Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chỉ Một Lần Yêu - Johanna Lindsey
Đây là tác phẩm đầu tiên trong series tiểu thuyết nổi tiếng của Johanna Lindsey kể về những chuyện tình lãng mạn của các thành viên trong gia tộc Malory. Truyện kể về câu chuyện của cô cháu gái Reggie Malory và tử tước Nicholas Eden. 1. Love Only Once - Chỉ Một Lần Yêu (1985) (Regina Ashton / Nicholas Eden) 2. Tender Rebel - Kẻ Nổi Loạn Dịu Dàng (1988) (Anthony / Roslynn Chadwick) 3. Gentle Rogue - Kẻ Lừa Đảo Lịch Thiệp (1990) (James / Georgina Anderson) 4. The Magic of You - Sự Kì Diệu Của Tình Yêu (1993) (Amy / Warren Anderson) 5. Say You Love Me - Nói Lời Yêu Em (1996) (Derek / Kelsey Langton) 6. The Present (1998) (Christopher / Anastasia Stephanoff) 7. A Loving Scoundrel - Tên Phóng Đãng Đáng Yêu (2004) (Jeremy / Danny) 8. Captive of My Desires (2006) (Drew Anderson / Gabrielle Brooks) 9. No Choice But Seduction (2008) (Boyd Anderson / Katey Tyler) 10. That Perfect Someone (2010) (Richard Allen / Julia Miller) *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Sau khi chào tạm biệt những người khách cuối cùng, Nicholas và Regina đứng hôn nhau ở cửa chính. "Cuối cùng thì hòa bình cũng trở lại." Anh nói với một cái thở dài khoan khoái. "Ừhm, không hẳn lắm." Reggie ngập ngừng trả lời, xoắn một ngón tay vào ve áo chồng mình. "Em... đêm qua em đã gửi một lá thư mời gia đình em tới đây. Đừng giận nhé Nicholas. George bảo em là anh ấy nhìn thấy Cậu Tony tuần trước và Tony trông khá buồn rầu. Em biết là tại chúng mình." "Em chỉ cần viết một lá thư cho họ là được mà, không phải sao?" Anh nhăn nhó hỏi. "Cứ viết và bảo họ rằng em vẫn ổn ấy?" "Thư từ không giống như việc họ tận mắt chứng kiến thấy em hạnh phúc ra sao. Họ lo lắng cho em mà Nicholas, và em muốn họ biết rằng giờ thì mọi việc đã ổn cả." "Thế thì anh đoán là anh đành phải chịu đựng thêm một ngày nữa vậy." Anh thở dài lần nữa. "Anh không giận em ư?" "Anh nào dám giận em bao giờ hở em yêu." Anh nói nghiêm túc đến mức khiến cô cau mày không hiểu. "Thể nào em cũng giận ngược lại anh mà!" "Đồ quỷ sứ ạ!" Cô mắng yêu. Nicholas toét miệng cười với cô. Và rồi vỗ nhẹ vào lưng cô, anh đẩy cô về phía cầu thang. "Giờ thì đi đâu đó một lúc đi. Em vừa nhắc anh là anh có vài công chuyện gia đình của mình phải giải quyết đấy. ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Một Lần Yêu của tác giả Johanna Lindsey.
