Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiếc May Bay Tiêm Kích Zéro
Tiếng động cơ đến dai dẳng, điên loạn của chiếc máy bay chiến đấu Zéro vào một ngày tháng Tư năm 1945 đã gieo rắc cái chết xuống chiếc tàu chở máy bay Maryland tại Okinawa. Tiếng rú mà Laura Carlson gắng chịu như cô gắng chịu cái chết của người cha mà cô chưa từng gặp mặt - cứ đeo đuổi cô ngày đêm, đến ngay cả tình yêu cũng không mang lại sự bình yên cho cô. Cái tiếng vo vo đó là hiện thân của chiến tranh. Nó đã khiến cho cha cô phải chết. Vậy mà giờ đây, bao năm sau khi cuộc chiến đã kết thúc, nó vẫn còn gây họa cho cô. Kẻ gây ra cái chết và nạn nhận của nó đều đã nằm dưới mồ, còn cô trước mặt vẫn có cuộc sống đang đợi cô. *** Pascale Roze sinh ra tại Sài Gòn năm 1954.   Nữ tiểu thuyết gia người Pháp này đã được nhận giải Goncourt 1996 cho tiểu thuyết đầu tay Le Chasseur Zéro.   Các tác phẩm chính:  Histoires dérangées, recueil de nouvelles, Julliard, 1994  Le Chasseur Zéro A. Michel, 1996  Ferraille, Albin Michel, 1999  Lettre d'été, Albin Michel, 2000  Parle-moi, Albin Michel, 2003  Un homme sans larmes, Stock, 2005  L'Eau rouge, Gallimard, 2007  Itsik, Stock, 2008   Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:  Chiếc máy bay tiêm kích Zero, NXB Phụ Nữ, 1997  Nước đỏ, NXB Phụ Nữ, 2008 *** Ngay từ sáng sớm, trước khi mặt trời mọc, chiếc máy bay tiêm kích đã lên đường. Thân sơn đen, tải trọng giết người xếp trong bụng, nó nổ máy. Tiếng động cơ vù vù trong tĩnh lặng của bình minh. Cánh quạt quay. Chiếc may bay rung lên, đèn tắt, nó lăn bánh trên đường băng, nó nâng mũi lên và bắt đầu cất cánh. Với một sức đẩy đều đặn, nó lên tới năm nghìn mét và giữ ổn định ở đó. Trời đã sáng. Từ biển, từ trên trời, từ bốn phương, chiếc máy bay tiêm kích ở trong tầm nhìn. Tôi tên là Laura Carlson. Tôi sinh ngày 10 tháng Mười - 1944 tại New York. Cha tôi mất ngày 7 tháng Tư - 1945 tại Okinawa.   Tôi chỉ có hai tấm ảnh của ông. Trên một tấm, cha tôi đứng nghiêm bên cạnh những người của ông, trên boong con tàu Maryland. Gương mặt ông im lìm, thản nhiên, căng thẳng trong sự tuân phục như thể đã đi về cõi chết. Trên tấm bia ông quàng tay ngang người mẹ tôi ở Central Park. Trời nắng, ông mỉm cười. Mẹ cũng mỉm cười. Tôi không biết gì về nước Mỹ. Khi mẹ trở về Pháp, tôi chưa đầy hai tuổi. Mẹ đến gõ cửa căn hộ to lớn phố Bienfaisance, căn hộ thời thơ ấu của mẹ, cái thời mẹ muốn quên đi. Ông bà đón tiếp cô con gái hư và cái con bé nửa lạ nửa thân là tôi, còn nó thì lăn vào tay ông bà. Chắc là ông bà có hỏi vài câu. Mẹ tôi không trả lời. Đó là tự kiêu, nhiều năm sau này bà tôi còn nói vậy.   Thời thơ ấu của tôi rất chán. Căn hộ tôi cũng chán, ông bà tôi cũng chán còn mẹ tôi thì chìm sâu vào một cõi tĩnh lặng thê thảm. Thoạt đầu mẹ cố gắng làm việc. Theo gợi ý của bà, mẹ tôi dạy tiếng Anh tại trường trung học ở đó mẹ đã từng theo học. Mẹ vất vả đấu tranh chống chứng suy nhược thần kinh. Lẽ ra mẹ có thể đến gặp bác sĩ, nhưng không ai nghĩ đến việc đó. Một ngày kia, mẹ không còn can đảm chuẩn bị bài giảng của mẹ và đối đầu cái nhìn thương cảm của bạn đồng nghiệp của mẹ. Bà đến giải thích với bà hiệu trưởng. Người ta cất gánh nặng công việc cho mẹ, và từ đó mẹ sử dụng những ngày dài nhàn rỗi để chơi trò chơi chắp hình, suốt ngày như vậy. Ông bà tôi gánh lấy trách nhiệm giáo dục tôi và chăm sóc con gái giống như  người ta chăm sóc một đứa trẻ chậm phát triển. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc May Bay Tiêm Kích Zéro của tác giả Pascale Roze.
