Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bước Vào Cửa Hiệu Nhiệm Màu

Đối mặt với những nỗi đau và thất bại của bản thân, Tiến sĩ James R. Doty viết nên quyển sách “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu” đầy lôi cuốn bằng tất cả trải nghiệm của ông. Chính trong câu chuyện chân thật đó, người đọc dễ đồng cảm và tìm thấy hình ảnh của mình trong sách. James R. Doty là giáo sư lâm sàng tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, là người sáng lập, điều hành Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục Lòng trắc ẩn và vị tha (CCARE) tại đại học Y Stanford. Trên nền câu chuyện y khoa, ông đặt vào trong đó là những trải nghiệm từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành, xâu chuỗi nó thành những xúc cảm đầy trải nghiệm. Dù ở khía cạnh nào, tác giả cũng chia sẻ, lý giải những vấn đề cuộc sống mà bất kỳ ai cũng sẽ trải qua. Xuyên suốt 3 phần của quyển sách, tác giả lần lượt hồi tưởng lại những giai đoạn cuộc sống của mình. Can đảm để đối diện với những vết thương, nhìn nhận sự thất bại là cách mà James R. Doty viết nên quyển sách “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu”. Nhận xét về cuốn sách, thầy Thích Nhất Hạnh đã nhấn mạnh là “sâu sắc và đẹp đẽ”, bởi vì dù trong bất cứ thời điểm nào trong cuộc đời, James luôn giữ niềm hy vọng tích cực, hạnh phúc để làm kim chỉ nam trong hành trình đi tìm mục đích sống. Và ông truyền tải tinh thần đó xuyên suốt các trang sách, để người đọc thấy được ý nghĩa bản thân. Từ một đứa trẻ lớn lên trong một gia đình tầng lớp thấp ở vùng Lancaster, tuổi thơ của tác giả vẫn nuôi trong mình một ước mơ. Rồi cậu gặp gỡ bà chủ của một tiệm bán đồ ảo thuật tên Ruth, bà đã chỉ Jim một “màn ảo thuật” đặc biệt. Mà tác giả gọi trong sách là “4 bí quyết của Ruth” gồm: Thả lỏng cơ thể, Thuần hóa tâm trí, Mở rộng trái tim và Tinh lọc mục tiêu. Chính cuộc gặp gỡ đó đã tạo ra một động lực phi thường để cậu bé Jim hoàn thành ước mơ trở thành một bác sĩ Phẫu thuật Thần kinh. Phép màu mà tác giả nói đến trong sách chính là định hình mục tiêu của bản thân, đặt suy nghĩ luôn hướng về điều đó và giữ niềm tin vào con đường của mình để đi đến đích. Não bộ sẽ luôn chọn lựa những gì quen thuộc thay vì những gì xa lạ. Bằng việc tưởng tượng ra tương lai thành công của mình, bạn đã khiến não quen thuộc với thành công này. Như cách James tôi luyện tâm trí mình trở thành một bác sĩ rất lâu trước khi nộp đơn vào trường y, đơn giản bằng cách hình dung mình là một bác sĩ. Ai trong đời đều có mục tiêu để đi về phía trước. Nhưng nếu bản đồ cuộc sống bắt bạn trải qua nhiều thử thách thì bạn cần chiếc la bàn để định vị lại. Như tác giả phải tự xoay sở trước những sóng gió mà gia đình mang đến. Ông không ngại việc “vạch áo cho người xem lưng” khi nói về gia cảnh của mình. Nhưng tuyệt nhiên, trong những câu từ đó không hề là sự trách giận, ngược lại nó chứa đầy tình yêu thương. Chẳng có cái gọi là cuộc đời hoàn hảo mà chúng ta sinh ra đã ở sẵn trong đó. Ngay cả khi thành công, cuộc sống cũng sẽ mang đến thách thức để “đánh giá” khả năng xử lý hoàn cảnh của chúng ta. Ai cũng đều muốn được công nhận về năng lực của mình dù ở bất cứ lĩnh vực nào. Nhưng sẽ là tự mãn nếu chúng ta không giữ được thăng bằng giữa những sự nhìn nhận đó. Tác giả không chỉ kể về những thành công mà còn đối diện với sự thất bại bởi tính kiêu ngạo của chính mình mà ông viết trong sách: “Tôi đã trở nên ngạo mạn. Phương pháp có được mọi thứ tôi muốn, kỹ thuật chuyên môn trong giải phẫu thần kinh của tôi đã khiến tôi cảm thấy mình quan trọng và đặc biệt theo một cách tôi chưa từng cảm thấy trước đây”. Điều đó dẫn đến việc ông phải đối mặt với cái chết là lúc câu chuyện đẩy lên cao trào. Trong hành trình cận tử đó, ông như được thức tỉnh, tự nhủ rằng đây không phải là cách mà cuộc đời ông nên kết thúc. Như tác giả viết trong sách, chúng ta có thể chết đến ngàn lần trong cuộc đời này. Và đó là một trong những món quà tuyệt vời nhất của việc được sống. Vết thương lòng vẫn thường trao cho ta cơ hội lớn lao để trưởng thành. Cuộc sống phải mất nhiều năm trời và nhiều sai lầm đau đớn trước khi chúng ta nhận ra điều đó. Như không để chúng ta mất nhiều thời gian tương tự, nên tác giả quyển “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu” đã gói gọn hết những ý nghĩa đó trong hơn 300 trang sách. Những khoảnh khắc tiêu cực nhất lại chứa đựng sự tích cực khi nó thúc đẩy nội tại chúng ta thay đổi. Và trên hết thảy những cảm xúc đẹp đẽ và mãnh liệt, tác giả dần đưa người đọc đi sâu hơn vào ý nghĩa hạnh phúc của cuộc đời. Giống như rất nhiều thứ khác trong đời, niềm tin của chúng ta vốn là hiện thân của những trải nghiệm sống của chúng ta. Theo lý giải của tác giả, trái tim là nơi chúng ta tìm thấy sự an ủi và an toàn trong tăm tối. Nó là thứ ràng buộc chúng ta lại với nhau và là thứ tan vỡ khi chúng ta chia lìa. James R. Doty cũng khẳng định, đầu óc là sức mạnh, nhưng nó chỉ có thể đạt được thứ ta thật sự muốn nếu ta mở rộng trái tim mình trước tiên. Mà ông gọi đó là la bàn trái tim. Chúng có thể làm tăng sự tập trung, đưa ra quyết định nhanh hơn, nhưng khi có sự khôn ngoan và mở rộng trái tim. Hành trình của chúng ta không chỉ là một hành trình đơn độc đi vào nội tâm, mà còn là hành trình hướng ngoại với sự nối kết. Cách duy nhất để thật sự thay đổi và biến chuyển cuộc đời mình theo hướng tốt đẹp hơn chính là làm thay đổi và biến chuyển cuộc đời của những người khác. Tổng thể cuốn sách là một sự chiêm nghiệm sâu sắc, với trải nghiệm mà ai cũng sẽ đôi lần chạm phải. Tác giả tạo ra sự thân thuộc trong cách kể chuyện của mình bằng sự tinh tế, thấu cảm. Với tất cả những mảng màu đó, ông đưa người đọc tìm về ý nghĩa của hạnh phúc. Mỗi chúng ta có câu chuyện của riêng mình, trong mỗi câu chuyện ấy đều có những phân đoạn đớn đau và buồn bã. Chúng ta có thể tạo ra mọi thứ chúng ta muốn. Trao đi yêu thương luôn là điều có thể. Mỗi hành động của lòng trắc ẩn, mỗi khoảnh khắc của thấu hiểu là một món quà dành cho thế giới này và cho chính bạn.  