Người Tù Bé Nhỏ - Jane Elliott
“Phút trước tôi vừa mới ngập mình trong một cảm xúc phấn khích tột độ, phút sau tôi đã rơi vào nỗi hoảng sợ, hoảng sợ về những gì sẽ xảy ra nếu như tôi phơi bày toàn bộ sự thật”. “Người tù bé nhỏ” đã được mở đầu như một lời cảnh báo cho từng độc giả trước khi đặt mình cuốn trong tự truyện về cuộc đời của cô bé Janey – nhân vật chính và cũng là hình tượng của tác giả Jane Elliott.   Nếu như với nhiều đứa trẻ, gia đình là điểm tựa đích thực cho tuổi thơ thì với Janey, hai chữ gia đình trở thành “nhà tù” đúng với nghĩa của từ này. Bằng lời kể chân thật, giản dị, câu văn không cầu kì, chau chuốt, Jane Elliott chinh phục độc giả bằng chính sự thực trần trụi về một phần cuộc đời của mình từ lúc lên 4 tuổi.   17 năm trong cuộc đời sống với gia đình, Janey (tên nhân vật được nhà văn đổi lại) trở thành một kẻ nô lệ tình dục thực sự, một đứa “con hoang Pakistan” cả về thể xác và tinh thần. Tập trung vào việc tố cáo sự lạm dụng tình dục tinh vi và có hệ thống, mục đích rõ ràng của người cha dượng hơn cô bé 14 tuổi, “Người tù bé nhỏ” một lần nữa đặt độc giả vào cái suy nghĩ “khác máu tanh lòng” đang ngấm vào đời sống của xã hội Phương Tây.   Nhưng nếu như ở nhiều nước, sự thù ghét đó chỉ dừng lại ở việc hành hạ, nhục mạ khi ép phải làm việc như một con ở không công thì sự căm thù “con nô lệ bẩn thỉu” của kẻ mang danh “bố” còn nặng nề và đáng ghê tởm hơn với những “trò chơi” tình dục điên loạn – một sự “trả ơn” theo suy nghĩ của hắn.   Ngay cả tình yêu, hạnh phúc gia đình của Janey cũng nằm trong kế hoạch tính toán của người cha dượng, để hắn có thể chiếm đoạt, cưỡng bức cô một cách an toàn nhất, khéo léo nhất. Bực tức với sự nhu nhược bao nhiêu của người mẹ thì sự phẫn uất đến tội nghiệp cho bản thân nhân vật chính của người đọc càng tăng lên bấy nhiêu. Bên trong vỏ bọc của một ngôi nhà được trang hoàng gọn gàng, sạch sẽ là một khối những điều trái khoáy, dị hợm mà người cha dượng chính là người kiểm soát, tổ chức và thực hiện.   Nghẹn ngào, thương cảm, ghê sợ và phẫn nộ là cảm xúc mà bất cứ người đọc nào cũng có thể cảm nhận được khi lật giở từng trang trong “Người tù bé nhỏ”. Nó chất chứa trong đó toàn bộ những lời mà ngay từ đầu nhà văn Jane Elliott đã cảnh tỉnh: phút trước phấn khích tột độ để rồi ngay sau đó hoảng sợ về những gì mà cô bé Janey phải đối mặt.   Nhưng dù thế nào, trong những trang viết chân thực đến trần trụi ấy, độc giả vẫn thấy le lói ý nghĩa nhân văn, trong sáng, vô tư qua ước mong của một cô bé, một thiếu nữ và sau đó là một bà mẹ trẻ bất đắc dĩ cho những người thân, cho tình yêu và cho những đứa con của mình.   Đề cập sát thực về nạn bạo hành gia đình và lạm dụng tình dục trẻ em, “Người tù bé nhỏ” của Jane Elliott tuy chỉ là một trong nhiều cuốn tự truyện kể về tuổi thơ bị lạm dụng nhưng đã gây được tiếng vang lớn trên thế giới. Quá trình viết lại câu chuyện này cũng là một khó khăn đối với chính tác giả “vì nó đã khuấy động lại những ký ức và những tình cảm mà tôi dã cố gắng để quên đi. Nhưng giờ đây, tôi đã có thể hét to trước toàn thế giới tất cả những gì mà người ta bảo tôi phải giữ bí mật. Điều đó khiến tôi có cảm giác như một gánh nặng nghìn cân đã được cất khỏi đôi vai bé nhỏ của mình”.   Và bản thân nhà văn khi xuất bản cuốn sách này cũng đã hiểu rõ đối tượng độc giả: “Tôi cho rằng, độc giả của những cuốn sách như “Người tù bé nhỏ” sẽ chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất là những người được sinh ra và lớn lên trong những gia đình ổn định,hạnh phúc và họ muốn được hiểu hơn về một thế giới mà họ khó có thể tưởng tượng ra nổi. Nhóm thứ hai là những người đã phải chịu đựng những gì tương tự và họ có thể tìm thấy ở những cuốn sách đó một niềm an ủi rằng họ không cô đơn trên thế giới này. Họ cũng có thể khám phá ra rằng không những việc tạo ra một cuộc sống bình thường và hạnh phúc là hoàn toàn có thể, mà họ còn có thể biến tất cả những điều tưởng chừng như bất hạnh, đau khổ thành một điều gì đó tích cực hơn.”   