Chuyện Tình Lúc Nửa Đêm
‘’Những tờ giấy trắng bay tung giữa không trung, phấp phới trong một chiều hè đầy giông bão, chẳng khác nào cảnh tượng một đàn bồ câu bất ngờ vỗ cánh bay đi ‘’ Tình yêu luôn xuất hiện một cách đầy bất ngờ, khó tưởng tượng nhất với mỗi chúng ta và khi những tờ giấy nhạc bay trong không trung, khi tiếng móng ngựa xé gió lao tới cũng là lúc tình yêu của Kate đã đến bên nàng. Một câu chuyện tình yêu giữa cô gái mồ côi, thông minh, dạy nhạc luôn khao khát tìm ra thân thế thực sự của mình và niềm tin rằng luôn có ai đó yêu thương nàng. Người ấy không ngờ lại là một người bị coi là ‘’không tim’’ – Hạ sĩ Thorne nổi tiếng lạnh lùng và khó hiểu đã khiến nàng phải căm ghét, phải xao xuyến, phải rung động, phải choáng váng và phải yêu. Nhưng giữa hai người họ là những bí mật động trời bị che giấu mà một khi đã khơi ra sẽ tạo thành sóng gió không thể vãn hồi… Với những trang văn đầy hấp dẫn, lôi cuốn Tessa Dare đưa người đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Những say đắm cuồng nhiệt trong câu chuyện tình yêu tuổi trẻ, sự đồng cảm với những thân phận bị chối bỏ và hơn hết là niềm tin sẽ luôn có ai đó yêu bạn. *** FAN CỦA TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN LỊCH SỬ KHÔNG THỂ BỎ QUA TESSA DARE Tessa Dare là tác giả của mười bốn cuốn tiểu thuyết thuộc dòng lãng mạn lịch sử và được gọi là ‘’ngôi sao mới của dòng sách lãng mạn lịch sử ‘’. Bà đã hai lần được nhận giải thưởng RITA danh giá dành cho các nhà văn lãng mạn của Mỹ. Đọc Tessa Dare, bạn không thể bỏ lỡ “Bảy ngày phiêu lãng”, “Chuyện tình lúc nửa đêm”, “Thử thách và tình yêu”. Cả ba cuốn sách này đều đang được BachvietBooks giảm tới 30% tại Hội sách.   “Bảy ngày phiêu lãng” kể về chuyện tình giữa Minerva Highwood, một cô nàng không màng đến yêu đương của Vịnh Spindle, cần đến Scotland. Và đối tượng của nàng là Colin Sandhurt – Huân tước Payne, một kẻ phóng đãng bậc nhất, đếm từng ngày để rời khỏi Vịnh Spindle. Họ trở thành đối tác một cách thần kì và bất đắc dĩ. Trong vòng một tuần, họ giả vờ bỏ trốn cùng nhau để thuyết phục họ gia đình và bạn bè tin rằng họ đang ‘’yêu’’. Họ thoát khỏi những hiểm nguy vào ban ngày và vượt qua cơn ác mộng vào ban đêm, cứ thế du hành bốn trăm dặm mà không giết chết nhau. Họ không có thời gian để ý rằng sự thu hút lẫn nhau đang ngày càng lớn dần, từ lúc nào đã trở thành đam mê. Bất ngờ, một tuần dường như vừa đủ cho cuộc phiêu lưu đầy phiền phức và đủ cho tình yêu của chính họ.   