhà lao động nghèo khó, tiểu thư mười bảy mộng mơ với tình yêu đầu đời, gái điếm trong quán bar, hay cả nữ khách du lịch người Mỹ. Khó có thể tìm ra được điểm tương đồng giữa các nạn nhân, từ hoàn cảnh, xuất thân, địa vị. Cái chết không hề phân biệt đối xử với bất kỳ ai. Không khí hoang mang bao trùm khắp thành phố, không biết ai sẽ là nạn nhân tiếp theo dưới nanh vuốt sắc nhọn ấy. Ám ảnh và sợ hãi là những gì xuất hiện xuyên suốt 4 chương sách chính, gây nên sự căng thẳng tột độ cho người đọc. Lồng ghép một cách tài tình giữa miêu tả khung cảnh gắn liền với diễn biến tâm lý nhân vật, Woolrich như phủ một tấm vải “đen” đầy u ám và ma quái lên người đọc, khiến cảm xúc của độc giả luôn luôn được đẩy lên cao, song hành cùng cảm xúc nhân vật. Không gian của truyện đậm màu kinh dị, tăm tối theo chất Gothic: một đường hầm, một nghĩa trang, một con phố vắng, một hồ nước… Thời gian luôn luôn giữa đêm tối mịt mùng, gợi nên một cảm giác đáng sợ, căng thẳng và đau đớn. Có một áp lực vô hình đè nén, đằng sau có một cái gì đó đang theo dõi, thoắt ẩn thoắt hiện, ta đi nó đi theo, ta chạy nó chạy theo, ta đứng lặng, không gian lại hóa như tờ. Giống như trò mèo vờn chuột, một sự khủng bố tinh thần cả người đọc sách lẫn nhân vật, “cảm giác sợ chết còn đáng sợ hơn chính cái chết.” Bốn chương sách luôn kết thúc bằng việc thi thể các cô gái được tìm thấy với nhiều dấu vết thảm sát để lại chứng minh dường như do con báo gây ra và “ông bầu thất nghiệp” Maning cùng cảnh sát tranh cãi nhau về việc liệu thảm án có phải là do ác thú bốn chân này gây ra thật hay không. Trong khi đó dân chúng ngày càng hoang mang và lo sợ mình sẽ trở thành nạn nhân tiếp theo. Quả nhiên thứ đáng sợ nhất chính là nỗi sợ hãi. Chương cuối cùng, luôn luôn được xác định là màn suy luận dẫn đến tìm ra hung thủ, lại một lần nữa, không gian đậm chất gothic lại xuất hiện trở lại, đầy u ám, bất an và hồi hộp. Series “Đen” của Woolrich không có một hình mẫu thám tử cụ thể, một ông thanh tra trong “Cô dâu đen” hay một bầu sao thất nghiệp trong “Ám ảnh đen”, ai cũng có thể trở thành nhân vật chính anh hùng trong sách của ông. Trinh thám đen nói chung và “Ám ảnh đen” nói riêng không đặt nặng tính suy luận, truy tìm thủ phạm, Nếu để ý người đọc sẽ thấy tư duy trinh thám, suy luận trong sách có nhiều lỗ hổng và không được đánh giá cao. Nhưng bù lại, tính hành động xuất hiện xuyên suốt toàn nội dung, hung thủ khá bất ngờ. Không đề cao tính logic, câu chuyện tập trung chú trọng đến sự hồi hộp và bí ẩn, qua đó khắc họa tính cách các nhân vật, ai cũng có số phận riêng, cuộc sống riêng, nhưng “một thời khắc định mệnh” xuất hiện và tất cả họ bị cuốn vào “vòng xoáy đen” của tội ác, do sự hoang dã của thiên nhiên hay sự đáng sợ của lương tâm con người? Lựa chọn hình ảnh “Con báo đen” là trung tâm của tội ác, một con thú hoang dã, điên dại, lấy giết chóc làm vui, đối ngược với hình ảnh các nạn nhân – luôn là những cô gái yếu đuối, tác giả muốn nhắn nhủ một thông điệp rằng: “Đôi khi người ta giết người vì đam mê, đó là bản năng thú tính, nguyên thủy, hoang dã tồn tại trong một góc khuất nào đó, chỉ đợi bùng lên. Giết chỉ để giết thôi. Vì chúng thích cảnh máu me. Máu khiến chúng mê mẩn.” ——————————————————————- 2018/05/08, Hà Nội đêm hè, Ngọc Vũ tạ bút. *** Cơn gió nhè nhẹ thổi khiến mấy lọn tóc ẩm ướt của cô khẽ vương trên khuôn mặt. Cô cố nheo mắt lại để tránh những giọt mưa vẫn đang rơi. Cơn mưa bất chợt khiến ai cũng trở nên vội vã lao thật nhanh trên những vỉa hè trơn trượt. Những chiếc xe chạy ngang qua làm nước bắn tung tóe lên giày của khách bộ hành. Âm thanh ồn ã từ những phương tiện giao thông khiến cô chỉ nghe lõm bõm được câu chuyện cậu con trai đang kể từ lúc được mẹ đón ở trường về. Cậu nhóc vẫn liến thoắng không ngừng, huyên thuyên đủ thứ chuyện, không giấu nổi sự phấn khích với thế giới mà cậu đang được lớn lên trong đó. Cô nghe loáng thoáng được vài chi tiết từ câu chuyện, về một người bạn thân, một dự án ngoài vũ trụ, một giáo viên mới ở trường rồi nhìn con và khẽ mỉm cười, mặc cho gió lạnh đang thổi từng cơn qua chiếc khăn quàng cổ. Cậu bé cười toe toét với mẹ, lắc lư cái đầu để những giọt mưa vương trên tóc khẽ rơi xuống. Cơn mưa khiến cho hai hàng mi đẫm nước. “Và con có thể viết tên của mình mẹ ạ.” “Con là cậu bé thông minh mà.” Cô nói và dừng lại, đặt một nụ hôn thật say sưa lên vầng trán còn ướt của cậu bé. “Con sẽ cho mẹ xem khi chúng ta về đến nhà chứ?” Cô và cậu con trai 5 tuổi cố gắng rảo bước thật nhanh. Gần tới nhà rồi. Ánh đèn ô tô phản chiếu từ mặt đường ướt sũng khiến mắt họ bị chói trong chốc lát. Chờ tín hiệu đèn đỏ, họ bước nhanh qua con đường tấp nập xe cộ. Cô nắm chặt tay con trai qua lớp bao tay len mềm mại để chắc chắn rằng cậu bé có thể bắt kịp mình. Những chiếc lá đẫm nước mưa vương trên hàng rào không còn tươi màu nữa mà đã dần chuyển thành nâu xám. Hai mẹ con đến một con phố yên tĩnh, nơi có ngôi nhà của họ. Ngôi nhà ấy luôn khiến họ nghĩ về những điều ấm áp nhất. An ninh ở khu phố khiến cô yên tâm thả tay con trai để vén những sợi tóc ướt lòa xòa trên gương mặt rồi chợt mỉm cười khi thấy từng giọt nước rỏ xuống từ mái tóc. “Nhà mình kia rồi”, cô nói với con trai khi hai mẹ con băng qua một khúc rẽ, “mẹ vẫn bật đèn sáng đó.” Chỉ vài bước sang bên kia đường nữa thôi là tới căn nhà của họ. Đó là một ngôi nhà gạch đỏ với thiết kế hai phòng ngủ, căn bếp nhỏ xinh và một khu vườn đầy những chiếc chậu hoa rỗng mà cô luôn định bụng một ngày nào đó sẽ tô điểm chúng bằng những cây hoa đủ màu sắc. Nhà chỉ có hai mẹ con. “Con sẽ đua với mẹ…” Vốn là một đứa trẻ hiếu động, cậu bé chạy nhảy, nghịch ngợm suốt ngày, chỉ khi nào đi ngủ mới chịu ngừng lại. “Thử xem nào!” Ngay lập tức, cậu bé lao nhanh về hướng ngôi nhà có ánh đèn sáng hắt ra từ trong sân, háo hức khi nghĩ về cảm giác thân thuộc và ấm cúng trong ngôi nhà. Nào là sữa, rồi bánh quy, cả 20 phút xem ti vi và chút bánh để nhấm nháp cùng với trà nữa. Những điều này đã nhanh chóng trở