Về tác giả sách “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu”: Tiến sĩ James Doty (sinh ngày 1-12-1955) là giáo sư lâm sàng tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Đại học Stanford, là người sáng lập và điều hành Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục Lòng trắc ẩn và vị tha (CCARE) tại đại học Y Stanford. Ông đã hoàn thành chương trình giáo dục đại học tại Đại học CA, Irvine và trường Y thuộc Đại học Tulane. Ông có nhiều đóng góp trong lĩnh vực chuyên môn và cả những hoạt động xã hội. Ông là Chủ tịch của Quỹ Dalai Lama, phó chủ tịch của tổ chức Hiến chương Nhân ái Quốc tế, thành viên của Hội đồng Tư vấn Quốc tế về Nghị trường và Tôn giáo thế giới. Theo First News *** Cuốn sách đầy sức mạnh này của bác sĩ Doty là một chứng thư về cách mà niềm tin và lòng trắc ẩn vượt lên khỏi tôn giáo, sắc tộc và quốc tịch để giúp đỡ một cá nhân vượt qua nghịch cảnh và những giới hạn riêng tư. Nó là một nguồn cảm hứng. — Sri Sri Ravi Shankar, nhà sáng lập và lãnh đạo tinh thần của Art of Living Foundation Đây là câu chuyện về đức tin vượt qua mọi ranh giới và rào cản của tôn giáo. Một câu chuyện của hy vọng trong việc đối mặt với thử thách to lớn nhất cuộc đời và câu chuyện của phép màu mở ra cánh cửa của tiềm năng và sự chữa lành. Đây là hành trình của một nhà giải phẫu thần kinh có cuộc đời ghi dấu bằng cả thành công lẫn thất bại, và lúc nào cũng được bao bọc trong cái khung lộng lẫy của hy vọng, sự tử tế và lòng trắc ẩn. Cuốn sách sẽ chạm vào trái tim, tâm hồn và tâm trí chúng ta. — Rev. Dr. Joan Brown Campbell, giám đốc danh dự về tôn giáo tại Học viện Chautauqua, cựu giám đốc điều hành Hội đồng Giáo hội Thế giới Khi một người có thể tiến hóa từ suy nghĩ đầu óc đến trái tim, người đó thực tế đã tiến tới đỉnh cao nhất của tình yêu và lòng trắc ẩn thật sự. Jim Doty nỗ lực một cách chân thành đưa người đọc vào chuyến hành trình từ lãnh địa bị giới hạn của đầu óc đến địa hạt không giới hạn của trái tim, nơi mà lòng trắc ẩn thực thụ đang cư ngụ. Khả năng đặt bản thân vào vị thế của người khác, để nhìn và cảm nhận như chính người đó là một thiên khiếu hiếm có của một nhà khám phá tâm linh. Mong cuốn sách này trở thành nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người. — Thánh mẫu Mata Amritanandamayi (Amma) Phép màu từ câu chuyện của Jim, sự thấu suốt mà anh dùng để chia sẻ cuộc đời anh với chúng ta, là một món quà vĩ đại và là thứ mà tôi sẽ khuyến khích tất cả mọi người đón nhận bằng vòng tay rộng mở. Ngôn từ của anh, thuật nhớ của anh – CDEFGHIJKL – xứng đáng nhận được sự chú ý, sự chú tâm toàn diện của chúng ta, và phần thưởng cho điều đó là khám phá ra sức mạnh của việc khai mở trái tim con người với nhau và với thế giới. — Scott Kriens, đồng giám đốc của tổ chức 1440 và chủ nhiệm của Juniper Networks Sự thật là cuốn sách của Jim Doty không nằm trong danh sách đọc của tôi. Rồi, bằng một sự ngẫu nhiên mà tôi đã đọc lướt qua trang đầu của cuốn sách. Tôi lập tức bị cuốn hút bởi sự thật lòng, sự chân thành không phòng vệ trong cách anh chia sẻ một câu chuyện đầy ắp tình người vô cùng hấp dẫn và sâu sắc. Anh ấy dẫn dắt chúng ta đi qua một hành trình đầy mê hoặc, từ một tuổi thơ khốn khó đến đỉnh cao của thành tựu. Đây là một câu chuyện phong phú những cảm hứng, hiểu biết và bài học cuộc đời khiến tôi ước gì nó đừng bao giờ kết thúc. Có thể nào đọc về cuộc đời một người nào đó lại có thể làm thay đổi cuộc đời của chính bạn? Hãy bước vào cửa hiệu nhiệm màu cùng với Jim Doty và bạn sẽ tìm thấy câu trả lời. — Neal Rogin, nhà văn, nhà làm phim từng đoạt giải Emmy, thành viên hội đồng sáng lập Pachamama Alliance Cuốn sách này là lời chứng nhận đầy sức mạnh về việc khi chúng ta lựa chọn lòng trắc ẩn như là một phần định nghĩa về con người mình thì phép màu sẽ thật sự bắt đầu hiện ra trong đời ta ra sao. Một cuốn sách truyền cảm hứng bậc nhất nâng đỡ tinh thần chúng ta, khai mở trái tim ta trong thời điểm mà quá nhiều những thứ chúng ta nghe và đọc được dường như chỉ khiến ta thêm tuyệt vọng về nhân loại. Bất kỳ ai đọc cuốn sách này đều sẽ thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn. — Thupten Jinpa, tiến sĩ, tác giả cuốn A Fearless Heart *** Giới thiệu Những điều tốt đẹp Có một âm thanh đặc thù được tạo ra khi lớp da đầu được kéo toạc ra khỏi hộp sọ – như âm thanh của một miếng băng gai cỡ lớn khi giật ra khỏi mặt bông. Thanh âm ấy vang lớn, giận dữ và có chút đau buồn. Ở trường Y, không có những lớp học dạy ta những âm thanh và mùi của một cuộc phẫu thuật não. Họ nên mở những lớp như vậy. Tiếng rè rè của mũi khoan nặng trịch khi nó bắt đầu khoan xuyên qua hộp sọ. Cái cưa xương tẩm cả căn phòng phẫu thuật với một thứ mùi của mùn cưa ngày hè, khi nó cắt một đường nối liền những cái lỗ mà mũi khoan vừa tạo ra. Tiếng lép bép khiên cưỡng mà hộp sọ tạo ra khi nó bị nhấc ra khỏi lớp màng cứng[1], lớp bao dày bọc lấy não bộ và phụng sự như một phòng tuyến cuối cùng bảo vệ não bộ khỏi thế giới bên ngoài. Cây kéo chầm chậm cắt qua lớp màng cứng. Khi bộ não phơi bày ra, ta có thể thấy nó phập phồng theo từng nhịp tim, và thỉnh thoảng ta dường như có nghe thấy nó rên rỉ phản kháng trong trạng thái trần trụi và dễ tổn thương của mình – bí mật của nó bị phơi bày cho tất cả dưới ánh đèn chói mắt của phòng mổ. Cậu bé trông bé nhỏ trong bộ đồ bệnh nhân và gần như bị chiếc giường bệnh nuốt chửng trong lúc cậu nằm chờ phẫu thuật. – Bà ngoại đã cầu nguyện cho mẹ. Và bà cũng cầu nguyện cho con nữa. Tôi nghe tiếng hít vào thở ra nặng nhọc của mẹ đứa trẻ khi cô nói những lời này, và tôi biết cô đang cố gắng tỏ ra mạnh mẽ vì con trai mình. Vì chính cô. Và thậm chí có lẽ vì cả tôi nữa. Tôi luồn tay mình vuốt tóc cậu bé. Mái tóc nâu, dài và khỏe – vẫn mang dáng dấp của một đứa trẻ hơn là một chàng trai. Cậu bé nói với tôi cậu vừa trải qua sinh nhật của mình. – Con có cần bác giải thích lần nữa những gì sẽ xảy ra hôm nay không, nhà vô địch? Hay là con đã sẵn sàng rồi? – Cậu bé thích được gọi là Nhà vô địch, hoặc là Anh bạn. – Con sẽ đi ngủ. Và bác sẽ lấy thứ Xấu xí ra khỏi đầu con, đầu con không còn đau nữa. Rồi con sẽ gặp lại mẹ và bà ngoại. Thứ Xấu xí ấy là một khối u nguyên bào tủy[2], loại u não ác tính thường gặp nhất ở trẻ em, khối u nằm ở hố sọ sau (phần đáy sọ). Medulloblastoma, u nguyên bào tủy, không phải là một từ dễ phát âm ngay cả với người lớn, càng khó hơn với một đứa trẻ bốn tuổi, cho dù nó có thông minh đến mấy. Những khối u não ở trẻ em vốn thật sự là thứ vô cùng xấu xí, vì vậy tôi hoàn toàn tán thành cách gọi của cậu bé. Những khối u nguyên bào tủy không có hình dạng nhất định và thường xuyên là kẻ xâm lấn lố bịch vào những cấu tạo cân đối tinh tế của não bộ. Chúng xuất hiện ở hai thùy tiểu não và rồi lớn dần lên, cuối cùng chúng sẽ chèn ép lên, không chỉ vùng tiểu não, mà còn lên thân não cho đến khi nó dứt khoát chặn đứng mọi đường dẫn cho phép chất lỏng trong não tuần hoàn. Não bộ là một trong những tạo tác đẹp đẽ nhất tôi từng thấy. Khám phá bí ẩn của nó và tìm cách chữa lành nó là một đặc ân mà tôi chưa bao giờ dám xem nhẹ. – Bác thấy con đã sẵn sàng rồi. Giờ bác sẽ đeo chiếc mặt nạ siêu anh hùng của mình và bác sẽ gặp lại con trong căn phòng ánh sáng nhé. Cậu bé mỉm cười với tôi. Khẩu trang và phòng phẫu thuật có thể nghe hơi đáng sợ. Hôm nay tôi gọi chúng là mặt nạ siêu anh hùng và phòng ánh sáng, như thế cậu bé sẽ không cảm thấy sợ hãi nữa. Tâm trí là một thứ thú vị, nhưng tôi sẽ không đi giải thích ngữ nghĩa học với một cậu bé bốn tuổi. Một số trong những bệnh nhân và những người khôn ngoan nhất tôi từng gặp đều là trẻ em. Trái tim trẻ em là những trái tim rộng mở. Lũ trẻ sẽ nói với bạn điều gì khiến chúng sợ hãi, điều gì khiến chúng vui vẻ, hay điều chúng thích và không thích ở bạn là gì. Không có bất kỳ sự che giấu nào và bạn không bao giờ phải đoán xem chúng thật sự cảm thấy thế nào. Tôi quay lại phía mẹ và bà ngoại của cậu bé. – Một người trong tổ phẫu thuật của chúng tôi sẽ cập nhật tình hình cho các vị trong lúc chúng tôi tiến hành ca mổ. Tôi dự tính đây sẽ là một lần cắt bỏ triệt để. Và tôi không nghĩ rằng sẽ có bất kỳ biến chứng nào. – Đây không chỉ là những lời động viên trước phẫu thuật để nói với người nhà bệnh nhân những gì họ muốn nghe, dự định của tôi là thực hiện một cuộc phẫu thuật triệt để và hiệu quả để cắt bỏ toàn bộ khối u, đồng thời gửi một mẫu nhỏ của khối u đến phòng thí nghiệm để xem thứ Xấu xí ấy rốt cuộc xấu xí đến đâu. Tôi biết mẹ lẫn bà ngoại cậu bé đều đang lo sợ. Tôi lần lượt nắm lấy tay từng người, cố gắng đảm bảo với họ và xoa dịu họ. Việc này chẳng bao giờ dễ dàng. Một cơn đau đầu buổi sáng của đứa con bé bỏng đã trở thành cơn ác mộng tồi tệ của mọi bậc làm cha mẹ. Người mẹ tin tưởng tôi. Người bà tin vào Chúa Trời. Tôi thì tin tưởng đội ngũ của mình. Cùng nhau, chúng tôi sẽ nỗ lực cứu lấy mạng sống của đứa trẻ này. SAU QUÁ TRÌNH GÂY MÊ, tôi đặt đầu cậu bé vào một cái khung gắn với sọ của cậu, và sau đó đặt cậu nằm sấp xuống. Tôi lấy cái tông đơ cắt tóc ra. Mặc dù y tá thường là người chuẩn bị các khâu tiền phẫu thuật, nhưng tôi vẫn muốn tự mình cạo tóc cho đứa trẻ. Với tôi, việc này tựa như một nghi thức. Và trong lúc chậm rãi cạo mái tóc, tôi nghĩ về đứa trẻ bé bỏng thông minh này và điểm qua từng chi tiết của ca phẫu thuật trong đầu mình. Tôi cắt nhúm tóc đầu tiên và đưa nó cho người truyền tin để bỏ vào một cái túi nhỏ giao lại cho người mẹ. Đây là lần cắt tóc đầu tiên của cậu bé, trong khi đó là điều cuối cùng mà người mẹ bận tâm lúc này, tôi vẫn biết nó sẽ quan trọng với cô ấy về sau. Đó là một cột mốc mà ta sẽ muốn ghi nhớ. Lần đầu tiên cắt tóc. Lần đầu tiên nhổ răng. Ngày đầu tiên đi học. Lần đầu tiên đi xe đạp. Nhưng lần đầu tiên phẫu thuật não chưa bao giờ nằm trong danh sách này. Tôi nhẹ nhàng cắt từng lọn tóc nâu sáng khỏe mạnh, hy vọng bệnh nhân nhỏ tuổi của tôi rồi có thể trải nghiệm được mỗi một trải nghiệm đầu tiên kia. Trong tâm trí mình, tôi có thể hình dung cậu bé tươi cười với hàm răng trống mất chiếc răng cửa. Tôi hình dung cậu bé bước vào nhà trẻ với chiếc ba lô to tướng bằng cả thân người quàng trên vai. Tôi thấy cậu đạp xe đạp lần đầu tiên – sự rộn ràng của tự do lần đầu tiên ấy, luống cuống nhấn bàn đạp với từng làn gió lùa qua mái tóc. Tôi nghĩ về những đứa con của mình trong lúc tiếp tục cạo đi mái tóc của cậu bé. Hình ảnh và cảnh tượng về tất cả những lần đầu tiên của cậu bé trong tâm trí tôi rõ ràng đến mức tôi không thể tưởng tượng đến bất kỳ kết quả nào khác. Tôi không muốn nhìn thấy tương lai của những lần ra vào bệnh viện và những đợt điều trị ung thư, những lần phẫu thuật bổ sung khác. Là một người sống sót từ chứng u não ở trẻ em, cậu bé sẽ luôn luôn cần được theo dõi, nhưng