Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dẫn Dắt Sếp

Bạn đã sẵn sàng tạo một bước nhảy vọt từ vị trí khiêm tốn hiện tại (chuyên gia kỹ thuật, nhà sản xuất) tới vị trí lãnh đạo có tầm ảnh hưởng lớn, gây được sự chú ý và được mọi người tán dương chưa? Cuốn sách sẽ chỉ dẫn cho bạn cách thực hiện điều đó. Cuốn sách vô giá này sẽ giúp bạn rèn luyện khả năng cân bằng, sự bền bỉ, ý chí và niềm đam mê phong cách lãnh đạo mang tên "quản lý cấp trên". Phong cách đó được hình thành từ những nhà quản lý cấp trung, vị trí đòi hỏi phải gây được ảnh hưởng tới sếp, đồng nghiệp và cả cấp dưới, những người có tác động tích cực đến sự cam kết cũng như những đóng góp của bạn. Quản lý cấp trên, tức là phải xây dựng được phẩm chất khiến người khác luôn khâm phục và được đánh giá là liêm chính, nghị lực, cảm thông, và đặc biệt là khả năng tư duy tổng hợp. Cuốn sách chứa đựng kiến thức lãnh đạo tinh tế và những chiến lược thiết yếu nhằm củng cố niềm tin cho mọi người để mang lại kết quả tốt đẹp cho bản thân, nhân viên và sếp của bạn. *** LỜI NÓI ĐẦU Lãnh đạo là người luôn kiên định khi hầu hết mọi người đã dao động. — HOWARD GARDNER, TƯ TƯỞNG LÃNH ĐẠO — Tổ chức của bạn đang cần một kế hoạch phân bổ nguồn lực chiến lược. Với ngân sách giới hạn và số lượng nhân sự đang bị cắt giảm, bạn cần tập trung vào những dự án mà bạn cho rằng nên theo đuổi và có tiến độ thời gian phù hợp. Bạn đã thảo luận việc này nhiều lần với sếp, nhưng vì một số lý do nào đó mà cô ấy chẳng có động tĩnh gì cả. Vậy bạn sẽ làm gì? Bạn cần phải hành động. Hãy định hướng cho sếp. Hãy lập các kế hoạch riêng của bạn và gửi cho cô ấy phê duyệt. Và nếu cô ấy phê duyệt, thì bạn hãy xin phép xúc tiến kế hoạch đó. Bằng cách này, bạn đang lấp đầy các khoảng trống lãnh đạo thông qua những hành động kịp thời và quyết đoán. Bạn đang thể hiện những gì cần để lãnh đạo sếp của bạn. Như bạn sẽ khám phá trong cuốn sách này, Quản trị ngượcthực sự là một cẩm nang cho các nhà lãnh đạo cấp trung. Những nhà lãnh đạo cấp trung luôn phải suy nghĩ về toàn cục và có thể tiến hành những việc giúp cho công việc hoàn thành cũng như giúp sếp và đồng nghiệp thành công. Thường thì, những người đó sẽ lãnh đạo ông chủ của họ thậm chí họ cũng có thể lãnh đạo ông chủ của ông chủ thông qua những các nhân viên cấp dưới hoặc thông qua đồng nghiệp. Những người thành công trong việc lãnh đạo từ cấp trung cũng là những nhà quản lý khéo léo và thành thạo; họ sử dụng các kỹ năng quản lý của mình để thiết lập mục tiêu, kế hoạch dự án, tổ chức nhân sự và tiến hành các dự án theo đúng tiến độ và ngân sách. Làm được điều đó không dễ, nhưng sẽ là khả thi nếu bạn suy nghĩ và hệ thống lại mục tiêu cũng như cách thức thực hiện. Nghĩa là, không phải bạn đang hành động cho chính mình, mà bạn đang hành động vì lợi ích của tổ chức. Điều này đòi hỏi sự chủ động, khả năng thuyết phục, tầm ảnh hưởng, sự kiên trì và niềm đam mê. Kết hợp được những điều đó chính là thứ mà các chuyên gia gọi là “quản trị ngược”. “Quản trị ngược đòi hỏi lòng can đảm và quyết tâm lớn lao”, Michael Useem viết. Ông là giáo sư của trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania và là tác giả của cuốn sách nổi tiếng đã phổ biến khái niệm “Chúng ta có thể lo sợ cấp trên của mình sẽ trả lời như thế nào, chúng ta có thể nghi ngờ quyền lãnh đạo ngược của mình, nhưng tất cả chúng ta đều mang một trách nhiệm là làm những gì chúng ta có thể cho đến khi nó tạo nên sự khác biệt.” Các cá nhân lãnh đạo ngược là những người chứng minh được rằng họ nhận thức được bức tranh lớn hơn, đã sẵn sàng, quyết tâm, và có thể làm những việc cần thiết vì lợi ích của nhóm. Các cá nhân đó sẽ chứng minh dũng khí của họ khi đến thời điểm thích hợp. Khi lãnh đạo ngược từ cấp trung, cần xem xét ba câu hỏi dưới đây: Nhà lãnh đạo cần làm gì? Các sếp phải chịu trách nhiệm về nhân viên của mình cũng như điều hành mọi thứ đi đúng hướng. Khi là một nhân viên cấp dưới, hãy tự hỏi bản thân: Sếp cần làm gì để công việc đạt hiệu quả hơn? Điều này sẽ khiến bạn phải suy nghĩ một cách có chiến lược cũng như hành động một cách có chiến thuật hơn. Nhóm cần làm gì? Lý tưởng nhất là cả đội cùng trợ giúp lẫn nhau. Điều này khó thực hiện được do cái tôi của mọi người sẽ xung đột với nhau. Sếp thường phải dành thời gian xoa dịu mối bất hòa giữa các thành viên. Tuy nhiên, nếu một thành viên trong đội tự đứng lên làm công việc “xoa dịu” đó thì sếp sẽ rảnh rang để chú tâm vào công việc chính. Tôi có thể làm gì giúp cấp trên và cả đội thành công? Câu trả lời có thể là bạn nhận trách nhiệm làm thêm một phần công việc hoặc nhường phần công việc đó cho một người khác. Ví dụ, nếu cả đội đang cùng nhau tập trung làm một việc trong khi một mình bạn lại đang tiến hành một việc riêng. Hãy từ bỏ việc riêng để có thể dốc toàn lực. Sử dụng những câu hỏi đó trong kế hoạch hành động sẽ giúp bạn tìm ra phương pháp lãnh đạo sếp mà vẫn khiến sếp thấy thoải mái, đội của bạn đạt được thành công và bạn sẽ trở nên nổi bật vì biết cách khiến cho công việc vận hành suôn sẻ. BIẾN KẾ HOẠCH THÀNH HÀNH ĐỘNG Những kế hoạch hiệu quả cần phải được chuẩn bị kỹ lưỡng. Điều này đặc biệt đúng khi lãnh đạo ngược. Lãnh đạo ngược là một dạng của quản lý ngược nhưng có một điểm khác biệt. Quản lý ngược thể hiện qua những công việc hành chính, còn lãnh đạo ngược bao hàm sự sáng tạo. Cả hai đều cần thiết để lãnh đạo ông chủ của bạn một cách hiệu quả. Cả hai cách đều tập trung vào việc giúp nhà lãnh đạo làm công việc của mình tốt hơn. Nhưng trong khi lãnh đạo ngược, người thực hiện phải có lòng vị tha để tổ chức có thể đạt được lợi nhuận. Đây là điều gốc rễ mà thuật lãnh đạo cần tập trung, làm những việc có lợi cho người khác ngay cả khi phải đặt quyền lợi của bản thân sang một bên. Bạn cần phải học cách mang mọi người đến với nhau, cùng nhau chia sẻ tầm nhìn, sứ mệnh và mục tiêu chung. Bạn cần phải khiến họ quan tâm đến những gì họ làm. Đó là điều chúng ta gọi là lãnh đạo người khác. Vậy bạn làm điều này như thế nào? Hãy giao tiếp thông qua hành động. Hãy biến những hiểu biết của bản thân và nhiệm vụ của bạn thành những hành động tích cực và đầy cảm hứng cho người khác để họ cảm thấy tập trung, gắn kết và sẵn sàng giành chiến