Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Người Bạn - Erich Maria Remarque

Với Ba Người Bạn, nước Đức của Remarque không còn là những tòa nhà màu xám mà là một thành phố nhỏ mờ sương của những bụi tử đinh hương, một góc giáo đường, những quán rượu nhỏ nép mình trong làn mưa lất phất. Đó cũng không phải là đất nước của những bộ óc lạnh lùng lý trí mà là của những thân phận nhỏ bé dù bị trôi giạt đến bước đường cùng vẫn khao khát và chan chứa yêu thương. Đó là một nước Đức của tình cảm và mộng mơ, một nước Đức của nỗi buồn và cái đẹp. *** Erich Maria Remarque (1898 – 1970) là nhà văn nổi tiếng người Đức. Ngoài kiệt tác Phía Tây không có gì lạ đầy xúc động, ông còn được yêu mến qua hàng loạt các tác phẩm chan chứa tình yêu dành cho con người và cuộc sống khác như Ba Người Bạn, Khải Hoàn Môn, Đêm Lisbon…. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương lẫn Nobel Hòa bình. Ba Người Bạn là tác phẩm Remarque cho ra mắt vào năm 1936 kể về cuộc sống nước Đức thời kỳ hậu chiến. Mặc dù không nổi tiếng như Phía Tây không có gì lạ nhưng với nhiều độc giả Việt Nam, đây lại là tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất, thay đổi hoàn toàn cái nhìn của họ về đất nước và con người Đức, thậm chí là cả cách nhìn về cuộc sống. *** Bạn đọc Việt Nam đã yêu mến Remarque (Erich Maria Remarque - tên thật Erich Paul Remark, 1898 - 1970) - nhà văn Đức nổi tiếng, một trong những tiểu thuyết gia nhiều thành công nhất của thế kỷ hai mươi - qua các tác phẩm “Phía Tây không có gì lạ”, “Thời gian để sống và thời gian để chết” do nhà xuất bản Văn Học giới thiệu. Remarque chiếm được hằng triệu con tim độc giả trên khắp hành tinh không đơn giản vì ông là một thiên tài văn học; đọc Remarque, ta tìm thấy ở nhà văn một tấm lòng đầy tình yêu thương con người, cảm thông với nỗi đau của con người, tha thiết mong cho tất thảy một cuộc sống hạnh phúc mà con người vốn dĩ xứng đáng được hưởng. Trái tim nhân đạo ấy không thể không ứa máu trước những sự thật tàn khốc mà hai cuộc đại chiến thế giới đã gieo rẳc cho nhân loại, thiên tài văn học ấy không thể im tiếng trước những tội ác ghê tởm do chính bọn cầm quyền của đất nước mình gây ra. Năm 1933 bọn phát xít Đức buộc cho Remarque tội “phản bội những người lính cửa chiến tranh thế giới bằng văn học” và ra lệnh đốt các tác phẩm của nhà văn, năm 1938 ông bị tước bỏ quốc tịch Đức, buộc phải sang New York năm 1939 (1947 nhập quốc tịch Mỹ). Từ sau 1945, Remarque sống khi ở Mỹ, khi ở Thụy Sỹ, ông mất năm 1970 ở Locarno (Thụy Sỹ). Cả thế giới biết đến Remarque qua hàng loạt tiểu thuyết của ông: “Phía Tây không có gì lạ” (1929), “Đường trở về” (1931), “Ba Người Bạn (Chiến Hữu)” (1938), “Hãy yêu những kẻ hậu sinh” (1941), “Khải hoàn môn” (1946). “Tia lửa sống” (1952), “Thời gian để sống và thời gian để chết” (1954), “Bia mộ đen” (1956), “Đêm ở Lissabon” (1962), “Bóng tối nơi thiên đường” (1971)… Xuyên suốt các tác phẩm của Remarque là tính nhân đạo sâu sắc, là tiếng nói kiên định, không mệt mỏi chống lại cuộc chiến tranh phát xít phi nghĩa. Remarque không dùng những lời lẽ đao to búa lớn, không hô khẩu hiệu chống phát xít, nhưng các tác phẩm của ông đã bóc trần toàn bộ bản chất