tôi từ chối nhìn thấy hình ảnh cậu trong tương lai như những gì cậu đã trải qua trong quá khứ. Những trận buồn nôn và ói mửa. Những lần té ngã. Những lần bật dậy vào sáng sớm hét tìm mẹ bởi vì thứ Xấu xí lại chèn ép trong não của cậu gây đau đớn. Cuộc đời đã có đủ đớn đau nên không cần thêm điều này vào nữa. Tôi tiếp tục nhẹ nhàng xén phần tóc của cậu bé chỉ vừa đủ để tiến hành công việc của mình. Tôi điểm hai chấm ở phần đáy sọ, nơi chúng tôi sẽ rạch đường dao mổ và rồi tôi vẽ một đường thẳng nối chúng lại. Phẫu thuật não vốn đã khó, mà phẫu thuật vùng hố sọ sau còn khó hơn, và phẫu thuật hố sọ sau của một đứa trẻ thì lại cực kỳ khó. Khối u rất lớn. Việc phẫu thuật cần tiến hành cẩn thận, chậm rãi và tỉ mỉ. Đôi mắt phải nhìn qua kính hiển vi hàng giờ liền để tập trung vào một thứ duy nhất. Là một bác sĩ phẫu thuật, chúng tôi được rèn luyện phải dập tắt mọi phản ứng thể lý trong quá trình phẫu thuật. Chúng tôi không đi vệ sinh. Chúng tôi cũng không ăn. Chúng tôi đã được rèn luyện để lờ đi khi lưng bị đau hay bị co cơ. Tôi nhớ lần đầu tiên bước vào phòng mổ, trợ phẫu cho một nhà giải phẫu học nổi tiếng không chỉ vì tài năng mà còn bởi tính hiếu chiến, kiêu căng, tự phụ trong lúc làm phẫu thuật. Tôi đã khiếp sợ và căng thẳng, và khi tôi đứng cạnh ông trong phòng phẫu thuật, mồ hôi bắt đầu túa ra khắp mặt tôi. Tôi hít thở nặng nề sau lớp khẩu trang và cặp kính trên mắt tôi bắt đầu mờ hơi nước. Tôi không thể nhìn rõ các dụng cụ, hay thậm chí là phạm vi tiến hành phẫu thuật. Tôi đã làm việc vô cùng chăm chỉ, đã vượt qua rất nhiều thứ và giờ tôi đứng đây, tham gia một ca phẫu thuật như tôi hằng mơ ước, vậy mà tôi lại chẳng nhìn thấy gì cả. Rồi một chuyện không thể hình dung nổi đã xảy ra. Một giọt mồ hôi lăn khỏi mặt tôi và rơi xuống khu vực vô trùng. Vậy là ông ấy nổi điên lên. Ca mổ lẽ ra là một điểm sáng của đời tôi, lần đầu tiên tôi thực hành phẫu thuật, nhưng thay vào đó, tôi đã làm ô uế khu vực vô trùng và nói ngắn gọn là bị tống ra khỏi phòng mổ. Một trải nghiệm mà tôi sẽ không bao giờ quên. Hôm nay, vầng trán của tôi khô ráo và thị lực rõ ràng. Mạch đập của tôi chậm và ổn định. Kinh nghiệm tạo ra sự khác biệt, và trong phòng phẫu thuật của tôi, tôi không phải là kẻ độc tài hay một kẻ hiếu chiến ngạo mạn. Mỗi thành viên trong tổ phẫu thuật đều đáng quý và cần thiết. Tất cả đều tập trung vào nhiệm vụ của mình. Bác sĩ gây mê sẽ theo dõi huyết áp và lượng oxy trong máu của cậu bé, mức độ ý thức cũng như nhịp tim của cậu. Y tá phòng mổ sẽ liên tục giám sát dụng cụ và vật dụng tiếp tế, đảm bảo mọi thứ tôi cần đều nằm trong tầm tay. Một chiếc túi lớn được gắn vào tấm trải giường, treo phía dưới đầu cậu bé để hứng máu và dịch rửa. Chiếc túi được nối với một cái ống đến một máy hút lớn và sẽ không ngừng đo lường lượng chất lỏng để chúng tôi luôn biết được đã mất đi bao nhiêu máu. Phụ mổ cho tôi là một sinh viên nội trú năm cuối đang trong kỳ thực tập và là thành viên mới của tổ, nhưng cậu ta cũng hoàn toàn tập trung giống như tôi vào những mạch máu, mô não và những tiểu tiết trong việc loại bỏ khối u. Chúng tôi chẳng thể nghĩ gì về những kế hoạch ngày mai, những chính sách của bệnh viện, những đứa con của chúng tôi hay những mối quan hệ gia đình trắc trở. Công việc này đòi hỏi sự cảnh giác cao độ, tập trung tuyệt đối vào một điểm duy nhất, giống như thiền định vậy. Chúng tôi đã rèn luyện tâm trí của mình, và tâm trí đã rèn luyện cơ thể. Sẽ là một dòng chảy, một giai điệu tuyệt vời khi bạn có một đội ngũ hoàn hảo mà tất cả mọi người đồng bộ với nhau. Tâm trí và cơ thể chúng tôi vận hành cùng nhau như một thể thống nhất. Tôi đang loại bỏ phần cuối cùng của khối u, phần gắn với một trong những tĩnh mạch quan trọng nhất trong bộ não. Hệ thống tĩnh mạch ở hố sọ sau cực kỳ phức tạp, và phụ mổ của tôi tiến hành hút dịch trong lúc tôi cắt bỏ từng chút tàn dư sau cùng còn lại của khối u. Cậu ấy đã để tâm trí mình lơ đãng trong đúng một giây, và trong một giây đó, ống hút của cậu đã làm rách tĩnh mạch; và trong một khắc, mọi thứ đều ngừng lại. Rồi những điều kinh khủng ập đến! Máu từ tĩnh mạch bị rách kia tràn vào khoang phẫu thuật và bắt đầu lan khắp vết thương trên đầu đứa trẻ đẹp đẽ này. Bác sĩ gây mê bắt đầu hét lên rằng huyết áp của cậu bé đang tuột rất nhanh và lượng máu mất đi là không thể kiểm soát. Tôi cần kẹp chặt tĩnh mạch lại và ngăn máu chảy nhưng tĩnh mạch đã chìm vào cái hố đầy máu và tôi không thể nhìn thấy nó. Chỉ riêng chiếc máy hút của tôi thì không thể kiểm soát được lượng máu chảy, và đôi tay cậu phụ tá run rẩy đến nỗi chẳng thể giúp được gì. – Thằng bé ngừng tim, ngừng thở rồi! – Bác sĩ gây mê hét lên. Anh ta phải bò xuống gầm bàn mổ bởi đầu của đứa trẻ bị khóa chặt vào cái khung, theo thế nằm sấp, với phần sau đầu mở toang. Bác sĩ gây mê bắt đầu ép vào ngực cậu bé trong lúc tay còn lại giữ phần lưng của cậu, tận sức cố gắng làm tim cậu bé đập trở lại. Chất lỏng sắp tràn vào những tĩnh mạch chủ. Chức năng cơ bản và quan trọng nhất của tim là bơm máu, và cái bơm diệu kỳ giúp cho mọi thứ trên cơ thể vận hành này đã dừng lại. Đứa trẻ bốn tuổi này đang chảy máu đến chết trên bàn mổ ngay trước mắt tôi. Trong lúc bác sĩ gây mê ấn vào ngực cậu bé, thì vết thương tiếp tục ngập trong máu. Chúng tôi phải cầm được máu, hoặc là đứa trẻ sẽ chết. Não tiêu thụ 15% lượng máu bơm từ tim và chỉ có thể sống sót vài phút sau khi tim ngừng đập. Não cần máu, và quan trọng hơn, nó cần oxy có trong máu. Thời gian của chúng tôi đang cạn dần trước khi cậu bé chết não – chúng cần có nhau – bộ não và trái tim. Tôi cố gắng kẹp tĩnh