thành thói quen của họ khi kỳ học đầu tiên của cậu bé mới đi qua được gần một nửa thời gian. Bỗng nhiên một chiếc xe hơi không biết từ đâu lao đến. Phanh xe ướt nước rít lên những âm thanh chói tai, rồi dường như có tiếng vật gì đó bị đập mạnh vào kính xe. Cậu bé bắn tung lên giữa không trung, rơi mạnh xuống mặt đường. Cô vội lao tới bên con, vụt qua trước đầu xe vẫn đang di chuyển. Cô trượt chân ngã sõng soài, hai tay đập mạnh xuống nền đường, gần như nghẹt thở vì cú va chạm. Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp mắt. Cô vội quỳ xuống bên cạnh con trai, hoảng loạn tìm mạch đập. Cô vẫn kịp thấy hơi thở của mình tạo thành một làn khói trắng lơ lửng trong không khí. Rồi cô thấy một bóng tối hình thành từ phía sau đầu mình, nghe thấy bản thân đang gào khóc như thể con người đó là ai khác. Cô nhìn lên chiếc kính xe mờ đục, miệng gào lên van xin những kẻ giấu mặt ngồi trong xe cứu giúp mình. Cô ôm choàng lấy con trai, vớ lấy áo khoác quấn quanh hai mẹ con, cố gắng dùng cơ thể của mình sưởi ấm cậu bé. Mép áo ướt sũng vì ngấm nước mưa đọng trên mặt đường. Cô hôn lên khuôn mặt con như điên dại, cầu xin cậu bé tỉnh dậy. Chợt luồng ánh sáng rọi từ đèn pha chiếc xe hơi mỗi lúc một xa dần. Nó đang đi lùi. Động cơ xe rú lên, kẻ ngồi trong đang đánh lái ba, bốn lần nhằm xoay đầu trong con phố hẹp. Trong lúc vội vã chạy trốn, gã đã quệt thân xe vào một cây phong nằm bên vệ đường. Và rồi con phố chìm vào bóng tối như lúc ban đầu. Mời các bạn đón đọc Giải Thoát của tác giả Clare Mackintosh.
Ám Ảnh Đen
Ba giờ sáng, khi những ồn ào của thành phố khép lại, những con phố bao trùm bởi bóng tối. Đó cũng là thời điểm thích hợp nhất cho những chuyến “săn đêm". Ám ảnh đen mở ra bằng một màn quảng cáo giật gân: một nữ ca sĩ dắt báo đen đi diễu phố. Nhưng rồi con vật ấy vùng chạy và mất hút trong lòng Ciudad Real, một thành phố Nam Mỹ rộng lớn. Chẳng bao lâu sau, người ta phát hiện ra thi thể một cô gái trẻ bị xé xác, rồi một cô gái khác… Cả thành phố chìm trong sợ hãi. Nỗi ám ảnh đen rình rập đâu đó trong các ngõ ngách và bụi rậm, với bước chân êm như nhung và móng vuốt sắc tựa dao cạo, sẵn sàng vồ lấy những nạn nhân xấu số. Trong khi cảnh sát mải mê tìm kiếm con báo “cuồng mồi” nguy hiểm kia, một người đã quyết định đào bới sâu hơn - truy lùng một sinh vật còn khủng khiếp hơn bất cứ loài dã thú nào…Một kế hoạch “đi săn” mới được vạch ra… *** Review Quynh Anh Thi Dang (Điền Yên) -------------------------- Lúc nhận được sách, tôi nghe nói nó giống Dolocher. Tôi hơi chờn chờn vì tôi xem Dolocher mãi không hết. Một ngày nắng như đổ lửa nọ, tôi mở Ám ảnh đen ra coi cho đời bớt chói. Và thế là bị hút vào luôn. Mở đầu giới thiệu hoàn cảnh không có gì lắm: một nữ diễn viên muốn chơi trội bằng cách dắt báo đi chơi. Ngờ đâu con báo lồng lên rồi chạy mất hút. Sau đó, liên tiếp các vụ án mạng khủng khiếp xảy ra. Nạn nhân đều là các cô gái trẻ, vì lý do gì đó, ở ngoài đường vào ban đêm vắng vẻ. Thảm trạng của nạn nhân rất