Còn “Thử thách và tình yêu” là câu chuyện về chàng trai Bramwell Victor, hai mươi chín tuổi, điển trai, cao to, oai vệ, nghiêm khắc, từng trải với đôi mắt rất thu hút. Anh cũng là một trung tá bộ binh của quân đội Anh và khi bị thương ở đầu gối, anh buộc phải rời chiến trường. Anh tìm đến ngài Finch Lewis, đang sống cùng cô con gái Finch Susanna ở vịnh Spindle, như một tia hy vọng cuối cùng. Susanna là một cô gái hai mươi lăm tuổi, xinh đẹp, mảnh mai, cao ráo, thông minh, giỏi giang và bản lĩnh, chưa yêu lần nào. Cô chăm sóc cho người dân ở vịnh Spindle và tiếp đón các quý cô từ những nơi khác đến vịnh Spindle để nghỉ dưỡng. Ngay lần gặp đầu tiên, họ đã có cảm tình với nhau và Bram đã trao cho Susanna nụ hôn đầu đời. Anh yêu cô bằng một tình yêu mãnh liệt, một sự thiếu thốn tình cảm, và cả sự chiếm hữu. Cô đáp lại anh bằng một tình yêu trong sáng, một sự khao khát thầm kín, và sự cảm thông. Nhưng liệu tình yêu có đủ sức giữ họ lại bên nhau, đọc “Thử thách và tình yêu” để tự tìm đáp án cho bạn nhé. Tình yêu luôn xuất hiện một cách đầy bất ngờ, khó tưởng tượng nhất với mỗi chúng ta và khi những tờ giấy nhạc bay trong không trung, khi tiếng móng ngựa xé gió lao tới cũng là lúc tình yêu của Kate đã đến bên nàng. “Chuyện tình lúc nửa đêm” là câu chuyện tình yêu giữa cô gái mồ côi, thông minh, dạy nhạc luôn khao khát tìm ra thân thế thực sự của mình và niềm tin rằng luôn có ai đó yêu thương nàng. Người ấy không ngờ lại là một người bị coi là ‘’không tim’’ – Hạ sĩ Thorne nổi tiếng lạnh lùng và khó hiểu đã khiến nàng phải căm ghét, phải xao xuyến, phải rung động, phải choáng váng và phải yêu. Nhưng giữa hai người họ là những bí mật động trời bị che giấu mà một khi đã khơi ra sẽ tạo thành sóng gió không thể vãn hồi… Với những trang văn đầy hấp dẫn, lôi cuốn Tessa Dare đưa người đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Những say đắm cuồng nhiệt trong câu chuyện tình yêu tuổi trẻ, sự đồng cảm với những thân phận bị chối bỏ và hơn hết là niềm tin sẽ luôn có ai đó yêu bạn. *** Mùa hè năm 1814. Hạ sĩ Thorne có thể khiến phụ nữ phát run, dù anh ta ở bất cứ nơi đâu trong căn phòng. Đúng là có năng khiếu gây phiền toái, Kate Taylor thầm nghĩ. Anh ta thậm chí còn chẳng cần phải nhọc công cố gắng, nàng nhận ra điều đó với một nỗi ngậm ngùi phiền muộn. Anh ta chỉ cần sải bước vào quán Bull Blossom, ngồi lên chiếc ghế đẩu, dán mắt vào chiếc cốc vại bằng thiếc và quay tấm lưng to rộng, vững chãi lại với căn phòng. Và không một lời… cũng không thèm liếc nhìn… anh ta đã khiến cô Elliott tội nghiệp phải run tay trên phím dương cầm. “Ôi, em không thể”, cô gái thì thầm. “Bây giờ thì em không hát được. Khi anh ta còn đang ở đây”. Và thế là một buổi học nhạc nữa lại bị phá hỏng. Cho tới năm ngoái, Kate chưa từng gặp phải rắc rối kiểu này. Khi ấy, vịnh Spindle là một ngôi làng xinh đẹp với đa phần là phụ nữ. Và Bull Blossom là một quán trà duyên dáng, phục vụ món bánh kem lạnh và bánh táo phết mứt. Nhưng kể từ khi người ta sắp xếp lại lực lượng dân quân địa phương, quán trở thành nơi thưởng trà của các quý cô, đồng thời là chốn nhậu của các quý ông. Kate không phản đối việc chia sẻ này - nhưng rõ là không nên “chia sẻ” với Hạ sĩ Thorne. Sự hiện diện đầy nghiêm nghị, pha chút tư lự của anh ta thành ra lại khuấy động cả căn phòng. “Chúng ta hãy thử một lần nữa nhé”, Kate giục cô học trò trong lúc cố gắng phớt lờ cái hình bóng đáng sợ vẫn lờ mờ ở phía xa. “Lần trước, chúng ta đã gần làm được rồi mà”. Elliott đỏ bừng mặt và gõ gõ ngón tay lên đùi. “Em sẽ không bao giờ làm được đâu”. “Em sẽ làm được. Vấn đề chỉ là luyện tập thôi. Và em đâu chỉ có một mình. Chúng ta sẽ tập cùng nhau và sẽ sẵn sàng cho buổi trình diễn thử vào thứ Bảy tới”. Khi Kate nhắc tới từ “trình diễn”, đôi má cô gái lại đỏ hồng lên. Annabel Elliott là một tiểu thư trẻ trung, xinh đẹp, tinh tế và lịch thiệp. Duy chỉ có một điểm đáng tiếc là cô dễ bị xúc động quá. Mỗi khi Elliott xúc động hay căng thẳng, hai gò má vốn nhợt nhạt của cô lại đỏ bừng lên như thể chúng vừa bị tát rất mạnh vậy. Và Elliott thường xuyên bị xúc động hoặc căng thẳng. Một số phụ nữ trẻ tìm đến vịnh Spindle để chữa tính nhút nhát, để phục hồi sau một chuyện tai tiếng hoặc một trận ốm. Còn Elliott được gửi tới đây với một hi vọng khác: liều thuốc chữa trị chứng sợ sân khấu. Kate đã hướng dẫn Elliott đủ lâu để nhận ra rằng khó khăn của cô không phải do thiếu tài năng hay sự chuẩn bị. Elliott chỉ cần tự tin lên mà thôi. “Có lẽ một vài bản nhạc mới sẽ có tác dụng tốt”, Kate gợi ý. “Âm nhạc mới mẻ, tươi vui thậm chí còn tốt cho tinh thần của cô hơn nhiều so với một chiếc mũ mới”. Một ý tưởng bỗng lóe lên. “Cô sẽ tới Hastings tuần này và xem xem có