mạch lại, nhưng không cách gì thấy được mạch máu qua vũng máu này. Mặc dù đầu cậu bé được cố định nguyên vị trí, nhưng những lần ép ngực vẫn làm nó di chuyển rất nhẹ từng chút một. Cả đội biết và tôi cũng biết rằng chúng tôi không còn nhiều thời gian. Bác sĩ gây mê ngước lên nhìn tôi và tôi nhìn thấy nỗi sợ trong mắt anh. Chúng tôi có thể sẽ để mất đứa bé này. Hồi sức tim phổi (CPR) giống như khởi động ly hợp một chiếc xe ô tô đang sang số hai vậy, hoàn toàn không chắc chắn, đặc biệt khi chúng tôi đang không ngừng để bị mất máu như thế này. Máu tiếp tục chảy tràn trong phần đầu đang hở của đứa trẻ. Tôi đang làm việc trong trạng thái mò mẫm và tôi chẳng thể làm được gì để ngăn máu chảy. Tôi nhìn vào máy đo nhịp tim và vẫn chẳng có nhịp tim nào cả. Trong khoảnh khắc đó, tôi mở rộng trái tim mình để có thể vượt lên mọi lý lẽ, mọi kỹ năng, và tôi làm theo những gì tôi được dạy cách đây hàng thập kỷ, không phải trong trường nội trú, không phải trong trường Y, mà ở trong một căn phòng phía sau một cửa hiệu ảo thuật bé nhỏ trong vùng hoang mạc California. Tôi thả lỏng tâm trí. Tôi thư giãn cơ thể. Tôi hình dung ra mạch máu đã bị chìm vào vũng máu kia. Tôi nhìn thấy nó bằng đôi mắt tâm trí, đôi mắt được lắp vào đường đi trong hệ mạch máu của đứa trẻ này. Tôi tiến lên trong trạng thái mò mẫm nhưng hiểu được rằng cuộc sống có nhiều hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy, và mỗi chúng ta có khả năng làm những điều phi thường vượt xa những gì chúng ta nghĩ. Chúng ta làm chủ chính vận mệnh của mình, và tôi không chấp nhận đứa trẻ bốn tuổi này phải đi đến cái chết trên bàn mổ ngày hôm nay. Tôi với tay xuống vũng máu với một cái kẹp, kẹp lại, rồi chậm chậm rút tay ra. Máu ngừng chảy, và rồi, như từ chốn xa xôi nào đó, tôi nghe thấy tiếng tích tắc rất chậm của máy đo nhịp tim. Lúc đầu rất yếu ớt. Không đều. Nhưng rồi nó nhanh chóng trở nên mạnh mẽ và đều đặn hơn, y như mọi trái tim vẫn đập khi nó bắt đầu đến với sự sống. Tôi cảm thấy nhịp tim của mình bắt đầu khớp với nhịp tim trên máy. Sau đó, với tư cách là bác sĩ phẫu thuật, tôi sẽ trao cho người mẹ những gì còn lại sau lần cắt tóc đầu tiên của cậu bé, và anh bạn nhỏ của tôi sẽ thoát khỏi trạng thái bị gây mê, trở thành người sống sót. Cậu bé sẽ hoàn toàn bình thường. Trong vòng bốn mươi tám tiếng sau đó, cậu sẽ nói chuyện lại được và thậm chí có thể cười, tôi có thể nói với cậu rằng thứ Xấu xí đã không còn nữa rồi. Mời các bạn mượn đọc sách Bước Vào Cửa Hiệu Nhiệm Màu của tác giả Dr. James R. Doty & Cẩm Xuân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuyệt Mật Trong Buồng Lái - Patrick Smith
Hơn bao giờ hết, đi máy bay là tâm điểm của sự tò mò, thích thú, lo lắng, và tức giận. Trong các chương sau đây, tôi sẽ cố gắng hết sức để đưa ra câu trả lời cho những ai tò mò, làm yên lòng những ai lo lắng, và những sự thật không ngờ dành cho những ai bị đánh lừa. Có lẽ các bạn khi cầm trên tay cuốn sách này đều nhận biết rõ đây là một tác phẩm kiến thức phổ thông, bình thường như mọi cuốn sách giáo khoa hay cẩm nang khoa học thường thức. Nhưng tôi tin là cuốn sách này phi thường hơn thế. Để làm được điều vĩ đại trên, cần nhiều hơn những năm miệt mài thực tập căng thẳng trong buồng lái và những chuyến bay thực nghiệm nguy hiểm, nhiều hơn những tố chất cần có của một phi công, nhiều hơn cả một cái đầu lạnh và một trái tim gan dạ, và thật nhiều hơn những may mắn không tên. Không thể hiểu rõ được những điều trên nếu ta chưa từng đọc qua cuốn sách này. *** “Tuyệt mật trong buồng lái là tài liệu nên nằm trong túi lưới đằng sau mỗi ghế ngồi.” —David Pogue, thông tín viên tờ The New York Times và tổng biên tập chương trình PBS “Là một cây viết xuất sắc, Patrick Smith mang đến một chuyến du lịch đầy tiếng cười trong một ngành vốn bị hiểu lầm—một chuyến đi vào thế giới hàng không, chẳng hề có những thuật ngữ rắc rối mà đầy ắp sự hài hước và hiểu biết sâu sắc.” —Christine Negroni, nhà văn chuyên viết về hàng không và tác giả của cuốn sách Flying Lessons “Đặc sắc và cung cấp kiến thức tuyệt vời. Một thành tựu cao xa, một cuốn sách không thể thiếu được dành cho bất kỳ ai di chuyển bằng đường hàng không, nghĩa là tất cả mọi người. —James Kaplan “Patrick Smith cực kỳ thông hiểu về ngành hàng không hiện đại và truyền tải thông tin xuất sắc bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng phi công. Smith là người bạn cùng buồng lái, bạn đồng hành, cây viết, và người giải thích lý tưởng.” —Alex Beam, Boston Globe “Thật vui thích làm sao khi được đọc những lời giải thích và bình luận tao nhã đến ngạc nhiên của Patrick Smith. Thế giới cần có một người viết thật đơn giản và hợp lý kiểu E. B. White về chủ đề mà tất cả mọi người đều thắc mắc.” —Berke Breathed “Thực tế một cách xuất sắc và thật khiến người ta vững tâm.” —Cath Urquhart, The Times (London) “Giá mà tôi có thể gấp gọn Patrick Smith rồi cất anh ta vào vali của mình. Dường như anh ta biết mọi điều đáng để biết về ngành hàng không.” —Stephen J. Dubner, đồng tác giả cuốn Kinh tế học hài hước “Sắc sảo và sâu sắc.” —Joe Sharkey, The New York Times “Tuyệt vời.” —Rudy Maxa, the Savvy Traveler “Ask the Pilot thực sự khiến cho việc đi máy bay trở nên vui vẻ. Patrict Smith làm sáng tỏ được trải nghiệm này và nhắc chúng ta nhớ đến sự kỳ diệu của hàng không. Anh cũng có óc hài hước tuyệt vời—đây là điều rất quan trọng khi mà bạn bị nhồi nhét vào ghế 14D trên một chiếc máy bay tầm khu vực.” —Chris Bohjalian, tác giả cuốn sách The Night Strangers và Midwives Mời các bạn đón đọc Tuyệt Mật Trong Buồng Lái của tác giả Patrick Smith.
Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng
Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chăng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Trong tiếng Nhật, Ikigai có nghĩa là “đi tìm mục đích sống của đời bạn” hoặc là “một lý do để thức dậy mỗi sáng”. Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai – mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ rãng tức là mỗi sáng thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại làng Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Cuộc sống không phải là một vấn đề cần giải quyết. Chỉ cần nhớ rằng phải có thứ gì đó khiến bạn bận rộn làm những điều mình yêu thích trong khi có những người yêu quý bạn ở bên. Ikigai của mỗi người là khác nhau, nhưng có một điểm chung là tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Khi dành nhiều ngày để gắn kết với thứ có ý nghĩa với bản thân, chúng ta sẽ sống hạnh phúc hơn.  Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** Điều gì mang lại ý nghĩa cho cuộc sống? Lý do tồn tại của bạn là gì? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại giạt trôi trong một thế giới đầy mơ hồ và mỏi mệt? Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai - mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ra ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ ràng tức là mỗi sống thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm mai thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** HÉCTOR GARCÍA Sinh ra tại Tây Ban Nha, ông đồng thời có thêm quốc tịch Nhật Bản, nơi ông đã sống hơn mười năm. Ông từng làm kỹ sư phần mềm cho Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu tại Thụy Sĩ. Sau đó, ông chuyển đến Nhật Bản và phát triển phần mềm nhận dạng giọng nói cũng như công nghệ phục vụ cho các công ty khởi nghiệp của thung lũng Silicon muốn tiến vào thị trường Nhật Bản. Ông là chủ trang blog nổi tiếng kirainet.com và là tác giả của A Geek in Japan, một cuốn sách bán chạy hàng đầu tại Nhật Bản. FRANCESC MIRALLES Sinh ra và lớn lên tại Barcelona, ông theo học chuyên ngành báo chí, văn học Anh và tiếng Đức. Hiện ông làm công việc biên tập, dịch thuật, viết thuê và cả sáng tác nhạc. Ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều đầu sách bán chạy. Tiểu thuyết Love In Lowercase của ông đã được dịch sang 20 thứ tiếng. *** LỜI NÓI ĐẦU IKIGAI: Một từ bí ẩn Mối lương duyên hình thành nên cuốn sách này bắt đầu từ một đêm mưa ở Tokyo, khi chúng tôi lần đầu trò chuyện tại một quán bar nhỏ trong thành phố. Do khoảng cách địa lý xa xôi giữa Barcelona và thủ đô của Nhật Bản, chúng tôi chưa bao giờ gặp mặt dù từng đọc tác phẩm của nhau. Thế rồi, một người bạn chung kết nối hai chúng tôi, khởi đầu cho một tình bạn dẫn đến dự án này và dường như tình bạn đó được định trước để tồn tại suốt đời. Trong lần gặp gỡ tiếp theo, diễn ra một năm sau đó, chúng tôi đi dạo quanh một công viên ở trung tâm thành phố Tokyo, bàn luận về các xu hướng trong tâm lý học phương Tây, đặc biệt là liệu pháp ý nghĩa (logotherapy), liệu pháp giúp mọi người tìm ra mục đích sống trong cuộc đời mình. Chúng tôi nhận thấy rằng liệu pháp ý nghĩa của Viktor Frankl đã trở nên lỗi thời trong giới trị liệu tâm lý, họ ưa chuộng các trường phái tâm lý học khác, dẫu cho mọi người vẫn đang không ngừng tìm kiếm ý nghĩa trong những việc họ làm và cách họ sống. Chúng ta tự hỏi bản thân những điều như: Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chẳng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Khái niệm này của người Nhật, dịch nôm na là “niềm hạnh phúc của việc luôn bận rộn”, cũng tương tự liệu pháp ý nghĩa, nhưng còn đi sâu hơn nữa. Đây có lẽ cũng là một lý giải cho tuổi thọ phi thường của người Nhật, đặc biệt là trên đảo Okinawa, nơi cứ 100.000 dân lại có 24,55 người sống trên 100 tuổi - vượt xa tuổi thọ trung bình toàn cầu. Về lý do cư dân trên hòn đảo phía Nam Nhật Bản này sống lâu hơn cư dân tại bất cứ đâu trên toàn thế giới, các nhà nghiên cứu cho rằng một trong những bí quyết - bên cạnh chế độ ăn uống lành mạnh, cuộc sống bình dị nơi thôn dã, trà xanh cùng khí hậu cận nhiệt đới (với nhiệt độ trung bình tương đương Hawaii) - chính là ikigai, thứ định hình nên cuộc sống của họ. Khi nghiên cứu khái niệm này, chúng tôi khám phá ra rằng chưa có bất kỳ cuốn sách nào trong lĩnh vực tâm lý học hay phát triển cá nhân được dành riêng để truyền tải triết lý này tới phương Tây. Liệu ikigai có phải là lý do Okinawa có nhiều người sống lâu trăm tuổi hơn bất kỳ nơi nào khác? Bằng cách nào ikigai thúc đẩy mọi người sống năng động cho tới tận cuối đời? Bí quyết để sống lâu và hạnh phúc là gì? Khỉ tìm hiểu sâu hơn, chúng tôi khám phá ra một nơi đặc biệt, Ogimi, một thị trấn nông thôn nằm ở tận cùng phía Bắc hòn đảo với dân số khoảng ba nghìn người, tự hào là nơi có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới và được mệnh danh là “Làng Trường thọ”. Okinawa là nơi trồng shikuwasa nhiều nhất Nhật Bản - một loại quả họ Chanh (hay còn gọi là chanh lõm) chứa hàm lượng lớn chất chống ô xi hóa. Bí quyết sống thọ của người dân Ogimi là đây chăng? Hay là thứ nước tinh khiết được dùng để pha loại trà Moringa của họ? Chúng tôi quyết định gặp gỡ trực tiếp những người sống lâu trăm tuổi Nhật Bản để tìm hiểu bí quyết của họ. Sau một năm chuẩn bị, đem theo máy quay và thiết bị ghi âm, chúng tôi tới ngôi làng - nơi người