Nếu như chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra trong những gia đình giống như gia đình của Janey thì có lẽ chúng ta không bao giờ có thể hy vọng làm cho mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn trước. Liệu đó có phải là Một sự thật chat chúa về gia đình mà “Người tù bé nhỏ” muốn chuyển tải đến người đọc?!  Thanh Giang *** Khi Richard đã bị tống giam sau song sắt tôi mới bắt đầu cảm thất tự tin khi quay trở lại gia đình đã từng sống và thăm lại bạn cũ. Khi ra ngoài cùng với ai đó tôi thường phải dặn dò rằng đừng ai nói với gia đình tôi về sự có mặt của tôi ở đây. Tôi cũng đã bắt đầu cảm thấy an toàn hơn. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn luôn nhắc nhở mình không được quá chủ quan. Mặc dù trong cuộc họp mặt các bạn học cũ mọi việc đều diễn ra tốt đẹp, nhưng khi được mời tham dự một buổi gặp mặt khác, tôi vẫn rất miễn cưỡng. Dường như tôi vẫn chưa thực sự có thể quay trở lại với những hoạt động tập thể như thế. Tuy nhiên, một vài người bạn đã thấy tên tôi trong danh sách Bạn gặp lại và gửi hàng đống email tới nói rằng tôi phải tới cuộc họp mặt lần tới. Những người bạn gái thì bảo tôi rằng tất cả mọi người đều sẽ tới đó và ai cũng rất muốn gặp tôi. Những người bạn trai thì nói rằng tôi không việc gì phải e ngại cả bởi vì họ sẽ không để chuyện gì xảy đến với tôi đâu. Cảm giác thật tuyệt vời khi biết rằng tất cả bọn họ đều muốn gặp lại mình và vì Steve cũng chuẩn bị đi công tác vài ngày nên tôi quyết định sẽ tham dự đó. Tôi đặt vé tàu và bắt taxi đến nhà Tanya. Kế hoạch là chúng tôi sẽ gặp nhau ở quán bar rồi sau đó sẽ tới câu lạc bộ. Hôm đó là một buổi tối mùa hè và mặc dù tôi cảm thấy rất căng thẳng khi quay trở lại thị trấn cũ ngày xưa tôi từng sống, tôi vẫn rất háo hức chờ mong buổi tối được ra ngoài. Khi chúng tôi vừa bước ra khỏi xe hơi bên ngoài quán bar, tôi nhìn thấy một nhóm bạn đã ngồi quanh một chiếc bàn và cũng đúng lúc đó tôi nhìn thấy vài người họ hàng của tôi vừa bước ra khỏi quán, tay vẫn còn cầm chai rượu. Một trong số đó là Tracy, người mà “Git ngu ngốc" đã bắt tôi phải đánh nhau nhiều năm trước. - Janey! - Từ phía chiếc bàn đằng xa, các bạn học cũ của tôi đang hét gọi - Janey, đằng này này. Ngay khi nhìn thấy thái độ trên gương mặt những người họ hàng của mình, tôi biết rằng tôi đang gặp nguy hiểm. Tôi nhớ lại cú điện thoại mà tất cả bọn họ đều xông vào chửi rủa, sỉ nhục, kết tội tôi, rằng tôi đã khiến cho cả gia đình liên kết chống lại tôi như thế nào và tôi nhận ra rằng mình đã mắc một sai lầm nghiêm trọng khi quyết định tới đây. Tôi tiến nhanh tới bàn của các bạn tôi và nói với Al, người cao lớn nhất đang làm việc cho một tiệm rượu. - Al, cậu phải đưa mình ra khỏi đây ngay bây giờ. Gọi cảnh sát tới đây mau. - Cái gì. - Trông Al có vẻ hết sức bối rối. Ngay bên cạnh quán rượu này có một đồn cảnh sát. Chỉ cần mất vài giây thôi là sẽ có người tới đây ngay. - Bình tĩnh lại nào Janey. Ở đây, cậu sẽ hoàn toàn an toàn - Cậu ấy nói. Tôi có thể nhận thấy rằng mình không thể nào làm cho Al hiểu được rằng tôi đang gặp phải rắc rối lớn đến nhường nào và tôi không nghĩ rằng mình còn nhiều thời gian. Tôi chạy vào trong quán, tim đã bắt đầu nghẹt thở vì lo lắng. Nếu tôi có thể vào trong bếp, may ra tôi sẽ tìm được một lối cửa sau thoát ra ngoài. - Tôi xin lỗi, cô không thể vào đây được. Đây là lối vào nhà bếp. - Một cô gái chặn ngang đường tôi. - Cô phải giúp tôi! - Tôi hét lên. - Cô phải đưa tôi ra khỏi đây và gọi cảnh sát đi. Họ sẽ giết tôi đấy. Rõ ràng cô ta đang nghĩ tôi là một kẻ điên và tôi chẳng có cách nào có thể thuyết phục cô ta cho tôi bước qua cánh cửa đó. Lúc này, Tanya và Al đã đến. bên tôi và cũng đã bắt đầu nhận ra được mức độ nghiêm trọng của tình hình. Nhưng họ vẫn cố gắng làm tôi bình tĩnh lại. Cô gái đó