thắng. Kế hoạch của bạn phải bao gồm việc thực hiện những gì cần thiết để tạo nên sự khác biệt tích cực. Sự khác biệt có thể chỉ nhỏ như việc cắt bỏ một buổi họp mỗi tuần để mọi người có thêm thời gian thực hiện các dự án của họ. Sự khác biệt cũng có thể sâu sắc như sắp xếp lại tổ chức khiến nó đáp ứng được thêm nhiều khách hàng hiện tại và tiềm năng. Chủ đề cơ bản là thay đổi tích cực. Điều đó đòi hỏi bạn phải sẵn sàng “đứng mũi chịu sào” để lãnh đạo người khác. Bạn có thể tạo ra niềm hứng khởi cho kế hoạch của mình bằng cách đọc truyện về những người biết cách lãnh đạo ngược. Cuốn sách miêu tả nhiều con người với những câu chuyện sống động là những ví dụ tuyệt vời về lãnh đạo ngược. Một số chuyện kể về những người biết cách dẫn dắt ông chủ của họ, như Eleanor Roosevelt, Beverly Sills và Tim Russer. Một số khác là ví dụ về những nhà lãnh đạo đã không chấp nhận tình huống yếu thế mà phản công lại; Barack Obama trước khi trở thành tổng thống là một ví dụ điển hình. Còn có những người biểu tình chống lại cả hội nghị để thực hiện sự thay đổi tích cực như Paul Newman và Bono. Hoặc một kiểu khác là những người lãnh đạo tổ chức của họ bằng cách sáp nhập nguyện vọng số đông với nguyện vọng của mình để công việc được thuận lợi, chẳng hạn như Stockdale và Bo Schembechler. Tất cả những con người này đã bộc lộ tài năng lãnh đạo đồng thời dạy cho chúng ta về hiệu quả lớn lao của sự lãnh đạo ngược trong công việc. Các nhà lãnh đạo cấp cao hãy lưu ý. Bạn nên khuyến khích sự lãnh đạo từ cấp trung. Những người hoài nghi có thể cho rằng việc lãnh đạo từ cấp dưới sẽ làm suy yếu quyền lực của giám đốc điều hành. Nhưng thực tế thì ngược lại. Khi các nhà quản lý cấp trung có quyền ra quyết định và chịu trách nhiệm về kết quả, nhà quản lý cấp cao có thể được tự do suy nghĩ và hành động theo chiến lược mà không bị vướng bận vào phương thức thực hiện. Mọi tổ chức cần có những người có thể suy nghĩ độc lập và dám hành động theo sáng kiến để công việc đạt hiệu quả cao. Những hành động như vậy cho phép mỗi cấp quản lý đều tiến hành theo đúng chiến lược. Phát triển các nhà lãnh đạo có khả năng lãnh đạo từ cấp trung chính là công việc của nhà quản lý. Nó không chỉ tạo ra một tổ chức mạnh mẽ hơn trong thời gian ngắn mà còn đào tạo nên các nhà lãnh đạo tương lai để thay thế cho các vị trí lãnh đạo cấp cao. Thời gian thực hành lặp lại sẽ cho phép các cá nhân có nhiều cơ hội hơn để vận dụng tài năng cũng như trau dồi các kỹ năng của họ. Khả năng lãnh đạo ngược của bạn càng tốt thì càng chứng tỏ tiềm năng bạn sẽ trở thành nhà lãnh đạo cấp cao trong tổ chức. Khả năng bạn chứng minh các sáng kiến của mình, vượt qua mọi khó khăn và thúc đẩy sự phục hồi là thước đo quan trọng cho vị trí lãnh đạo cấp cao. Hơn nữa, bạn sẽ cần phải gây ảnh hưởng đến cả ông chủ lẫn những người thuộc cấp. Lãnh đạo ngược cũng mở ra cánh cửa để lãnh đạo toàn bộ tổ chức. Cần phải phát triển mạnh mẽ khả năng lãnh đạo từ cấp trung. Càng ngày nguồn động lực từ cấp trung càng trở nên cần thiết khiến cho các tổ chức không chỉ nhạy bén và linh hoạt mà còn đáp ứng khách hàng cũng như chịu trách nhiệm về kết quả công việc tốt hơn. Lãnh đạo từ cấp trung đòi hỏi khả năng định hướng cho thuộc cấp, đồng nghiệp và sếp. Việc lãnh đạo ngược đòi hỏi phải có tất cả các kỹ năng cần thiết để dẫn dắt nhóm cũng như áp dụng những kỹ năng đó để định hướng cho cấp trên và các đồng nghiệp của bạn. Trên thực tế, lãnh đạo ngược là một hoạt động làm cân bằng cũng như kết hợp các mục đích khác nhau với khả năng kết nối tập thể xung quanh một hướng đi chung. Điều cơ bản của lãnh đạo ngược là định hướng cho sếp, cho đồng nghiệp và cho cả đội của bạn. Chúng ta phải có tư duy mạnh mẽ, sẵn sàng chấp nhận sự thật như nó vốn vậy. — HARRY S. TRUMAN — Một thực tế nhỏ cũng đáng giá hơn mọi giấc mơ viển vông. — RALPH WALDO EMERSON — CÁC TÌNH HUỐNG LÃNH ĐẠO NGƯỢC TRONG KINH DOANH Trong thời buổi kinh tế khó khăn cũng như khi gặp điều kiện thuận lợi, có một số trường hợp đòi hỏi những nhân viên cấp trung phải lãnh đạo tổ chức của họ. Thực tế, sự lãnh đạo được thực hiện cả từ phía sếp và nhân viên. Tiếp theo là một vài dữ liệu chỉ ra điều này. Trước tiên và quan trọng nhất chính là sự thiếu lòng tin vào quản lý cấp cao. Ví dụ, theo một cuộc khảo sát do công ty nguồn nhân lực Watson Wyatt tiến hành: Chỉ có 49% nhân viên có “lòng tin và sự tự tin” đối với những nhà quản lý cấp cao. Chỉ có 55% nói rằng lãnh đạo cấp cao cư xử “nhất quán với các giá trị cốt lõi của công ty họ”. Chỉ có 53% tin rằng nhà quản lý cấp cao thực hiện “quyền thay đổi để giữ tính cạnh tranh”. Một cuộc điều tra với hơn 800 nhà quản lý cấp cao do công ty tư vấn Booz & Company thực hiện trong tháng 12 năm 2008 khi sự suy thoái kinh tế đang tác động mạnh đến công việc kinh doanh cho biết, có một số lượng lớn nhân viên tiết lộ rằng nhiều công ty đang “vật lộn để tìm hướng đi đúng”. Khoảng 40% chuyên viên giám sát “không tin vào khả năng sếp của họ đang có một kế hoạch đáng tin cậy để vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế”. Tệ hơn nữa, gần một nửa số người được khảo sát (46%) thiếu niềm tin vào khả năng các nhà lãnh đạo cao nhất của họ có thể tiến hành một kế hoạch phục hồi. Sự thiếu niềm tin này có hại cho bước tiến của tổ chức và là một thách thức đòi hỏi các nhà quản lý cấp trung phải trở nên chủ động. Tuy nhiên, các giám đốc điều hành cũng băn khoăn về việc tìm người kế cận cho người điều hành hiện tại. Và đa số các giám đốc điều hành nhân sự cấp cao được khảo sát thừa nhận rằng họ “đang cố gắng tìm kiếm, tuyển dụng và phát triển những nhà quản lý cấp trung”. Sự thiếu hụt đó ngày càng gia tăng trong các lĩnh vực kỹ thuật, khoa học ứng dụng, chính phủ, chăm sóc sức khỏe và viễn thông. Điều này gây ra sự rối loạn chức năng. Ví dụ, hãy xem xét các vấn đề truyền thông xung quanh lý do tại sao dự án thất bại. Dự án thất bại đến 85% khi gặp phải một hoặc một số vấn đề sau đây: “Lên kế hoạch phi thực tế”, ví dụ: “Không xem xét đến thực tiễn”. “Không có được sự ủng hộ của nhà tài trợ”, ví dụ, “nhà tài trợ không cung cấp khả năng lãnh đạo, sức mạnh chính trị, thời gian hay năng lượng.” “Lòng vòng”, ví dụ, “mọi người làm việc xung quanh quá trình