thể tìm thấy gì”. Thực sự thì Kate đã lên kế hoạch tới Hastings với mục đích hoàn toàn khác. Nàng có một cuộc hẹn ở đó - cuộc hẹn mà nàng đã trì hoãn. Mua bản nhạc mới là lý do tuyệt vời cho chuyến đi. “Em không hiểu sao em lại ngớ ngẩn tới vậy”, cô gái trẻ có gương mặt vẫn đỏ hồng than thở. “Bao năm qua, em đã được dạy dỗ tử tế. Và em cũng rất thích chơi đàn. Thực sự rất thích. Nhưng khi có người khác lắng nghe, em gần như đông cứng lại. Em đúng là hết thuốc chữa rồi”. “Không đâu. Em vẫn còn cơ hội. Chuyện gì rồi cũng có cách giải quyết thôi”. “Cha mẹ em…” “Cha mẹ em không tin rằng em hoàn toàn vô vọng. Nếu không, họ đã chẳng gửi em đến đây”, Kate ngắt lời. “Họ muốn em có được một màn ra mắt giới thượng lưu thành công. Nhưng cô không biết áp lực lớn mà họ bắt em phải chịu đâu. Cô Taylor, cô không hiểu nổi cảm giác đó như thế nào”. “Không”, Kate thú nhận. “Đúng là có thể cô không hiểu được”. Elliott ngước mắt lên, dường như bị tác động mạnh bởi câu nói của Kate. “Em xin lỗi. Vô cùng xin lỗi. Em không có ý xúc phạm gì đâu. Em thật vô tâm quá”. Kate gạt đi lời xin lỗi. “Đừng ngốc thế chứ. Sự thật là thế mà. Cô là một đứa trẻ mồ côi. Em hoàn toàn đúng - Cô có thể không biết được cảm giác khi cha mẹ đặt quá nhiều mong muốn và kỳ vọng vào mình”. Mặc dù tôi có thể đánh đổi bất cứ thứ gì để trải nghiệm cảm giác đó, dù chỉ trong một ngày thôi. Kate tiếp tục. “Nhưng cô biết chắc chắn rằng em sẽ thấy lần này thật khác biệt vì em đang được sống giữa bạn bè. Đây là vịnh Spindle. Ở đây, tất cả chúng ta đều có gì đó hơi khác thường. Hãy nhớ rằng, mọi người trong làng đều ủng hộ em”. “Tất cả mọi người ư?” Câu hỏi đến cùng với một cái liếc vội vàng, thận trọng của Elliott hướng về phía người đàn ông cao lớn, đơn độc ngồi ở phía quầy bar. “Anh ta thật cao lớn”, Elliott thì thầm. “Và trông rất đáng sợ nữa. Mỗi lần em bắt đầu chơi đàn, em có thể thấy anh ta cau mày”. “Không cần thiết phải suy diễn thế đâu. Anh ta là quân nhân và em biết đấy, những lần bom nổ có thể khiến cho đầu óc người ta hơi lộn xộn đôi chút”. Kate vỗ nhẹ lên cánh tay Elliott tỏ ý động viên. “Đừng bận tâm tới anh ta làm gì. Hãy ngẩng cao đầu, nở một nụ cười tươi và tiếp tục chơi đàn”. “Em sẽ cố, nhưng anh ta… thật khó phớt lờ anh ta”. Đúng thế. Đúng là rất khó để không chú ý tới anh ta.   Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Lúc Nửa Đêm của tác giả Tessa Dare.
