Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuồng Vọng

Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dài nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt... *** Clive Cussler sinh năm 1931 tại bang Illinois (Mỹ) nhưng tuổi thơ và quá trình trưởng thành lại gắn liền với vùng đất California. Ông từng là thợ máy phục vụ trong Không quân Mỹ suốt thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên. Năm 1973, tác phẩm đầu tay của ông được phát hành. Sau đó, tên tuổi của Cussler nhanh chóng được khẳng định khi cho ra mắt cuốn "Raise the Titanic!" vào năm 1976, số lượng phát hành cuốn sách này cùng cuốn "Sahara" lên tới hàng chục triệu bản và được coi là tác giả của những tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ. Theo New York Times, Cussler sở hữu khối tài sản lên tới 80 triệu USD. Có thể thấy, trong sự nghiệp sáng tác của mình, Cussler đã phát hành hơn 80 cuốn sách trong đó phần lớn mang đề tài bí hiểm và những tác phẩm của ông được phát hành ở hơn 100 nước trên thế giới, đồng thời được dịch ra khoảng 40 thứ tiếng. Bên cạnh công việc tiểu thuyết gia, Clive Cussler còn sở hữu và điều hành Cơ quan Hàng hải và dưới nước quốc gia Mỹ - một tổ chức phi lợi nhuận, phát hiện hơn 60 xác tàu, thuyền dưới lòng đại dương. Đặc biệt, Cussler chính là người đã là tìm ra con tàu Carpathia – con tàu tham gia giải cứu những người sống sót trong vụ đắm tàu Tinanic lịch sử. Các tác phẩm được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Thác Lũ Cuồng Vọng Bí Ẩn Titanic Sóng Dữ Hoang Mạc Băng Cháy ... *** SỰ VA CHẠM KHỦNG KHIẾP   Năm 7.120 trước Công nguyên sự va chạm đã tạo ra Vịnh Hudson tại Canada ngày nay.   Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dàỉ nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt. Phần lõi của sao chổi, còn gọi là hạt nhân, là một khối kết hợp gồm hơi nước đông đặc, carbon monoxỉde, khí mê tan và những tảng đá kim loại vỡ nát. Có thể mô tả chính xác nó là một quả bóng tuyết bẩn thỉu bị ném mạnh qua không gian của hệ thống mặt trời, hoặc sự bức xạ của mặt trời phản ứng lại với nhân của nó và xảy ra sự biến đổi hình dạng. Một con vịt con xấu xí nhanh chóng trở thành một vật xinh đẹp. Khi nó bắt đầu hấp thụ nhiệt lượng và tia tử ngoại của mặt trời, một vệt dài hình thành và chậm chạp phát triển thành một cái đuôi lóng lánh khổng lồ, cong và trải rộng ra phía sau cái lõi với một chiều dài đến chín mươi triệu dặm. Một cái đuôi ngắn hơn, màu trắng, do bụi tạo thành rộng hơn một triệu dặm cũng hình thành và nằm cong theo cái đuôi lớn giống như những cái vây trên mình một con cá. Mỗi lần sao chổi đi qua mặt trời, nó mất đi một phần khối băng của nó và lõi cũng giảm bớt. Sau cùng, trong một thời gian hai trăm triệu năm, nó mất hết khối băng và vỡ vụn thành một khối mây bụi gồm vô số thiên thạch nhỏ. Tuy nhiên, sao chổi này không bao giờ lệch khỏi quĩ đạo của nó trong hệ thống mặt trời hoặc đi qua quanh mặt trời một lần nữa. Nó không được phép chết một cách chậm chạp và lạnh lẽo tại một nơi xa thẳm nào đó trong không gian tối tăm. Chỉ trong vài phút ngắn ngủi, sự sống của nó vụt tắt. Nhưng trên quĩ đạo cuối cùng của nó, sao chổi vẫn đi qua chín trăm ngàn dặm của sao Mộc, và trọng lực rất lớn của sao này làm nó đổi chiều sang một hành trình khác và chạm mạnh vào một hành tinh thứ ba trong hệ thống mặt trời, một hành tinh mà cư dân của nó gọi là Trái Đất. Lao vào bầu khí quyển của Trái Đất với vận tốc một trăm ba mươi ngàn dặm mỗi giờ theo một góc bốn mươi lăm độ, vận tốc của nó càng tăng thêm vì sức hút của trọng lực, sao chổi gây ra sự va chạm khủng khiếp và phát sáng với kích thước rộng mười dặm, và sức nặng bốn tỉ tấn của nó vỡ vụn vào lúc đó. Bảy giây sau, khối sao chổi méo mó trở thành một quả cầu lửa sáng rực, đập vỡ bề mặt Trái Đất với một sức công phá không thể tưởng tượng. Hậu quả tức thì từ vụ nổ làm thoát ra những năng lượng phá hủy khoét sâu vào vỏ Trái Đất tạo thành một lòng chảo rộng bằng hai lần diện tích đảo Hawaii khi nó bốc hơi và chiếm chỗ một khối khổng lồ gồm nước và đất đá. Toàn bộ Trái Đất rung chuyển do sự va chạm, tạo ra một vụ động đất lên tới mười hai độ rít-te. Hàng triệu tấn nước các loại trầm tích và các thứ đổ nát bị tống vào bầu khí quyển phía trên chỗ va chạm và xâm nhập vào tầng bình lưu, cùng với khối bụi nước khổng lồ bị phá hủy, khối đá bị cháy đỏ thoát ra và lao vào những quĩ đạo chung quanh trước khi rơi xuống lại trên mặt đất như những thiên thạch cháy sáng. Những trận bão lửa thiêu rụi những khu rừng trên khắp mặt đất. Những núi lửa đã ngủ yên hàng ngàn năm đột nhiên hoạt động trở lại, tống vào các đại dương những dung nham lỏng lan rộng trên một triệu dặm vuông, phủ lên mặt đất một lớp dày đến trên một ngàn bộ. Vô số khói và bụi bị tống vào tầng khí quyển, sau đó bị những trận gió khủng khiếp từ mặt trời thổi đến từng ngõ ngách trên Trái Đất và biến nó thành một nơi tối tăm kéo dài gần một năm. Khí hậu của Trái Đất đột ngột thay đổi khủng khiếp. Nhiệt độ trên những vùng băng tuyết mênh mông và những băng hà hoặc băng trôi ở phía bắc tăng lên cho tới khi chúng đạt đến chín mươi và một trăm độ Fahrenheit, gây ra sự bốc hơi nhanh chóng. Các chủng động vật từng quen với khí hậu nhiệt đới và những vùng ôn đới trở nên bị tuyệt chủng chỉ trong một đêm. Nhiều chủng loại như loài voi ma-mút có lông chết nhanh chóng đến nỗi cỏ và hoa trong dạ dày chúng vẫn chưa tiêu hóa kịp. Cây cối cùng với lá và trái của chúng nhanh chóng chín muồi. Chỉ vài ngày, cá trong các sông ngòi hồ ao đều nằm phơi bụng. Những đợt sóng cao từ năm đến mười dặm tràn lên các lục địa, tàn phá tất cả những gì cản đường chúng. Nước tràn qua những bình nguyên thấp dọc bờ biển, cuốn đi hàng trăm dặm vào trong đất liền. Vô số những trầm tích và các thứ cặn bã từ đáy những đại dương trải rộng trên những vùng đất thấp. Chỉ đến khi đợt trào dâng kinh khủng này đập vào chân những ngọn núi, dội lại và bắt đầu chậm chạp rút lui sau khi đã làm thay đổi dòng chảy những con sông, lấp đầy những chỗ trũng trên mặt đất - nơi trước kia không có sự sống - biến đổi những hồ ao rộng lớn thành những sa mạc. Chuỗi phản ứng này có vẻ kéo dài bất tận. Với những tiếng động ì ầm phát triển thành tiếng gầm rú liên tục như tiếng sấm, những ngọn núi bắt đầu lắc lư như những cây cọ dưới một làn gió nhẹ. Những sa mạc và những đồng cỏ nhấp nhô khi những đợt tấn công dữ dội từ các đại dương lại tràn lên đất liền. Sự chấn động từ vụ va chạm của sao chổi đã tạo ra sự thay đổi vị trí hoàn toàn và nhanh chóng trên lớp vỏ mỏng của Trái Đất. Lớp ngoài cùng, dày chưa tới bốn mươi dặm, và mặt đất bao bọc cái lõi nóng chảy của Trái Đất trở nên vặn vẹo như lớp vỏ của một trái táo bị bóc ra rồi ráp lại để nó có thể chuyển động quanh cái lõi của trái táo bên trong. Như được kiểm soát bởi một bàn tay vô hình, toàn bộ lớp vỏ Trái Đất chuyển động như một bộ phận duy nhất. Toàn bộ các lục địa trôi nổi đến những vị trí mới. Những ngọn đồi nhô cao thành núi hoa. Những hòn đảo khắp Thái Bình Dương biến mất, trong lúc những đảo khác trồi lên lần đầu tiên. Nam Cực, về phía tây Chi Lê, trượt dài hơn hai ngàn dặm về phía nam, tại đây nó nhanh chóng bị chôn vùi dưới những lớp băng mới thành hình. Khối băng khổng lồ từng trôi nổi trên Ấn Độ Dương và phía tây Úc châu giờ đây lạc lõng tại vùng ôn đới và nhanh chóng bắt đầu bốc hơi. Tình trạng đó cũng xảy ra tại nơi trước kia là Bắc Cực, lan rộng tới vùng bắc Canada. Địa cực mới nhanh chóng sản xuất ra một khối băng dày giữa một nơi trước kia là một đại dương rộng lớn. Sự tàn phá thật khắc nghiệt. Sự chấn động và đổ nát tiếp tục xảy ra như thể chúng sẽ không bao giờ chấm dứt. Đó là lúc lớp vỏ mỏng của Trái Đất chồng chất hết biến động này tới biến động khác. Sự bốc hơi đột ngột của những khối băng trước kia kết hợp với các băng hà và băng trôi bao phủ khắp các đại dương đột ngột trôi vào hoặc gần những vùng nhiệt đới, làm cho các đại dương dâng cao tới bốn trăm bộ, nhấn chìm những vùng đất đã bị tàn phá với những đợt sóng thủy triều khổng lồ phát sinh từ vụ va chạm của sao chổi. Chỉ trong một ngày, nước Anh, từng nối liền với phần còn lại của lục địa châu Âu bởi một bình nguyên khô ráo, lúc này biến thành một hòn đảo, trong lúc một sa mạc bị nhận chìm trở thành vịnh Ba Tư. Sông Nil từng chảy vào một thung lũng phì nhiêu mênh mông rồi đổ ra một đại dương ở phía tây lúc này lại kết thúc dòng chảy của nó tại một nơi đột ngột biến thành Địa Trung Hải. Kỷ nguyên băng hà rộng lớn cuối cùng chấm dứt về mặt địa chất chỉ trong nháy mắt. Sự thay đổi ngoạn mục trong các đại dương và sự lưu thông của chúng quanh Trái Đất làm cho các địa cực di chuyển, quấy nhiễu dữ dội sự quân bình cố hữu của Trái Đất. Trục Trái Đất tạm thời bị lệch hai