đưa chúng tôi vào một phòng và bảo rằng cô ấy sẽ đi xin ý kiến người quản lý. - Khóa cửa ngoài lại và gọi cảnh sát đi! - Tôi hét lên nhưng tôi càng trở nên kích động thì tôi càng khó có thể khiến cho cô ta hiểu được rằng tôi đang hoàn toàn nghiêm túc. Tôi phải tự mình quay số gọi cảnh sát thôi. Nhưng tay tôi quá run đến nỗi tôi không cầm nổi chiếc điện thoại. Vài phút sau, cô gái đã quay trở lại. Cô ta nói: - Quản lý của chúng tôi nói rằng cô cần phải ra khỏi đây. Cô có thể ra bằng lối cửa sau, rẽ vào một con hẻm và đi vòng ra đằng trước. - Tôi không thể đi vòng ra đằng trước được. Bọn chúng đang đợi tôi ở đó! - Tôi hét lên nhưng cô ta đã vội vã đẩy chúng tôi ra cửa sau, giữa những thùng rác. Từ chỗ đó, tôi có thể nhìn thấy đồn cảnh sát và sân trong nhà thờ ngay bên cạnh, một cặp tình nhân đang tổ chức đám cưới. Tất cả trông có vẻ hết sức bình thường nhưng đối với tôi mọi chuyện hoàn toàn không phải như vậy. - Để tôi chờ ở đây vài giây đã - Tôi năn nỉ. - Tôi e rằng quản lý của tôi đã ra lệnh phải đóng cửa lại. Cô gái đó nói và tôi đứng đó nhìn cánh cửa khép lại một cách chậm chạp. - Không! - Tôi thét lên khi nghe thấy tiếng khoá cửa vặn đánh tách và tiếng những chiếc bánh xe bắt đầu nghiến trên đường phố. ... Mời các bạn đón đọc Người Tù Bé Nhỏ của tác giả Jane Elliott.
Ngôi Sao Lạc Loài - Johanna Lindsey
Hoàng đế của Cardinia sắp chết và chuẩn bị nhường ngôi cho người con trai duy nhất của ông, Thái Tử Stefan. Ông buộc Stefan phải đi đến Mỹ để rước vị hôn thê của anh, công chúa Tatania, là người đã được hứa hôn với anh từ thuở lọt lòng. Vì phải trốn tránh kẻ thù, Tatania đã được đưa đến Mỹ sống lúc cô vừa chào đời, nhưng éo le thay, người duy nhất đi chung với cô đã qua đời khi cả hai vừa đặt chân đến Mỹ. Cô được nuôi dưỡng bởi một kẻ được người đời gọi là rác rưởi, ông ta nuôi lớn cô trong một quán rượu và xem cô như là một kẻ nô lệ không mất tiền mua. Liệu Stefan có nghe lời cha anh, từ Cardinia đến nước Mỹ xa xôi ngàn dặm để rước cô không, khi mà đa số đàn bà đều kinh sợ anh, nếu không vì tiền hay vì địa vị của anh thì họ sẽ không lại gần anh? Liệu anh có tìm được vị hôn thê của anh không và liệu cô có tin mình là một cô công chúa không? Và làm thế nào Stefan mang được cô về lại Cardinia để hoàn thành di nguyện của cha anh, nếu cô không tin vào câu chuyện Cinderella này?... *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Trong chương này, nhân vật nam chính và nhân vật nữa chính của chúng ta bộc lộ một sự siêng năng cần mẫn mà chúng ta biết là họ rất giỏi. Lần đầu tiên, Gregory đã gần như sụp đổ. Lần thứ hai thì thậm chí còn tệ hơn nữa. Cái ký ức của lần đầu tiên đã giúp anh bình tĩnh chút xíu. Thực tế thì, hầu như ngược lại. Bây giờ anh đã hiểu hơn về những gì đang xảy ra (Lucy thì miễn cho anh những chi tiết, một điểm khủng khiếp trong cái tâm hồn quá chi tiết tỉ mỉ của cô) tất cả những tiếng động nhỏ nào cũng đều được đặt dưới sự suy xét và nghiên cứu không lành mạnh. Thật là một điều tốt đẹp đáng nguyền rủa cho những người đàn ông nào không thể có con. Gregory chẳng lấy gì làm hổ thẹn khi thừa nhận rằng loài người sẽ bị tàn lụi dần trong những thế hệ tiếp theo sớm hơn. Hoặc ít nhất thì, anh sẽ không góp phần vào cái đám tinh nghịch nhỏ mang tên Bridgertons hiện nay. Nhưng Lucy dường như chẳng e ngại chuyện sinh con, cũng như sau đó cô có thể mô tả kinh nghiệm cho anh theo chi tiết khá thường xuyên. Bất cứ khi nào cô muốn. Và vì vậy đến lần thứ ba, Gregory có khá hơn một chút. Anh vẫn ngồi ngay bên ngoài cánh cửa, và anh giữ nín thở mỗi khi anh nghe thấy một tiếng rên rỉ rời rạc, nhưng lần này, anh không sụp đổ với nỗi lo lắng. Lần thứ tư thì anh mang theo một cuốn sách. Lần thứ năm, chỉ là một tờ báo (Dường như có vẻ nhanh hơn đối với mọi đứa trẻ. Cũng tiện thôi.) ... Mời các bạn đón đọc Cardinia's Royal Family #1: Ngôi Sao Lạc Loài của tác giả Johanna Lindsey.
