Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm

Tại sao lại có quá nhiều khoảng cách giữa những điều mà các công ty biết là họ nên làm với những việc họ thực sự làm? Tại sao lại có quá nhiều các công ty không thể áp dụng những kinh nghiệm và kiến thức mà họ đã phải rất nỗ lực mới tích lũy được? Khoảng cách từ nói đến làm (The Knowing-Doing Gap) là cuốn sách đầu tiên đối mặt với thách thức biến kiến thức về cách nâng cao hiệu suất hoạt động thành hành động thực sự tạo ra những kết quả có thể định lượng được. Trong cuốn sách này, Jeffrey Pfeffer và Robert Sutton, những tác giả và giảng viên nổi tiếng, đã xác định nguyên nhân của khoảng cách từ-biết-tới-làm và đưa ra cách lấp đầy khoảng cách đó. Thông điệp trong cuốn sách rất rõ ràng - các công ty muốn biến kiến thức thành hành động phải tránh xa "bẫy nói suông"(smart talk trap). Những kế hoạch, phân tích, cuộc họp, buổi trình bày của nhà điều hành để truyền cảm hứng cho công việc không thể thay thế cho hành động. Những công ty mà hành động dựa trên kiến thức sẽ loại bỏ được nỗi sợ hãi, sự cạnh tranh nội bộ, biết được cái gì quan trọng và củng cố vai trò người lãnh đạo, người vốn hiểu rõ công việc của từng nhân viên trong công ty. Các tác giả lấy ví dụ từ hàng tá công ty để chỉ ra tại sao một số có thể vượt qua khoảng cách từ-biết-đến-làm, một số dù cố nhưng không thể và một số khác tránh được ngay từ đầu. Khoảng cách từ nói đến làm chắc chắn là cuốn sách hữu ích đối với những giám đốc điều hành ở mọi nơi trên thế giới hàng ngày đang phải đấu tranh để giúp công ty của họ vừa biết lại vừa làm được những gì họ biết. Đây là một cẩm nang thực tế, hữu ích trong vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp ngày nay. TÁC GIẢ : Jeffrey Pfeffer là một nhà lý luận kinh doanh người Mỹ. Ông là giáo sư chuyên về Hành vi tổ chức tại Trường Cao học Kinh doanh thuộc Đại học Stanford, và được coi là một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất hiện nay. Robert I. Sutton là giáo sư Khoa học và Kỹ thuật Quản lý tại Đại học Stanford. Sutton đã viết 5 quyển sách trong đó có "The No A** hole Rule: Building a Civilized Workplace and Surviving One That Isn't" nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times và đã giành giải Quill Award dành cho sách kinh doanh hay nhất năm 2007. *** Biết phải làm gì thôi chưa đủ Tại sao chúng ta đổ bao công sức vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, nghiên cứu kinh doanh, rồi sách vở, bài viết, nhưng lại có quá ít thay đổi trong hành động thực tế của các nhà quản lý và tổ chức? Năm 1996 có hơn 1.700 cuốn sách kinh doanh được xuất bản ở Hoa Kỳ, và con số này ngày càng tăng. Rất nhiều trong số đó chứa đầy những phân tích và công thức giống nhau, chỉ khác về ngôn ngữ và hình ảnh, và đặc biệt, chẳng có gì khác những cuốn sách được xuất bản trước đó. Trên thực tế, vô số ý tưởng tự xưng là mới ra năm nay đều đã xuất hiện trong những cuốn sách được in từ hàng thập kỷ trước. Dù thế, các cuốn sách mới này vẫn được thị trường đón nhận vì những ý tưởng đó vẫn chưa được thực hiện dù được coi là hữu dụng và được nhiều người biết đến. Vì vậy, các tác giả vẫn tiếp tục cố gắng, một phần bằng cách thay đổi mẫu mã kiểu dáng và cập nhật thông tin, để làm thế nào đó khiến các nhà quản lý không chỉ biết, mà còn áp dụng những gì họ nắm được. Và các nhà quản lý tiếp tục mua những cuốn sách đầy rẫy những điều họ đã biết bởi họ hiểu rằng chỉ biết thôi chưa đủ. Họ hy vọng rằng việc mua và đọc thêm một cuốn sách, biết đâu đấy, sẽ chuyển hóa kiến thức đó thành hành