dân nói thổ ngữ cổ và theo tôn giáo duy linh tôn thờ các tinh linh rừng có mái tóc dài được gọi là bunagaya. Ngay khi đặt chân đến, chúng tôi đã cảm nhận được sự thân thiện đáng kinh ngạc của người dân nơi đây, họ cười đùa không ngớt giữa những ngọn đồi xanh tươi được tưới tắm từ nguồn nước thanh khiết. Khi thực hiện phỏng vấn những cụ già lớn tuổi nhất làng, chúng tôi nhận thấy một thứ còn mạnh mẽ hơn cả những nguồn tài nguyên thiên nhiên đang hiển hiện nơi đây: một niềm vui khác thường chảy trong người dân bản địa và dẫn dắt họ suốt chặng đường đời dài lâu và lý thú. Một lần nữa, lại là từ ikigai bí ẩn. Nhưng nó chính xác là cái gì? Làm thế nào để có được? Chúng tôi chẳng bao giờ hết kinh ngạc khi biết rằng thiên đường của cuộc sống gần như vĩnh cửu này lại tọa lạc chính ở Okinawa, nơi 200.000 sinh mạng vô tội bị tước đoạt vào cuối Thế chiến thứ hai. Vậy nhưng, thay vì dung dưỡng lòng hận thù đối với người ngoại quốc, người Okinawa lại sống theo tôn chỉ ichariba chode, một thành ngữ địa phương mang ý nghĩa “đối xử với mọi người như anh em, cho dù bạn chưa từng gặp họ”. Hóa ra một trong những bí quyết hạnh phúc của người dân Ogimi chính là cảm nhận bản thân là một phần của cộng đồng. Ngay từ nhỏ họ đã thực hành yuimaaru, hay còn gọi là làm việc nhóm, và quen với việc giúp đỡ người khác. Nuôi dưỡng tình bạn, hấp thụ ánh sáng, nghỉ ngơi điều độ và rèn luyện cơ thể thường xuyên đều là những yếu tố để có được sức khỏe tốt, nhưng cốt lõi của joie de vivre,[1] thứ truyền cảm hứng cho những con người trăm tuổi nơi đây tiếp tục hưởng niềm vui sinh nhật và trân trọng mỗi ngày mới, chính là ikigai. Mục đích của cuốn sách này là hé lộ bí quyết của những người trăm tuổi tại Nhật Bản và cung cấp công cụ để bạn tìm ra ikigai của chính mình. Bởi lẽ, người tìm thấy ikigai của bản thân sẽ có được tất cả những gì mình cần cho hành trình dài lâu và hạnh phúc suốt chặng đường đời. Chúc bạn có một cuộc hành trình hạnh phúc!   Héctor García và Francesc Miralles Mời bạn đón đọc Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng của tác giả Héctor García & Francesc Miralles.
Biết Ta Đích Thực Là Ai
Biết ta đích thực là ai - Cuốn sách về một cấm kỵ - có lẽ là một trong những tác phẩm nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất của học giả, triết gia Alan Watts. Trong đó, tác giả nghiền ngẫm về một cấm kỵ không được thừa nhận, nhưng đầy sức mạnh: sự thông đồng im lặng của chúng ta về câu hỏi ta thực sự là ai, hoặc là cái gì. Nỗ lực này là đi tìm lời đáp cho câu hỏi: Nếu cảm thức của chúng ta về mình dưới dạng ngã biệt lập trong chiếc bao da là ảo tưởng, không phù hợp cả với những khám phá của khoa học phương Tây lẫn với triết giáo phương Đông, vậy thì bản tính đích thực của chúng ta là gì? Đưa người đọc chìm đắm vào bầu không khí chiêm nghiệm triết học và tìm ra trong các triết thuyết cổ xưa những điểm nhìn cách mạng và hiện đại, Alan Watts đã trình bày con đường nhận thức mang tính tâm lý học của riêng ông về chân tướng của cái cảm thức mơ hồ gọi là tôi, - mà trên thực tế chính là cội nguồn và căn gốc của Vũ trụ. “Cuốn sách dạy chúng ta nhìn và tôn trọng thế giới này một cách kiên nhẫn và hiểu biết.” (Chris DeLeon) *** Alan Watts là một học giả, triết gia người Mỹ gốc Anh. Tác giả cũng là tác giả, diễn giả, một trong những người nước ngoài nổi tiếng nhất trong việc truyền bá triết lý phương Đông đến phương Tây. Alan Watts tốt nghiệp thạc sĩ ngành thần học tại Seabury-Western Theological Seminary.  Biết ta đích thực là ai là một trong những tác phẩm nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất của học giả, triết gia Alan Watts. Bìa cuốn Biết ta đích thực là ai, có giá 68.000 đồng. Trong cuốn sách, tác giả nghiền ngẫm về một cấm kỵ không được thừa nhận, nhưng đầy sức mạnh. Sự thông đồng im lặng của chúng ta về câu hỏi ta thực sự là ai, hoặc là cái gì. Nếu cảm thức của chúng ta về mình dưới dạng ngã biệt lập trong chiếc bao da là ảo tưởng, không phù hợp cả những khám phá khoa học phương Tây lẫn triết giáo phương Đông, vậy thì bản tính đích thực của chúng ta là gì?  Cuốn sách đưa người đọc chìm đắm vào bầu không khí chiêm nghiệm triết học và tìm ra trong các triết thuyết cổ xưa những điểm nhìn cách mạng và hiện đại. Alan Watts đã trình bày con đường nhận thức mang tính tâm lý học của riêng ông về chân tướng của cái cảm thức mơ hồ gọi là tôi, - mà trên thực tế chính là cội nguồn và căn gốc của vũ trụ. *** LỜI TỰA Cuốn sách này khảo cứu một điều cấm kỵ không được thừa nhận nhưng đầy sức mạnh - việc chúng ta ngấm ngầm thông đồng để lờ đi vấn đề ta thực sự là ai, hay là cái gì. Tóm lại, thứ luận điểm coi cảm nhận phổ biến về bản thân như một bản ngã biệt lập bao kín trong chiếc túi da là một ảo tưởng, cả theo khoa học phương Tây lẫn các triết giáo thực nghiệm phương Đông - đặc biệt là triết phái Vệ Đà nguyên thủy, cội nguồn của Ấn Độ giáo. Ngộ nhận này là căn nguyên khiến con người lạm dụng công nghệ để chinh phục môi trường tự nhiên một cách tàn bạo, và rốt cuộc là hủy diệt tự nhiên. Vì vậy chúng ta rất cần có một cảm thức về sự tồn tại của chính mình phù hợp với quy luật tự nhiên, và khắc phục được cảm giác vong thân trong vũ trụ. Để đạt mục đích này, tôi đã viện đến tri thức Vệ Đà, song trình bày theo một lối hoàn toàn hiện đại và Tây phương - nhờ vậy cuốn sách này không trở thành một giáo khoa thư hay cuốn tập vỡ lòng về triết