Hãy Nói Yêu Em - Johanna Lindsey
Tiếp nối những câu chuyện trước đó về những thành viên họ tộc Malory, Hãy nói yêu em sẽ làm say mê hàng triệu độc giả qua câu chuyện tình yêu đầy thử thách của Derek Malory và Kelsey Langton. Không chỉ có tình yêu, vấn đề tình dục cũng được tác giả khai thác dưới những góc cạnh đầy đam mê, mãnh liệt. Tình yêu hiện lên qua các trang sách quả thực đầy hấp dẫn nhưng cũng khiến con người phải khổ sở, day dứt... Nhẹ nhàng, sâu sắc mà vẫn đầy cá tính, lời kể của Johanna Lindsey như đưa người đọc đến với không gian truyện thấm đẫm chất thơ nhưng cũng đầy ấn tượng mãnh liệt bởi chất hiện đại đan xen vào từng tình tiết, câu thoại... Cuối cùng thì, tình yêu - với cái quyền năng vô hạn của nó - đã có thể đảo tung mọi lề thói của cuộc sống, khiến nó dẫu mang bất kỳ cung bậc nào, buồn hay vui, đều trở nên vô cùng sống động... Có một quy tắc bất thành văn trong giới quý tộc Anh Quốc xưa, đó là: một quý ông có thể có bao nhiêu tình nhân tùy thích, nhưng việc cưới một trong những tình nhân đó là điều không thể! Vậy điều gì đã khiến Derek Malory, Hầu tước Haverston tương lai, đi ngược lại với quy tắc đó? Nguyên nhân nào đã khiến cho Kelsey Langton, vốn là con gái của Bá tước Lanscastle đệ tứ, phải bán mình trong một nhà chứa ô danh nhất London? Gặp nhau trong một hoàn cảnh chẳng hề bình thường, đến với nhau dưới danh nghĩa tình nhân, liệu tình yêu giữa Kelsey và Derek có đi được đến kết quả cuối cùng - một cuộc hôn nhân được mọi người chúc phúc hay không? Hãy nói yêu em sẽ giúp bạn trả lời những thắc mắc trên. Nếu bạn đang tìm kiếm một tác phẩm đầy kịch tính, hay hoành tráng, thì cuốn tiểu thuyết của Johanna Lindsey có lẽ không phù hợp với mong muốn ấy của bạn. Nhưng nếu đơn thuần chỉ muốn cảm nhận sự ngọt ngào và chân thật của tình yêu, về hương vị ấm áp của sự quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong cùng một gia tộc, thì đây là tác phẩm bạn nên đọc. "... Đó là lý do tại sao Lonny nói với sự ghê tởm như vậy: - Mấy cái chuyện đỏ mặt như vậy là đủ rồi, nhưng cô nên sớm quen với kiểu nói chuyện thế đi, cô gái. Từ nay về sau việc của cô chính là cung cấp cho người đàn ông mua cô chuyện tình dục, dù ông ta muốn nó thế nào đi nữa, cô hiểu chứ? Một người đàn ông sẽ làm với tình nhân của ông ta những chuyện mà ông ta không thể làm với vợ mình. Đó là lý do quái quỷ mà một tình nhân cần có. Tôi sẽ gửi tới một trong những cô gái của tôi để giải thích điều đó rõ ràng hơn cho cô, vì chú cô rõ ràng là không thấy nó phù hợp. Và ông ta làm như thế, khiến cho Kelsey càng tủi nhục hơn. Một người đàn bà trẻ đẹp tên May đã tới vào đêm đó, mang theo một chiếc váy lòe loẹt mà Kelsey đang mặc lúc này, và đã dành vài giờ thảo luận những thông tin về đời sống tình dục với nàng. May đã che dấu mọi thứ từ chuyện làm thế nào để tránh