tàn bạo của chủ nghĩa phát xít, lột tả những cảnh địa ngục trần gian mà chiến tranh đã đưa lại. Biết bao số phận khổ nhục, ê chề, biết bao kiếp người phiêu dạt, tha hương không bến đậu, biết bao tình yêu tuyệt vọng, con người phải sống lẩn lút như loài vật, sống mà như đã chết… người đọc cùng đau xót với nỗi đau của tác giả, đau xót bao nhiêu, càng căm phẫn, ghê tởm bấy nhiêu cuộc chiến tranh do bè lũ phát xít gây nên. Thật dễ hiểu vì sao bọn phát xít lại thù ghét nhà văn, khiếp sợ ảnh hưởng văn học của ông đến thế. Một mảng đề tài được Remarque khá quan tâm là số phận của những người cựu chiến binh Đức, những người phải gánh chịu trực tiếp hậu quả cuộc chiến tranh diễn ra ngoài ý muốn của họ. Tác phẩm “Ba Người Bạn” để lại ấn tượng hết sức sâu sắc bởi lẽ đã giúp ta thấy được cái hậu quả gớm ghiếc ấy dưới biết bao góc độ. Cốt truyện diễn ra vào những năm 20 của thế kỷ này, thời gian xen giữa hai cuộc đại chiến thế giới. Các nhân vật trung tâm là ba cựu chiến binh trẻ, ba “chiến hữu” trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Ba Người Bạn trong thời hậu chiến - những con người tiêu biểu cho cái “thế hệ vất đi” sau chiến tranh. Họ là những thanh niên bình thường, từng có những ước mơ bình thường: người muốn trở thành bác sĩ, kẻ muốn trở thành giảng viên đại học… nhưng đã bị buộc tham gia vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tuy không bỏ xác ngoài trận tuyến như biết bao thanh niên đồng lứa với mình, Robby, Lenz và Koster đã bị chiến tranh cướp mất lẽ sống, họ thấy cuộc đời phi lý và trống rỗng, thể xác trẻ trung mà tâm hồn sớm già cỗi. Ngoài những giờ sửa chữa xe thuê, vật lộn kiếm sống, họ tiêu phí thời gian vào những đêm rượu chè, những phen phóng xe điên cuồng, những cuộc hoan lạc… để rồi lại về một mình đối diện với chính mình, cô đơn, trống rỗng, trong một gian buồng trọ tồi tàn. Ba Người Bạn gắn bó với nhau hết mình đương đầu với cuộc sống, trong khi thực ra họ cũng không hiểu sống để làm gì. Mối tình của Pat và Robby đã cho cuộc sống ấy chút ý nghĩa. Họ thấy mình cần thiết cho mối tình ấy, cho cô gái bất hạnh ấy, họ quên mình đến cảm động giúp cô gái chống lại bệnh tật. Nhưng đó chỉ là cuộc chống chọi tuyệt vọng của ba nạn nhân trực tiếp của chiến tranh hòng cứu cô gái là nạn nhân gián tiếp của chiến tranh; lớn lên trong những năm chiến tranh đói kém. Pat đã mắc chứng lao phổi, căn bệnh vô phương cứu chữa thời bấy giờ. Ba thanh niên lành mạnh bị xô đẩy vào cuộc chiến, bị biến thành những kẻ đồng lõa, để rồi sau đó bị quẳng sống vạ vật giữa cái xã hội hỗn mang thời hậu chiến. Với họ, chỉ có mất mát: Lenz mất mạng vì một bọn phát xít choai choai, Koster phải bán xưởng, bán chiếc xe mà anh yêu quý hơn chính cánh tay mình, Robby mất người yêu, cũng là mất cái mắt xích cuối cùng gắn anh với cuộc đời… Ai là kẻ có tội trước cuộc đời bỏ đi của họ? Cuộc chiến tranh phát xít. “Ba Người Bạn” vẽ lên đầy đủ cuộc sống cơ cực của tầng lớp nghèo hèn nhất trong xã hội, những con người bị coi là hạng “cặn bã” phải chịu hậu quả ghê gớm của chiến tranh, để một nhóm kẻ cầm quyền hưởng lợi nhuận chiến tranh. Có lẽ không ai có thể cảm thông với đám cựu chiến binh hơn là các cô gái điếm và ngược