thiết lập ưu tiên, và không phải chịu trách nhiệm cho những việc làm đó. “Dự án gà”, ví dụ, ”nhóm trưởng và các thành viên đều không chấp nhận [các vấn đề]” […] “nhưng lại chờ đợi một ai đó khác nói lên ý kiến phản đối đầu tiên.” “Thất bại nhóm”, ví dụ, “rối loạn chức năng” do thất bại trong “hỗ trợ dự án” và có lỗi trong việc giải quyết những thiếu sót. Rõ ràng là có một số sai lầm diễn ra trong công việc. Vào thời điểm thuận lợi, bạn có thể sửa chữa chúng. Nhưng trong lúc đang khó khăn, điều đó không hề khả thi. Vì vậy, rõ ràng là mọi người có nhu cầu chủ động sửa chữa các vấn đề sai. Nhà quản lý cấp cao cần khuyến khích điều này. Nhưng điều đó không thường xảy ra. Theo cuốn Manager’s Guide to Reward (tạm dịch: Hướng dẫn nhà quản lý khen thưởng), hành động của nhà quản lý ảnh hưởng tới “mô hình công việc, sự phát triển của sự nghiệp và bầu không khí làm việc”. Cuốn cẩm nang đó cũng lưu ý rằng các nhà quản lý có trách nhiệm cũng như “lãnh đạo và trao quyền”. Nhưng như chúng ta đã thấy, các nhà quản lý cấp cao không thường xuyên làm vậy. Và khi điều đó xảy ra, tổ chức rất dễ thất bại. Hãy nhìn nhận một cách trung thực: người quản lý không sắp đặt để thất bại. Các nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân dẫn đến thất bại của các nhà quản lý như sau: 80% do “kỹ năng giao tiếp không hiệu quả và thực tiễn”. 79% do “quan hệ làm việc và kỹ năng giao tiếp kém”. 69% do “cá nhân không phù hợp với công việc”. 61% do “thất bại trong việc định hướng mục tiêu”. 56% do “sự ủy quyền giảm sút”. Tất cả những thất bại về mặt quản lý có thể được sửa chữa bằng khả năng lãnh đạo giỏi, mạnh mẽ và thuyết phục. Và khả năng lãnh đạo đó không phải xuất phát từ trên, mà nó đến từ chính bên trong tổ chức, chủ yếu là từ nhà quản lý cấp trung. Đó là điều sẽ được đề cập ở đây: quản lý ngược. Nói một cách thẳn thắn, quản lý ngược không chỉ dựa vào số liệu thống kê. Các tình huống thay đổi từng ngày. Vấn đề là các cá nhân và các nhóm sẽ triển khai trên thực tế như thế nào. Nhìn chung, chúng bao gồm hiệu suất của toàn bộ tổ chức. Hiệu suất dựa trên sự lãnh đạo, và nhiều sự lãnh đạo đến từ cấp dưới. Cuốn sách này sẽ chỉ ra rằng các nhà quản lý cấp trung có thể sử dụng đặc quyền lãnh đạo của họ để giúp đỡ bản thân, ông chủ và tổ chức của họ thành công. *** LÃNH ĐẠO NGƯỢC Thước đo khả năng của mỗi người là hành động. — PINDAR, ODES — Hiếm có trường hợp nào giống như tuổi thơ đáng được ghi lại của người phụ nữ này. Dù được sinh ra trong một gia đình quý tộc nhưng người mẹ thì xa lánh bà, còn cha bà, mải mê đắm chìm trong men say nên chẳng còn thời gian dành cho con. Không giống như mẹ mình, bà không phải một người phụ nữ đẹp, thậm chí còn bị chế giễu như một con vịt xấu xí hay một bông hoa dại bên đường. Vượt qua tuổi thơ đau khổ, bà đã trở thành người phụ nữ có tầm ảnh hưởng đáng kể, ban đầu là thông qua người chồng và sau đó là tự bản thân mình. Bà là người vận động không ngừng nghỉ cho quyền lợi của người nghèo và những người bị bóc lột. Sau này, bà trở thành một nhà hoạt động vì hòa bình năng nổ và được ghi nhận là đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Liên Hợp Quốc. Bà là Eleanor Roosevelt, và phong cách lãnh đạo của bà là minh chứng rõ ràng cho sự lãnh đạo thông qua người khác. Cuộc hôn nhân của bà với Franklin Roosevelt, người anh họ thứ năm, dường như đã vượt lên trên quan niệm xã hội. Nhưng còn hơn thế nữa. Franklin yêu thương bà bởi trí tuệ hơn là vẻ đẹp bên ngoài, và sự động viên của ông đã giúp bà bước ra khỏi vỏ bọc tự mình tạo ra và làm những việc mà người thời đó gọi là người phụ nữ hiện đại. Trước khi kết hôn, bà đã tình nguyện làm việc ở vùng trũng phía đông Manhattan nơi bà đã tận mắt chứng kiến sự tàn phá của đói nghèo đối với lớp người nhập cư đầu thế kỷ XX. Khi bà dẫn Franklin đến khu nhà ổ chuột, ông đã bị sốc. Và dần dần theo thời gian ông nhận thức được rằng cuộc sống của những người nghèo khổ khắc nghiệt đến như thế nào. Cuộc hôn nhân với năm đứa trẻ ra đời của họ gặp đầy sóng gió bởi Sara, bà mẹ độc đoán của Franklin. Nhưng chính sự phản bội của Franklin, khi ông yêu một người phụ nữ khác, mới là nguyên nhân đổ vỡ cho cuộc hôn nhân của họ. Eleanor muốn trả tự do cho Franklin, nhưng Sara bác bỏ vì biết điều đó sẽ làm hỏng sự nghiệp chính trị của Franklin. Tuy nhiên, theo Doris Kearns Goodwin – người viết tiểu sử của bà nhận định, chính cuộc hôn nhân đổ vỡ này đã khiến Eleanor trở thành chính mình. Dù chia tay nhưng bà và Franklin vẫn là những người bạn tốt, còn hơn cả khi Eleanor tận tâm chăm sóc Franklin cho đến lúc ông hồi phục bệnh bại liệt vào năm 1921. Sau đó, bà trở thành người phát ngôn trên con đường chính trị của ông. Khi làm việc với Louie Howe, chuyên gia PR của Franklin, bà hiểu rõ những điều quan trọng, trở thành người đại diện hoàn hảo và phần nào giống như một chính trị gia giúp đỡ chồng bà trên con đường chính trị. Bà đã vượt qua tính rụt rè cố hữu và thực sự nổi bật như một người phụ nữ có tư tưởng, tuy vẫn định hướng phục vụ cho tham vọng của chồng. Khi Franklin trở thành tổng thống vào năm 1933, Eleanor cũng đồng thời trở thành “đôi chân của ông” như nhiều người vẫn gọi. Ông đã dạy bà cách tận dụng vị trí của mình để gây ảnh hưởng trong một tổ chức từ phía sau hậu trường. Và bà đã làm vậy. Những cuộc điều tra của bà cũng giống như những gì một thanh tra y tế có thể làm – tìm kiếm trong từng ngóc ngách xó xỉnh – không phải để moi móc những bằng chứng vi phạm pháp luật mà để tìm kiếm dấu hiệu của sự sống và sự tiến bộ. Bà cũng tham gia viết một mục báo nghiệp đoàn, tự chắp bút sáu lần một tuần. Đó là một thành tựu lớn lao đối với bất cứ ai, được thực hiện bởi một Đệ nhất Phu nhân. Bà là động lực thôi thúc Franklin tìm đến những cảnh ngộ nghèo khổ, hình thành một dự luật mà ông theo đuổi với sự ủng hộ của Đảng Dân chủ. Thậm chí hơn cả một giám sát viên của Franklin, bà đã nung nấu trong ông quan niệm về một chính phủ phục vụ nhân dân. Eleanor còn làm những công việc vận động cho cuộc sống toàn nhân loại. Chính bà là người ủng hộ tự do bình đẳng cho người da màu. Quan trọng hơn, bà đã kêu gọi Franklin đưa ra quyết định táo bạo trong việc cho phép người Mỹ gốc Phi nhập ngũ và thực sự ra