việc mang thai ngoài ý muốn tời mọi cách có thể tưởng tượng được để làm một người đàn ông thỏa mãn, những cách để kích thích ham muốn của họ, và những cách để lấy được những gì mình muốn từ họ. Điều cuối có thể là điều Lonny không muốn Kelsey học, nhưng May có vẻ như thấy tiếc cho nàng, cho nên cũng đã tình nguyện cung cấp luôn thông tin đó. Chắc chắn nó chẳng có gì giống với cuộc nói chuyện ngắn gọn Kelsey đã có với mẹ nàng hơn một năm trước, khi nàng bước sang tuổi 17, về tình yêu và hôn nhân. Mẹ nàng đã thảo luận về chuyện làm tình và con cái theo cách thẳng thắn của bà, rồi đi thẳng vào một vấn đề chẳng liên quan gì, như thế cả hai bọn họ đều không ngượng ngùng đến tận những đầu ngón chân về cái chủ đề vừa nói..." *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Con có một tuyên bố khác – Anh nói đầy tự hào với gia đình mình, đang tụ tập đầy đủ ở đó. - Không cần đâu, cậu bé yêu quý – James đáp lời, mỉm cười với anh – Cái nhìn trên mặt cháu nói đầy đủ mọi chuyện rồi. - Dù sao cũng để thằng bé nói đi, ông già- Anthony nói với anh trai mình – Chẳng mấy khi một người Malory sẵn lòng đeo xiềng vào cổ mà. Derek cười toe toét: - Quý cô Kelsey đã bằng lòng cưới con, nhờ những khả năng gieo rắc tin đồn của Reggie. Bên cạnh đó, con cáo nhỏ đó đâu rồi nhỉ? Con nợ con bé một cái ôm thật chặt. - Ta sẽ nói là con bé đã trốn đâu đó cùng thằng nhóc láo lếu mà nó lấy mất rồi – James trả lời khô khốc – Con bé yêu dấu ấy hiện giờ quá là tự hả hê với bản thân mình. - Và đúng là vậy – Amy chen vào – Em rất mừng cho anh, Derek. - Vẫn cứ nói chuyển tới Mỹ là tốt hơn mà – Warren thêm vào. - Cắn lưỡi mình đi, tên Mỹ - James nói – Thằng cháu ta tình cờ lại là người văn mình. Nó sẽ không thích thú chuyện sống giữa những kẻ dã man nóng tính như mấy người đâu. Warren chỉ cười khùng khục: - Ông đã cưới một trong những kẻ Mỹ đó đấy thôi, hay ông quên mất chuyện đó rồi? - George của ta là một ngoại lệ, ta sẽ nói cho biết vậy – James khăng khăng. - Cám ơn anh, em nghĩ thế đấy – Georgina nói cùng một nụ cười. Nhưng Anthony phàn nàn: - Anh thấy đấy, khiêu khích hắn ta có còn thú vị gì nữa đâu, thực thế. Nhưng ít nhất thì Nick già vẫn cứ cắn câu, em có thể nói thêm là, còn tùy lúc tùy nơi nữa. - Nó không vậy sao? – James cười nhăn nhở - Nhưng mà, người Anh vẫn cứ đáng tin cậy hơn mà. Warren chỉ khịt mũi trước lời mỉa mai thêm vào đó, nhưng Edward đã nói: - Thôi đi nào, cả hai đứa. Đây là lúc dành cho những lời chúc tốt đẹp mà – Và sau đó ông nói thêm, mỉm cười với Kelsey – Hân hạnh được biết cô, quý cô. Tôi chắc chắn cô sẽ là một thành viên tuyệt vời gia nhập vào dòng họ Malory. - Đúng là thế - Jason nói một cách lặng lẽ. Derek liếc về phía cha mình, tại nơi đứng thông thường của ông bên cạnh lò sưởi. ... Mời các bạn đón đọc Hãy Nói Yêu Em của tác giả Johanna Lindsey.