Mạt Lộ
Đó là lần đầu tiên tôi rời thành phố vào chiến khu. Trước năm 1975 ở  Nam Việt Nam chuyện ấy chẳng có gì lạ, vì hàng ngàn phụ nữ trẻ như tôi cũng từng làm như vậy. Họ đã chiến đấu, đã bị thương, đã chết, đã bị bắt làm tù binh hay đã chiến thắng trở về trong chiến dịch Hồ Chí Minh như trường hợp của tôi. Vì thế câu chuyện của tôi sẽ không có gì đáng nói nếu lúc ở chiến khu tôi không gặp ông già ấy. Ông không phải là một người bình thường. Ông là một nhân vật đầy quyền lực của "R". "R", một cái tên huyền thoại, một thánh địa cách mạng, vừa là nỗi ám ảnh vừa là món nợ của nước Mỹ. Nhưng "R" là gì? Có thể nó được viết tắt từ chữ "Rừng". Nhưng khu rừng mà tôi đến cũng không có gì ghế gớm, không có gì bí ẩn. Nó chỉ là một vùng cây cối rậm rạp, bằng phẳng, hoang sơ và thầm lặng. Nhưng ở đó có một căn nhà đặc biệt. Đó là căn nhà của ông già ấy. Tuy nó cũng đơn sơ như những căn nhà khác nhưng nó vừa là Tử cấm thành vừa là Hậu cung của ông ta. Nó nằm giữa một khu vực cực kỳ bí mật và vô cùng quan trọng mà người ta quen gọi là Trung Ương Cục Miền Nam, tức "R". Và người đàn ông năm mươi tuổi ấy, tuy không là hoàng đế nhưng quyền lực của ông bao trùm thiên hạ. Người ta quen gọi ông là "vương gia". Việc tôi lọt vào hậu cung của ông không phải là vận may mà là một tai họa. Về sau này nó đã dồn tôi vào những bi kịch liên tiếp mà tôi không biết phải chống đỡ như thế nào. Ít ai được thấy mặt vương gia. Ông như cái bóng chập chờn sau tấm vách nylon mờ đục. Rừng thì đen kịt, ngửa bàn tay không thấy, nhưng trong căn lều của ông, ngọn đèn dầu vẫn in rõ cái bóng lên vách. Ông đi lại. Ông nghe đài. Ông đọc báo cáo. Ông uống trà. Và ông chờ tôi. Lúc ấy tôi đang ở mé rừng. Trời mới chạng vạng. Giao liên bàn giao tôi cho "người dẫn đường". Đó là một người đàn ông lạnh lùng. Một chiếc quần kaki sờn rách. Áo bà ba đen và một cái khăn rằn quấn quanh cổ. Khẩu AK mang sau lưng, mũi súng chĩa xuống đất. Anh ta ngồi đợi trên doi đất nhỏ cạnh mé nước. - Chào đồng chí, tôi nói. Nhưng anh ta làm thinh, ra hiệu cho tôi đi theo. Hai người băng qua những vườn xoài thấp. Trong bóng tối, lối mòn châu thổ vẫn ánh lên một màu trắng đục vì thế chúng tôi đi khá nhanh. Tới một cái chốt kiểm soát, người dẫn đường nói mật khẩu rồi đi qua cây cầu khỉ. Thấy người đàn ông lầm lì quá, tôi bắt chuyện: - Đồng chí là người ở đây? - Không. Tôi là bắc kỳ. - Bộ đội? - Không phải bộ đội. Bắc kỳ di cư. Câu trả lời lạ quá làm tôi không dám hỏi nữa. Đột nhiên có tiếng động cơ rất lớn từ sông cái tràn vô. Người dẫn đường ra hiệu dừng lại, nghe ngóng. Tiếp theo là tiếng loa phóng thanh vang trên mặt sông: - Hỡi các cán binh cộng sản. Các anh đã bị bao vây. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa sắp tấn công càn quét khu căn cứ này. Hãy ra hàng, nếu không các anh sẽ bị tiêu diệt. Lập tức trực thăng quần đảo ngay trên đầu. Người dẫn đường nắm tay tôi chạy nhanh đến một chốt vũ trang. - Cho cô này xuống HBM. Tổ trưởng vũ trang nói: - Còn một cái cuối cùng. Hai đồng chí xuống đi. Anh ta đỡ tôi xuống rồi nhảy theo. Kéo nắp hầm đậy lại. Hơi đất ẩm và bóng tối làm tôi ngộp thở. Người dẫn đường nói: - Bây giờ không phải lúc ngại ngùng đâu. Đừng đứng sát vách đất. Hãy nép vào tôi đi. Sẽ thấy dễ thở hơn. Đó là kinh nghiệm chiến trường. Bao giờ một nam một nữ ở chung hầm bí mật cũng có nhiều hy vọng sống sót hơn là hai người đồng giới tính. Quả nhiên hơi ấm của tấm lưng người đàn ông làm tôi thấy dễ chịu hơn. Trên mặt đất súng nổ lẻ tẻ. Chỉ một lúc sau đại liên từ trên trực thăng bắn xuống áp đảo. Cành xoài gãy răng rắc. Tiếng chân chạy nặng nề ngang qua miệng hầm. Cũng may, căn cứ này đóng trên một địa hình sông nước nên xe tăng không vào được. Có tiếng chân nhiều người khuấy động mặt đất bên trên. Người dẫn đường rút chốt lựu đạn cầm ngay trước ngực. Anh nói nhỏ vào tai tôi: - Nếu tụi nó "xăm" trúng miệng hầm thì tôi sẽ bung nắp hầm lên, ném lựu đạn và dzọt lẹ ra bờ sông nhé. Cô biết bơi không? Nhưng những bàn chân mang giày "xô" đã đi xa dần. Một đợt trực thăng nữa đảo tới. Đạn M60 lại trút xuống như sấm sét. Nắp hầm rung chuyển. Tôi co rúm lại. Không biết trận càn kéo dài bao lâu vì sự gầm thét của bom đạn đã làm lu mờ mọi khả năng phán đoán. Khi chiến trường im tiếng súng, người dẫn đường hé nắp hầm nhìn lên thì thấy trời đã sáng. Chúng tôi lại lên đường. Người đàn ông lấy lương khô đưa cho tôi. Lúc hai người đối mặt nhau tôi ngạc nhiên khi nhận ra một chàng trai đẹp đẽ, nho nhã. Tôi hỏi: - Anh tên gì? - Trần Vũ. - Sao buồn quá vậy? - Không sao. Lại cắt rừng mà đi. Rừng sáng. Thưa thớt. ° Sau bữa cơm chiều, nhà văn Đức Hải đến gặp tôi: - Sao? Ở luôn đây được không? - Mọi người ở được thì em ở được. - Vậy mà có người muốn chiêu hồi đấy. Cô phải cẩn thận chớ nên tiếp xúc nhiều. - Ai vậy? Ông nhà văn liếc nhìn về phía Trần Vũ lúc đó đang nằm trên võng hút thuốc lá. Tôi nói: - Đồng chí ấy có vẻ bí ẩn. Đức Hải cười khô một tiếng rồi quay lưng đi. Mười Thảo tiến lại chỗ tôi. - Em cho chị cây đèn dầu. Ở trong rừng phải có 3 chữ Đ. Đó là Đèn, Đài và Đùng. - Đùng là gì? - Là súng. Rồi chị cũng sẽ có một khẩu. Tôi hỏi: - Anh Trần Vũ là nhà văn hả? - Ảnh là trung úy ngụy đấy. Tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt nhưng ghét Mỹ ngụy nên bỏ vô đây. Ban đầu ảnh viết văn, viết báo hăng lắm. Rất phong độ. - Sao thấy ảnh buồn? - Người ta không tin ảnh. Bị theo dõi. Bị ông Đức Hải bắt khai lý lịch hoài. - Tại sao? - Không biết. Ảnh nói với em là lúc đầu ảnh rất tự hào về sự chọn lựa. Bây giờ thì tấn thoái lưỡng nan. Em thấy ảnh như bị thất chí, bị trầm cảm. Em nghĩ tại sao người ta lại đối xử với ảnh như vậy? Người bình thường theo cách mạng thì "tốt" có một lần. Người bên kia chiến tuyến mà theo cách mạng thì phải "tốt đến hai lần". Chị có đồng ý với em không? - Chị chưa hiểu nhiều về ảnh. ° Đèn trong căn nhà lợp lá trung quân ấy được thắp sáng đầu tiên. Vương gia đang ngồi uống trà. Hình như trên tay có cầm một cuốn sách. Theo lịch làm việc, tối nay