lại. Họ đều là những người trẻ tuổi, nuôi những mơ ước bình dị, nhưng chiến tranh đã không cho họ cái cơ hội làm một con người bình thường. Nạn đói, nạn thất nghiệp, sự bỏ mạng của người chồng nơi chiến địa đã đẩy những người phụ nữ suốt đời chỉ mơ làm vợ làm mẹ ấy phải lao vào con đường bán trôn nuôi miệng. Remarque đã viết về họ, những nạn nhân đáng thương chứ không đáng trách ấy, với một ngòi bút đầy nhân đạo, vị tha. Dưới ngòi bút của tác giả, những nhân vật “cặn bã” này, những chàng trai cô gái bất hạnh “bỏ đi” này lại “người” hơn ai hết. Thật cảm động là những trang viết về tình gắn bó đùm bọc giữa họ với nhau, họ không thương lấy nhau thì còn ai thương họ nữa, vả chăng họ mất mát nhiều quá, thiệt thòi nhiều quá nên cũng quá cảm thông nhau. Những người như họ có quyền hưởng hạnh phúc, nhưng cuộc đại chiến thế giới thứ nhất đã thiêu ra tro quá khứ và hiện tại của họ, và đại chiến thế giới lần thứ hai đang rình rập hủy nốt cái gọi là tương lai không có tương lai của họ. Đói nghèo, thất nghiệp, mãi dâm - những nét tiêu biểu của xã hội Đức trong những năm cuối thập kỷ 20 thế kỷ này đã được Remarque mô tả một cách hết sức giản dị mà cực kỳ rõ nét, đầy đủ trong “Ba Người Bạn”. Các nhân vật của ông mỗi người khổ sở mỗi cách. Đó là Muttchen, một bà lão đêm đêm đứng đường với chảo xúc xích để cung phụng ông chồng nghiện moocphin, đó là Valentin, cựu chiến binh, nuôi ấn tượng quá khủng khiếp về cuộc chiến tranh, không còn biết bắt đầu lại ra sao với cuộc đời mình, suốt ngày ngập trong rượu mừng vì nỗi thoát chết; đó là Hasse, một viên chức cần mẫn, lúc nào cũng chúi mũi vào việc công sở, nơm nớp lo mất việc, không dám ăn tiêu, dè xẻn từng đồng phòng khi thất cơ lỡ vận, để đến nỗi bà vợ chịu không nổi bỏ đi, cuối cùng kẻ xấu số ấy thắt cổ tự vẫn; đó là F Grau, một họa sĩ có tài nhưng phải sống bằng nghề truyền thần ảnh người chết… Biết bao kiếp người bế tắc trong một xã hội bế tắc. Qua một chương thôi, Remarque đã cho ta thấy sự bế tắc tột cùng của những người Đức thời bấy giờ, họ đổ xô đến những cuộc hội họp chính trị, không cần biết mục đích của đảng phái chính trị ấy, họ tìm một cái gì đó thay cho tôn giáo để mà tin, để mà bấu víu, và dễ dàng trở thành những kẻ cuồng tín. Đó chính là cơ sở để chủ nghĩa phát xít phát triển, đi đến chỗ cầm quyền. Đã thấy bóng dáng của lũ người mặc áo bludông, những tên phát xít khủng bố được dung túng. Vả chăng Lenz cũng đã chết bởi bàn tay chúng. “Ba Người Bạn” cũng như cả loạt tác phẩm có thể gọi là “chống chiến tranh” của Remarque hơn lúc nào hết vẫn mang tính thời sự nóng hổi, bởi hiện nay các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới đang đấu tranh không tiếc sức cho một hành tinh hòa bình không có chiến tranh, chống lại cuộc chiến tranh thế giới mới luôn đe dọa bùng nổ bởi bàn tay của các thế lực đế quốc và bọn phát xít mới. Giới thiệu với bạn đọc “Ba Người Bạn”, chúng tôi hy vọng thời gian tới đây có thể lần lượt cho ra mắt đầy đủ, có hệ thống, các tác phẩm nổi tiếng tiếp theo của Remarque, nhà văn lỗi lạc mà bằng sự nghiệp văn học của mình mãi mãi còn góp tiếng nói cho hòa bình. 7-1987. Vũ Hương Giang Mời các bạn đón đọc Ba Người Bạn của tác giả  Erich Maria Remarque.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái Mắt Nâu - Lisa Kleypas