chiến trường – điều luật đã bị loại bỏ từ sau cuộc nội chiến. Khi bà đã rất nổi tiếng, có nhiều người coi bà như một sự phiền toái, một người bận rộn đầy quyền lực. Thái độ này đặc biệt rõ rệt khi Eleanor, thay mặt cho Hội Chữ thập Đỏ, du hành quanh các khu vực có chiến tranh ở Nam Thái Bình Dương. Những người chỉ huy trong quân đội và hải quân tỏ ra không hài lòng; tiền tuyến không phải là nơi dành cho một người phụ nữ có địa vị cao. Tuy nhiên, sau đó bà đã nhờ những mối quan hệ cấp cao để có mặt trong các khu vực chiến tranh và tự đặt mình vào tình trạng bị kiểm soát để tới thăm những người lính bị thương nằm trong các trạm quân y tạm bợ. Chứng kiến những điều tích cực mà bà mang lại cho các thương bệnh binh khiến cho các sĩ quan chỉ huy rất cảm kích. Bà giúp cho những người lính bị thương ở nơi xa lạ cảm thấy như đang được về nhà. Bà giống như một bà tiên ban phát sự thoải mái và vui vẻ. Không như một người sinh ra đã là quý tộc mà như người mẹ đã có bốn con, bà làm tất cả những gì có thể với sự cảm thông tự đáy lòng. Và sau cái chết của Franklin, chính bà là người thúc đẩy Liên Hợp Quốc thông qua Tuyên bố về Quyền con người năm 1948 – một mốc son quan trọng trong lịch sử thế giới. Và như bà nói: "Cuối cùng thì, quyền con người bắt đầu từ đâu? Trong những không gian nhỏ bé, gần nhà, rất gần và rất nhỏ đến nỗi không thể nhìn thấy trên bất kỳ tấm bản đồ thế giới nào. Tuy nhiên, đó là thế giới của những cá nhân; là nơi những người láng giềng của ta sinh sống; những ngôi trường nơi họ tới học, các nhà máy, trang trại hoặc văn phòng nơi họ làm việc... Nếu không có sự phối hợp hành động của người dân để vận động sự ủng hộ của những người xung quanh, thì chúng ta chỉ đang trông chờ một cách vô vọng cho sự tiến bộ trong một thế giới rộng lớn hơn." Đó là những lời mà bất kỳ nhà lãnh đạo nào cũng đang tìm kiếm để thay đổi, mang nó đến với trái tim. Để có thể thay đổi hiệu quả, đôi khi cần suy nghĩ về vấn đề lớn nhưng hành động theo những cách nhỏ để đảm bảo rằng mọi người sẽ trải nghiệm những gì chúng ta đang làm. Đương nhiên đó là cách của Eleanor và nó đã thành công. Mời các bạn đón đọc Dẫn Dắt Sếp của tác giả John Baldoni.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

10 Nguyên Tắc Trở Thành Nhân Tài Của Bill Gates - Lã Quốc Vinh
Cuốn sách tập hợp những nguyên tắc để trở thành nhân viên tài giỏi do chính Bill Gates đúc kết. Những nguyên tắc này luôn là kim chỉ nam thành công và nguyên tắc làm việc mà các nhân viên của Công ty Microsoft cần phải tuân theo. Chính vì vậy, rất nhiều công ty nổi tiếng trên thế giới cũng áp dụng những nguyên tắc này để bồi dưỡng, nâng cao tinh thần làm việc của nhân viên công ty mình. 10 nguyên tắc trở thành nhân tài của Bill Gates đã chỉ ra mục tiêu nỗ lực và phương hướng thành công cho nhân viên trên thế giới. Dù bạn ở đâu, làm gì, chỉ cần bạn nắm chắc, tuân theo và áp dụng những nguyên tắc này thì bạn sẽ thành công. Cuốn sách là một công cụ giúp đào tạo những nhân viên tài giỏi. Cuốn sách nói cho chúng ta biết mình cần phải đổi mới, nâng cao kiến thức ra sao, làm việc nhiệt tình như thế nào, song hành cùng kế hoạch lâu dài của Công ty… qua đó bạn sẽ được khẳng định và đạt được thành công. *** Đây là nguyên tắc để trở thành nhân viên tài giỏi do chính Bill Gates đúc kết. Những nguyên tắc này luôn là kim chỉ nam thành công và nguyên tắc làm việc mà các nhân viên của công ty Microsoft cần phải tuân theo. Chính vì vậy, rất nhiều công ty nổi tiếng trên thế giới cũng áp dụng những nguyên tắc này để bồi dưỡng, nâng cao tinh thần làm việc của nhân viên công ty mình. 10 nguyên tắc trở thành nhân viên tài giỏi của Bill Gates đã chỉ ra mục tiêu nỗ lực và phương hướng thành công cho nhân viên trên thế giới. Dù bạn ở đâu, làm gì, chỉ cần bạn nắm chắc, tuân theo và áp dụng những nguyên tắc này thì bạn sẽ thành công. Cuốn sách là một công cụ giúp đào tạo những nhân viên tài giỏi. Cuốn sách nói cho chúng ta biết mình cần phải đổi mới, nâng cao kiến thức ra sao, làm việc nhiệt tình như thế nào, song hành cùng kế hoạch lâu dài của công ty... qua đó bạn sẽ được khẳng định và giành được thành công. *** Nhắc tới Bill Gates và công ty Microsoft, chắc chắn rất nhiều người đều cảm thấy vô cùng quen thuộc. Bill Gates lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, năm 20 tuổi sáng lập Microsoft, năm 31 tuổi trở thành tỷ phú trẻ nhất trong lịch sử thế giới. Tính đến năm 1997, Bill Gates đã sở hữu khối tài sản cá nhân lên tới 51 tỷ đô la Mỹ. Trong thời gian 20 năm ngắn ngủi, tài sản của ông đã lớn hơn rất nhiều so với tài sản của gia tộc các ông vua xe hơi, vua dầu mỏ, vua gang thép và trùm tài phiệt kinh tế làm ra trong 200 năm. Theo thống kê về tổng sản phẩm quốc dân năm 1995, tài sản của Bill Gates tương đương với 1/365 tổng giá trị toàn thế giới, đứng giữa hai nước xếp thứ 38 và 39 là Venezuela và Hy Lạp, đứng trên Ucraina, Bồ Đào Nha cũng như hàng trăm quốc gia vừa và nhỏ khác, Bill Gates có thể được gọi là địch thủ của các nước giàu. Nếu ông là một quốc gia, ông sẽ là quốc gia giàu có xếp thứ 39 trên thế giới. Công ty Microsoft do Bill Gates lãnh đạo, từ hai người thành lập ban đầu đã phát triển, lớn mạnh như hiện tại với hơn 50.000 nhân viên, từ một số vốn có thể đếm trên đầu ngón tay trở thành công ty có giá trị thị trường lên đến 299,9 tỉ đô la Mỹ, bứt phá trở thành công ty có giá trị cao nhất trên thị trường thế giới. Ngày nay, hàng trăm triệu người sử dụng máy tính trên toàn thế giới gần như đều đang sử dụng phần mềm và hệ thống điều hành của Microsoft. Sự thành công của Bill Gates và Microsoft được mọi người gọi là “câu chuyện thần thoại khó tin”. Trong mắt mọi người, Bill Gates là danh từ đại diện cho sự thành công. Bill Gates trở thành thần tượng được mọi người ngưỡng mộ và sùng bái, công ty Microsoft trở thành doanh nghiệp lý tưởng trong tâm trí nhiều người. Vì sao Bill Gates và Microsoft có thể đạt được thành công lớn đến như vậy? Rất nhiều người đã thử đưa ra các đáp án khác nhau, nhưng thực ra, ngoài yếu tố Bill Gates là một thiên tài máy tính, thiên tài quản lý và thiên tài kinh doanh còn một yếu tố quan trọng hơn, đó là: Microsoft sở hữu một đội ngũ nhân viên xuất sắc nhất thế giới. Bill