độ, khi Bắc Cực và Nam Cực bị đổi chỗ đến những vùng địa lý mới, làm biến đổi lực hướng tâm quanh mặt ngoài của địa cầu. Vì chúng là lưu chất, các đại dương thay hình đổi dạng trước khi các địa cực ngừng rung lắc và trở nên ổn định quanh cái trục mới của chúng. Trong thời gian đó, mực nước biển cũng trở nên ổn định, cho phép nhiều bờ biển mới được hình thành trong khi những điều kiện khí hậu kỳ quặc tiếp tục được điều chỉnh dần. Những thay đổi trở nên thường xuyên. Thời gian nối tiếp giữa ngày và đêm thay đổi khi số ngày trong một năm giảm còn một nửa. Từ trường của Trái Đất cùng bị ảnh hưởng và di chuyển về hướng tây bắc hơn một trăm dặm. Hàng trăm, có lẽ hàng ngàn những loài động vật và cá khác nhau nhanh chóng bị tuyệt chủng. Tại châu Mỹ, loài lạc đà một bướu, loài voi ma-mút, loài ngựa của kỷ nguyên băng hà và loài cu-li khổng lồ, tất cả đều biến mất. Loài cọp răng kiếm, loài chim khổng lồ với sải cánh dài đến hai mươi lăm bộ và nhiều loài thú khác có trọng lượng nặng cả trăm cân Anh hoặc hơn, phần lớn chết ngạt vì khói và các loại khí độc từ núi lửa thoát ra. Các chủng loại thực vật trên mặt đất cũng không thoát khỏi thảm họa. Đời sống của thảo mộc nếu không biến thành tro thì cũng chết vì thiếu ánh sáng mặt trời, kể cả các loài rong tảo trong nước. Cuôi cùng, trên tám mươi lăm phần trăm sự sống trên Trái Đất đều chết vì lụt lội, lửa, bão táp, tuyết lở, chất độc từ bầu khí quyển và thậm chí vì nạn đói. Các xã hội loài người, đa số đã hoàn toàn tiến triển và vô số nền văn hoá đang trên ngưỡng cửa của một thời đại tiến hóa vàng son bỗng chốc đã bị tiêu hủy chỉ trong một ngày đêm. Hàng triệu đàn ông, phụ nữ và trẻ con trên Trái Đất đã chết một cách khủng khiếp. Mọi dấu vết về những nền văn minh đều tuyệt tích, và một số ít những kẻ sống sót sau thảm họa chẳng còn gì ngoài mớ ký ức u ám về quá khứ. Cỗ quan tài đã nằm trên sự tiến hóa to lớn nhất và không hề gián đoạn của nhân loại, kết thúc một chuyến hành trình dài mười ngàn năm từ những người Cro-Magnon hoang dã cho đến các bậc vua chúa, các kiến trúc sư, những thợ điêu khắc đá, những nghệ sĩ và chiến sĩ. Những công trình của họ và những tồn tại chết chóc của họ đều bị chôn sâu dưới các đại dương và những biển mới, chỉ còn lưu lại một ít mẫu vật và những mảnh vụn của một nền văn hóa tiến bộ cổ đại. Nhiều quốc gia và thành phố chỉ đứng được vài giờ trước khi biến mất không để lại một dấu vết. Biến cố khủng khiếp này hầu như không lưu lại một bằng chứng nào về những nền văn minh ưu việt trước đó. Trong số rất ít những người sống sót, hầu hết đều sống tại những vùng núi cao, họ có thể trú ẩn trong những hang động để trốn tránh những cơn giận của sự hỗn loạn. Không giống những người trong thời kỳ Đồ Đồng tiến hóa hơn, có khuynh hướng tập trung lại và xây dựng trên những bình nguyên thấp gần những con sông và bờ biển, những cư dân sống tại những vùng núi cao đều là dân du mục trong thời kỳ Đồ Đá. Những người tài giỏi nhất của họ về những ngành khác nhau trong kỷ nguyên của họ - những Leonardo da Vinci, những Picasso và những Einstein - đều bốc hơi không lưu lại vết tích. Chỉ còn lại trên mặt đất những kẻ săn bắn du mục, một hiện tượng tương tự như những gì đã xảy ra dành cho sự vinh quang của Hy Lạp và La Mã sau khi sự vinh quang đó bị ném sang một bên, trải qua những thế kỷ chỉ có sự ngu dốt và mê muội. Một thời kỳ Đồ Đá mới đen tối đã che giấu những nền văn minh có văn hóa cao từng có mặt trên Trái Đất, kỷ nguyên đen tối này kéo dài đến hai ngàn năm. Rất chậm chạp, sau cùng nhân loại cũng bước ra khỏi tình trạng đen tối đó để bắt đầu xây dựng và kiến tạo lại những thành phố và những nền văn minh tại Mesopotamia và Ai Cập. Đáng tiếc, rất ít những nhà xây dựng có thực tài và những người có đâu óc sáng tạo còn sống sót từ những nền văn hóa bị thất lạc đạt tới trình độ cao. Nhận thấy nền văn minh của mình đã mất và không bao giờ phục hồi được, họ bắt đầu tìm tòi trong nhiều thế kỷ, để xây dựng những lăng mộ và những ngôi mộ đá huyền bí với những khối đá đồ sộ dựng đứng được tìm thấy trong nhiều vùng tại châu Âu, châu Á, tại quần đảo Pacific đến tận phía nam châu Mỹ. Về sau, ký ức về những ưu thế rực rỡ do tiền nhân để lại trở nên lu mờ dần và trở thành huyền thoại, những kỷ niệm về sự tàn phá và chết chóc vẫn là những cảnh báo về sự hủy diệt các thế hệ trong tương lai. Nhưng trong một thiên