động tổ chức. Mỗi năm, các tổ chức đổ hơn 60 tỷ đô-la vào đào tạo, đặc biệt là đào tạo quản lý. Phần nhiều trong các hoạt động đào tạo đó, với những chủ đề như Quản lý Chất lượng Toàn diện (Total Quality Management − TQM), dịch vụ khách hàng, xây dựng lòng trung thành của khách hàng, khả năng lãnh đạo và thay đổi cơ cấu, đều dựa trên những kiến thức và nguyên tắc về cơ bản là vĩnh cửu: không thay đổi và không được thay đổi. Dù vậy, quá trình đào tạo thường lặp đi lặp lại. Nhưng dù chất lượng nội dung, cách truyền đạt, hay tần suất lặp lại đến đâu đi nữa, đào tạo quản lý vẫn không thể thay đổi các thực tiễn tổ chức. Giáo sư Mark Zbaracki của Đại học Chicago đã nghiên cứu quá trình đào tạo Quản lý Chất lượng Toàn diện tại 5 tổ chức có đội ngũ cán bộ cấp cao tin rằng phương pháp TQM có thể nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ của họ, cũng như là quá trình đào tạo đó đã thay đổi cách con người làm việc. Thế nhưng Zbaracki thấy rằng các phương pháp định lượng TQM không hề được sử dụng trong 4 tổ chức và chỉ được dùng một cách hạn chế ở tổ chức thứ 5. Kết quả này không phải chỉ xảy ra ở TQM, mà chúng tôi đã thấy chuyện tương tự xảy ra liên tục trong quá trình nghiên cứu. Mỗi năm, các tổ chức đang cần lời khuyên tiêu tốn hàng tỷ đô-la vào các dịch vụ tư vấn quản lý – ước tính là 43 tỷ đô-la vào năm 1996. Nhưng lời khuyên hiếm khi được áp dụng. Một nhà cố vấn, khi thuyết trình thuyết phục một ngân hàng lớn của Mỹ giao việc cho mình, đã bật một slide chứa các khuyến nghị từ 4 nghiên cứu được thực hiện 6 năm trước cho ngân hàng này. Cả 4 bộ nghiên cứu đều đi đến cùng một kết luận, điều này không có gì ngạc nhiên vì đều do những con người rất thông minh tuy từ bốn hãng khác nhau nhưng được cung cấp các thông tin về cơ bản là giống nhau thực hiện. Người thuyết trình, người đang bán việc áp dụng và thay đổi hơn là bán dịch vụ phân tích, đã hỏi những nhà điều hành ngồi đó, “Tại sao các vị lại muốn trả tiền để nhận vẫn câu trả lời đó lần thứ năm?” Hãng của ông đã nhận được hợp đồng. Một ví dụ nữa về việc biết-nhưng-không-làm trong thế giới cố vấn quản lý: hai nhà cố vấn của một hãng hàng đầu làm việc cho một công ty điện lớn ở Mỹ Latinh đang đối mặt với quá trình bãi bỏ các quy định. Họ đều rất chán nản khi biết rằng ban quản lý đã có một tài liệu dày 500 trang, từ 4 năm trước, với các kế hoạch và khuyến nghị chi tiết, do một hãng cố vấn khác làm trong hợp đồng trước. Họ báo cáo lại: Tài liệu đã có rất tốt. Nó cung cấp các nghiên cứu đánh giá chi phí tiêu chuẩn từ các công ty dân dụng hiệu quả nhất trên thế giới, các tóm tắt về các hệ thống đào tạo thành công nhất ở các công ty công nghiệp khác, và các lịch trình thực hiện khá chi tiết... Do phân tích của chúng ta cũng dựa trên chính... các thông tin được đưa cho các nhà cố vấn từ bốn năm trước... các khuyến nghị của chúng ta về cơ bản là y hệt. Vấn đề không phải là phân tích, mà là thực hiện. Mặc dù chúng ta có thể xác định được các vùng mới cần cải thiện, nhưng cốt lõi gần như giống hệt tài liệu cũ... Khách hàng đã có từ trước các thông tin chúng ta đang đưa cho họ. Mỗi năm, hàng trăm trường kinh doanh ở Hoa Kỳ đào tạo ra hơn 80.000 thạc sĩ quản trị kinh doanh và thực hiện rất nhiều nghiên cứu về các chủ đề kinh doanh. Nghiên cứu và giáo dục kinh doanh đang tăng lên cả về phạm vi và tầm quan trọng trên khắp thế giới. Dù thế, việc chuyển hóa quá trình nghiên cứu và đào tạo quản lý này thành thực tiễn hoạt động diễn ra rất chậm chạp và thất thường. Có rất ít bằng chứng cho thấy mối liên kết giữa việc