Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Gì Ngoài Rắc Rối (Rachel Gibson)
Anh là một cầu thủ khúc côn cầu trên băng bị chấn thương Cô là một nữ diễn viên không có vai diễn. Anh không có kế hoạch nào cho tương lai và dự tính muốn sống yên ổn một mình. Cô có một kế hoạch khác… Lần đầu tiên nhìn anh, cô biết anh sẽ là một rắc rối lớn. Tìm mua: Không Gì Ngoài Rắc Rối TiKi Lazada Shopee Lần đầu tiên nhìn thấy cô, anh biết cô sẽ KHÔNG GÌ NGOÀI RẮC RỐI. Siêu sao môn khúc côn cầu trên băng Mark Bressler bị chấn thương, và anh ta không phải là một bệnh nhân lành tính chút nào. Vì thế khi đội Chinooks đưa đến cho anh một trợ lý mới, Mark đã cố tìm cách đuổi cô ấy đi, như anh đã làm với những người khác trước đây. Nhưng Chelsea Ross không phải là một người yếu đuối. Cô có thời được xem là “nữ hoàng gào thét” tuyệt vời nhất ở Hollywood, cô gái đầu tiên bị giết chết trong vô số bộ phim kinh dị. Giờ là thời gian cho sự thay đổi, và cô quyết định lấy tiền thưởng mà cô đã được hứa vì ở cùng Mark. Nhưng rồi các rắc rối đã kéo đến - dưới hình dáng không thể ngờ được của đam mê… và tình yêu.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Rachel Gibson":Bí Mật Của JaneChỉ Thuộc Về AnhCòn Đó Đam MêGiã Biệt Tình XaHẳn Là YêuKhông Còn Tâm Trạng Để YêuKhông Gì Ngoài Rắc RốiKhông Phải Tình HờLola Chạy TrốnNói Dối Và Hẹn Hò Trực TuyếnRắc Rối Với Ngày ValentineThảm Họa TìnhTình Yêu Trở LạiVương Phải Tình EmYêu Em Cuồng SiĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Không Gì Ngoài Rắc Rối PDF của tác giả Rachel Gibson nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Không Đời Nào (Anatole France)
Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người. Với kiến thức uyên bác về lịch sử Pháp, lịch sử tôn giáo, đặc biệt am hiểu về văn chương, hội họa xuyên suốt từ cổ đại, trung cổ, phục hưng tới cận đại, với văn phong trác tuyệt, A.France đã khéo léo lồng ghép cái triết lý hoài nghi của mình vào tiểu thuyết, đưa học thức uyên bác kết hợp với nghệ thuật đả kích châm biếm đưa trí tưởng tượng kết hợp với hiện thực xã hội, đưa biên niên sử tôn giáo kết hợp với phóng tác văn chương, đưa Dionysus gặp gỡ các thánh Tông Đồ, đưa những linh vật giao du cùng ngoại đạo, tất cả những điều ấy đã đưa ông thành một nghệ sĩ bậc thầy về kể chuyện, đưa đến cho người đọc những áng văn tuyệt vời, làm người đọc đắm say.*** Tôi đặc biệt nhớ lại thật chính xác con búp bê được bày bán trong một cửa tiệm tồi tàn ở đường sông Seine khi tôi được tám tuổi. Tôi không rõ tại sao con búp bê ấy lại làm tôi thích. Tôi đã rất tự hào mình là con trai; Tôi không ưa các bé gái và kiên nhẫn chờ cho đến cái ngày ( than ôi ngày ấy đã tới rồi) râu của tôi sẽ mọc tua tủa quanh cằm. Tôi chơi trò lính tráng và để có thức ăn nuôi con ngựa đu của mình tôi vặt trụi phá hổng tất cả các cây mẹ đã trồng ở cửa sổ phòng bà. Tôi cho đó là những trò chơi của nam giới! Tuy nhiên tôi vẫn muốn một con búp bê. Vậy con búp bê tôi thích ít ra cũng phải đẹp chứ nhỉ?. Không đâu, tôi vẫn còn nhớ như in.Con búp bê có hai má đỏ, cánh tay mềm nhũn lại ngắn, hai bàn tay gỗ nhìn phát ghê. Cái váy hoa được ghim sát vào thân bằng hai cái kẹp. Đó là con búp bê kiểu dáng xấu tệ và quê kệch. Tôi nhớ rất rõ, tuy lúc đó hoàn toàn chỉ là một thằng nhóc, chưa mài mòn bao nhiêu cái đũng