Gates đã từng nói: “Nếu một ngày kia thức dậy, toàn bộ Microsoft bị thiêu rụi thành tro, chỉ cần cho tôi 20 nhân viên xuất sắc nhất, mọi thứ lập tức có thể bắt đầu lại”. Bill Gates luôn cho rằng, trong doanh nghiệp, bất cứ thứ gì đều có thể đánh giá bằng những giá trị khác nhau, duy nhất đội ngũ nhân viên xuất sắc là vô giá. Trở nên xuất sắc, nổi bật và giành được thành công trong một công ty thời hiện đại là ước nguyện và mục tiêu phấn đấu của mỗi người đi làm. Vậy, phải làm thế nào mới có thể trở thành một nhân viên xuất sắc trong mắt ông chủ, làm thế nào để thực hiện ước mơ thành công của cá nhân mình? Căn cứ theo kinh nghiệm sau khi tiếp xúc với những nhân viên xuất sắc nhất trong quá trình lập nghiệp, Bill Gates đã tổng kết ra 10 nguyên tắc lớn của một nhân viên xuất sắc, những nguyên tắc đó có thể trả lời cho chúng ta câu hỏi trên và giúp chúng ta tìm thấy con đường đi tới thành công. Những nguyên tắc đó luôn là nguyên tắc hành động và kim chỉ nam cho thành công của các nhân viên trong Microsoft, rất nhiều doanh nghiệp nổi tiếng trên thế giới cũng lấy những nguyên tắc đó làm tiêu chuẩn đào tạo, bồi dưỡng tinh thần nghề nghiệp cho nhân viên mình và coi đó là chuẩn mực, khuôn mẫu cho nhân viên. “10 nguyên tắc để trở thành nhân tài của Bill Gates” là một cuốn sách hay giúp xây dựng, đào tạo những nhân viên xuất sắc. Cuốn sách cho chúng ta biết làm thế nào để cập nhật, làm mới, nâng cao kiến thức chuyên ngành cũng như tay nghề chuyên môn; làm thế nào để vận dụng trí não và làm việc với một bầu nhiệt huyết tràn trề; làm thế nào luôn đồng hành nhịp bước cùng kế hoạch dài kỳ do công ty đề ra; làm thế nào để luôn yêu quý công ty của mình, sản phẩm của mình, thuyết phục được khách hàng bởi sự nhiệt tình, hết mình như một giáo sỹ truyền đạo; làm thế nào để tận dụng linh hoạt những cơ hội phát triển có lợi cho bản thân, làm nên thành công lớn nhất cho mình… “10 nguyên tắc để trở thành nhân tài của Bill Gates” còn mang lại cho chúng ta mục tiêu phấn đấu và phương hướng đi tới thành công. Bất kỳ ai đang ra sức cố gắng làm việc đều chỉ cần tự giác mày mò, nắm vững, tuân thủ và vận dụng những nguyên tắc đó, cảm nhận những nguyên tắc đó bằng trái tim, biết cách phát huy sở trường của bản thân đều có thể trở thành nhân viên xuất sắc trong mắt ông chủ, có thể đứng vững trong công ty thời hiện đại.   Mời các bạn đón đọc 10 Nguyên Tắc Trở Thành Nhân Tài Của Bill Gates của tác giả Lã Quốc Vinh.
Tôi Tài Giỏi, Bạn Cũng Thế - Adam Khoo
Khi bạn cầm trên tay quyển sách này, có nghĩa là bạn đã có chiếc chìa khóa đến sự thành công cùng bảng hướng dẫn sử dụng. Trong chúng ta, bất kỳ ai cũng muốn chính bản thân mình trở thành người tài giỏi, có thể giải quyết mọi vấn đề một cách hiệu quả nhất. Và để có được những điều đó quyển sách này sẽ giúp bạn bằng những hướng dẫn học tập chi tiết nhất. Tác giả không chỉ đơn thuần giải thích người khác đã thành công như thế nào, mà còn nói làm sao để họ làm được như thế để giúp người đọc khám phá ra tiềm năng của bản thân, và phát huy điều đó. Ngoài ra, sách còn cung cấp những phương pháp học thông minh (như áp dụng các công cụ học bằng cả não bộ như Sơ Đồ Tư Duy, phát triển trí nhớ siêu việt để ghi nhớ các sự kiện, con số một cách dễ dàng, thành thạo việc quản lý thời gian và xác định mục tiêu). Adam Khoo đã cho thấy, tài giỏi mang lại sự tự tin như thế nào và còn hướng dẫn bạn cách thức trở thành người tài giỏi. Qua đó độc giả sẽ lập được kế hoạch cho cuộc đời của chính mình. Tôi Tài Giỏi - Bạn Cũng Thế sẽ giúp tìm ra giải pháp tốt nhất cho mọi vấn đề, và giúp nhận ra cách thức để thành công. Tuy nhiên để làm một người tài giỏi thì người đọc cần đặt quyển sách xuống và thực thi ngay các kế hoạch. Đương nhiên, không phải chỉ chăm chỉ ngày một, ngày hai mà mỗi người phải thực hiện lâu dài, thậm chí cả đời thì mới đạt được những gì mình muốn. Thật sự đây là một quyển sách rất tuyệt vời và bổ ích, đem lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu. Một quyển sách không - thể - thiếu trong tủ sách! “Thật không biết phải làm sao với con trai chúng tôi. Nó được gởi đi học thêm khắp nơi mà vẫn làm bài thi tệ hại. Chúng tôi tự hỏi sau này nó có làm nên trò trống gì không nữa”… Đó chính là những gì mà cha mẹ của Adam Khoo đã từng than vãn về sự kém cõi và kết quả thi cử thảm hại của cậu bé Adam nhiều năm về trước. May mắn thay, vào thời điểm tăm tối nhất trong đời, Adam đã tìm thấy và học tập theo công thức thành công của những người tài giỏi vượt bậc. Chính vì thế, từ một cậu học trò kém cỏi nhất trong số những học sinh kém, không những anh đã vươn lên để đạt đuợc kết quả xuất sắc trong các kỳ thi cuối cấp hai và cấp ba, anh còn đuợc xếp hạng trong số 1% sinh viên tài năng nhất của trường Đại học Quốc Gia Singapore (NUS). Tôi tài giỏi, bạn cũng thế ! tổng hợp những kỹ năng và phương pháp đã mang tới thành công vượt bậc cho cậu bé Adam kém cõi và dĩ nhiên bạn cũng có thể thành công như vậy! Quyển sách này dành cho các học sinh, sinh viên, các bậc phụ huynh, các nhà giáo và bất kỳ ai luôn mong muốn tăng cường khả năng tận dụng não bộ hoặc phát huy tối đa tiềm năng của mình. Nếu bạn muốn “tài giỏi” trong các phương pháp học tập và suy nghĩ vượt bậc, hãy đọc quyển sách này. Bạn sẽ học đuợc cách: Tăng cường sự tự tin và làm chủ cuộc sống của bạn Áp dụng các công cụ học bằng cả não bộ như Sơ Đồ tư Duy Phát huy trí nhớ siêu việt để nhớ lại các sự kiện, con số một cách dễ dàng Thành thạo việc quản lý thời gian và xác định mục tiêu Mang lại khả năng đạt được những thành tích cao nhất có thể Áp dụng các phương pháp thi cử hiệu quả để “chiến đấu” và “Chiến thắng” trong các kỳ thi quan trọng. Tài năng đặc biệt của Adam nằm ở việc anh có thể hệ thống và chia sẻ các kỹ thuật và phương pháp mà bất kỳ học sinh nào cũng có thể áp dụng để đạt được những kết quả xuất sắc như anh đã từng đạt được. *** Mặc dù hầu như chắc chắn rằng một học sinh chuẩn bị bài thi tôt sẽ đạt kết quả tốt, bạn có thể phải cần nhiều hơn để đạt kết quả xuất sắc tuyệt đối. Nguyên do là vì vẫn có những học sinh chuyển bị bài thi tốt nhưng lại không thể làm bài hoàn hảo trong không khí căng thẳng của kì thi. Ở chương này tôi sẽ chỉ ra một số sai lầm thông thường mà học sinh phạm phải dưới áp lực của kì thi. Chúng tao sẽ phải thảo luận về các phương pháp phòng tránh nhằm giúp bạn có thể làm bài thi ở phong độ cao nhất.   