niên kỷ, con cháu họ dần dà quên hết những hoạt động xưa kia của tổ tiên để dung nạp kiểu sống của những bộ lạc du mục và chẳng còn biết gì về quá khứ văn minh của họ. Nhiều thế kỷ sau vụ va chạm khủng khiếp đó, nhân loại vẫn còn sợ hãi, không dám mạo hiểm lìa bỏ vùng núi non để xuống sinh sống tại những vùng đất thấp và dọc bờ biển. Những xứ sở có kỹ thuật vượt trội về chuyện đi lại trên biển chỉ còn những ý niệm mơ hồ về quá khứ gần của họ. Kỹ thuật đóng tàu và vượt biển đã thất lạc, và phải đợi đến nhiều thế hệ sau đó mới xuất hiện trở lại. Sự chết chóc và tàn phá này phát sinh do một khối băng bẩn thỉu không lớn hơn một thảo nguyên trung bình. Sao chổi đã tàn phá mọi thứ không chút xót thương. Trái Đất chưa từng bị tàn phá dữ dội như thế từ khi một thiên thạch đâm vào nó sáu mươi lăm triệu năm trước đó trong một thảm họa đã hủy diệt loài khủng long. Nhiều ngàn năm sau vụ va chạm, sao chổi được gắn kết với mê tín dị đoan về những sự cố gây tai họa và được xem như những điềm xấu báo trước những thảm kịch trong tương lai. Chúng bị kết tội đã gây ra chiến tranh và những đại dịch gây chết chóc và hủy diệt. Mãi cho tới lịch sử cận đại, sao chổi mới được xem như những hiện tượng lạ của thiên nhiên, như vẻ đẹp chói lọi của cầu vồng hoặc những đám mây được mạ vàng lúc mặt trời lặn. Sự kiện đại hồng thủy được ghi lại trong Kinh Thánh và những truyền thuyết về các tai họa khác, tất cả đều gắn liền vào thảm kịch này. Những nền văn minh cổ đại của người Olmac, Maya và Aztec tại Trung Mỹ có nhiều truyền thống liên hệ tới một sự cố thảm họa xa xưa. Những bộ lạc người Da Đỏ Indian khắp Hoa Kỳ có truyền thuyết với những câu chuyện về nước lụt tràn ngập xứ sở của họ. Người Trung Hoa, người Polynesian và người Phi châu, tất cả đều nói về một thảm họa đã tàn sát phần lớn tổ tiên của họ. Nhưng một truyền thuyết đã xuất hiện và phát triển qua nhiều thế kỷ, gợi ra sự huyền bí và gây ảnh hưởng nhiều nhất, đó là sự biến mất của lục địa và nền văn minh Atlantis. Mời các bạn đón đọc Cuồng Vọng của tác giả Clive Cussler & Phạm Đăng Phụng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bố Con Cá Gai - Cho Chang In
Có những câu chuyện mãi được yêu thương, và nằm trong trái tim bạn đọc suốt năm này qua năm khác… Bố con cá gai là một câu chuyện như thế, trong trái tim độc giả Hàn Quốc, suốt nhiều năm nay. Ở đó có một em nhỏ đã chiến đấu với bệnh hiểm nghèo từ lúc lên ba, giờ em gần mười tuổi. Hãy khoan, đừng vội buồn! Vì em bé này sẽ chẳng làm bạn phải buồn nhiều. Em chịu tiêm rất giỏi, em không khóc, ngoài những lúc mệt quá ngủ thiếp đi, em còn bận đỏ bừng mặt nghĩ tới bạn Eun Mi kẹp-tóc-hoa, bận xếp hình tàu cướp biển, bận lật giở cuốn truyện Bảy viên ngọc rồng… Nhưng bố em thì khác, một ông bố làm em nhỏ của chúng ta phiền lòng quá nhiều, cũng làm những ai dõi theo “bố con cá gai” phải buồn không ít, có khi buồn quá hóa giận! Ông bố ấy đích thị là bố cá gai - một cá bố rất kỳ lạ - cả nguồn sống chỉ co cụm quẩn quanh cá gai con tí xíu. Như một ông bố ngốc! Ra đời năm 2000, câu chuyện cảm động về ông bố cá gai và cậu bé con mà người bố ấy nâng niu trong Bố con cá gai có sức lay động mạnh mẽ, trở thành một trong những câu chuyện về tình cha được người Hàn Quốc yêu thích nhất. *** Một câu chuyện khiến mình rất xúc động. Mình đã khóc rất nhiều khi đọc đoạn cuối của truyện. Em bé Daum, một em bé dù mới 10 tuổi nhưng chiến đấu dũng cảm với căn bệnh ung thư máu trắng; dù rất đau đớn nhưng em chịu đựng hết, luôn suy nghĩ lạc quan tích cực. Em cũng rất thông minh, một em bé 10 tuổi nhưng rất hiểu chuyện, rất ngoan. Em yêu và quan tâm bố từng tý một. Lúc nào em cũng nghĩ: bố cảm thấy thế nào? Bố có buồn không? Bố Daum, người bố xoay xở mọi bề để có thể vừa lo viện phí cho con, vừa chăm sóc động viên cổ vũ con chiến đấu với căn bệnh ung thư. Đọc truyện mình cảm được tình yêu lớn lao của ông với Daum. Có lẽ mọi ông bố trên thế giới này đều như vậy. Con là trên hết. con là cả thế giới. Con là nguồn sống, nguồn hi vọng hơn hết.  