nhân sự được đào tạo chuyên sâu về kinh doanh với việc tổ chức hoạt động hiệu quả. Rất nhiều hãng hoạt động tối ưu – như Southwest Airlines, Wal-Mart, The Men’s Wearhouse, ServiceMaster, PSS/World Medical, SAS Institute, AES, Whole Foods Market, và Starbucks – không tuyển người từ những trường kinh doanh hàng đầu và không đặt nặng về vấn đề bằng cấp trong hoạt động nhân sự của họ. Nhiều nhà nghiên cứu đã thấy rằng “những điều được dạy trong trường đại học hay trường kinh doanh không thực sự chuẩn bị cho các nhà quản lý tương lai những kiến thức thực tế về quản lý.” Một báo cáo cho thấy 73% các thạc sĩ vừa tốt nghiệp chương trình MBA khi được hỏi đã nói là “các kỹ năng MBA của họ được dùng rất ít hoặc không dùng gì trong công việc quản lý đầu tiên của họ.” Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao bao nhiêu nỗ lực đổ vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, các nghiên cứu tổ chức và rất nhiều bài viết, sách báo, nhưng lại có quá ít thay đổi trong thực tiễn quản lý như vậy? Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao chút ít thay đổi trong quản lý thực sự xảy ra đó lại gặp quá nhiều khó khăn thế không? Tại sao mà cuối các khóa đào tạo hoặc các cuốn sách, nhiều nhà lãnh đạo nói là đã “sáng ra” và “khôn lên” nhưng vẫn không thay đổi được gì trong tổ chức của họ? Chúng tôi cũng đã tự hỏi điều đó và đã lên đường thực hiện nhiệm vụ thám hiểm một trong những bí ẩn lớn nhất về quản lý tổ chức: Tại sao kiến thức về những việc cần làm thường xuyên không thể dẫn tới hành động hoặc hành vi nhất quán với kiến thức đó? Chúng tôi gọi đây là vấn đề từ-biết-đến-làm (knowing-doing problem): Thách thức đến từ việc biến kiến thức nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức thành hành động nhất quán với kiến thức đó. Cuốn sách này đại diện cho những gì chúng tôi học được về các nhân tố tạo nên khoảng cách từ-biết-đến-làm, lý do và cách thức một số tổ chức có thể áp dụng kiến thức của họ thành công hơn số còn lại. Chúng tôi đã mất 4 năm để học hỏi về những điều tạo ra khoảng cách từ-biết-đến-làm và cách thu hẹp khoảng cách đó, cũng như một số cách giúp các tổ chức né tránh được khoảng cách đó ngay từ đầu. Bắt đầu bằng việc lùng sục các văn bản học thuật cũng như đại chúng để tìm kiếm các câu chuyện, các tình huống cụ thể, các nghiên cứu diện rộng của nhiều hãng có thể cung cấp cách nhìn thấu đáo về vấn đề từ-biết-đến-làm. Đã có các bằng chứng cho thấy mọi ngành công nghiệp đều có các tổ chức gặp phải “căn bệnh” này. Nhưng hiếm có câu trả lời thỏa đáng nào về nguyên nhân hay cách chữa nó. Vì thế chúng tôi thực hiện hàng tá các nghiên cứu định tính và định lượng về các vấn đề từ-biết-đến-làm trong các tổ chức, từ các hãng dịch vụ tài chính, thiết kế sản phẩm, tới các tập đoàn sản xuất truyền thống chuyên “cắt gọt kim loại”, các công ty khai thác mỏ, công ty sản xuất điện, và các chuỗi nhà hàng và bán lẻ. Chúng tôi cũng đã dạy ở Đại học Stanford, trong cả trường kinh doanh và kĩ thuật, nơi các sinh viên quản trị của chúng tôi thực hiện khoảng 100 bài tập tình huống của riêng họ về các vấn đề từ-biết-đến-làm và các vấn đề này có thể đã và sẽ được giải quyết thế nào. Chúng tôi đã kiểm tra diện rộng một loạt các phương cách tổ chức để tìm hiểu về khoảng cách từ-biết-đến-làm. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung hơn vào một bộ những phương thức, dù hiếm được thực hiện, nhưng hầu hết các nhà quản lý đều biết đến, được tuyên truyền rộng rãi trong các tổ chức, và đã cho thấy có khả năng tăng cường hiệu suất tổ chức một cách nhất quán: chúng được gọi là phương thức quản lý hiệu suất cao hay cam kết cao độ. Các phương thức này đã được mô tả và ảnh hưởng tích cực của chúng đến hiệu suất hoạt động đã được phân tích trong rất nhiều bài viết và sách vở. Chúng ta sẽ dùng đến bằng chứng này nếu cần để hỗ trợ luận cứ về khoảng cách từ-biết-đến-làm, nhưng sẽ không đưa ra các mô tả chi tiết về từng phương thức hoặc một đánh giá chuyên sâu về bằng chứng cho thấy hiệu quả tích cực của nó đối với hiệu suất hoạt động. Mối quan tâm của chúng ta nằm ở việc nắm rõ được những rào cản của quá trình chuyển hóa kiến thức thành hành động và cách thức một số hãng đã vượt qua các rào cản đó. Các vấn đề từ-biết-đến-làm mà chúng ta đã quan sát được có tính chất phổ thông và hiện hữu trong nhiều chủ đề, từ ứng dụng các kiến thức tiếp thị và các phương thức tốt nhất trong dịch vụ khách hàng tới việc bảo lưu và thực hiện các phương thức sản xuất ưu việt. Chúng tôi đã không tìm thấy được những câu trả lời đơn giản cho thế lưỡng nan từ-biết-đến-làm này. Dựa trên tầm quan trọng của vấn đề từ-biết-đến-làm, nếu những câu trả lời đơn giản có tồn tại, thì hẳn là chúng đã được thực thi rộng rãi. Và những hãng hiếm hoi có thể chuyển hóa kiến thức thành hành động một cách nhất quán cũng không thể tận dụng được lợi thế cạnh tranh đáng kể đó như hiện nay. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn những nhận thức và chẩn đoán về một số nguồn sinh ra các vấn đề từ-biết-đến-làm, và những ví dụ về các công ty phải chịu hậu quả nặng nề từ vấn đề này, những công ty chưa từng gặp cũng như một số công ty đã có thể khắc phục lỗ hổng từ-biết-đến-làm. Nhưng một trong những nhận thức quan trọng nhất từ nghiên cứu của chúng tôi đó là kiến thức thực sự được vận dụng nhiều khi được rút ra sau khi thực hành thay vì đọc, lắng nghe hay suy ngẫm. Những điều chúng tôi có thể làm được cho bạn trong cuốn sách này rất giới hạn, dù cho chúng tôi đã thu được nhiều nhận thức sâu sắc. Chúng tôi khuyên các bạn nên thực hiện những hành động có suy xét thận trọng thường xuyên hơn. Hãy hạn chế thời gian dự tính và phàn nàn về các vấn đề của tổ chức. Hành động sẽ giúp bạn rút ra nhiều kinh nghiệm hơn. Khi mô tả lỗ hổng từ-biết-đến-làm cho những người khác, chúng tôi thường nhận được chung một lời đáp. Họ sẽ nói rằng lỗ hổng đó bắt nguồn từ những vấn đề cố hữu của cá nhân, do thiếu kiến thức, kỹ năng hoặc có vấn đề về “tính cách”, và sự tồn tại của nó phản ánh sự không hoàn hảo của một cá nhân. Thật sai lầm! Nếu bạn làm việc ở một nơi mà bạn hoặc các đồng nghiệp của mình không biến kiến thức thành hành động, đó có thể không phải hoàn toàn là lỗi của bạn. Rõ ràng, một số người có thể biến kiến thức thành hành động nhanh hơn, số khác có tư duy nhanh nhạy hơn và có khả năng thích nghi tốt hơn người khác, và rằng tâm lý cá nhân đóng một vai trò nào đó trong vấn đề khoảng cách từ-biết-đến-làm mà chúng tôi đang phân tích. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng chúng không đóng vai trò chính yếu trong câu chuyện. Có những tổ chức có thể chuyển kiến thức thành hành động một cách nhất quán và vẫn làm được vậy dù họ có mở rộng quy mô, tuyển dụng thêm nhân sự hay thâu tóm thêm các công ty khác hay không. Các tổ chức khác, dù sở hữu những nhân viên thông minh, chăm chỉ, nhanh nhạy nhưng lại không thể chuyển hóa kiến thức về hoạt động tổ chức thành hành động thực tiễn. Cứ như là đã tồn tại một “máy hút não” trong những tổ chức đó chuyên hút kiệt trí tuệ và tầm nhìn của các thành viên. Sự khác biệt giữa các tổ chức phần nhiều