tám giờ tôi phải đi gặp ông. Tôi nghĩ nếu mình bước vô căn phòng ấy thì mình cũng sẽ là một cái bóng. Những người đứng bên ngoài cũng sẽ nhìn thấy bóng tôi in trên bức vách làm bằng tấm nylon xám đục. Tuy nhiên khi tôi bước vô thì ngọn đèn dầu đã được dịch ra sát của sổ, vì thế ở ngoài nhìn vào chỉ thấy có vùng sáng của ngọn đèn. Vương gia ngồi trên cái ghế tre, ra hiệu cho tôi ngồi đối diện. Ông hỏi tôi về công tác thanh niên ở đô thị, và đặc biệt chú ý đến những cán bộ Đoàn đang hoạt động dưới danh nghĩa Phật giáo. Tuyệt nhiên ông không đả động gì đến chồng tôi hiện bị tù Côn Đảo. Ông chỉ nói: - Rất tiếc là cháu đã bị lộ. Chú đã bố trí một đồng chí khác về thay chỗ của cháu. Cháu sẽ đảm nhiệm công tác khác, quan trọng hơn. Còn bây giờ đã đến đây thì mọi việc có chú lo. Chú coi cháu như con nuôi vậy. Ông đứng lên, đưa tay ra. Tôi bắt tay ông. Ông vuốt tóc tôi bằng những ngón tay dịu dàng. Tôi không dám cưỡng lại. Tôi để yên một lúc rồi bước ra ngoài đêm. Lúc ấy ngoài mé rừng nhà văn Đức Hải xách đèn pin đi rảo một vòng khu lán trại. Bao giờ ông ta cũng dừng lại chỗ gốc cây bằng lăng cách võng của Trần Vũ chừng bốn mét. Và lắng nghe. Mọi tối, giờ này, Trần Vũ thường nghe đài BBC nhưng bữa nay hắn nghe cái đài quái gì lạ hoắc. Đức Hải nhích tới mấy bước, cũng không nghe được, bèn tới sát võng. - Ông nghe cái gì vậy? *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. Mời các bạn đón đọc Mạt Lộ của tác giả Đào Hiếu.
Kẻ Tử Đạo Cuối Cùng
Đây là một câu chuyện hoàn toàn hư cấu, gần như không tưởng, không thể tồn tại trong cõi đời này. Thế nhưng có một câu chuyện tương tự như thế đã từng xảy ra trong xã hội loài người ngót một trăm năm nay, có thể kể từ năm 1917, khi Lênin tiến hành cái gọi là "Cách mạng Tháng mười Nga", lập nên nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô-viết. Cuộc cách mạng ấy cũng đã bắt đầu bằng một chủ nghĩa hoàn toàn hư cấu, không tưởng và không thể thực hiện được. Tuy vậy nó đã thắng lợi, đã giành được chính quyền, và trong suốt gần một thế kỷ, nó đã chia đôi nhân loại thành hai thế giới mà nó là kẻ thống trị cái phần thế giới man rợ nhất, quái đản nhất và cũng khốc liệt nhất, cho đến ngày 26/12/1991 khi Liên Xô tan rã. Giờ đây, không còn ai tin vào cái "cuộc cách mạng" hoang đường ấy, kể cả Việt Nam, nhưng tàn dư của nó vẫn còn thống trị một góc tối của hành tinh chúng ta như một thứ chất thải độc hại chưa thể tẩy sạch hết. Câu chuyện giả tưởng này cũng thế. Nó bắt đầu bằng một truyền thuyết hoang đường về một đạo cô xinh đẹp, nhiều phép lạ, nhưng đã có những trí thức, những nghệ sỹ, những chàng trai ưu tú… tôn thờ, ca ngợi và sẵn sàng chết vì nhân vật huyền thoại ấy.  Và cũng có những cuộc trả thù man rợ nhất của bọn cuồng tín để giành quyền độc tôn. Đó là cuộc quyết đấu điên rồ, cuộc tương tàn ngu xuẩn, mà cho đến ngày nay vẫn còn tiếp diễn. ĐÀO HIẾU *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. Mời các bạn đón đọc Kẻ Tử Đạo Cuối Cùng của tác giả Đào Hiếu.