Tình yêu thương của hai bố con khiến mình rất xúc động. Vì thế cái kết dẫu có hợp lý, thì đối với mình vẫn là một cái kết buồn. Daum đã mạnh mẽ vượt qua cả cuộc chiến ung thư khắc nghiệt, thì còn có khó khăn nào em không thể vượt qua? Nhưng chỗ dựa tinh thần của Daum đã không còn nữa, có ai yêu em, hiểu em như bố em được nữa? *** Tôi có một người bạn thân quen đã lâu. Đó là một người bạn có con bị mắc bệnh nan y. Người bạn đó chẳng hề kêu ca về nỗi đau, cũng chẳng hề oán thán. Đứa trẻ thế nào rồi? Trước câu hỏi của tôi, anh chỉ khẽ cười và nói. Nó đang khỏe dần lên. Tuy nhiên, đó không phải là căn bệnh có thể dễ dàng khỏe dần lên. Không, thời gian càng trôi qua, nó càng trở nên tồi tệ hơn chứ. Thỉnh thoảng gặp nhau, chúng tôi lại cùng nhau uống rượu soju, và một ngày nọ, duy chỉ có một lần, người bạn đã nói với tôi: “Anh có biết hy vọng của tôi là gì không? Đó là giá như tôi có thể gánh bớt phần nào thay nó. Nhưng mà, tôi lại chẳng thể làm gì cho nó. Điều đó thật khó có thể chịu đựng được.” Điều đó thật khó có thể chịu đựng được... Câu nói của người bạn là lý do khiến tôi nặng lòng viết nên cuốn tiểu thuyết này. Đôi lúc trong lúc viết câu chuyện này, mỗi khi nghĩ đến nỗi đau đớn mà người bạn phải chịu đựng, tôi lại thở dài, và đã có những lúc tôi gập bản thảo lại suốt một thời gian dài. Nhưng tôi muốn viết ra câu chuyện này, để niềm hy vọng da diết của bạn tôi không bị hoài phí đến tận giây phút cuối cùng. Tôi đã mất bố từ khi còn bé. Khi đó tôi sáu tuổi. Sáu tuổi là thời điểm mà cuộc sống còn quá mới mẻ với tôi, ngay đến cả ký ức về bố giờ cũng mịt mờ. Tôi không còn nhớ rõ khuôn mặt bố. Bố là người đã rời đi như chiếc lá úa trong cơn gió heo may. Là một người sống một cuộc đời rồi đột ngột rời bỏ thế gian như cơn gió thoảng qua. Sự cười chê hay lòng thương cảm gượng gạo của thế gian dành cho một đứa trẻ không cha, tôi đã quen dần từ những năm tháng tuổi thơ. Biết đâu chính sự cười chê hay lòng thương cảm đó đã dồn nén trong tôi khao khát về một người cha. Tôi đã chẳng oán giận bố, cũng không hề nhớ đến bố. Vì thế mà trong một thời gian dài tôi đã không hiểu được ý nghĩa của người cha, và mặt khác, tôi cũng đã vờ như không biết. Như thể đó là cách tự bảo vệ mình trước nỗi đau vậy. Thế rồi tôi lại viết nên một cuốn tiểu thuyết về tình cha ấm áp như ánh nắng mùa xuân. Nó xuất phát từ cảm xúc khi được làm cha của một đứa trẻ, và mong muốn có thể đặt lên bàn một cuốn sách thay cho lời hứa rằng nhất định sẽ trở thành một người cha tốt. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Viện trưởng Choi Kwang Won, Bệnh viện Y học Gia đình Ansan, người đã giúp đỡ tôi từ những giây phút bắt đầu đến tận khi hoàn thành cuốn sách này. Trên một hòn đảo trơ trọi giữa mùa đông, Cho chang-In Mời các bạn đón đọc Bố Con Cá Gai của tác giả Cho Chang In.
Cho Xem Đùi Nào, Leila - Rachid El-Daif
Trên giường bệnh viện, nhân vật chính hồi dần ký ức, anh nhớ ra rằng mình đã đâm phải cột điện và vào lúc tai nạn xảy ra, anh đang gọi điện cho cô bạn gái Leila. Chiếc xe hơi Nhật mua lại của người bạn liên tục đem tới đủ loại lo âu; khiến anh cảm giác mình đang lái một chiếc xe bị quỷ ám. Rắc rối bắt đầu vào cái ngày anh nhận được tin ông bố sáu mươi lăm tuổi của anh sẽ cưới vợ lẽ, và để thỏa mãn thói đỏng đảnh của cô vợ mới, ông sẽ bán căn hộ gia đình. Anh tìm cách ngăn cản đám cưới và không ngần ngại lập ra các mưu mẹo, ngày càng quái đản, thậm chí đề nghị cả nàng Leila dịu dàng và vô tội tới điều tiết cơn khát tình dục của người cha... Rachid El-Daif mổ xẻ xã hội Libăng đương đại bằng một ngòi bút mạnh mẽ mà hài hước hiếm có, mở một cánh cửa vào cuộc sống nội tâm phức tạp của giới trẻ Libăng - đất nước Âu hóa bậc nhất trong thế giới Hồi giáo. *** Rachid El-Daif là một tác giả người Lebanon, viết bằng tiếng Ả Rập. Ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ, bao gồm tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ba Lan, tiếng Thụy Điển, tiếng Hà Lan, tiếng Ý, tiếng Hy Lạp, tiếng Nhật và tiếng Việt. Lần đầu tiên tôi gặp Rachid El-Daif là vào một ngày mùa thu cách đây gần hai năm. Tháp Eiffel mờ sau mưa bụi. Chúng tôi ăn trưa trong một quán nhỏ ven sông Seine cùng một người bạn chung. Lần đầu tiên được làm quen một tác giả Liban, tôi vô cùng háo hức, như thể đã đợi cuộc gặp gỡ này từ lâu lắm rồi. Văn chương Hồi giáo với tôi cho tới khi ấy là một vũ trụ hoàn toàn xa lạ, có cảm giác không thể không lạc lối nếu thiếu người bản xứ dẫn đường. Ấy vậy mà, cho tới giữa bữa ăn, cả văn chương lẫn Hồi giáo đều không phải là chủ đề được đẩy về phía trước như tôi tưởng. Tôi đã thử đề cập. Tôi gợi đến Kamel Daoud, người vừa nhận giải Goncourt cho tiểu thuyết thuyết đầu tay cách đó vài ngày. Tôi bàn về