xuất phát từ hệ thống quản lý và các phương châm hoạt động của họ thay vì sự khác biệt về chất lượng con người. Các công ty lớn thu được hiệu quả đáng kinh ngạc nhờ những người bình thường. Những công ty không-quá-lớn thu hút các nhân tài và đánh mất lợi thế đến từ tài năng, nhận thức và động lực của họ. Đó là lý do chúng tôi tập trung vào các phương thức quản lý có thể tạo ra hoặc giảm thiểu khoảng cách từ-biết-đến-làm. Thực hiện hay lờ đi: Khoảng cách từ-biết-đến-làm có thực sự tồn tại? Làm sao chúng ta biết kiến thức không phải lúc nào cũng được áp dụng vào thực tiễn và đây là vấn đề ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của tổ chức? Và quan trọng hơn, làm thế nào các tổ chức nắm được mức độ mà tại đó họ đã không làm những điều nên làm? Đây là những vấn đề quan trọng nhưng không quá phức tạp. Bằng chứng về khoảng cách từ-biết-đến-làm Có rất nhiều các nghiên cứu bên trong những ngành công nghiệp riêng lẻ cho thấy các đường hướng ưu việt giúp quản lý con người và tổ chức công việc của họ. Dù những đường hướng được cho là ưu việt đó được biết đến tương đối rộng rãi, nhưng việc lan tỏa chúng diễn ra chậm chạp và không trơn tru, còn chuyện thụt lùi là phổ biến. Một nghiên cứu về ngành dệt may đã cho thấy rằng quy trình sản xuất mô-đun (modular production) tập trung vào sản xuất theo nhóm đạt được hiệu quả sản xuất kinh tế cao hơn xét theo nhiều tiêu chí so với hình thức sản xuất trọn gói (bundle) truyền thống sử dụng nhân công làm từng sản phẩm và đào tạo giới hạn. Các ấn bản thương mại, hiệp hội ngành và các công đoàn có liên quan đã lên tiếng ủng hộ quy trình sản xuất mô-đun từ đầu thập niên 1980. Ấy vậy mà đến năm 1992, khoảng 80% các sản phẩm dệt may vẫn được làm theo hình thức trọn gói, và các nhà máy đã từng áp dụng quy trình sản xuất mô-đun cũng quay về với hệ thống trọn gói. Mời bạn đón đọc Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm của tác giả Jeffrey Pfeffer & Robert I. Sutton.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuộc Sống Không Giới Hạn
Bạn đừng bao giờ nghĩ vấp ngã của mình là thất bại chung cuộc, đừng bao giờ coi chúng tựa như dấu chấm hết, bởi thực tế cho thấy khi bạn đấu tranh vượt lên khó khăn chính là lúc bạn đang trải nghiệm cuộc sống. Bạn đã thực sự vào cuộc. Những thách thức mà chúng ta phải đối mặt có thể giúp chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, tốt đẹp hơn, và được trang bị đầy đủ hơn cho sự thành công. Nếu không có tay lẫn chân, bạn có thể tự đứng lên khi ngã? Tôi chắc chắn rằng: Có! Bạn có thể hình dung, hồi bé tôi thường xuyên phải hứng chịu những cú ngã sấp mặt. Tôi phải chịu đựng không biết bao nhiêu những cú ngã như trời giáng từ trên bàn, từ trên ghế cao, trên giường, trên cầu thang, trên những con dốc. Không có tay để chống đỡ, tôi thường bị đập cằm xuống đất, ấy là chưa kể đến mũi và trán. Nhiều lần tôi bị ngã đau đến mức tưởng chừng không thể gượng dậy được nữa. Nhưng tôi chưa bao giờ đầu hàng, chưa bao giờ cho phép mình được buông xuôi. Có một câu ngạn ngữ của người Nhật mô tả rất chính xác cách tôi đạt đến thành công, đó là: “Ngã bảy lần, đứng dậy tám lần”. Trong các bài diễn thuyết, tôi đã chứng minh thuyết của tôi về sự thất bại bằng cách để mình ngã úp bụng và cứ tiếp tục nói chuyện với khán thính giả trong tư thế đó. Xét trên thực tế, tôi không có chân tay, bạn có thể sẽ nghĩ rằng tôi không thể tự gượng dậy được. Các khán thính giả cũng nghĩ như vậy.  