Tự đặt mình vào trạng thái quyết tâm mạnh mẽ   Nếu bạn đã hoàn thành tất cả những bước học thi và đã chuẩn bị bài đầy đủ, thứ duy nhất còn lại có thể lấy mất cơ hội đạt điểm 10 của bạn chính là trạng thái tinh thần của bạn. Nếu bạn đi thi trong trạng thái tiêu cực lo lắng, căng thẳng hoặc bối rối, bạn có thể đi đến tình trạng " đầu óc trống rỗng " hoặc phạm phải nhiều lỗi bất cẩn không đáng có.   00157.jpg   Bởi thế, việc đầu tiên mà bạn cần làm là tự đặt mình vào trạng thái tự tin, quyết tâm mạnh mẽ nhất như những gì bạn đã học được ở Chương 16 : Tạo quyết tâm mạnh mẽ tức thì. Xin nhớ rằng trạng thái tinh thần của bạn sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc của bạn. Cảm xúc của bạn sẽ ảnh hưởng đến hành động và kết quả của bạn. Khi bạn ở trong trạng thái tự tin tuyệt đối, phấn khởi và quyết tâm, bạn sẽ làm bài với tất cả khả năng của bạn. Sau đây là một số việc bạn có thể làm để duy trì trạng thái đó.   Đến nơi thi sớm để thư giãn Đến nơi thi sớm hơn giờ thi bao giờ cũng tốt. Trước hết, việc này bảo đảm bạn sẽ không bị trễ giờ. Bên cạnh đó, việc đến sớm giúp tâm trí bạn thư giãn rất nhiều trước khi thi. Xin nhớ rằng bộ não của bạn chỉ làm việc có hiệu quả tốt nhất khi bạn ở trong trạng thái thư giãn. Dứt bỏ kì thi ra khỏi tâm trí Sẽ rất có ích nếu bạn có thể tán gẫu với bạn bè về bất cứ chuyện gì ngoài chuyện kỳ thi hay tài liệu học tập nhằm giúp bạn tách rời tâm trí khỏi việc thi cử. Điều quan trọng nhất là đừng bao giờ học bài vào ngày thi. Nó làm bạn luôn ở trong trạng thái căng thẳng. Hơn nữa, những thông tin mới có thể làm bạn rối rắm, lộn xộn những thông tin trước đó đã được sắp xếp ngăn nắp trong não khi bạn ngủ. Sử dụng những từ ngữ mạnh mẽ Ở chương 16 chúng ta phát hiện ra những từ ngữ chúng ta tự nó với bản thân có thể động viên hoặc tự hủy hoại chúng ta. Hãy dẹp bỏ những suy nghĩ tiêu cực. Hãy liên tục nói với bản thân " mình sẽ đạt điểm 10 ", "Không có vấn đề gì cả, mình sẽ hoàn thành một cách xuất sắc trước khi giờ thi kết thúc". Thậm chí khi bạn cảm thấy lúng túng trước một câu hỏi khó, không bao giờ cho phép bản thân được nói những lời tiêu cực. Một khi bạn lâm vào trạng thái tiêu cực mọi chuyện sẽ trở nên tiêu cực. Bởi thế, hãy liên tục nói với bản thân những lời tích cực. Tự đặt mình vào trạng thái quyết tâm mạnh mẽ Trước giờ thi, hãy tự đặt mình vào trạng thái quyết tâm mạnh mẽ bằng cách nghĩ về một thời điểm trong quá khứ mà bạn cảm thấy hoàn toàn tự tin, không ai có thể ngăn cản bạn và bạn thật sự mạnh mẽ. Hình dung hình ảnh này rõ ràng trong tâm trí bạn. Hãy nhập tâm và thêm đủ màu sắc vào hình ảnh đó, làm hình ảnh này sáng lên và to ra. Kế tiếp,bạn hãy bảo rằng cơ thể bạn chuyển đổi sang một tư thế mạnh mẽ. Hãy thở theo cách thở như bạn tự tin tuyệt đối. Hãy tạo ra mặt quyết tâm. Hãy hướng thẳng vai ra phía sau và đi qua đi lại như thể không có ai có thể cản được bạn. Bạn cũng có thể tận dụng sức mạnh của việc dùng neo mà bạn đã học chuyển đổi bản thân vào trạng thái quyết tâm mạnh mẽ như đấm tay vào không khí, vỗ tay, hét lớn, v.v...( những cái neo này là những hành động, cử chỉ bạn đã phát huy và thực tập nhiều lần trước đây). Một khi bạn đã ở trong trạng thái quyết tâm ở tột đỉnh, bạn có thể bắt đầu làm bài thi. Đọc lướt qua đề thi   00158.jpg   Việc đầu tiên mà bạn nên làm khi bắt đầu làm bài thi là đọc lướt qua tất cả các hướng dẫn và toàn bộ đề thi từ đầu đến cuối, trước khi bắt đầu trả lời bất kì câu hỏi nào. Việc đọc lướt này giúp bạn lên kế hoạch thứ tự trả lời câu hỏi cũng như lường thời gian cần thiết cho từng câu hỏi.   Thời gian   00159.jpg   Việc thiếu thời gian là yếu tố thất bại của nhiều học sinh cho dù họ có chuẩn bị bài hay không. Cho nên, điều quan trọng là bạn nên, điều quan trọng là bạn nên theo dõi thời gian bằng cách nhìn đồng hồ mỗi khi cần thiết. Để tránh việc thiếu thời gian làm bài, bạn nên: Phân chia thời gian hợp lý Luôn luôn lên kế hoạch cho lượng thời gian bạn cần trong từng câu hỏi trước khi làm bài. Bạn nên thực tập việc lên kế hoạch thời gian này trong lúc làm các đề thi cử. Thời gian dự phòng Bạn cũng nên dự phòng thời gian để kiểm tra lại bại trong vòng ít nhất 15 phút. Lượng thời gian này cũng có thể được dùng vào những việc khẩn cấp nếu bạn vượt quá lố thời gian dự định khi trả lời câu hỏi.   Tiếp cận câu hỏi Dễ trước, khó sau Việc trả lời câu hỏi theo thứ tự cho sẵn không bao giờ tốt cả. Lý do là vì đôi khi những câu hỏi khó được đưa lên đâu trong khi những câu hỏi dễ lại nằm ở phía dưới. Khi đối mặt với tình huống như thế chúng ta có thể cứ tiếp tục cố gẳng trả lời câu hỏi khó đến khi phát hiện ra chúng ta đã mất quá nhiều thời gian cho một câu hỏi. Hậu quả là chúng ta hối hả làm tiết bài thi chỉ để nhận ra không có đủ thời gian làm bài, thậm chí không kịp trả lời những câu hỏi dễ. Để tránh vấn đề này, bạn nên là theo một trong những cách sau đây: Bất cứ khi nào bạn cảm thấy mắc kẹt vào mọt câu hỏi khó, lập tức khoanh tròn câu hỏi khó đó và nhảy sang trả lời câu hỏi tiếp theo. Bạn có thể quay lại câu hỏi khó đó sau khi bạn đã trả lời hết những câu hỏi dễ. Trả lời hết tất cả những câu hỏi dễ trước khi tiến hành làm các câu hỏi khó. Luôn luôn để dành những câu hỏi đòi suy nghĩ, phân tích và viết nhiều sau cùng khi bạn đã hoàn tất hầu hết bài thi. Lý do là bạn có thể trả lời câu hỏi khó tốt nhất khi tâm trí bạn ở trạng thái thư giãn hơn ( vì hoàn thành gần hết các câu hỏi ). Đừng đi quá đà Học sinh thường thấy phấn khởi khi trả lời một câu hỏi quen thuộc. Họ cứ liên tục viết mãi cho đến khi nhận ra rằng học đã lãng phí quá nhiều thời gian cho câu hỏi này. Hãy tránh việc viết nhiều thông tin dư thừa không cần thiết. Đừng bao giờ bỏ cuộc Những câu hỏi khó, đặc biệt là nếu nằm ở đầu đề thi thường có tác động là bạn mất tinh thần. Khi việc này xảy ra, bạn sẽ thậm chí không thể trả lời những câu hỏi dễ phía dưới. Nguyên nhân là vì bạn đã hình thành một niềm tin là đề này rất khó, vượt qua khả năng của bạn.  ... Mời các bạn đón đọc Tôi Tài Giỏi, Bạn Cũng Thế của tác giả Adam Khoo.