chuyện vượt biển của di dân Syria đang rất thời sự. Nhưng người đàn ông vóc dáng thanh mảnh dù đã bước sang tuổi thất thập ngồi trước mặt tôi tỏ ra chỉ quan tâm tới món cá thờn bơn không hiểu hấp hay nướng mà người ta vừa mang ra cho ông. Lọc xương cá một cách tài tình bằng dao và dĩa, ông bảo cuối bữa sẽ xin bồi bàn cách nấu để dạy lại bà bếp của ông ở Beyrouth. Chà, nhà văn thời nay mà có người phục vụ cơm nước! Tôi liền nói với ông rằng tất cả các tác giả Việt Nam mà tôi quen hay không quen đều là những tay bếp cừ khôi, còn các tác giả Pháp đương đại thì hầu như đã trở thành những kẻ tiêu thụ đồ hộp kỷ lục, một bên để đưa ẩm thực Việt ra thế giới, một bên để rút ẩm thực Pháp khỏi văn chương. Rachid nghe xong thì phá lên cười, một nụ cười phóng khoáng kèm tia nhìn láu lỉnh và cũng thật bình thản mà sau này tôi nhận ra là rất đặc trưng của ông. Cuối cùng, chính con cá thờn bơn đã cho tôi cái cớ để mở đầu câu chuyện có tính riêng tư hơn. Rachid El-Daif sinh năm 1945 ở Zgharta, một vùng núi cao của Liban, trong một gia đình đông con và bình dân, mẹ ông một thời gian dài thậm chí còn mù chữ. “Tôi luôn chọn những cách biểu đạt giản dị nhất có thể, cô đoán tại sao không?” Rachid hỏi, rồi trong khi tôi còn lúng túng chưa tìm được cách trả lời thì ông nheo mắt tinh nghịch: “Cho tới khi qua đời, mẹ tôi đã đọc hết những gì tôi viết trước đó.” Tôi im lặng, nhớ ra rằng mẹ của chính tôi, một kỹ sư nông lâm, không bao giờ vượt qua nổi chục trang đầu bất cứ cuốn tiểu thuyết nào của tôi nhưng luôn có chiều hướng khuyên tôi nên viết như những tác giả mà tôi cũng không bao giờ vượt qua nổi chục trang đầu. Vâng, lúc ấy tôi im lặng không đáp lại lời Rachid, nhưng vài ngày sau, khi bắt tay vào dịch Cho xem đùi nào, Leila!, tôi mới choáng váng nhớ lại câu nói kia của ông. Thật khó lòng tưởng tượng mẹ ông, một phụ nữ Hồi giáo lớn tuổi, vừa thoát nạn mù chữ, lại có thể bỏ chiếc mạng truyền thống sang một bên mà đọc những trang viết tràn đầy tự do như thế, cho dù tính hài hước đã được tác giả găm gài rất nhiều để người đọc thường xuyên được phá lên cười thay vì nhíu mày, nhăn trán. Cặp nhân vật chính – hai người đàn ông – được gắn kết với nhau bằng mối quan hệ gia đình mật thiết, nhưng lại bị chia rẽ nặng nề bởi những quan niệm đối lập về tình dục, trách nhiệm và... nàng Leila. Ông bố, sau cái chết của vợ, khao khát làm lại cuộc đời bằng cách cưới một phụ nữ khác, không cần đẹp, không cần trẻ, không cần cả nhu mì, nhưng nhất thiết phải bảo đảm cho chồng một cuộc sống tình dục bền vững, và để đổi lại, ông sẵn sàng chiều lòng người vợ tương lai, thậm chí đồng ý có con ở tuổi lục tuần. Ngược lại, cậu con trai, một thanh niên thành công và quyến rũ, thừa sức có một cuộc sống tình dục bền vững, nhưng chỉ chọn lên giường với các phụ nữ xinh đẹp, và nhất quyết không đánh đổi vui thú bằng bất cứ cái gì, không nhận trách nhiệm trước bất kỳ ai, mối quan tâm lớn nhất là xe hơi và đô-la. Nàng Leila dạn dày mà ngây thơ, bình dân nhưng ưa hàng hiệu, sẽ chen chân như thế nào vào những mâu thuẫn vốn đã chồng chất giữa hai người đàn ông – một già và một trẻ, một rộng lượng và một ích kỷ, một ham sống và một hủy diệt? Có phải cũ bao giờ cũng đồng nghĩa với xấu xa, còn mới với tốt đẹp? Bằng văn phong tao nhã, hiện đại và phóng khoáng, Rachid El-Daif đã mở một cánh cửa vào xã hội Liban vốn được coi là Âu hóa bậc nhất trong thế giới Hồi giáo nhưng vẫn mang trên mình những vết thương chiến tranh và giới hạn tín ngưỡng. Tuy thế, qua sự nghiệp gồm ba tập thơ và hàng chục tiểu thuyết, tôi tin rằng đóng góp lớn nhất của ông không nằm ở chỗ ông dám tấn công những thói giả dối, những xung đột về giới, những bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội, mà là ở chỗ ông dám tấn công lối dùng ngôn ngữ văn chương phức tạp, bóng bảy và hùng biện, bằng cách tối giản các hình thức biểu đạt, ngôn từ, cấu trúc, ngữ pháp, hình ảnh... Và ông đã làm với tài năng, kiến thức, trong đó có những hiểu biết sâu sắc đến từ Pháp văn hiện đại được ông coi như ngôn ngữ thứ hai, nhưng trên hết là với niềm say mê mà ông nợ ở thi ca, thể loại ông đã buộc phải khước từ để nộp mình trọn vẹn cho tiểu thuyết. Với tất cả những nỗ lực ấy, Rachid El-Daif xứng đáng được đứng vào danh sách những cây bút hàng đầu của nền văn chương Ả-rập.   Mời các bạn đón đọc Cho Xem Đùi Nào, Leila của tác giả Rachid El-Daif.