quần, nhưng lại cảm nhận thật sống động tinh tế, rằng con búp bê này thiếu duyên dáng lại còn luộm thuộm không đoan trang. Sao mà nó kềnh càng, sao mà nó thô kệch quá đi! Thế nhưng dầu vậy tôi vẫn thích nó, tôi thích nó vì điều đó. Tôi chỉ thích con búp bê đó. Tôi muốn nó. Tìm mua: Không Đời Nào TiKi Lazada Shopee Tôi nghĩ ra nhiều mánh để buộc chị giúp việc Vi-gi-ni phải cùng tôi đi qua trước cái tiệm nhỏ ở đường sông Seine. Tôi tì mũi vào tấm kính mải mê đến nỗi chị ta buộc phải kéo tay tôi giục: _Cậu Xin-Vét à trễ rồi coi chừng mẹ cậu sẽ rầy đó!. Mặc kệ, rầy à, mắng à, Xin Vét này đâu có ngán! Nhưng chị giúp việc đã nhấc bổng cậu ta lên, thế là không thể cưỡng lại được Xin-Vét đành chịu khuất phục.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Không Đời Nào PDF của tác giả Anatole France nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Không Còn Tâm Trạng Để Yêu (Rachel Gibson)
Tiểu thuyết gia văn học lãng mạn hiện đại ăn khách nhất tại Mỹ “Sững sờ, tuyệt vọng và đầy bất ngờ” Một trải nghiệm khi bạn rơi vào cảnh trớ trêu: đột nhiên phát hiện ra chồng sắp cưới đang ân ái với bạn tình đồng tính. Những trạng thái nhiều cung bậc tình cảm: suy sụp, thất vọng, khinh bỉ, đau đớn, mất lòng tin và… không còn tâm trạng để yêu. Một cuốn sách đem lại cho lòng tha thứ, sự tự tin và tình yêu. Clare Wingate đang làm gì?…Điều tồi tệ hơn cả, cô chẳng mặc gì và đang nằm kế bên Sebastian Vaughan… người mà cô phải lòng từ thời còn bé và hiện đang là một nhà báo quyến rũ, đi hết nơi này đến nơi khác… Clare có lý do cho việc ăn chơi quên sầu của mình vì cô vừa đá phăng anh chồng sắp cưới sau khi thấy anh ta đang có tư thế khó hiểu với anh thợ sửa máy giặt. Hẳn nhiên, đám cưới của cô cũng không diễn ra nữa. Nhưng Sebastian lại làm cô khó xử. Clare không còn tâm trạng nào để yêu, chứ đừng nói đến vấn đề thỏa mãn ham muốn. Và cô muốn quên đi Sebastian cùng bộ ngực sáu múi của anh càng nhanh càng tốt. Nhưng anh không có tâm trạng muốn rời xa Clare và nụ hôn của anh khiến Clare không thể nào quên… Rachel Gibson sinh ở Boise, Idaho, USA. Cha cô làm việc cho một công ty điện thoại, mẹ cô làm nội trợ. Hiện sống cùng chồng và 3 con tại Boise. Tìm mua: Không Còn Tâm Trạng Để Yêu TiKi Lazada Shopee Sáng tác văn do ảnh hưởng từ tiểu thuyết lãng mạn The Spanish Rose (tác giả Shirlee Busbee). Độc giả yêu thích văn chương của cô bởi khám phá được hơi thở mới của dòng văn học lãng mạn hiện đại. Bốn cuốn sách của cô đều trong danh sách Top 10 cuốn sách văn học lãng mạn được yêu thích nhất trong năm của Mỹ (Ten Favorite Books of Year của Romance Writer of America). Tiểu thuyết đầu tay Simply Irresistible trong top Sách bán chạy do tờ New York Times và USA Today bình chọn. Các giải thưởng: The Golden Heart Award, 1994; National Reader’s Choice Award for Best Single Title Contemporary; Amazon Editor’s Top Pick; ứng viên của giải Quill của Publisher Weekly và tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất của Borders vào năm 2006. Cuốn True Confessions — Rita Award for Best Contemporary Single Title, 2002. Cuốn Not another bad date (Không phải tình hờ) đoạt giải Rita 2009 (giải thưởng danh giá cao quý nhất của Romance Writers of America. “Cô đã rất thành công với các tác phẩm của mình.” - Báo Detroit Free Press “Gibson thú vị đến từng chi