phái Vệ Đà theo nghĩa thông thường. Đúng hơn, cuốn sách này là một cuộc hôn phối chéo giữa khoa học phương Tây và trực giác phương Đông. Xin dành lời cảm ơn đặc biệt cho vợ tôi, Mary Jane, vì đã biên tập cẩn thận và nhận xét về bản thảo. Tôi cũng cảm ơn Quỹ Bollingen đã tài trợ cho dự án biên soạn cuốn sách này. Alan Watts Sausalito, California January 1966 *** Một người trẻ tuổi nên biết những gì để được xem là “người hiểu biết”? Hay nói cách khác, liệu có thứ thông tin nội bộ, điều cấm kỵ đặc biệt, hay một chân tướng nào đó của cuộc đời và sự hiện hữu mà hầu hết các bậc cha mẹ và thầy cô hoặc không biết, hoặc không nói ra? Ở Nhật từng có tập tục trao cho người trẻ sắp thành hôn “sách gối đầu giường”. Đó là một cuốn sách mộc bản nhỏ, thường tô màu, chỉ vẽ tường tận về giao hợp nam nữ. Tập tục ấy tồn tại, không chỉ vì như người Trung Hoa vẫn nói, “một bức tranh đáng giá vạn lời”, mà còn vì trao cuốn sách cho những đứa con đã trưởng thành của mình, các bậc cha mẹ đỡ cảm thấy ngượng ngùng khi phải đích thân giải thích những chuyện thầm kín. Nhưng ngày nay ở phương Tây, ta có thể kiếm được những thông tin như vậy ở bất kỳ sạp báo nào. Tình dục không còn là điều cấm kỵ nghiêm trọng nữa. Đôi khi thanh thiếu niên biết nhiều về tình dục còn hơn cả người lớn. Nhưng nếu giờ đây tình dục không còn là cấm kỵ ghê gớm nữa, thì có điều gì là cấm kỵ? Bởi trong xã hội vẫn luôn tồn tại điều gì đó bị coi là cấm kỵ, bị giấu giếm, không được mọi người thừa nhận, hay người ta chỉ thoáng liếc nhìn, vì nhìn thẳng thì quá không ổn. Cấm kỵ lồng trong cấm kỵ, như những lớp vỏ hành. Vậy thì Cuốn Sách mà ông bố phải lén trao cho con trai, còn bà mẹ phải lén trao cho con gái, không bao giờ công khai thừa nhận là có nó, cuốn sách ấy phải nói về điều gì? Trong một số cộng đồng có sự cấm kỵ nghiêm ngặt liên quan đến tôn giáo, thậm chí ở những cộng đồng mà người ta vẫn đi lễ nhà thờ hay đọc Kinh Thánh. Ở đó, tôn giáo là việc riêng của mỗi người. Bàn bạc hay tranh luận về tôn giáo là xấu, khiếm nhã, và sẽ là rất tệ, nếu ai đó tỏ ra quá sùng đạo. Nhưng một khi đã thâm nhập sâu vào hầu như bất kỳ một tôn giáo lớn nào, bạn sẽ băn khoăn tự hỏi sự nín lặng này có ý nghĩa gì. Chắc chắn, Cuốn Sách mà tôi nghĩ đến không phải cuốn “thánh thư” Kinh Thánh, - kho trí tuệ, lịch sử, và ngụ ngôn vĩ đại của người xưa, vốn được xưng tụng là Lời Thiêng đến mức có lẽ người ta nên giấu nó đi chừng một đôi thế kỷ, để về sau có thể nghe lại bằng đôi tai mới. Trong Kinh Thánh quả thật có những bí mật, và một số điều còn mang tính cách mạng, nhưng thảy đều bị vùi lấp dưới những câu chữ phức tạp, những biểu tượng và lối tư duy cổ xưa, đến mức giáo lý Cơ Đốc thành ra vô cùng khó diễn giải đối với con người thời nay. Thành ra, nếu không bằng lòng với việc đơn giản hóa giáo lý thành sống đời thánh thiện và noi gương Chúa Jesus, thì cũng chẳng hề có ai giải thích phải làm điều ấy thế nào. Để làm được điều ấy, người ta phải có khả năng đặc biệt Chúa ban, gọi là “ân điển”, nhưng tất cả những gì chúng ta thực sự biết về ân điển là một số người được ban, số khác thì không. Các tôn giáo lớn, dù là Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, hay Phật giáo - như ngày nay người ta vẫn thực hành - đều như những cái mỏ đã cạn, rất khó khai thác. Trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, quan điểm của các tôn giáo nêu trên về con người và thế giới, những hình tượng, lễ thức và ý niệm về cuộc sống đạo hạnh xem ra không phù hợp với thế giới như chúng ta đang biết, hay với một xã hội đang đổi thay nhanh đến mức những điều ta vừa học ở trường đã thành lỗi thời ngay hôm ta tốt nghiệp. Cuốn Sách tôi đang ấp ủ viết không mang tính tôn giáo theo nghĩa thông thường, mà bàn đến nhiều vấn đề mà tôn giáo quan tâm - như vũ trụ và vị trí của con người trong đó, cái trung tâm kinh nghiệm bí ẩn mà ta gọi là “cái tôi”, những vấn đề về sự sống và tình yêu, khổ đau và cái chết, và câu hỏi liệu sự tồn tại có ý nghĩa chăng, theo bất kỳ nghĩa nào của từ này. Vì ngày càng có nhiều người tin rằng, tồn tại thực chất chỉ là một cuộc chạy đua ác liệt không lối thoát: mọi sinh vật, bao gồm cả con người, chẳng qua chỉ là những cái ống nuốt các thứ vào đầu này rồi thải ra ở đầu kia, nhờ đó chúng có thể tồn tại, nhưng về lâu dài cũng sẽ vì vậy mà kiệt sức. Vậy nên, để vở kịch vui nhộn tiếp diễn, những chiếc ống tìm cách tạo ra những chiếc ống mới. Ở đầu vào, chúng thậm chí phát triển đầu mối thần kinh gọi là não, kèm theo mắt và tai, nhờ đó chúng có thể dễ dàng tìm các thứ để nuốt hơn. Khi đã ăn đủ, chúng dùng cho hết năng lượng thừa bằng cách chuyển động theo nhiều dạng thức phức tạp, tạo đủ thứ tiếng ồn bằng cách hút đẩy không khí qua đầu vào, và còn kết thành bè nhóm để đánh nhau với các nhóm khác. Theo thời gian, những chiếc ống phát triển thêm các bộ phận đi kèm thừa thãi đến mức khó mà nhận ra chúng thực chất chỉ là những chiếc ống, và làm việc đó bằng nhiều cách đa dạng đến kinh ngạc. Giữa chúng hình thành một nguyên tắc mơ hồ là không được ăn những chiếc ống đồng dạng với mình, nhưng nhìn chung luôn tồn tại một cuộc cạnh tranh gay gắt để trở thành loại ống đứng đầu. Những điều này dường như vô nghĩa lạ lùng, thế nhưng, khi suy ngẫm sâu hơn, ta sẽ thấy chúng lạ lùng hơn là vô nghĩa. Thực vậy, chúng hết sức kỳ quặc.   Mời các bạn đón đọc Biết Ta Đích Thực Là Ai của tác giả Alan Watts & Vân Nga (dịch).