Vô Hồn - Chuyện Về Một Người Không Chân Chính - Sergey Minaev
Vô Hồn - Chuyện Về Một Người Không Chân Chính: Tác giả đã vẽ nên một bức tranh tổng thể về những con người trẻ tuổi, thế hệ 7X của giới thời thượng bằng tính từ ngắn gọn: Vô hồn. Nhiều nhà phê bình văn học đã so sánh " Duhless " với tác phẩm " Người anh hùng thời đại " của Mikhai Lermontov (The times - Anh ) Cuốn sách kể về số phận của một giám đốc kinh doanh thuộc thế hệ 7X làm việc cho một tập đoàn tư bản. Công việc trong văn phòng, các mối quan hệ với cấp trên, những cuộc mây mưa với nhân tình và cuộc sống về đêm của đám người Nga mới.... Danh mục những " gánh nặng " của giới trẻ thời thượng khá ấn tượng đối với độc giả trẻ tuổi: nốc rượu tuý luý ở các nhà hàng, nơi mà một chai rượu giá không dưới 1.000 dollar Mỹ, toilet vói bồn rửa mặt mạ vàng, nơi có thể chơi thuốc lắc mệt nghỉ mà không bị sợ kiểm soát, những cuộc vui trác táng, dâm loạn với đám cave, những đêm dật dờ của đám " xăng pha nhớt ", bọn chó cũng " thời thượng " như chủ và vô số thứ không có linh hồn khác. (Theo Ria Novosti) Duhless là một từ ghép của Duh - tiếng Nga (tâm hồn) và less - tiếng Anh ( không có, thiếu) và được dịch là vô hồn, không hồn. Nhân vật chính là một tay chơi không có tên, một " cổ cồn trắng " mẫn cán nhưng chán trường...., một con người tồn tại như cỗ máy trong một thế giới mà bất cứ thứ gì cũng có thể đem ra mua bán, đổi chác, kể cả tình cảm. Thế giới trở nên phức tạp trong con mắt của nhân vật, tuy nhiên, nền tảng cuộc sống thì vẫn vững chải như ngàn đời nay. Và cuộc đấu tranh chống lại những thói ăn chơi thời thượng này cũng chỉ là một cách gọi khác đi trong ý thức của người dân thời Xô Viết đối vời cuộc chiến chống lại những ham muốn thú vui vật chất...... Nhân vật của Minaev đang chiến đấu chống lại cái gọi là " văn hoá vũ trường " trong nỗ lực níu kéo lại phần " người " của mình trước những thói hư tật xấu của đám " xác ướp ". *** Không phải văn chương, cũng không phải do xuất thân của tác giả, doanh nhân kiêm nhà báo Sergey Minaev, mà chính những hiện thực tàn nhẫn của nước Nga đầu thế kỷ 21 buộc người ta phải đọc tập sách này. Giống như tự truyện với nhân vật xưng Tôi, câu chuyện bắt đầu từ một quán cà phê thời thượng của Moskva, nơi "có rất nhiều gái điếm giả nai đóng vai những thiếu nữ thủ đô ngây thơ ngơ ngác và vô số các con nhà lành thủ đô không hiểu tại sao lại thích giả điếm". Những nhân vật trong sách chỉ quan tâm đến các tạp chí, rượu, xe hơi xịn, cửa hàng thời trang cao cấp, nhà hàng, quán bar, vũ trường, văn hóa DJ, performance, tivi, và cuối cùng là tình dục, thứ tình dục thừa cặn sau một ngày đắm chìm trong men rượu và ma túy. Tôi chỉ mới hai chín tuổi, đã bốn năm là giám đốc kinh doanh của một công ty kinh doanh đồ hộp Pháp vào Nga, một công ty ra đời bởi những người "một đêm có thể nướng hết hai nghìn đô nhưng hôm sau lại có thể kiếm ra năm nghìn mà chẳng biết tại sao". "Với mức lương ngất ngưởng và tiền thưởng hàng năm hậu hĩnh" nhưng Tôi lại có cái nhìn hết sức cay độc: giám đốc kinh doanh "là một biến thể hiện đại của loại điếm cao cấp, vừa phải chiều chuộng đám chủ luôn yêu cầu doanh số quá cao, vừa phải làm hài lòng nhân viên cấp dưới...". Với tâm thế như vậy, Tôi vừa tham gia tích cực vào mọi hoạt động hưởng lạc của "nhóm" mình: "một cõi đầy ắp khoái cảm nhục dục với đám gái làng chơi, với thứ nước giải sầu cay cay, với thứ ma túy phiêu linh và nhạc dậm dật chốn vũ trường" lại vừa âm thầm phỉ nhổ nguyền rủa chúng. Mỗi thành viên như Tôi đều đánh mất sự tự tin, bị bao vây và lệ thuộc vào các giá trị mới du nhập, và xã hội Nga cứ thế mà phân hóa một cách mục rã. Kẻ nào nhìn ra bản chất của xã hội ấy và có đủ độ lưu manh cần thiết đều có thể trục lợi một cách dễ dàng. Sáng kiến kinh doanh của Misa mới trở về từ New York: "Hãy vẽ cho họ ý tưởng cầu kỳ nhất, món ăn vớ vẩn nhất với giá trên trời nhất... Hãy cho họ những đêm giải trí ngu xuẩn nhất. Và họ sẽ tự mang tiền đến cho cậu". Chán chường đám thị dân Moskva chỉ đua đòi ăn chơi và hoàn toàn vô can, vô cảm với cả quá khứ lẫn tương lai nước Nga, Tôi lại càng ngán ngẩm trước kiểu gồng mình tự tôn của những người bạn - công dân Peterbourg. Cuộc đối thoại dài của hai nhân vật đang say cần sa chính là chủ đề của tập sách: ai sẽ là người cứu chuộc nước Nga và nhân dân Nga? Bởi quan niệm của người bạn Peterbourg lại quá luẩn quẩn: "Chúng tớ ở đây toàn dân trí thức, còn ở chỗ các bác rặt những lũ đầu cơ... Xung quanh chúng tớ toàn là những tượng đài lịch sử, trong khi chỗ các bác lại chỉ rặt những nhà hàng hay vũ trường...". Liệu có thể tin cậy, hy vọng gì vào những con người như thế? "Có lẽ sự hồi chuyển của các xác ướp trong nhiều cuộc chơi bời nhậu nhẹt đã làm tiêu tan hoàn toàn trong con người tôi khả năng giao tiếp với những người bình thường rồi". Đó là ý thức về sự bất lực của Tôi, khi yêu Julia mà không biết cách nào để bày tỏ. Và cuối cùng Tôi đã làm hỏng mọi thứ, đánh mất luôn mối quan hệ duy nhất có thể cứu mình, trả mình lại cho thế giới con người từ thế giới xác ướp. Tôi muốn kêu cứu, muốn báo động rất nhiều thứ với rất nhiều người nhưng hình như tất cả đều đang mơ hồ, cả về chỗ đứng của mình lẫn chỗ đứng của cộng đồng: "Trong khi chúng ta đang loay hoay đẻ trứng thì trên đất nước chúng ta đã xuất hiện những chủ nhân ông mới - những kẻ thiết lập luật pháp mới... Trong cái sơ đồ tổ chức quốc gia và phân bố lợi ích, của cải được vẽ lên bởi những ông chủ mới, không có chỗ cho chúng ta. Trong khi bạn hoang phí cuộc đời mình trong rượu mạnh và ma túy, đã có ai đó kịp thay đổi tất cả...". Với câu chuyện khai thác cuộc sống thời thượng và trở thành sách best - seller, Vô hồn lại đặt ra một luận đề nghiêm túc. "Mỗi người trong chúng ta đang tự cảm thấy mình là kẻ chiến thắng, trong một quãng thời gian ngắn, mà không hiểu là có thể chiến thắng một trận đánh nhưng lại bại trận trong cả cuộc chiến tranh". Công dân Sergey Minaev đã phát ngôn như thế, qua nhân vật chính, Tôi. Ngô Thị Kim Cúc Mời các bạn đón đọc Vô Hồn - Chuyện Về Một Người Không Chân Chính của tác giả Sergey Minaev.