Mọi người thường xúc động khi họ chứng kiến tôi đã phải vất vả như thế nào mới thực hiện được cái việc đơn giản là dựng người dậy từ tư thế nằm. Từ những gì chứng kiến, họ liên hệ đến cuộc đấu tranh vượt lên nghịch cảnh của tôi bởi con người chúng ta ai mà chẳng phải đấu tranh với nghịch cảnh. Bạn cũng có thể trở nên can đảm khi các kế hoạch bị bế tắc hoặc khi bạn gặp khó khăn. Những thử thách và gian khổ của bạn là một phần của cuộc sống mà con người chúng ta ai cũng gặp phải trên đường đời. Những bài học từ thất bại Có thể coi những thất bại của mình là một món quà bởi vì chúng thường là động cơ thúc đẩy bạn tạo ra đột phá. Vậy những lợi điểm mà chúng ta có thể có từ sự thất bại là gì? Tôi nghĩ ít nhất có bốn bài học quý giá mà thất bại mang đến cho chúng ta. Đó là: 1.  Thất bại là một người thầy vĩ đại: Tại một trường học ở Brisbane, tôi bắt đầu bài diễn thuyết của mình một cách dở tệ. Có chuyện khiến tôi bị phân tán, và tôi không thể diễn đạt ý nghĩ một cách trôi chảy. Tôi căng thẳng đến mức toát mồ hôi; cứ lặp đi lặp lại lời mình đã nói một cách ngớ ngẩn. Tôi muốn độn thổ vì xấu hổ. Hôm ấy tôi đã diễn thuyết tồi đến nỗi tôi nghĩ tin đồn sẽ lan đi và từ đó về sau sẽ chẳng ai thèm mời tôi diễn thuyết nữa. Khi kết thúc bài diễn thuyết và rời khỏi trường học đó, tôi cảm thấy mình là một trò cười: danh tiếng thế là đi tong! Nhưng buổi diễn thuyết dở tệ đó đã khiến tôi thậm chí tập trung hơn vào ước mơ của mình. Tôi tập diễn đạt và thuyết trình một cách chăm chỉ và đầy quyết tâm. Một khi bạn đã chấp nhận rằng sự hoàn hảo là mục tiêu để hướng tới, thì vấp ngã không phải là việc quá khó để kiểm soát. Mỗi bước đi sai lầm vẫn là một bước đi, thêm một bài học được ghi nhớ, thêm một cơ hội để lần sau làm tốt hơn. 2.  Thất bại hình thành nên tính cách: Điều gì không hủy hoại bạn rất có thể sẽ khiến bạn trở nên mạnh mẽ hơn, tập trung hơn, sáng tạo hơn, và quyết tâm hơn trong hành trình theo đuổi những ước mơ. Bạn có thể đang nóng lòng muốn đạt đến thành công, và điều đó không có gì sai cả, nhưng kiên nhẫn cũng là một đức tính tốt, và thất bại chắc chắn sẽ giúp bạn phát triển đức tính đó. Hãy tin tôi đi, từ trải nghiệm của bản thân tôi đã hiểu được rằng kế hoạch của mình không nhất thiết phải nằm trong kế hoạch được thực hiện một sớm một chiều. 3.  Thất bại thúc đẩy bạn tiến lên phía trước: Bạn không bao giờ biết được điều gì nằm ở chặng tiếp theo của hành trình. Đợi bạn ở phía trước có thể là câu trả lời cho những ước mơ. Vậy nên bạn phải hăng hái lên, mạnh mẽ lên, và tiếp tục cố gắng. Nếu thất bại, thì đã sao? Nếu bạn vấp ngã, thì đã sao? Edison cũng nói: “Mỗi trải nghiệm sai lầm bị loại bỏ đều bổ sung thêm một bước tiến về phía trước”. 4.  Thất bại giúp bạn trân trọng thành công: Khi bạn toàn tâm toàn ý thực hiện mục tiêu và khi đã trải qua nhiều gian nan khổ cực trong hành trình phấn đấu, cảm giác về thành công tuyệt vời đến nỗi bạn muốn tiếp tục phát huy nó, đúng không? Tôi không nghĩ đó là một sự ngẫu nhiên. Đó là một trong những lý do chính khiến nhân loại phát triển và tiến hóa như ngày nay. Chúng ta ngợi ca những thắng lợi đạt được qua gian khổ không phải bởi chúng ta duy trì được sự nỗ lực mà bởi bản chất tự nhiên của chúng ta là không ngừng phát triển và tìm kiếm sự mãn nguyện ở mức cao hơn. Nhìn lại tất cả những gì mình đã phải vượt qua trong thời thơ ấu - đau khổ, bất an, tổn thương, cô đơn - tôi không hề buồn. Tôi thấy tràn ngập cảm giác biết ơn bởi mình đã vượt qua được những thách thức đó, những thách thức đã khiến cho thành công của tôi thêm ngọt ngào và ý nghĩa. Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Không Giới Hạn của tác giả Nick Vujicic.
Sakichi Toyoda Và Toyota - Thay Đổi Công Thức Của Khát Vọng - Toyoda Sakichi
Tập sách Sakichi Toyoda và Toyota Thay đổi công thức của khát vọng là một phần trong bộ sách Đạo Kinh doanh Việt Nam và Thế Giới. Và bộ sách này là kết quả của dự án nghiên cứu mang tên "Đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế giới" do các chuyên gia của PACE cùng một số tác giả phối hợp thực hiện. “Toyoda Kiichiro - nhiệm vụ lớn của con là bắt đầu nghiên cứu công nghệ xe hơi. Đó là tương lai của con và bổn phận của con, của gia đình ta đối với đất nước trong thời kỳ mới”. Những ghi chép của người sáng lập công ty dệt Toyoda (sau này là tập đoàn xe hơi Toyota), trong một cuốn sổ làm việc của ông, như phó thác lên vai con trai một sứ mạng cao cả, hay đúng hơn đó chính là giấc mơ lớn mà ông chưa kịp thực hiện khi từ giã thế gian. Mời các bạn đón đọc Sakichi Toyoda Và Toyota - Thay Đổi Công Thức Của Khát Vọng của tác giả Toyoda Sakichi.
Tôi Đúng Bạn Sai - Giờ Thì Sao? - Xavier Amador
Trong rất nhiều tình huống của cuộc sống: trong gia đình, trường học, công sở và mọi nơi khác, chúng ta thường xuyên phải đối mặt với sự tranh luận. Vậy có bao nhiêu lần bạn chiến thắng trong khi biết là mình đúng? Vấn đề là ở chỗ người kia cũng nghĩ rằng họ đúng còn bạn mới là người quá ngoan cố không chịu thừa nhận. Đến giờ bạn đã làm gì để có thể khiến đối phương cùng nhìn nhận mọi việc theo cách của bạn? Tranh luận một cách lý trí? Cố gắng làm cho người kia thấy có lỗi? Giận dỗi? La hét? Đe dọa? Có ích gì không? Bạn có được điều mình muốn không? Và quan trọng hơn - bạn có được điều bạn thực sự cần không?”   Với "Tôi đúng, bạn sai, giờ thì sao?" Tiến sĩ Amador đã cho độc giả những tình huống cụ thể, những lời khuyên về cách giao tiếp, cách lắng nghe và giải quyết những bế tắc. Ông phải mất đến hơn mười năm mới nghĩ ra được một phương pháp tin cậy cho mọi bế tắc, một bản đồ chỉ dẫn đường đi nước bước cho gần như mọi bất đồng thực sự tồn tại trong các mối quan hệ giữa con người với con người - đó là Lắng nghe - Đồng cảm - Đồng ý - Phối hợp, hay LEAP (Listen - Empathy - Agree - Partner). "Bất cứ khi nào chúng ta tập trung chú ý vào một vấn đề hẹp là ai đúng ai sai, chúng ta đã mất đi cái nhìn toàn cảnh của một bức tranh lớn hơn: cụ thể chúng ta muốn người khác thực hiện điều gì, sự lành mạnh của mối quan hệ, những mục tiêu dài hạn và tương tự thế. Một khi bạn đã hiểu làm thế nào để LEAP, bạn sẽ có khả năng đập tan mọi ngõ cụt và thuyết mục mọi người giúp đỡ bạn đạt được điều bạn thực sự cần. Và, điều quan trọng hơn cả là bạn sẽ làm việc đó mà không trở thành nạn nhân của một cơn giận dữ hoặc thất vọng tiêu cực vốn là nguyên nhân chính phá sụp mối quan hệ của bạn." Tiến sĩ Xavier Amador là một diễn giả luôn được “săn lùng” trên khắp thế giới, một nhà tâm lý học đồng thời là giáo sư tại đại học Columbia. Ông chính là người sáng lập ra viện LEAP đồng thời là tư vấn cho nhiều công ty và các cơ quan chính phủ, Viện Y Tế Quốc Gia.  LEAP không đơn thuần chỉ là một phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Nó là tổng thể những nguyên tắc tâm lý cơ bản và kỹ năng cụ thể đã được nghiên cứu cẩn thận giúp bạn trở thành người chiến thắng trong cuộc tranh luận mà vẫn giữ được mối quan hệ tốt đẹp của bạn. “Xavier Amador biết chính xác mình đang nói gì. ‘Tôi đúng, anh sai rồi’ là câu nói mà bạn có thể nghe thấy mỗi ngày, ở mọi nơi, đặc biệt là trong các công sở. Với cuốn sách này bạn có thể học được cách chiến thắng trong những cuộc tranh luận như thế và tìm ra cách tốt nhất để tiến lên phía trước mà không phải ‘qua cầu rút ván." Jeffrey J. Fox, Giám đốc điều hành Tập đoàn Fox & Company đã nhận xét vậy, và chắc chắn đó cũng là điều tất cả chúng ta nghĩ kết luận vậy sau khi đọc xong cuốn sách này. Mời các bạn đón đọc Tôi Đúng Bạn Sai - Giờ Thì Sao? của tác giả Xavier Amador.