tiết.” - Tuần báo Publishers Weekly “Sở trường của Gibson là viết những cuốn sách khiến bạn có thể cười suốt ngày… nhưng có khi lại làm người ta bật khóc.” - Báo Columbia State (South Carolina)*** Rachel Gibson sinh ở Boise, Idaho, USA. Cha cô làm việc cho một công ty điện thoại, mẹ cô làm nội trợ. Hiện sống cùng chồng và 3 con tại Boise. Sáng tác văn do ảnh hưởng từ tiểu thuyết lãng mạn The Spanish Rose (tác giả Shirlee Busbee). Độc giả yêu thích văn chương của cô bởi khám phá được hơi thở mới của dòng văn học lãng mạn hiện đại. Bốn cuốn sách của cô đều trong danh sách Top 10 cuốn sách văn học lãng mạn được yêu thích nhất trong năm của Mỹ (Ten Favorite Books of Year của Romance Writer of America). Tiểu thuyết đầu tay Simply Irresistible trong top Sách bán chạy do tờ New York Times và USA Today bình chọn. Một số tác phẩm của Rachel Gibson đã được dịch và xuất bản tại Việt nam của tác giả Rachel Gibson, gồm có: Bí Mật Của Jane Chỉ Thuộc Về Anh Còn Đó Đam Mê Giã Biệt Tình Xa Hãy Cứu Em Hẳn Là Yêu Không Còn Tâm Trạng Để Yêu Không Gì Ngoài Rắc Rối Không Phải Tình Hờ Lola Chạy Trốn Người Đàn Ông của Tôi Nói Dối Và Hẹn Hò Trực Tuyến Rắc Rối Với Ngày Valentine Thảm Họa Tình Tình Yêu Trở Lại Vương Phải Tình Em Yêu Em Cuồng Si... Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Rachel Gibson":Bí Mật Của JaneChỉ Thuộc Về AnhCòn Đó Đam MêGiã Biệt Tình XaHẳn Là YêuKhông Còn Tâm Trạng Để YêuKhông Gì Ngoài Rắc RốiKhông Phải Tình HờLola Chạy TrốnNói Dối Và Hẹn Hò Trực TuyếnRắc Rối Với Ngày ValentineThảm Họa TìnhTình Yêu Trở LạiVương Phải Tình EmYêu Em Cuồng SiĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Không Còn Tâm Trạng Để Yêu PDF của tác giả Rachel Gibson nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Khóm Hoa Tử Đinh Hương (Aleksandr Kuprin)
Là tác giả viết truyện lãng mạn rất hay. Nhưng Kuprin thỉnh thoảng có 1 số truyện ngắn rất vui và ý nghĩa. Mình đánh giá đây là 1 dạng rất thực tế của tình yêu. Giới thiệu với mọi người quyển Khóm hoa tử đinh hương***Aleksandr Kuprin là một trong những nhà văn Nga xuất sắc hồi cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Ở Việt Nam, ông được độc giả biết đến qua tác phẩm "Chiếc vòng thạch lựu" và "Người tình của vua Sô lô mông" (Суламифь). Aleksandr Ivanovich Kuprin (1870 - 1938) là một trong những đại diện cuối cùng của thế hệ bạc (Sliver Age) của dòng văn học Nga lãng mạn trước Cách mạng. Văn của ông có giọng điệu riêng và chiếm vị trí đặc biệt trong lòng độc giả Nga, ông được gọi một cách yêu quý là “Nhà văn của dân nghèo”. Trong hơn 40 năm lao động sáng tác, ông đã để lại cho văn học Nga và thế giới một di sản đồ sộ với khoảng 300 tác phẩm lớn nhỏ. Các tác phẩm của ông bao quát nhiều lĩnh vực trong đời sống Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ông tập trung viết về cuộc sống đời thường, chủ đề tình yêu vẫn chiếm vị trí trung tâm. Các mối tình trong truyện của ông giản dị, không có kết thúc quá bi thảm, nhưng đa số đều không trọn vẹn, và đôi khi rất bất ngờ, để lại trong tâm trí người đọc một câu hỏi tuy chỉ thoáng qua nhưng day dứt. Tìm mua: Khóm Hoa Tử Đinh Hương TiKi Lazada Shopee Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Khóm Hoa Tử Đinh Hương PDF của tác giả Aleksandr Kuprin nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.