Người Vợ Paris - Paula McLain
Với nội dung về thời điểm những năm 1920 của cuộc gặp gỡ của Hadley Richardson với văn hào Ernest Hemingway tại Paris, Người vợ Paris đã tái hiện lại thời khắc đáng nhớ và cuộc tình sét đánh mau chóng đi đến hôn nhân của hai người chênh lệch tuổi tác. Hơn Hemingway 8 tuổi, Hadley đã ở bên văn hào này khi ông bắt đầu theo đuổi nghiệp văn chương. Họ đã trở thành cặp đôi vàng của giới viết lách Paris khi châu Âu vừa qua khỏi cuộc Thế chiến thứ I. Tiểu thuyết cũng khắc họa mối quan hệ của họ với một nhóm văn sĩ nổi danh tạo nên một “thế hệ mất mát” như Gertrude Stein, Ezra Pound và F. Scott Fitzgerald. Mặc dù yêu nhau say đắm, nhưng vợ chồng Hemingway phải đối diện với những khủng hoảng của hôn nhân trong những năm tháng “hội hè miên man” của Paris, nhạc Jazz và rượu mạnh. Câu chuyện gây chú ý bởi đã bám sát những dữ kiện đời thực của Hadley Richardson và đưa ra cách quan sát từ góc nhìn người vợ của một văn hào được mệnh danh là cây bút có ảnh hưởng nhất trong văn học thế giới hiện đại.  “McLain đã viết nên một chân dung đẹp đẽ về việc sống ở Paris vào những năm 1920 hào nhoáng – trong vai trò một người vợ và người đàn bà của một nhân vật đình đám.”  - Entertainment Weekly  *** Cuốn tiểu thuyết Người vợ Paris giống như một hồi ký của Hadley Richardson - người vợ đầu của Hemingway. Truyện được viết dựa trên những tài liệu có thật về giai đoạn cặp vợ chồng sống tại Paris qua cái nhìn của người vợ. Câu chuyện bắt đầu tại Chicago, Mỹ năm 1920, Hadley là cô gái 28 tuổi, sống khép kín và gần như lỡ thời. Cô là con gái út trong một gia đình có cha tự vẫn. Cô phải tự tay chăm nom người mẹ đau yếu cho tới khi bà qua đời. Hadley gần như không còn hy vọng nào về tình yêu hay hạnh phúc gia đình.  *** Khi cuốn tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc (The Sun Also Rises) ra đời, Hemingway đã có chút ít tiếng tăm; còn Hadley vẫn giữ vai trò người vợ, điểm tựa của ông. Người đàn ông mà bà nghĩ "đầy trách nhiệm và cuốn hút hơn bất cứ ai" đã phải lòng một biên tập viên thời trang. Pauline, biên tập viên cho tạp chí Vogue, làm bạn với Hadley và yêu cầu một quan hệ mở: Ernest vừa có vợ, vừa có tình nhân. Có thời gian cả ba sống chung trong một nhà. Tới năm 1927, Hadley bằng lòng ly dị, với bà tình yêu đã không còn thì chẳng khác gì sống trong một thành phố bỏ hoang.  Kết hợp giữa hiện thực và hư cấu, Paula Mclain đã dựng nên chân dung một Hadley Richardson như một phụ nữ Mỹ tử tế nhất. Bà nhìn rõ, thấu hiểu những thói xấu bên trong con người chồng mình.  Thực tế cho thấy, sau khi ly hôn, Hadley đi bước nữa và có cuộc sống hạnh phúc, nhưng bà vẫn cho rằng Ernest là hoàng tử của lòng bà, và thời kỳ ở Paris vẫn là giai đoạn đẹp nhất. Bà đã trả lời trong một cuộc phỏng vấn: "Đời sống lúc đó đơn giản, khó khăn mà có hạnh phúc. Đó là thời kỳ mà Ernest hoàn hảo nhất. Tôi có chàng, và chàng có tôi. Chúng tôi đã mang lại cho nhau những gì tốt đẹp nhất". Hemingway sau Pauline còn có thêm hai người vợ nữa. Trong cuốn hồi ký Hội hè miên man (A Moveable Feast), tác phẩm cuối cùng của Hemingway, ông đã viết về giai đoạn sống ở Paris, về Hadley. Và tác giả đoạt giải Nobel viết: "Tôi thà chết còn hơn yêu ai, ngoài Hadley". Như vậy ở cuối đời, qua bao thăng trầm, trải qua mối quan hệ cùng ba người vợ khác và bao tình nhân, Hemingway mới nhận ra rằng, Hadley là người ông yêu và ông đã thật sự mất bà. *** Paula McLain là tác giả của hai tập thơ, một hồi ký và hai tiểu thuyết. Tác phẩm Người vợ Paris ra mắt đầu năm 2011 tại Mỹ, nằm trong danh sách bán chạy của tờ The New York Times.    Mời các bạn đón đọc Người Vợ Paris của tác giả Paula McLain.