10 Câu Nói Vạn Năng - Rich DeVos
– Đã 2 tháng kể từ khi mình mua quyển sách này trên mạng và khi đã đọc xong, đến giờ mình mới có thời gian để ghi những dòng cảm nhận này, những cảm nhận cho quyển sách “10 câu nói vạn năng” (10 powerful phrases for positive people) của Rich DeVos. – Khi nhìn qua tựa đề quyển sách và dòng chữ ở dưới tờ bìa: “Lời nói tích cực có sức mạnh làm thay đổi cuộc sống theo hướng tốt đẹp hơn”, mình đã ngỡ lại là một quyển sách “na ná” giống với Đắc Nhân Tâm, 7 thói quen giúp bạn trẻ thành đạt,… đây mà! Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ một khoảng thời gian, mình đã quyết định mua quyển sách này. “Tại sao mình lại có thể nhìn vào bề ngoài mà phán xét 1 quyển sách được nhỉ? Tại sao mình lại có ý nghĩ tiêu cực đó? Cái nhìn chủ quan của mình liệu có sai không?… … Nhưng mà dạo này cũng có nhiều sách có nội dung gần gần giống nhau nhiều lắm đấy! Với lại mình đang mua sách trên mạng, không thể tham khảo nội dung nhiều được! … … Mình có nên mua không nhỉ?? Lỡ quyển sách này cũng chỉ tổng hợp những nội dung của những sách khác thì sao ?…!” – Nhưng cuối cùng mình đã mua và không hối hận! – Khi đã cầm quyển sách trên tay, đọc “Lời nói đầu”, mình đã cảm thấy quyển sách này không như mình đã nghĩ theo hướng tiêu cực. Một quyển sách thực sự lạ, và mình nghĩ chắc rằng nó sẽ mang lại một cảm nhận mới mẻ trong mình. – Đọc từ những chương đầu tiên cho đến những chương cuối cùng (gồm 10 chương với 10 câu nói “vàng”), mình dường như nhận ra mình đã dần thay đổi thật nhiều qua những tháng ngày đọc quyển sách này. Từ một người bị động, ít khi nói chuyện và hầu như cũng chẳng biết để bày tỏ cảm xúc của mình, mình dần trở thành một người nói nhiều hơn, suy nghĩ rộng và thoáng hơn, và cảm xúc của mình được tuôn trào qua thật nhiều dựa trên những câu nói vạn năng mà tác giả Rich DeVos đã đề cập đến trong sách. – Mình đã hi vọng sẽ có một cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống, và thực sự mình đã đạt được điều đó – điều mà mình khó có thể làm được trước kia. – Kỉ niệm đáng nhớ nhất sau khi đọc xong quyển sách này là mình đã dám dũng cảm thực hiện câu nói mà suốt 7 năm mình không dám nói ra. Vâng, đó chính là câu nói số 10: “TÔI YÊU BẠN”. *** Mình còn không thể tin mình lại có thể nói được câu nói đó. Và lúc mình nói ra, đó chính là thời điểm mình cảm thấy hạnh phúc nhất. Mặc dù, sau đó mình đã nhận được 1 lời từ chối của NÓ – người mà mình yêu suốt 7 năm (từ năm lớp 6 đó). NÓ cũng rất ngạc nhiên là mình có thể nói ra được cái câu như vậy. Thật là thú vị! *** – Sau những ngày đó, mình cũng dần trở nên thoải mái hơn, không dằn lòng, không đắn đo vì những suy nghĩ vẩn vơ cho đến những vấn đề hóc búa nữa. Chuyện tình cảm, chuyện bạn bè và gia đình cũng trở nên dễ chịu hơn đôi chút. Mà đúng là hay thiệt! Trong mọi trường hợp, mình đều có thể sử dụng những câu nói trong “10 câu nói vạn năng” hết đó! – Mình thực sự tin rằng DeVos đã thực sự chạm vào cuộc sống của mình thông qua quyển sách này. Mình luôn mang theo quyển sách này bên cạnh để có thể tham khảo một cách thường xuyên và để chắc chắn rằng mình đang sử dụng 10 câu nói trong quyển sách này một cách đúng đắn nhất đối với mỗi người, mỗi việc… – Và mình muốn nói rằng: “Cám ơn” DeVos! Mời các bạn đón đọc 10 Câu Nói Vạn Năng của tác giả Rich DeVos.