Series Travis Family gồm có: Sugar Daddy Blue Eyed Devil - Người Tình Hoạt Ngôn Smooth Talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Tác phẩm: Người Tình Hoạt Ngôn Chuyện Xảy Ra Giữa Mùa Thu Bí mật đêm hè Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố Người Tình Của Tiểu Thư Sophia Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê Devil in Winter A Wallflower Christmas Scandal in Spring Again The Magic Smooth-talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) Bỗng Gặp Được Anh Giá Nào Cũng Yêu Giá Nào Cũng Yêu ... *** Là một chuyên gia hôn lễ dày dặn kinh nghiệm, tôi đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho bất kì sự cố nào có thể xảy ra. Trừ bò cạp. Con quái vật cứ bò tới bò lui cạnh hồ bơi tự nhiên như nhà nó ấy. Trên đời này, còn thứ gì đáng nguyền rủa hơn bò cạp nữa chứ. Thường thì nọc độc của nó sẽ không giết chết bạn đâu, nhưng nó sẽ làm bạn thấy thà chết đi còn sướng hơn. Quy tắc đầu tiên để giải quyết những tình huống cấp bách là: không được mất kiểm soát. Nhưng con bò cạp đang bò như bay về phía này thì tôi còn hơi đâu mà quan tâm quy tắc hay là nội quy gì nữa chứ . Trong cơn hoảng loạn, tôi lục lọi túi xách, mà… trời đất quỷ thần ơi, cái túi nặng khủng khiếp, tới nỗi mỗi lần để ở ghế hành khách, cái nút báo động thắt dây an toàn trong xe tôi lại báo lên inh ỏi. Tay tôi rà qua cả tỷ thứ, nào là khăn giấy, bút bi, băng keo cá nhân, chai nước khoáng Evian, mấy thứ chai dưỡng tóc này nọ; rồi lăn khử mùi, nước khử trùng tay, lotion, bộ dụng cụ làm móng, trang điểm các kiểu; tới nhíp, hộp kim chỉ, chai hồ, tai nghe, kẹo ngậm, thanh sôcôla, các loại thuốc nhức đầu, đau bao tử,…còn có cả cây kéo, cây giũa móng, lược, chui bông tai, thun cột tóc, băng vệ sinh, thuốc tẩy vết ố, cây lăn quần áo, kẹp tăm, dao lam, băng keo hai mặt, và tăm bông nữa này. ... Mời các bạn đón đọc tập 4 của series Travis Family: ​Cô Gái Mắt Nâu của tác giả Lisa Kleypas
Hảo Hán Nơi Trảng Cát - Jorge Amado
Hảo hán nơi Trảng cát là câu chuyện kể về nhóm một trăm đứa trẻ mồ côi và bụi đời sống bằng tài xoay sở láu cá và tính liều lĩnh trong những khu ổ chuột nóng bức và những con hẻm bẩn thỉu ở Salvador. Dẫn đầu bởi cậu nhóc mười lăm tuổi Pedro Bala, nhóm hảo hán có những nhân vật quan trọng như một cu cậu nói dối thành nghề tên “Cẳng Nhũn”, một “Giáo sư” thông minh và “Gã Mèo” dậy thì sớm. Chúng đã thực hiện trót lọt những vụ trộm và đào thoát thành công khỏi những con người chuẩn mực và được ưu tiên ở Brazil. Nhưng khi công chúng phản ứng dữ dội và yêu cầu chính quyền phải bắt hết lũ “giặc con” này, thì số phận của bọn trẻ bỗng chốc trở thành một cuốn phim cay đắng và vô cùng thương tâm về tình yêu và tự do trên vùng đất bị kìm kẹp. Viết về tuổi trẻ sôi nổi bằng những ngôn từ giàu cảm xúc, Hảo hán nơi Trảng cát là một trong các tác phẩm phổ biến nhất trong giới học sinh sinh viên ở Brazil. Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, được chuyển thể thành truyện tranh và phim điện ảnh. Tại Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm ưa thích của nhiều thế hệ và sức hấp dẫn của nó vẫn còn mãi theo thời gian. *** Trong Hảo hán nơi trảng cát - một tác phẩm sinh động, từ ngữ được sử dụng rất giản dị - Jorge Amado đã kể một câu chuyện về những cậu bé nghèo sống trong một nhà kho bỏ hoang trên sông Salvador. ðó là những cậu bé chỉ mới 9 đến 16 tuổi gặp gỡ nhau trong những trò ngỗ nghịch và ăn cắp vặt, khiến thuyền trưởng Bahia cũng phải khiếp sợ. Từ chàng thủ lĩnh dũng cảm với vết sẹo trên mặt Pedro Bala (Bullet) tới cậu Pirulito ngoan đạo (Lolly pop)-vẫn cầu nguyện hằng đêm để rửa tội cho những lỗi lầm của mình; từ cậu Giáo sư khôn ngoan (Teacher)-người có học duy nhất trong nhóm, tới cậu Gato quyến rũ-một tay ma cô mới vào nghề; mỗi cậu có tình tình, cách nhìn cuộc suống rất riêng và cả những ước mơ viển vông nhất. Tai tiếng của cả bọn lan truyền khắp thành phố, khiến cho cả báo chí, cảnh sát, tòa án vị thành niên cùng các “gia đình kiểu mẫu” phải bất bình giận dữ. Nhưng vẫn còn có những người tốt giúp đỡ các cậu: cha Jose Pedro, mẹ Don'Aninha, anh công nhân João de Adão (John Adam) và chàng Queirdo-de-Deus (God Beloved) nhảy capoeria. Các cậu bé lớn lên và đi con đường riêng của mình: người làm thủy thủ, nghệ sĩ, tu sĩ; kẻ làm làm ma cô, cướp đường. Chàng thủ lĩnh Pedro Bala của chúng ta thì lên đường chiến đấu để thay đổi số phận cho những người nghèo khốn khổ nhất. Dù chịu ảnh hưởng bởi lý tưởng cộng sản tại thời điểm tác phẩm được viết, nhưng Hảo hán nơi trảng cát đã vượt qua lý tưởng chính trị của chính tác giả vào thời điểm đó. Tuổi thơ trong sáng của các em phải lớn lên trong một thế giới người lớn khắc nghiệt, các cậu bé được sống tự do như ý chúng nhưng tự do ấy cũng đầy cạm bẫy. Câu chuyện đã mở ra góc nhìn về những mảnh đời bé nhỏ vẫn còn giá trị tới tận ngày nay. Hồng Quân dịch *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ Hải Trình Ven Bờ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Hảo Hán Nơi Trảng Cát của tác giả Jorge Amado.
Biển Chết - Jorge Amado
Tôi muốn kể cho bạn nghe những truyền thuyết về biển ở vùng Bahia. Những ngư phủ già không còn đi biển, các hoa tiêu, đám da đen xăm mình, các giang hồ bạt tử đều biết về những câu chuyện này, những bài ca được nhắc đến ở đây. Hẳn tôi đã được nghe chúng trong những đêm trăng trên các cầu tàu, trong những buổi chợ phiên, tại nhiều cảng nhỏ quanh vịnh, bên những con tàu Thủy Điển khổng lồ thả neo ở Ilhéus. Những thần dân của Iemanja có biết bao điều để kể.   Hãy đến nghe các truyền thuyết và những bài hát ấy. Hãy đến nghe câu chuyện về Guma và Livia, câu chuyện về cuộc sống và tình yêu của biển. Và nếu bạn không cảm nhận được vẻ đẹp của chúng thì lỗi không thuộc về những con người chất phác kể lại mà bởi bạn đã nghe từ miệng những người của đất liền, và thật khó cho người con của đất liền hiểu được trái tim con người nơi biển cả. Dẫu rất yêu các truyền thuyết, những bài ca ấy, luôn tôn sùng những nghi lễ của Dona Janaina, anh ta vẫn không thể biết hết mọi bí mật nơi biển cả. Bởi biển quá mênh mông huyền bí, ngay những người đi biển lão làng cũng có ai hiểu được tận tường.   IEMANJA, NỮ THẦN CỦA BIỂN CẢ VÀ NHỮNG CON THUYỀN *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Biển Chết của tác giả Jorge Amado.