Sống Đẳng Cấp - Linda McLean
Sống đẳng cấp là tập sách của Linda McLean, NXB Lao Động vừa ấn hành qua bản dịch của Đỗ Nhật Nam. Trong tập sách này, tác giả chuyển đến người đọc “thông điệp”: “Dù có chuyện gì xảy ra, bạn vẫn cần phải có một điểm tựa để níu vào. Có thể đó là người bạn, vị hôn phu, người thân trong gia đình hay đấng tối cao. Bên cạnh đó, hy vọng là cảm xúc mong muốn mọi chuyện sẽ ổn thỏa”.  Cuộc sống không phải lúc nào cũng suôn sẻ, lúc có chuyện không như ý, tác giả khuyên hãy nghĩ theo chiều hướng tích cực hơn. Chẳng hạn, thử tưởng tượng nếu một ngón chân bị vấp, ta có cảm thấy hạnh phúc không? Chắc là không. Nhưng ta có thể duy trì thái độ lạc quan, yêu đời không? Chắc chắn là có. Vì thế, ta hãy sẽ chuyển sự chú ý từ ngón chân bị vấp sang việc vui sướng vì vẫn có ngón chân để mà vấp! Sự vui sướng là một trong những yếu tố quan trọng nhất cấu thành một cuộc sống trọn vẹn”. Với quan niệm đó, Linda McLean viết: “Tôi khuyến khích bạn nên chọn niềm vui sướng lạc quan trong bất luận tình huống nào….” Theo đó, khi đã hiểu được mọi cơ hội đang chờ đón, ta sẽ biết cách làm thế nào để nắm bắt chúng. Ngoài ra, trước khi đi ngủ là lúc ta hãy nhìn lại những thành tựu, kiến thức đạt được trong ngày và hình dung đang ở đẳng cấp mới. Lúc ấy, ta hãy mường tượng hình ảnh về ngày mai tuyệt vời hơn. Linda McLean nhấn mạnh: “Tuy nhiên công bằng mà nói, sự hồn nhiên vui sướng của con trẻ chính là một thái cực cảm xúc mà chúng ta đang dần lãng quên. Càng trưởng thành, ta càng quên mất phải lạc quan, ta càng dẹp bỏ sự vui sướng vào một góc. Vì vậy, kết nối với sự vui sướng của mình một cách thường xuyên sẽ giúp ta cảm thấy yên bình và dễ chịu hơn rất nhiều ngay cả giữa giông bão”. Tập sách Sống đẳng cấp gợi mở nhiều suy nghĩ lý thú, giúp người đọc có cái nhìn về lạc quan cuộc sống và từ đó, có thể tìm được hạnh phúc của chính mình. *** Rất nhiều người nhìn vào cuộc sống của tôi bây giờ và cho rằng nó thật dễ dàng và phẳng lặng. Nhưng điều mà nhiều người không nhìn thấy là để gặt hái được những thành công đẳng cấp trong kinh doanh và trong hạnh phúc gia đình, tôi đã phải trải qua biết bao khó khăn và chông gai trên đường đời. Trong cuộc sống, những khó khăn phổ biến mà mọi người thường phải trải qua có thể là: dằn vặt sâu cay về những lỗi lầm trong quá khứ, cảm thấy bất tài vì bị gia đình và bạn bè coi thường, ám ảnh về bộ váy cưới – kỉ vật còn sót lại của một mối tình tan vỡ, thất bại trong nghề nghiệp, trắc trở trong đường tình duyên… Tôi đã vượt qua tất cả những thử thách này và còn hơn thế nữa trong chuyến hành trình đến với cuộc sống đẳng cấp của mình. Một trong số những thách thức lớn nhất với tôi là đối mặt với tử thần. Đó là câu chuyện tôi sẽ chia sẻ với các bạn ngay bây giờ. Mấy năm trước, tôi rất trẻ trung, năng động và gia đình tôi đang càng ngày càng ổn định. Không bao giờ tâm trí tôi có ý nghĩ không hay về vấn đề sức khỏe. Cũng như nhiều người khác, tôi luôn cho rằng mình khỏe mạnh và không có một căn bệnh nào có thể đến với mình cả, chỉ những “người khác” mới gặp phải những căn bệnh đó mà thôi. Tất cả đến với tôi như cơn gió thoảng. Bỗng chốc, tôi đã trở thành một con người khác. Chúng tôi vừa chuyển từ Canada sang Hoa Kì và việc di chuyển khó khăn hơn tôi tưởng. Tôi phải chăm sóc hai đứa trẻ (một đứa lên lớp 4 và một đứa lên lớp 8), hoàn thiện việc xây và trang trí cho ngôi nhà mới, tạo lập một thương hiệu kinh doanh, hỗ trợ chồng trong cương vị mới, quản lý giấy tờ sổ sách, cùng với rất nhiều trách nhiệm khác. Trên tất cả là một nỗi nhớ da diết với bạn bè, đại gia đình và nhà thờ nơi tôi thường cầu nguyện. Khởi đầu mới với nhiều khó khăn khiến tôi trầm cảm. Nhưng tất nhiên, lúc đó, tôi không thể lường hết được những ảnh hưởng của nó mãi đến tận sau này. Trong 60 ngày đầu đặt chân lên đất Hoa Kì, tôi quyết định đi kiểm tra sức khỏe lần đầu. Phim chụp X – quang ngực phát hiện ra một vài vấn đề nhỏ. Họ nói tôi phải làm sinh thiết. Tôi vẫn lạc quan và nghĩ rằng đó chỉ là một phần trong quy trình kiểm tra y tế của Hoa Kì và sẽ không có vấn đề gì lớn, cho đến ngày bác sỹ cho tôi biết, tôi có một khối u ác tính. Tôi ngồi lặng, bàng hoàng không tin vào chính mình. Tại sao chuyện này lại xảy ra với tôi? Mẹ tôi mắc bệnh ung thư vú và đã phải phẫu thuật mổ vú ở tuổi 59. Bà qua đời 9 năm sau do căn bệnh tái phát, thọ 68 tuổi. Lúc đó Brittany (con gái đầu lòng của chúng tôi) mới 26 tuần tuổi. Tôi thực sự tuyệt vọng. Sẽ là một nỗ lực vô cùng lớn nếu tôi gắng gượng đứng dậy và tiếp tục sống. Khi bác sĩ nói với tôi: “Linda, tôi rất tiếc phải nói với cô, khối u của cô là u ác, và chúng tôi sẽ sớm hẹn ngày phẫu thuật cho cô”. Tôi bị sốc hoàn toàn. Choán hết tâm trí tôi lúc này là những ý nghĩ về gia đình mình. Trong sự rối ren, hoảng loạn đó, tôi biết mình phải xử trí thế nào trước hung tin này. Tôi hiểu mình cần nghĩ lạc quan và phải có niềm tin vào cuộc sống. Tháng trước, chúng tôi vừa gặp vị mục sư, và ngay lập tức được nhà thờ đón nhận vào Hội nhà thờ. Họ hỗ trợ chúng tôi nhiều hơn cả những gì chúng tôi mong đợi. Nhưng ngay cả khi có sự hỗ trợ tích cực đó và bản thân tôi đang tập tư duy lạc quan, tôi vẫn chưa sẵn sàng đón nhận những gì tiếp theo sẽ xảy đến. Một ngày nắng đẹp trời, các cô công chúa của tôi đang đến trường, Scot đang đi làm, còn tôi vừa gọi mấy cuộc điện thoại để giải quyết công việc kinh doanh. Bỗng một nỗi buồn tê tái ập đến, nỗi sợ hãi xâm chiếm cơ thể tôi như lớp màn đặc quánh, không lối thoát. Tôi cảm thấy như người mình mềm nhũn ra vì đau khổ. Nỗi sợ hãi ấy vò xé trái tim tôi khi tôi hoang mang nghĩ đến việc mình sẽ không thể dõi theo những bước trưởng thành của hai cô công chúa nhỏ, không được dưỡng già cùng với Scot, chẳng còn cơ hội đi vòng quanh thế giới, ngắm những đứa cháu chơi đàn, dành thời gian cho bạn bè và người thân. Tất cả vụt qua trước mắt tôi đầy luyến tiếc. Tôi nhớ lại nỗi đau nhói trong tim mình khi bố mẹ tôi qua đời – một nỗi nhớ dai dẳng. Tôi nghĩ đến việc mọi người sẽ đau khổ thế nào khi tôi lìa xa Trái đất này. Tôi khóc thút thít. Tôi không biết mình phải bấu víu vào