kinh khủng: đều bị móng vuốt xé xác tơi tả nhưng không bị ăn thịt. Tràn ngập truyện là bóng tối - kẻ bất khả chiến bại, cứ 24 giờ một lần, đánh bại mọi đối thủ. Tác giả mô tả quá hay. Ví dụ như lúc Teresa đi trong hầm tối, bị bủa vây bởi nỗi sợ hãi, cô bé muốn chạy nhưng chân tay bủn rủn, chỉ còn cách chờ cái chết đến. Tôi nhớ đến những giấc mơ của tôi. Rất nhiều lần, tôi nằm mơ thấy mình rơi vào hiểm cảnh, lẽ ra tôi phải chạy thục mạng nhưng toàn thân tôi đơ cứng, không sao cử động nổi. Tim tôi đập thình thịch. Có lúc tôi còn nghĩ trong giấc mơ rằng Adrenalin quái quỉ gì, nghe nói sẽ khiến con người làm được những việc phi thường cơ mà, tại sao mình lại không chạy được? Và khi cái chết trùm bóng đen lên tôi thì tôi choàng tỉnh vì quá sợ hãi. Tôi chưa bao giờ chết trong mơ. Tiếp đến vụ Conchita. Chất điện ảnh của Ám ảnh đen hay kinh khủng. Những chi tiết đủ nhỏ để người đọc tự vẽ trong đầu cảnh tượng của truyện, cũng đủ uớc lệ để cảnh tượng đó của mỗi người sẽ khác nhau, tuỳ vào nỗi sợ hại của họ. Cùng một sự vật đó, dưới ngòi bút của tác giả, nó hiện lên khác hẳn bình thường, mà lại giống với cảnh phim kinh dị nào đó ta đã từng xem qua. Cô gái cuối cùng, trời, tôi muốn yêu cô ấy vì lòng can đảm tuyệt vời. Tôi là người đọc mà còn thấy hồi hộp đến mức mồ hôi lạnh ướt cả tay, thế mà cô ấy lại có thể chế ngự được nỗi sợ hãi, diễn vai mồi nhử từ đầu đến cuối không hề sai sót. Cái kết khá bất ngờ. Ngay từ đầu tôi đã không nghĩ là con báo vì nó sổng khi bị rọ mõm. Nó không bị giết thì cũng chết đói, sức đâu đi vồ người rồi bỏ đi. Nhưng tôi không nghĩ ra cái kết của tác giả. Cái bìa nhìn cũng hay đấy, nhưng không giống mô tả trong truyện, hoặc ít nhất là không giống tưởng tượng của tôi về hoàn cảnh trong truyện. Được cái lần này, tôi không nhớ mình có gặp lỗi chính tả nào không :))) Chấm điểm: 8.25/10 *** Cornell Woolrich (1903-1968) là một trong những nhà văn “trinh thám đen” vĩ đại nhất thế kỷ XX. Ông để lại một kho tàng đồ sộ gần 200 truyện ngắn hình sự. Nhưng tiểu thuyết trinh thám mới là lĩnh vực ông để lại dấu ấn lớn hơn cả. Truyện của Woolrich không có một hình mẫu thám tử cố định, nhưng vẫn cuốn hút độc giả bởi hình ảnh những con người bình dị phải vùng vẫy thoát khỏi định mệnh nghiệt ngã bủa vây. Văn phong tinh tế, tình tiết đầy ám ảnh, kết thúc bất ngờ, tất cả đã tạo cho Woolrich một phong cách rất riêng. Ông được mệnh danh là “Poe của thế kỷ XX”. Cornell Woolrich cũng là một trong những nhà văn trinh thám có nhiều tác phẩm được dựng phim nhất: gần 60 lần chuyển thể lên màn ảnh rộng, trong đó có ba bộ phim gần chạm ngưỡng kinh điển là Phantom Lady, The Window và No Man of Her Own. Đạo diễn danh tiếng Alfred Hitchcock đặc biệt ưu ái khi chọn đến 5 truyện ngắn của ông để chuyển thể, nổi tiếng nhất là Rear Window. *** Trong khi người người dạo phố thì cô ngồi bên cửa sổ, đắn đo giữa một chùm nho pha lê và một bông dành dành tươi, không biết nên gài món đồ nào lên vai áo. Đúng lúc ấy, có tiếng ai đó gõ lên cánh cửa căn phòng nằm đối diện phòng lễ tân. Cho dù chọn món đồ nào, cô cũng biết nó sẽ trở thành một trào lưu lan khắp thành phố. Hàng trăm cô gái trẻ sẽ đua nhau đeo nho pha lê hoặc hoa dành dành tươi những tuần sau đó. Khó mà tin nổi mới mấy năm trước, chẳng ai quan tâm cô gắn thứ gì lên vai. Thật ra thì chẳng ai đoái hoài đến cô chút nào. Hồi ấy, cô vẫn còn đi đôi giày bệt mòn vẹt và liên tục bị mấy hàng ăn ven đường xoàng xĩnh tại Detroit cho thôi việc. Còn giờ đây… Cô không thể ngừng quay đầu lại để ngắm nó ngoài cửa sổ. Đó là minh chứng, là biểu tượng cho thấy cô quan trọng nhường nào, cho dù địa vị này có ngắn ngủi đến đâu. Chính cái hình bóng ngoài kia. CASINO HẠNG SANG KIKI WALKER en la gran revista de arte “TRIC-TRAC” Biển quảng cáo ấn tượng nhất thành phố nổi trên nền trời xanh cobalt của buổi chiều muộn. Trong buổi diễn mở màn tuần sau, khi dòng điện truyền vào, đến cả những người sống ở đầu kia quận Alameda cũng sẽ thấy được tên cô trên màn đêm. Đã có nhãn hiệu nước hoa và sơn móng tay đặt theo tên cô rồi, tất nhiên họ phải trả tiền mới được lãnh vinh dự ấy, và cả thức uống mới nhất tại quán bar Inglaterra sang trọng nữa, cocktail Kiki Walker (đầu đỏ rực và thấu tận óc, theo như cách giải thích của người pha rượu). Suốt mùa đông vừa rồi (từ tháng Sáu đến tháng Chín), cô đi diễu như nữ chúa khắp thành phố lớn thứ ba miền Nam kênh đào Panama này, với xe hơi và tài xế riêng, người hầu riêng và phòng khách sạn hạng sang. Đối với một cô gái đàn ca mua vui cho mấy quán xá Detroit bỗng vụt tỏa sáng thành một ngôi sao sau một tour diễn rong, điều đó không tệ. Không tệ chút nào. Cô vẫn chưa hiểu lắm là nhờ đâu mà mình được như thế này. Một chút tài năng nhảy múa, một xíu tài nghệ ca hát và cực kỳ nhiều may mắn đã hỗ trợ cô. Chủ yếu là cô đã vô tình ở đúng nơi, đúng lúc và không có đối thủ cạnh tranh. Hồi làm tại Detroit, bài hát của cô bị coi là rẻ tiền, nhưng tại đây thì chẳng ai hiểu ca từ nên thành ra chúng nghe có vẻ sâu sắc. Hồi ở Detroit, mái tóc đỏ của cô xuất hiện nhan nhản khắp nơi, nhưng ở đây nó lại trở thành mặt hàng hiếm. Và cô cũng phải thừa nhận rằng có khả năng, khả năng nhỏ thôi, là Manning cùng mấy cái trò điên rồ của anh ta đã góp phần be bé trong việc thu hút sự chú ý của công chúng về phía cô. Kiki không muốn nhớ về cuộc gặp đầu tiên của họ. Khi ấy Manning ngồi tại một quán cà phê ven đường, râu ria chưa cạo và cổ áo thì dơ dáy; còn cô thì tạt qua quán xem họ có cần tuyển thu ngân, hay thậm chí bồi bàn không. Anh ta mời cô một tách cà phê, bởi vì vẫn còn đủ tiền mua thêm một tách; còn cô trông có vẻ đang cần đến cà phê. Nửa tiếng sau, lúc cả hai rời bàn đứng lên, anh ta đã trở thành đại diện truyền thông của cô. Hai tuần sau, Kiki có công việc đầu tiên và Manning có một cái cổ áo sạch. Mình đã giúp anh ta thành danh, cô hay ngắt quãng dòng hồi tưởng khó chịu kia ở đoạn này. Chuyện anh ta góp phần tạo nên thành công của cô nghe thật không tưởng, chẳng đáng nghĩ đến dù chỉ một giây. Bất kể ai đã giúp ai thành danh, chỉ có điều này là chắc chắn: Giờ cả thành phố đang phát điên lên vì cô. Tiếng gõ cửa lại vang lên. “Maria, chắc là Senor Manning đấy,” cô gọi chị người hầu. “Cho ông ấy vào đi.” Cô nghe tiếng then kéo được mở ra, nhưng thay vì câu chào khe khẽ quen thuộc, chị hầu gái lại rú lên chí mạng. Có tiếng bước chân chạy rầm rập, tiếng ghế đổ cái rầm, như thể ai đó vừa ngã lăn ra. Kiki vội xoay người trên băng ghế, tò mò đứng dậy. Trước khi cô kịp làm gì khác, nó đã lộ diện. Cảnh tượng đáng kinh ngạc đến độ tâm trí dứt khoát không tin nổi vào hình ảnh mà cặp mắt thu được, ngay cả khi nó đang lồ lộ trước mặt. Một cái đầu áp sát mặt đất, bấy giờ đang chui qua cửa, tiến về phía cô. Trong khoảnh khắc hoảng loạn đầu tiên, cô chỉ có thể nhận ra đây là đầu của một con vật họ mèo. Mấy từ báo đốm, báo hoa nối đuôi nhau lướt qua bộ óc đờ đẫn vì sốc của cô. Bộ lông đen thẫm, cặp tai nhọn ép phẳng, mõm gí sát thảm, con vật bước đến rất nhanh, tấm thân thuôn dài gợn sóng một cách uyển chuyển. Cô chỉ nhịn được đến lúc ấy trước khi la hét thất thanh, hòa cùng tiếng hét của chị hầu gái. Cô quay lại và nhảy vọt lên bàn trang điểm với sự nhanh nhẹn đầy bản năng của một vũ công. Nước hoa, phấn hộp và đồ trang trí rơi tứ tung xuống khắp sàn nhà, một hộp nhạc nhỏ lập tức ngân nga ngay khi chạm đất. Cô đứng tít trên đó múa may loạn xạ, tóm lấy phần váy gần đùi và vung vẩy nó lia lịa để xua đuổi nỗi kinh hoàng kia. Chỉ đến khi ấy, cô mới để ý cái rọ mõm siết chặt bộ hàm con vật cùng sợi dây buộc đang căng ra, và cả gương mặt đậm chất Trung Tây quen thuộc của Jerry Manning đang nhòm cô từ phía sau. Tiếng la hét trở nên tròn vành rõ chữ hơn, nhưng không giảm âm lượng chút nào. Chắn giữa họ là cái thân mình duyên dáng, uyển chuyển, uốn éo chẳng khác nào loài bò sát của con vật. Bấy giờ nó đang kéo căng dây buộc, bụng áp sát sàn, các thớ cơ vai mạnh mẽ nổi gồ lên dưới lớp lông đen mượt mà, đuôi giật liên hồi, chân tìm cách vồ lấy cái hộp nhạc đang phát ra một giai điệu trong trẻo như tiếng sáo. “Lôi nó ra khỏi đây!” Kiki rú rít như đang ngân quãng tám. “Manning, anh mắc chứng quái gở gì thế, sao lại mang cái thứ đó vào trong này?” “Nó sẽ không làm hại cô đâu,” Manning tìm cách giải thích, đẩy cái mũ cối lên qua vầng trán. “Chẳng việc gì phải sợ cả. Ban nãy, chính tôi đã ngồi cùng nó trong xe chở nông sản suốt chặng đường đến đây. Con báo đã được thuần hóa hoàn toàn. Nó vốn được một tay sống ở ngoại ô nuôi dưỡng từ khi còn bé tí mà.” “Rồi, thế anh mang nó đến chỗ tôi làm gì?” Ít nhất cô cũng đã ngừng la hét. “Tôi tin là trong lúc thực hiện chuyến ngao du hàng ngày quanh khu Alameda, sẽ là ý hay nếu cô dắt theo con vật này.” “Dắt theo cái thứ đó ấy hả? Không bao giờ! Còn lâu tôi mới đi cùng nó ra cửa, chứ đừng nói là ngồi cùng một xe với nó rong ruổi khắp Alameda! Giờ nghe cho rõ đây, Manning, tôi bắt đầu thấy mệt mỏi với sóng não nhà anh…” Anh ta tranh thủ đưa một tay lên châm điếu thuốc. “Hãy