Cha, Con Và Những Thước Phim - David Gilmour
Người cha đã nhìn thấy mình thuở nhỏ trong hình bóng của Jesse Gilmour - cậu con trai đang ở cùng vợ cũ. Ông băn khoăn "Jesse cần phải làm một cái gì đó, nhưng chính xác là phải làm gì? Tôi có thể cho nó làm việc gì mà không động chạm đến những thất bại ở trường học? Nó không thích đọc và cực ghét thể thao. Jesse thích điều gì? Nó rất thích xem phim. Ngay cả tôi cũng thích." Và quyết định cuối cùng đã được đưa ra: "Con không cần phải làm việc, cũng không cần phải trả tiền thuê nhà. Hàng ngày con có thể ngủ tới năm giờ chiều cũng được. Nhưng không được hút thuốc... Bố muốn mỗi tuần, con sẽ cùng bố xem ba bộ phim. Bố sẽ là người lựa chọn phim. Đây là kiến thức duy nhất con sẽ phải học." Quyết định này được đưa ra bởi ông nghĩ "đây một cách tốt nhất để đi sâu vào những bộ phim nghệ thuật của Châu Âu, tôi biết những bộ phim này sẽ khiến nó không chán khi nó học được cách để xem chúng. Điều đó cũng giống như một sự biến tấu trong việc học ngữ pháp thông thường". Liệu đó có phải là một quyết định liều lĩnh, sai lầm của một người cha - người đang quyết định số phận cuộc đời con trai mình? Cuốn sách The film club là câu chuyện có thật diễn ra trong ba năm của tác giả David Gilmour và con trai ông - hai thành viên duy nhất của câu lạc bộ phim sinh hoạt hàng tuần tại ngôi nhà nhỏ của mẹ Jesses. Những bộ phim được chiếu trong câu lạc bộ này do David chọn bằng kinh nghiệp của một nhà phê bình tài năng và lém lỉnh. Mỗi bộ phim được chiếu, ông tóm tắt nội dung, giới thiệu về tác giả, các diễn viên, giải thích từ việc làm phim, các cảnh quay cho đến những việc ở hậu trường. Tham gia câu lạc bộ của hai cha con Gilmour, độc giả sẽ như được xem tận mắt những bộ phim kinh điển: Crimes and Misdemeanors (Trọng tôi và khinh tội) (1989), Basic Instinct (Bản năng gốc) (1992), Giant (Người khổng lồ) (1956), Notorious (Khét tiếng) (1946), The Shinning (Ngôi nhà ma) (1980), Around the world (Vòng quanh thế giới) (1956), Last Tango in Paris (Bản tango cuối cùng ở Paris) (1972)... Những bộ phim hiện lên thật sống động, hấp dẫn qua lời kể của David - một nhà phê bình phim kinh nghiệm và hóm hỉnh. Những buổi sinh hoạt của câu lạc bộ kì lạ này, không chỉ đơn thuần là những kiến thức về điện ảnh, mà đó là thời gian David quan sát cậu con trai đang tuổi dậy thì, suy nghĩ những việc cần làm cho Jesse và đôi khi đó là khoảng thời gian hai cha con tâm sự về tất cả những mối quan tâm của Jesse: Tương lai, bạn gái, thuốc lá, rượu, ma túy, công việc.... "Khi con đi học ở trường, con phải lo lắng về việc bị điểm kém và gặp rắc rối. Bây giờ, con không phải đến trường nữa, con lo lắng rằng, có thể con đã hủy hoại cuộc đời mình"... Hi vọng, lo lắng, thất vọng, giận dữ, hoài nghi, mừng vui... tất cả những cảm xúc đó được trải nghiệm qua từng bộ phim và từng trải nghiệm thực tế