đâu, không biết ai có thể giúp đỡ mình. Đơn độc và sợ hãi… Chúng tôi là những thành viên mới trong khu dân cư này. Bởi vậy, tôi không muốn xuất hiện trước cửa nhà hàng xóm với khuôn mặt đẫm nước mắt. Nỗi sợ hãi và buồn thảm này giam hãm tôi 2 ngày liền. Tôi không chia sẻ nó với bất kì ai vì tôi không biết phải giải thích như thế nào và nỗi buồn cứ đẩy ngược vào trong. Tôi cảm thấy mình như đang ở trong tâm một cơn bão hỗn loạn và tôi phải bằng mọi cách vượt qua nó. Sự mệt mỏi và kiệt sức bắt đầu nuốt lấy tôi. Tôi quỳ xuống và cầu khấn Chúa rằng: Nếu Chúa muốn đưa con đi, con đã sẵn sàng. Và tôi thấy mình tỉnh táo hơn. Từ giây phút đó, có một điều vô cùng kì lạ xảy đến với tôi. Tôi cảm thấy yên ổn, thứ cảm giác không thể lý giải nổi. Tôi tin rằng mình đã đạt đến một ngưỡng khác của việc đối mặt với nỗi sợ hãi. Tuy đã thanh thản hơn nhưng ám ảnh về sự tan vỡ vẫn lảng vảng trong tâm trí tôi vì cuộc phẫu thuật chưa được tiến hành. Trên tất cả, tôi luôn cố gắng nghĩ những điều lạc quan nhất có thể. Tôi trải qua mỗi ngày với niềm hi vọng về một cuộc sống mới ở Hoa Kì. Khi mọi thứ vượt quá giới hạn, bóng tối lại đe dọa một lần nữa, tôi trở về với một trạng thái tâm lý lạ kì. Tôi có cảm giác mình được nâng bổng lên tầm cao mới, nơi mà nỗi sợ hãi không còn hiện hữu. Và thật thoải mái mỗi khi thả mình vào trạng thái ấy. Cuộc phẫu thuật của tôi đã diễn ra vào tháng 12 năm 2000 và thành công mĩ mãn. Sau đó tôi được điều trị bằng xạ trị. Đã hơn mười năm kể từ ca phẫu thuật đó, tôi vẫn tin rằng với sự quyết tâm tiến lên cùng với niềm tin và hi vọng của mình, tôi đã đạt đến đẳng cấp mới của cuộc sống như bây giờ. Khi viết những dòng này, tôi đang nhìn lại cuộc sống của mình. Tôi thấy người chồng của mình (cũng là người bạn chí cốt) suốt 32 năm qua, thấy hai cô công chúa đáng yêu đang cố gắng theo đuổi ước mơ của chúng, thấy những người bạn tuyệt vời và ngôi nhà ấm cúng. Qua việc du lịch đến nhiều miền đất mới, tôi tận hưởng và học hỏi được nhiều điều bổ ích và tôi yêu công việc của mình với những khách hàng đến từ khắp mọi miền. Mỗi năm, tôi lại tự thưởng cho nỗ lực của bản thân mình và lập ra nhiều mục tiêu mới để phấn đấu. Đời sống tâm linh lại càng trở nên có ý nghĩa quan trọng hơn đối với tôi khi tôi biết học cách dựa vào niềm tin làm bàn đạp cho chuyến hành trình của cuộc đời mình. Chúa giữ vị trí trung tâm trong quỹ đạo cuộc sống của tôi. Cuộc đời thật là tươi đẹp! Những yếu tố tâm linh về niềm tin, phép màu nhiệm như một lời khẳng định của cá nhân tôi rằng Cuộc sống đẳng cấp là có thật. Hãy luôn nhớ, trong chuyến hành trình của mình, viễn cảnh “cuộc sống đẳng cấp” của bạn sẽ hoàn toàn khác với tôi. Bài học từ câu chuyện của tôi là, tôi đã có thể vận dụng nội lực của mình để tiến lên phía trước, từ một vị thế hoàn toàn yếu đuối và đơn độc để rẽ sang một ngã rẽ tươi sáng và diệu kì. Bạn cũng có thể làm như tôi! Điều gì đang giam hãm bạn trong mê cung của sự sợ hãi, của âu lo hay nghi ngờ? Điều gì đang kìm hãm bạn khỏi sự giải thoát chính bản thân mình để có một cuộc sống đẳng cấp hơn? Có thể do những thất bại trong cuộc sống chăng? Có thể do những mục tiêu không khả thi, những ý nghĩ xấu xa đầy sự tiêu cực và lòng thù hằn? Hay có thể là tất cả những điều trên cộng dồn và đánh gục bạn? Những nguyên nhân đó đè nặng lên tâm hồn bạn, làm bạn không có lối thoát. Đó cũng là rào chắn của chính bạn, ngăn cách bạn đến với những điều phi thường, những tiềm năng ẩn dưới đáy sâu tâm hồn bạn, chưa được khám phá. Những trải nghiệm để đời đã đem lại cho tôi một thông điệp, truyền tải mạch lạc và rõ ràng rằng: Để đạt được cuộc sống đẳng cấp, hãy khám phá, tìm hiểu xem những gì đang làm chùn bước ta? Hãy can đảm để đối mặt với chúng và sửa chữa những sai lầm. Rất có thể, bạn đọc cuốn sách này khi không hề gặp phải một vấn đề gì trong cuộc sống. Cũng có thể cuốn sách này đến với bạn vì bạn đã có một cuộc sống tuyệt vời và muốn nhiều hơn thế nữa! Không cần biết mục tiêu của bạn khi đến với cuộc hành trình này là gì, nhưng tất cả đều bắt đầu bằng một câu hỏi: Mình đến đây bằng cách nào? Gần như không có ngoại lệ, chúng ta thường tự hỏi chính mình câu hỏi nan giải này vào một thời điểm nào đó của cuộc sống. Câu hỏi ấy có thể lóe lên ở những khúc quanh trên đường đời mà chúng ta đã trải qua như kì thi tốt nghiệp, cưới hỏi, sinh, lão, bệnh, tử hay những thay đổi nghề nghiệp. Trải qua những giây phút ấy khiến chúng ta dường như phải lùi lại để suy ngẫm về đoạn đường mình đã qua và hướng đi mà mình lựa chọn. Có thể bạn đang khao khát đạt tới một vài trong số những sự kiện đổi đời này, chẳng hạn như việc tốt nghiệp. Một vài sự kiện khác lại đến với chúng ta một cách bất ngờ, để lại cho ta một cảm giác tan vỡ và hụt hẫng, mất định hướng. Trong những thời điểm xảy ra biến động, chúng ta buộc phải tự đặt ra cho mình những câu hỏi lớn, phải tự nhìn lại mình và sáng suốt trong việc lựa chọn hướng đi cho chính bản thân mình. Điều này là tốt và cần thiết, nhưng còn ở những thời điểm “sóng yên biển lặng” thì sao? Chẳng hạn như một lúc nào đó bạn đang tiến lên với tốc độ chóng mặt và cảm thấy không có vấn đề gì xảy ra cả, nhưng bạn vẫn lấn cấn rằng mình có thể làm được nhiều hơn thế? Làm thế nào để chúng ta tiến lên phía trước? Vào nhiều thời điểm, chúng ta thấy như bị vòng xoáy điên đảo của những cảm xúc trong cuộc sống khiến mình chùn chân lại, khiến chúng ta loạng choạng như đang đi trong bóng tối. Cuốn sách này sẽ tập trung phân tích việc làm thế nào để bạn có một cuộc sống đẳng cấp hơn, những bài học giúp bạn phá vỡ mọi lực cản và tư duy một cách tự do, phóng khoáng cũng như cách đẩy bạn tiến lên phía trước. Cuốn sách sẽ đóng vai trò như một hoa tiêu dẫn đường cho bạn từ điểm xuất phát là bạn bây giờ đến một nơi bạn sẽ được hưởng tự do thực sự để khám phá những tiềm năng vô tận trong cuộc sống. Chào mừng bạn đến với chuyến hành trình mà tôi gọi là Cuộc sống đẳng cấp. Mời các bạn đón đọc Sống Đẳng Cấp của tác giả Linda McLean.
Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson
John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.