nghĩ thử mà xem, cô sẽ gây dậy sóng cỡ nào? Chỉ cần bước xuống khỏi xe với con báo bên cạnh, ghé vào quán Globo nhấm nháp vài hớp Martini trong mấy phút thôi. Chuyện ấy có gì khó khăn nhỉ? Tôi đã cài cắm nhiếp ảnh gia khắp quán để chụp cảnh cô dắt theo nó rồi. Tôi có thể giúp cô độc chiếm toàn bộ trang đôi của tờ Grafico Chủ nhật tới này, lão Herrera đã bật đèn xanh. Nguyên hai trang ảnh in ống đồng xanh, chỉ dành riêng cho cô. Nhìn này, tôi còn kiếm cho cô cả một cây roi vàng để mang cho đủ bộ.” “Anh tử tế với tôi quá!” Cô giận dỗi nói. “Chuyện này chỉ tốt cho cô, chứ không phải cho tôi,” anh ta dỗ ngon dỗ ngọt. “Tuần tới cô diễn mở màn rồi. Dân Mỹ Latin thích các siêu sao trông phải thật khác biệt. Cô muốn tour diễn thành công vang dội phải không?” “Tôi muốn tham gia biểu diễn, chứ không phải nằm băng bó đầy người trong một bệnh viện nào đó,” cô nói. “Mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi hết rồi, giờ tôi còn cần chiêu trò làm gì nữa? Nếu là lúc mới bắt đầu sự nghiệp thì lại khác.” “Chẳng bao giờ cô xong xuôi trong cái ngành này được đâu. Thôi nào, Kick, chịu chơi đi. Xem này, nhìn tôi một tí nhé.” Con vật đang nằm ườn một bên, lười nhác liếm láp bên chân. Anh ta cúi xuống, gập ngón trỏ lại và nhẹ nhàng vuốt lớp lông mượt dưới bụng nó mấy lần. Nó lập tức lật ngửa lên theo đúng kiểu bọn mèo nhà, bốn chân giơ trên không, khẽ khàng tìm cách gạt ngón tay anh ta ra. “Cô không thể kiếm được con báo nào thuần hơn con này đâu. Cứ thử dắt nó xem. Chỉ cần thử thôi, xem cảm giác thế nào.” Anh ta vươn ra và chộp lấy bàn tay hãy còn ngại ngần của cô, luồn vòng dây buộc qua mấy ngón tay. Kiki vẫn đứng im trên bàn, trong lòng đã bắt đầu xuôi xuôi, dù không biểu hiện đồng tình ra mặt. Váy cô đã được thả xuống như cũ. Anh ta buông tay, sợi dây dắt nằm hoàn toàn trong lòng bàn tay cô. “Tôi sẽ ngồi trong một cái taxi ngay đằng sau và theo sát cô suốt cả chặng đường.” Riêng việc này thì cô kiên quyết rắn mặt, “Ồ không, anh sẽ không làm vậy. Hoặc anh đi cùng xe với tôi và ngồi trên ghế trước, hoặc là tôi sẽ ở lì trong này không thèm ló mặt ra đường.” Anh ta để dành lập luận hiệu nghiệm nhất của mình vào phút chót. Bằng kinh nghiệm bản thân, Manning biết chắc nó sẽ thuyết phục được cô ngay lập tức. Anh chàng này quả là một nhà tâm lý học ranh mãnh. “Cô nhìn mà xem, con báo hợp với bộ đồ cô đang mặc chưa kìa! Cô phải tận mắt thấy mình với nó hợp thành một bộ đôi ấn tượng ra sao! Xuống dưới này một phút thôi, Kick, đứng cạnh nó và nhìn vào gương đi! Đến cả hai vị nữ hoàng Zenobia và Cleopatra cũng không thể sánh được bằng cô!” Anh ta giơ tay lên đỡ cô xuống. Có vẻ đòn tấn công đã phát huy tác dụng. Tiếp tục liếc con báo đầy ngờ vực, Kiki dè dặt chúc mũi chân xuống, chuẩn bị đặt chân lên sàn một lần nữa. “Chết tiệt,” cuối cùng cô thốt ra, chút bỗ bã từ những tháng ngày lăn lộn ở Detroit tái trỗi dậy, “tôi thật đúng là biết hi sinh vì nghệ thuật!”   Mời các bạn đón đọc Ám Ảnh Đen của tác giả Cornell Woolrich.