của Jesse. Mỗi bộ phim là một câu chuyện, một thông điệp mà các đạo diện, diễn viên và ekíp thực hiện gửi gắm. Qua những thước phim ấy, David đã dạy con cách sống bằng một phương pháp đặc biệt. Ông đã biết cách để Jesse tự quyết định cuộc đời của chính mình. Jesse đã vào đời từ những thước phim... *** Những lời khen tặng dành cho cuốn sách:   "Một cuốn hồi kí thông thái." - USA Today "Nhẹ nhàng... một bức chân dung tuyệt đẹp, không tô vẽ về những người cha và những cậu con trai - có những điều không theo qui tắc, có những rạn vỡ, tổn thương và có cả tình yêu thương." - Newsweek "[Cuốn sách] kể lại chi tiết về mối quan hệ giữa cha và con, gần gũi và gắn bó đến mức khiến nhiều bậc cha mẹ có con ở lứa tuổi thiếu niên phải ganh tỵ." - San Joe Mercury News "Chân thành... khiến tôi không chỉ một lần xúc động và bật khóc." - Douglas McGrath, Chuyên mục điểm sách của New York Times *** Và rồi một điều kỳ diệu đã xảy ra(nhưng không phải một bất ngờ) Chloe, kẻ đam mê danh vọng ngất trời, dường như đã suy nghĩ lại. Morgan, theo lời đồn, thì đã được giải quyết nhanh gọn. Feelers bị đuổi ra ngoài. Đứa bạn thân nhất của Chloe “ngẫu nhiên” gặp Jesse tại một buổi tiệc, rồi bảo với cu cậu rằng Chloe “thực sự, thực sự nhớ nó.” Sắc thái hồng hào, tôi cho là thế, đã trở lại trên gương mặt thằng bé, thậm chí còn có cả sự khác biệt trong cách đi đứng và cái vẻ huênh hoang thì dù đã cố, vẫn không tài nào che giấu nổi. Jesse chơi cho tôi nghe một ca khúc, rồi thêm một bài hát khác nữa. Nhóm Nostalgia Đồi Bại hóa ra, ý chúng ám chỉ trong ngành công nghiệp giải trí, trở lại trong thời kỳ ăn khách. Chúng biểu diễn ở một quán bar trên phố Queen. Còn tôi thì rơi vào tình trạng bị đày ải. Ý thức rằng mối quan tâm của nó với chương trình xem phim Buried Treasures (Những kho báu bị lãng quên) đang nguội lạnh dần, tôi đã có tầm nhìn xa hơn. Cần có thứ gì đó để viết lách lúc này vì dường như thằng nhóc đang có khuynh hướng đi theo con đường đó. Nhưng hoạt động này đã có rồi, rõ ràng như việc trên mặt tôi có mũi ấy: Hai cha con đã lập một chương trình về các bộ phim có kịch bản được viết hay không chịu nổi. Chúng tôi nghiên cứu bộ phim Manhattan (năm 1979) của Woody Allen. Xem phim Pulp Fiction (năm 1994) để làm rõ sự tương phản giữa việc viết vui và viết thật. Pulp Fiction là một bộ phim vô cùng thú vị, với lời thoại long lanh tráng lệ nhưng không có khoảnh khắc có tính người thực sự nào trong đó. Tôi đã nhắc mình kể cho Jesse nghe câu chuyện về nhân vật Chekhov đi xem vở kịch The Dolh Hordse của Ibsen trong một rạp hát ở Moscow, suốt buổi diễn, anh ta quay sang một người bạn và thì thầm: “Nghe này, Isben không phải một nhà biên kịch... ông ta chẳng hiểu gì về cuộc sống cả. Trong cuộc sống thực, mọi thứ đơn giản không giống như thế này.” Mời các bạn đón đọc Cha, Con Và Những Thước Phim của tác giả David Gilmour.